Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

do thiếu tiền tiêu xài nên a sinh năm 1983 chạy xe đến nhà bạn mình là anh b để mượn tiền trên đường đi a nghĩ nếu nhà anh b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.85 KB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Mục lục</b>

<b>MỞ ĐẦU...1</b>

<b>I. Tình huống và câu hỏi...1</b>

<b>II.Giải quyết tình huống...2</b>

<i><b>1. Tội danh và khung hình phạt...2</b></i>

<i><b>2. Tội danh và khung hình phạt tăng nặng:...4</b></i>

<i><b>3. Vấn đề nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với tội Cướp tài sản...5</b></i>

<i><b>4. Vấn đề tái phạm nguy hiểm...8</b></i>

<b>TỔNG KẾT...10</b>

<b>MỞ ĐẦU</b>

Trong cuộc sống hiện nay, cùng với sự phát triển của vật chất trong toàn xãhội cũng như của cải của mỗi cá nhân, vấn đến liên quan đến sở hữu tài sản vàbảo vệ sở hữu tài sản càng quan trọng và cần kíp hơn bao giờ hết. Trong BLHS1999 và cả trong BLHS 2015, chương Các tội phạm liên quan đến sở hữu rấtđược quan tâm, chú trọng. Tuy nhiên, trên lý thuyết cũng như trong thực tế,Nhóm tội phạm này tồn tại rất nhiều vấn đề liên quan gây tranh cãi. Để tiếp cậngần hơn cũng như hiểu sâu hơn về Nhóm tội phạm này, Nhóm II lớp K2B trêncơ sở giải quyết tình huống bài tập nhóm sẽ đưa ra giải quyết một số vấn đề cóliên quan đến nội dung Tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, cụ thể ở đây là Tộicướp tài sản.

<b>I.Tình huống và câu hỏi</b>

Do thiếu tiền tiêu xài nên A (sinh năm 1983) chạy xe đến nhà bạn mình làanh B để mượn tiền. Trên đường đi, A nghĩ nếu nhà anh B khơng ai ở nhà thì sẽđột nhập vào nhà để lấy tài sản. A đến nhà anh B, thấy cổng nhà khóa trái, A đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

tìm cách trèo vào nhưng khơng thành nên lên tiếng gọi người nhà. Lúc này, vợanh B là chị C ra mở cổng. Vào nhà một lúc, A viện lý do khát nước đã nhờ chịC pha một ly nước chanh để uống. Khi chị C đi vào phòng bếp, A lặng lẽ bámtheo rồi bất ngờ lao đến dùng chiếc gậy thủ sẵn trong người đánh nhiều nhát vàochị C làm chị C bất tỉnh, ngã xuống sàn nhà. Sau đó, A lục lấy được 9 nhẫn vàngtrọng lượng từ 0,5-1 chỉ/chiếc, 6 nhẫn vàng trọng lượng 2 chỉ/chiếc và 3 triệuđồng rồi tẩu thoát. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 58 triệu đồng. Chị Cđược người nhà phát hiện đưa đi cấp cứu và bị tổn hại sức khoẻ 25%.

a. Xác định tội danh và khung hình phạt có thể áp dụng đối với A.

b. Giả sử chị C ngã xuống, đầu đập vào nền gạch dẫn đến chết thì tội danh vàkhung hình phạt áp dụng đối với A có thay đổi không? Tại sao?

c. Giả sử sau khi đánh nhiều nhát vào chị C làm chị C bất tỉnh, ngã xuống sànnhà gây thương tích 25%, A do hoảng sợ nên đã bỏ chạy thì A có được coi là tự ýnửa chừng chấm dứt việc phạm tội hay không? Tại sao?

Tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với A trong trường hợp này đượcxác định như thế nào? Tại sao?

d. Giả sử A đang có tiền án về tội cướp giật tài sản thì trường hợp phạm tộicủa A có bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm khơng? Tại sao?

<b>II.Giải quyết tình huống</b>

<i><b>1. Tội danh và khung hình phạt</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Trên cơ sở phân tích các hành vi và tình tiết của tình huống, có thể khẳngđịnh A phạm tội cướp tài sản, được quy định tại Điều 168 BLHS 2015.

