Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

tai liêu ôn văn 9 chuẩn đã sửa hè liên hệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.98 KB, 108 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>PHẦN III: VĂN HỌC TRUNG ĐẠI</b>

<b>Bài 1: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG( Trích truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)</b>

- Giới thiệu chung: Giai đoạn văn học Trung đại là giai đoạn từ thế kỉ X – TK XIX- “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc thể loại Truyền kì

- Truyền kì là thể văn nghi chép những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.

- “Truyền kì mạn lục” gồm 20 câu chuyện, trong đó “Chuyện người con gái NamXương”là truyện thứ 16.

- “ Chuyện người con gái Nam Xương” viết ở thế kỉ thứ XVI. Truyện được viết dựa theocốt truyện cổ tích “ Vợ chàng Trương”.

- Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” được đánh giá là: “áng thiên cổ tùy áng văn hay đến mn đời.

bút”-- Phương thức biểu đạt chính: Tự sự <b>Phân tích nhân vật Vũ Nương</b>

<b>MB: Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.</b>

Ơng sống ở thế kỉ XVI, thời kì triều đình nhà Lê bắt đầu khủng hoảng. “Chuyện người congái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”, của NguyễnDữ. Truyện kể về số phận của Vũ Nương – người phụ nữ đại diện cho bao người phụ nữtrong xã hội phong kiến xưa, xinh đẹp, thùy mị, nết na, đảm đang, dung hạnh nhưng cuộcđời phải chịu nhiều oan khổ, đắng cay.

<b>Khái quát: "Chuyện người con gái Nam Xương" có nguồn gốc từ truyện cổ tích “Vợ</b>

chàng Trương”. Truyện có nhiều yếu tố hoang đường kể về số phận oan nghiệt của ngườiphụ nữ có nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻmà bị nghi ngờ, sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu cuộc đời mình đểchứng minh tâm lịng trong sạch. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm củaVũ Nương, truyện thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợivẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.Truyện thể hiệnước mơ ngàn đời của nhân dân ta, người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất cũng sẽ đượcđền trả xứng đáng.

<b>Cảnh 1: Vũ Nương là người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Tên của nàng là Vũ Thị</b>

Thiết, quê ở Nam Xương,xuất thân trong một gia đình "kẻ khó", nhưng Vũ Nương vừa cónhan sắc vừa có đức hạnh: "tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp". Mến bởidung hạnh ấy nên Trương Sinh, con nhà hào phú đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về

<b>làm vợ. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu,rất hiểu chồng, luôn có những cư xử khéo léo đúng mực, biết giữ đạo làm vợ và hếtlòng vun vén cho hạnh phúc gia đình. Biết chồng có tính "đa nghi", nàng ln "giữ gìn</b>

khn phép" khơng để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa",. Quả là một người phụ nữ đơnhậu, hiền thục.

<b>Cảnh 2: Đức hạnh, tấm lịng của Vũ Nương giành cho chồng còn được thể hiện rõ trong cảnh nàng tiễn chồng đi lính. Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, </b>

chiến tranh xảy ra, Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi, nàng tiễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>chồng lên đường với tâm trạng nhớ thương, đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động khiến “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng </b>

cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”.Ước mong của nàng thật giản dị mà sâu sắc.Nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi thứ công danh phù phiếm ở đời. Nàng mong vợ chồng được xum họp, con cái đề huề. Trong lời dặn chồnglúc tiễn đưa Vũ Nương còn bày tỏ nỗi khắc khoải, thương nhớ và lo lắng cho chồng: “Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa. Trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình thương người đất thú”. Khơng chỉ có thế nàng cịn bày tỏ sự cảm thơng, thấu hiểu , chia sẻ những gian lao vất vả mà chồng phải chịu đựng nơi biên ải “ chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưacó, mà mùa dưa chín q kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”.Từng nhịp câuvăn biền ngẫu như nhịp đập của trái tim người vợ trẻ đang thổn thức lo âu cho chồng. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc.