<i> Khách thể của tội phạm</i>

Tội cướp tài sản xâm phạm đến hai khách thể trực tiếp là quyền sở hữu về tàisản và quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng sức khỏe. Cụ thể trong tìnhhuống trên là xâm phạm đến khách thể là: chị C, quyền sở hữu về tài sản củaanh B và chị C (9 nhẫn vàng trọng lượng từ 0,5-1 chỉ/chiếc, 6 nhẫn vàng trọnglượng 2 chỉ/chiếc và 3 triệu đồng) và sức khỏe của chị C: chị C bị tổn hại sứckhoẻ 25%.

<i> Mặt khách quan</i>

Hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản: là hành vi dùng sức mạnhthể chất tác động đến thân thể của người khác gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệthại đến tính mạng, sức khỏe của họ với ý thức làm tê liệt ý chí phản kháng củahọ, nhằm chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội có thể sử dụng cơng cụ, phươngtiện hoặc khơng có cơng cụ phương tiện tác động vào thân thể người khác. Đốitượng tác động có thể là chủ tài sản hoặc bất kỳ người nào mà người phạm tộicho rằng có thể ngăn cản chiếm đoạt tài sản của mình.

Hành vi dùng vũ lực tấn cơng nạn nhân ở tội cướp tài sản có thể gây rathương tích, gây tổn hại sức khỏe người khác hoặc gây chết người.

Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản: làhành vi đe dọa dùng ngay lập tức, tại chỗ sức mạnh thể chất với ý thức làm cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

người bị đe dọa có căn cứ để lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện ngaynếu không để cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản.

Hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thểchống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản: là hành vi khác ngoài hành vi dùng vũlực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc có khả năng làm cho người khác lâm vàotình trạng tê liệt sức phản kháng.

Tội cướp tài sản hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện mộttrong những hành vi được mô tả trong điều luật.

Trong tình huống trên, hành vi khách quan là: A bất ngờ lao đến dùngchiếc gậy thủ sẵn trong người đánh nhiều nhát vào chị C làm chị C bất tỉnh, ngãxuống sàn nhà. Đây là hành vi dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho chị C lâm vàotình trạng tê liệt sức phản kháng, bất tỉnh tại chỗ.

<i> Chủ thể</i>

Chủ thể của tội phạm là người đủ tuổi chịu TNHS theo khoản 2 Điều 12BLHS và có NLTNHS tức là người đó khơng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnhkhác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Anh A ( sinhnăm 1983) tức là 33 tuổi, đã đủ tuổi chịu TNHS theo khoản 2 Điều 12 BLHS

<i>2015 “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách</i>

<i>nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại chosức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tộicưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>nhằm chiếm đoạt tài sản “và A không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà</i>

không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.

<i> Mặt chủ quan</i>

Tội cướp tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tộinhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và mongmuốn thực hiện hành vi đó. Mục đích phạm tội là chiếm đoạt tài sản của ngườikhác

A đã cố ý thực hiện tội phạm mặc dù A nhận thức rõ hành vi cướp tài sảncủa mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi tấncơng chị C nhằm mục đích cướp tài sản. A đến nhà anh B, thấy cổng nhà khóatrái, A đã tìm cách trèo vào nhưng khơng thành. Do đó A mới lên tiếng gọingười nhà, vợ anh B là chị C ra mở cổng để nhằm lúc chị C không để ý, A bấtngờ lao đến đánh nhiều nhát vào chị C làm chị C bất tỉnh chiếm đoạt số tài sảngiá trị của chị C và anh B.

<i> Định khung hình phạt</i>

Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 168 BLHS 2015:

<i>“2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Trong tình huống trên, chị C bị tổn hại sức khoẻ 25% đồng thời chiếm đoạt 9nhẫn vàng trọng lượng từ 0,5-1 chỉ/chiếc, 6 nhẫn vàng trọng lượng 2 chỉ/chiếcvà 3 triệu đồng; tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 58 triệu đồng nên khunghình phạt áp dụng với A là từ 07 năm đến 15 năm tù.

<i><b>2. Tội danh và khung hình phạt tăng nặng: </b></i>

Giả sử chị C ngã xuống, đầu đập vào nền gạch dẫn đến chết thì tội danh củaA khơng thay đổi nhưng khung hình phạt thì có thay đổi. Trong trường hợp này,A vẫn phạm vào tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168, BLHS 2015. Tuynhiên, khung hình phạt của A ở đây là khung hình phạt tăng nặng được quy địnhtại điểm c khoản 4 Điều 168, BLHS 2015. Cướp tài sản làm chết người là trườnghợp người phạm tội thực hiện hành vi cướp tài sản (dùng vũ lực nhằm chiếmđoạt tài sản) và đã gây hậu quả chết người. Mặc dù hậu quả cuối cùng là chị Cchết nhưng chúng ta cần phân biệt rõ đây là trường hợp cướp tài sản làm chếtngười chứ không phải là giết người. Bởi mục đích khi thực hiện hành vi phạmtội của anh A là nhằm chiếm đoạt tài sản của nhà chị C, anh A khơng hề có ýđịnh từ đầu là sẽ giết chị C và mong muốn chị C chết, anh A chỉ muốn làm chochị C rơi vào tình trạng khơng thể khống chế được hành vi của mình để bản thânchiếm đoạt tài sản nhanh chóng và dễ dàng hơn.

 <i>Khách thể: </i>

Tội cướp tài sản xâm phạm đến hai khách thể trực tiếp đó là quyền sở hữu vềtài sản và quyền được tơn trọng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe. Trong trường hợpnày, A đã thực hiện hành vi dùng vũ lực để nhằm chiếm đoạt lấy tài sản của nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

chị C, đồng thời hành vi của A cũng đã làm hại đến tính mạng của chị C dẫn đếnchị C chết. Vậy đối tượng tác động trong trường hợp này đó là tài sản của củachị C và tính mạng của chị C.

 <i>Mặt khách quan: </i>

A đã thực hiện hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản của chị C làdùng chiếc gậy được thủ sẵn trong người mình đánh vào đầu chị C khiến chị Cngã xuống, đập đầu vào nền gạch và chết. Hành vi của A là hành vi dùng sứcmạnh thể chất tác động đến thân thể của chị C gây thiệt hại đến tính mạng, sứckhỏe của chị C dẫn đến hậu quả cuối cùng là chị C chết.

 <i>Chủ thể: </i>

Nhận thấy trong trường hợp này A sinh năm 1983 nên là người đủ tuổi chịutrách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự vì vậy A phải chịu hồntồn trách nhiệm về tội danh này.

 <i>Mặt chủ quan: </i>

Tội cướp tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tuy nhiên lỗi của ngườiphạm tội đối với hậu quả chết người là lỗi vô ý, nghĩa là người phạm tội khôngmong muốn cho hậu quả chết người xảy ra, cũng không để mặc cho hậu qủachết người xảy ra mà cho rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra hoặc có thểngăn ngừa được hoặc khi thực hiện hành vi cướp tài sản người phạm tội khôngthấy trước hậu quả chết người nhưng người đó phải thấy trước và có thể thấytrước hậu quả đó. Trong trường hợp này, A cố ý thực hiện hành vi dùng vũ lựcđể nhằm chiếm đoạt tài sản của chị C nhưng đối với hậu quả làm chị C chết thì

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

lỗi của A là lỗi vô ý. A dùng chiếc gậy thủ sẵn trong người đánh vào chị C nhiềunhát với ý thức làm tê liệt ý chí phản kháng của chị C, với mục đích là nhằm làmcho chị C không thể chống cự được để A dễ dàng chiếm đoạt tài sản của nhà chịC chứ A khơng có ý định giết chết chị C mặc dù khi dùng gậy đánh vào ngườichị C thì A phải nhận thức được và thấy trước hậu quả là có thể làm chị C chết.