<i>“ Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trờiTrời thăm thẳm xa vời khôn thấu </i>

<i>Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”</i>

Những năm xa cách chồng nàng thương nhớ chồng khôn nguôi: "... mỗi khi thấy bướm lượnđầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được". Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", lễ bái thần phật, lấy lời "ngọt ngào khéo léo khuyên lơn".Thân một mình nàng phải chịu bao nỗi nhọc nhằn vất vả, vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc ni dạy con thơ. Mọi việc đều hai vai nàng gánh vác. Vất vả nhưng nàng không một lời than phiền. Nàng đảm đang quán xuyến công việc chu đáo. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo "như đối với cha mẹ đẻ mình". Nàng làm tất cả các việc đó khơng phải chỉ vì trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự xuất phát từ trái tim nhân hậu của nàng. Lời trăn chối của bà mẹ chồng trước khi mất là lời ghi nhận nhân cách, đánh gia khách quan công lao của Vũ Nương đối với gia đình chồng; “ Sau này trời xét lịng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương quả là người phụ nữ tuyệt vời. Trong xã hội phong kiến mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu gặp nhiều định kiến nhưng nàng đã vượt lên khỏi ranh giới giữa mẹ chồng nàng dâu. Nàng hiếu thảo, giữ lễ với mẹ chồng đến nỗi trước khi mất, trong lời trăn chối bà

<b>mẹ chồng còn viện cả trời xanh để chứng minh cho tấm lòng hiếu thảo của con dâu. Khơng chỉ có thế, những năm tháng xa cách chồng Vũ Nương còn là người mẹ yêu thương conhết mực . Một mình sinh con và ni dạy con khơn lớn. Khi chồng vắng nhà nàng vừa là </b>

cha, vừa là mẹ. Lo con thiếu vắng bóng cha trong cuộc sống nên hằng đêm bên ngọn đèn

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

dầu nàng chỉ vào bóng mình trên vách và nói là cha Đản. Quả là vơ cùng u thương con, chăm lo cho con cả về vật chất lẫn tinh thần. Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiệnnhững phẩm chất tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.

<b>Cảnh 5: Phẩm chất cao đẹp của Vũ Nương được Nguyễn Dữ hoàn thiện thêm trong cảnh nàng ở dưới thủy cung. Cảnh đầy tính chất hoang đường nhưng qua đó ta cảm nhận Vũ Nương còn là người phụ nữ vị tha nhân hậu, trọng nhân phẩm, sống trọnnghĩa vẹn tình. Mặc dù bị chồng ruồng rấy phải chết oan nhưng nàng không một lời ốn </b>

trách. Khơng những thế , khi nghe Phan Lang nhắc tới chồng con và phần mộ tổ tiên nàng ứa hai hàng nước mắt. Nàng vẫn nặng lịng với chồng con với gia đình. Dưới thủ cung nàngvẫn khát khao phục hồi danh dự. Nàng đã nhờ Phan Lang dặn TRương Sinh lập đàn giải oanvà nàng cũng đã trở về nhưng nàng chỉ đứng giữa dịng và nói vọng vào “thiếp cảm ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ, đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Quả là một người trọng tình nghĩa. Linh Phi đã tái sinh cuộc sống của nàngvà nàng cũng giữ trọn lời hứa vơí Linh Phi trở về cung nước. Như vậy ở Vũ Nương hội tụ tất cả những phẩm chất cao đẹp. Nàng tiêu biểu cho người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa – người phụ nữ công dung ngôn hạnh.

<b>Cảnh 4 (Khi TS trở về, bị nghi oan và chết đau thương): </b>

<b>Người phụ nữ tuyệt vời như Vũ Nương lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn thế nhưng cuộc đời nàng phải chịu nhiều oan trái và chết một cách bi thương. Sau bao năm </b>

chờ đợi TRương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về, tưởng rằng hạnh phuacs sẽ mỉm cười với Vũ Nương, éo le thay ngày vợ chồng sum họp cũng là ngày nàng phải vĩnh viễn xa rời tổấm. Thật đau đớn, người đẩy nàng vào cái chết oan uổng không phải ai xa lạ mà chính là người chồng mà nàng đã “3 năm giữ gìn một tiết đợi chờ”. Chỉ vì nghe lời con nhỏ Trương Sinh đã đinh ninh là vợ hư rồi mắng nhiếc đánh đuổi vợ đi. Vũ Nương bị chồng vu oan là mất nết hư thân. Nàng đã tìm cách giãi bày với chồng, mong chồng hiểu: “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu. Sun họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi vì động việc lửa binh. Cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tườnghoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ, mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Vũ Nương đã giãi tỏ tấm chân tình của mình, nàng đang cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Nhưng mọi sự cố gắng của nàng khơng có hiệu quả. Vũ Nương đau đớn, thất vọng khơng hiểu vì sao lại bị đối xử tàn nhẫn, bất cơng. Nàng khơng có quyền tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng , làng xóm biện bạch và bênh vực cho nàng. Niềm khát khao của cả đời nàng là thú vui “nghi gia nghi thất” đã bị taN vỡ. Tình u và lịng tin khơng cịn nữa. Cả nỗi đau chờ chồng thành hóa đá cũng không thể nào làm được nữa. Lắng nghe lời phân trần của Vũ Nương ta sẽ hiểu hơn tâm trạng đau khổ của nàng “ thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sẻn rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xn cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa đâu cịn có thể nên núi vọng phu kia nữa”. Từng nhịp câu văn biền ngẫu, với nhữnghình ảnh gợi lên sự tan tác, đổ vỡ, chia li, khơi gợi trong lòng người đọc niềm xúc động, xót thương, cảm thơng với nỗi đau mà Vũ Nương đang phải gánh chịu. Khơng cịn cách nào khác, đau đớn, tuyệt vọng đã lên tới tột đỉnh, Vũ Nương chỉ còn biết chọn đến cái chết để minh oan. Nàng đã ra bến sơng Hồng Giang tự vẫn. Hành động trẫm mình của Vũ Nương