<i><b>3. Vấn đề nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với tội Cướp tài sản</b></i>

<b>Cơ sở pháp lý</b>

<i> Tội cướp tài sản có cấu thành hình thức.</i>

Khoản 1 điều 168 BLHS 2015 quy định về tội cướp tài sản như sau: “Ngườinào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làmngười bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được nhằm chiếm đoạttài sản thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”

Như vậy theo quy định trên đối với tội cướp tài sản trong mặt khách quan củatội phạm chỉ có dấu hiệu của hành vi phạm tội (hành vi dùng vũ lực, đe doadùng vũ lực ngay tức khắc, hành vi khác), không quy định dấu hiệu hậu quả cóxảy ra hay khơng. Do đó, tội cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức (hànhđộng phạm tội, được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp). Tội phạm có cấu thànhhình thức là tội phạm mà mặt khách quan của tội phạm chỉ có duy nhất một yếutố bắt buộc của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với tội có cấuthành hình thức thì tội phạm hồn thành khi người phạm tội thực hiện hành vithoản mãn một trong những hành vi được quy định trong mặt khách quan của tộiphạm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i> Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.</i>

<i>Điều 16 BLHS 2015 quy định như sau:“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm</i>

<i>tội là tự mình khơng thực hiện tội phạm đến cùng, tuy khơng có gì ngăn cản.Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sựvề tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành củamột tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”</i>

Để coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cần có các dấu hiệu:Dấu hiệu thứ nhất, Việc chấm dứt việc phạm tội phải xãy ra trong quá trìnhmột người có hành vi chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạmhoặc đã bắt đầu thực hiện hành vi thực hiện ý định phạm tội nhưng chưa thựchiện được tội phạm đến cùng.

Dấu hiệu thứ hai, Việc chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm phải là tựnguyện và dứt khoát. Vấn đề tự nguyện nghĩa là theo ý chí của mình, Nghị quyếtsố 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 5 tháng 1 năm 1986 của Hội đồng thẩm phánTịa án nhân dân tối cao có quy định có nhiều nguyên nhân dẫn đến không thựchiện tội phạm nhưng chỉ cần tự nguyện và dứt khoát đều được xem xét là Tự ýnửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Dứt khoát ở đây nghĩa là từ bỏ hẳn ý địnhphạm tội, không phải chỉ dừng lại tạm thời hay có sự chần chừ…

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hìnhsự về tội định phạm vì họ đã từ bỏ hẳn ý định phạm tội khi họ khơng có bất kỳsự ngăn cản nảo. Điều đó chứng tỏ họ khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa. Tuynhiên khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người chấm dứt chỉ được

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Nếu hành vi thực tế của họ ở giaiđoạn chuẩn bị phạm tội hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hồn thành đãcó đủ dấu hiệu cả các yếu tố cấu thành tội phạm khác thì họ phải chịu tráchnhiệm hình sự về tội phạm đó, họ chỉ được miễn trách nhiệm hình sự về tội địnhphạm chứ khơng được miễn trách nhiệm hình sự về tội hạm khác mà họ đãphạm ở giai đoạn chuẩn bị hoặc giai đoạn chưa đạ, chưa hoàn thành.

<b>Giải quyết đề bài</b>

Từ những cơ sở trên và theo như giả thuyết của đề bài sau khi đánh nhiềunhát vào chị C làm chị C bất tỉnh, ngã xuống sàn nhà gây thương tích 25%, A dohoảng sợ nên đã bỏ chạy thì A khơng được xem là tự ý nửa chừng chấm dứt việcphạm tội. Việc A hoảng sợ khi thấy chị C ngã xuống sàn bất tỉnh mà bỏ chạy,tuy A bỏ chạy không thực hiện tiếp tội phạm là theo ý chí chủ quan của A nhưngkhơng thể và không đủ căn cứ để chứng minh rằng A dứt khốt từ bỏ khơngthực hiện tiếp việc phạm tội. Vậy chưa đủ căn cứ để khẳng định là A tự ý nửachừng chấm dứt việc phạm tội. Bên cạnh đó, hành vi đánh nhiều nhát vào chị C

<i>của A làm chị C bất tỉnh tức là đã thực hiện hành vi “dùng vũ lực” làm cho chị</i>

C không thể phản kháng nhằm mục đích là chiếm đoạt tài sản. Tội cướp là tội có

<i>cấu thành hình thức vì vậy, kể từ thời điểm A “dùng vũ lực” đối với chị C thì tội</i>

phạm đã hồn thành. Cho nên hành vi của A không thoả mãn điều kiện của việctự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, vì vậy tội phạm đã hồn thành thì chodù người phạm tội có sợ, hối hận, hay vì một lí do nào khác mà không thực hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

đến cùng việc phạm tội thì cũng khơng được xem là tự ý nửa chừng chấm dứtviệc phạm tội.