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo tồn danh dự. Có tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí bởi trước khi chết nàng tắm gội sạch chay ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng “kẻ bạc mệnh này,duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu may buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sơng có linh,xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoantrang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ, nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm , trên làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắc mọi người phỉ nhổ”. Lời than như lời nguyền , xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng.Ở đoạn truyện này, các tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính . Vũ Nương bị dồn đẩy đến mức đường cùng , đành phảichấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành . Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa !". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con. Sau này Trương sinh đã lập đàn giải oan cho Vũ Nương nhưng nàng chỉ hiện về trong chốc lát. Âm dương đã đôi đường cách biệt, nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa,chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ và Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.

Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tng ích kỉ, sự hồ đồ,vũ phu của đàn ông - người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh - là lời tố cáo luật lệphong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công - “chế độ nam quyền” dưới thờiphong kiến ngự trị. Bởi khơng chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phậnphụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:

<i>“Đau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”</i>

<i>(</i>Truyện Kiều, Nguyễn Du)

<b>*Đánh giá:</b>

Tóm lại, Vũ Nương là người phụ nữ dung hạnh nhưng bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể về cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình cảm xót thương sâu sắc . Một người tuyệt vời như Vũ Nương lẽ ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn vậy mà nàng phải chịu bao oan khổ. Bằng tài năng sáng tạo và tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành cơngnhân vật Vũ Nương điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ là những conngười có phẩm chất truyền thống tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều nỗi oan trái cay nghiệt cái xãhội mà ta nói đến là:

<i>Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặnMà em vẫn giữ tấm lòng son</i>

(Bánh trơi nước – Hồ Xn Hương)

Truyện có nhiều lời thoại được sắp xếp hợp lí , làm cho câu chuyện sinh động, góp phần vàoviệc khắc họa tâm lí và tính cách nhân vật . Nguyễn Dữ đã xây dựng thành cơng nhân vật có phẩm hạnh , đạo đức mang tính truyền thống, vừa phải chịu những nỗi oan nghiệt tiêu biểu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến , để rồi thơng qua đó nhà văn bày tỏ tấm lịng trântrọng , xót thương . Từng câu, từng chữ dành cho nhân vật đều mang tính nhân văn. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

giữa tự sự và trữ tình. Tác phẩm cịn được mệnh danh là “áng thiên cổ kì bút” (áng văn hay tồn tại muôn đời). Cùng viết về nỗi khổ của người phụ nữ trong chương trình ngữ văn THCScịn có Thị Kính trong vở chèo “Quan âm thị kính”, chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du…Họ đều là những người phụ nữ tuyệt vời nhưng cuộc đời phải chịu nhiều cay đắng, éo le, đau khổ. Câu chuyện về cái chết thươngtâm của Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xãhội cũ. Tác phẩm cịn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đơi, gia đình.

<b> *Kết bài:</b>

Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” ta thấy được tài năng sáng tạo của NguyễnDữ trong nghệ thuật khắc họa nhân vật để rồi khi khép lại trang truyện hình ảnh người congái Nam Xương vẫn còn ẩn hiện đâu đó trước mắt chúng ta. Ta vơ cùng cảm thương cho sốphận oan nghiệt của Vũ Nương. Câu chuyện về người con gái Nam Xương đã để lại chongười đọc bao suy nghĩ về tình nghĩa vợ chồng, về quan hệ giữa con người với con ngườiđể từ đó ta biết trân trọng gia đình hơn.

<b>Bài 2: HỒNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍHồi thứ 14: Quang Trung đại phá quân Thanh</b>

Tác giả: Ngô gia văn phái.I. Tác giả , tác phẩm.

- Ngơ gia văn phái thuộc nhóm tác giả dịng họ Ngơ Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Trong đó có 2 tác giả chính là Ngơ Thì Chí làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngơ Thì Du làm quan dưới triều Nguyễn.