Từ những phân tích trên có thể kết luận: A phạm tội cướp tài sản. A phạmvào các Điểm c, d, đ Khoản 2 Điều 168. Tội cướp tài sản.

<i>Thứ nhất, việc A gây thương tích cho chị C với tỷ lệ thương tật 25% đã thỏa</i>

<i>mãn điều kiện quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 168 BLHS 2015: “Gây</i>

<i>thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thươngcơ thể từ 11% đến 30%”.</i>

<i>Thứ hai, việc A chiếm đoạt tổng giá trị tài sản là 58 triệu đồng đã thỏa mãn</i>

<i>điều kiện quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 168 BLHS 2015: “Chiếm đoạt tài</i>

<i>sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”.</i>

<i>Thứ ba, việc A dùng chiếc gậy thủ sẵn trong người đánh chị C từ phía sau đã</i>

<i>thỏa mãn điều kiện quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 168 BLHS 2015: “Sử</i>

<i>dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”.</i>

<i><b>4. Vấn đề tái phạm nguy hiểm</b></i>

Cùng với sự phát triển của Bộ luật hình sự qua các năm 1985, năm 1999 vàmới nhất là 2015, chế định về Tái phạm và Tái phạm đã được quy định rõ ràng,cụ thể và ngày càng tiến bộ, phát triển, đảm bảo cho mục đích của Bộ luật hìnhsự được thực hiện, bảo đảm. Nếu trong Điều 40 BLHS 1985 quy định về Táiphạm và Tái phạm nguy hiểm chủ yếu liên quan đến hình phạt tù chưa được xóấn tích thì đến BLHS 1999 phạm vi được mở rộng ra cho tất cả các hình phạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

chưa được xóa án tích. Và đến BLHS 2015, vấn đề Tái phạm và Tái phạm nguy

<i><b>hiểm được quy định cụ thể tại Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm</b></i>

Trong quy định này, liên quan đến Tái phạm nguy hiểm được quy định tại

<i>khoản 2, có thể xét đến 2 trường hợp lớn. Trường hợp một, quy định tại Điểm a,</i>

<i>Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng docố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêmtrọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Tội phạm rất nghiêm trọng và tội</i>

phạm đặc biệt nghiêm trọng ở đây được chiếu theo Điều 9 BLHS 2015, Khoản 3

<i>quy định Tội phạm rất nghiêm trọng; Khoản 4 quy định Tội phạm đặc biệt</i>

<i>nghiêm trọng. Cố ý ở đây là lỗi cố ý, được quy định rõ tại Điều 10 Cố ý phạm</i>

tội với 2 trường hợp Cố ý trực tiếp được quy định tại khoản 1 và Cố ý gián tiếpquy định tại khoản 2. Liên quan đến Án tích và xóa án tích được quy định tạiĐiều 69 Xóa án tích. Vậy có thể hiểu Tái phạm nguy hiểm là đã cố ý phạm tộivào tội có mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm đến 15 năm tùhoặc tội có mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 15 năm đến 20 năm tù,tù chung thân hoặc tử hình chưa được xóa án tích mà vẫn cố ý phạm tội vào tộicó mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm đến 15 năm tù hoặc tộicó mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung

<i>thân hoặc tử hình. Trường hợp hai, quy định tại Điểm b, Đã tái phạm, chưa</i>

<i>được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là chế</i>

<i>định được quy định tại Khoảm 1 Điều 53, theo đó Tái phạm là trường hợp đã bị</i>

<i>kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc</i>

</div>

×