- Hồng Lê nhất thống chí viết theo thể chí.

- Chí là lối văn ghi chép sự vật, sự việc, là thể văn vừa có tính văn học vừa có tính lịch sử.- HLNTC là cuốn tiểu thuyết viết theo lối chương hồi.

- Tác phẩm viết vào cuối thế kỉ XVIII, đầu TK XIX.

- HLNTC có 17 hồi, Quang Trung đại phá quân Thanh là hồi thứ 14.- Phương thức biểu đạt chính: Tự sự.

 <b>Phân tích nhân vật Quang Trung</b>

 MB:

Ngơ gia văn phái là nhóm tác giả thuộc dịng họ Ngơ thì, ở làng tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, Tỉnh Hà Tây nay thuộc Hà Nội.“Hồng Lê nhất thống chí” là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi của Ngô gia văn phái. Tác phẩm đã khái quát 1 giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội, đẫm máu. Trong đó hồi thứ 14 thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong, giặc ngồi. Trong hồi 14 hình tượng Quang Trung, người anh hùng áo vải, hiện lên thật đẹp với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt, tài trí hơn người, đã lập nên chiến cơng Đống đa bất tử.

<small></small> <b>KQ: </b>

Hồng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêubiểu – anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ơng có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lịng dân tộc Việt Nam.Đọc Hồi thứ14 “Hồng Lê nhất thống chí”, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ. Đoạn trích bắt đầu bằng việc hèn hạ của Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”. Tôn Sĩ Nghị cùng 20 vạn quân Thanh kéo sang thực hiện ý đồ phản nước hại dân của vua Lê. Khi quân Thanh tràn sang chiếm giữ kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ cịn ở Phú Xn(Huế). Được tin cấp báo, ơng giận lắm liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Ta thấu hiểu lòng yêu nước, căm thù giặc sục sôi của Nguyễn Huệ. Nhưng ông đã biết lắng nghe quân sĩ, nghe lời bàn của các tướng sĩ ơng đã khơng nóng vội xuất qn.

<b>Lđ1: </b>

<b>Quang Trung,một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đốn: Từ đầu đến cuối </b>

đoạn trích, Nguyễn Huệ ln là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, "định thân chinh cầm quân đi ngay".Rồi chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngơi hồng đế", " đốc suất đại binh'' ra Bắc gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Với Quang Tung việc cứu nước rất quan trọng nên ơng đã giải quyết cơng việc nhanh chóng, kịp thời.

<b>Quang Trung là một vị tướng có tài dụng binh như thần. Cuộc hành quân thần tốc do</b>

Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc.Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân (Huế), đến 29 quân ra tới Nghệ An. Ở đó chưa đầy 1 ngày Quang Trung đã tuyển hơn 1 vạn quân tinh nhuệ. Ngày 30 quân ra tới Tam Điệp cách Huế 500km. Hành quân xa liên tục, đầy gian khổ với những chặng đường khó khăn nhưng nghĩa quân của Quang Trung vẫn cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, sung sức, răm rắp nghe theo chỉ huy. Có được phong độ đó là nhờ vào tài tổ chức của người cầm quân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

kỉ luật nghiêm minh “chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bịgiết ngay tức khắc”. Lời dụ như 1 bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa. Nó kích thích lịng u nước, truyền thống anh hùng của dân tộc. Lời dụ hàm chứa cái tâm, cái tình cái tài của chủ tướng. Cách lập luận hùng hồn, chặt chẽ, có sức thuyết phục lớn đối với người nghe. Nghe lời dụ ta thấy có âm vang của lời tuyên ngôn độc lập. Sức vang vọng ấy khiến lời dụ trở thành lời của núi sông, lời của truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cườngcủa dân tộc. Ơng rất sáng suốt khi kích thích lịng qn, thu phục lịng người. Thế mới biết chí lớn tài cao của Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chúng ta vô cùng khâm phục và trân trọng Quang Trung.

<b> Sự sáng suốt, nhạy bén của Quang Trung còn được thể hiện trong việc xét đoán và dùng người, điều đó thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và </b>

Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Trên cương vị hoàng đế việc nhìn nhận bề tơi là một điều quan trọng. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ nên ơng có lời khen chê đều đúng người đúng việc, khiến các tướng sĩ của ông tâm phục, khẩu phục. Không chỉ hiểu Sở là Lân, với Ngô Thì Nhậm ơng đánh giá rất cao và sử dụng như 1 quân sư “ đa mưu,túc trí”. Qua lời lẽ phân tích của ơng đối với Ngơ Văn Sở, Phan Văn Lân, những người mà đáng lẽ ra đang có tội “quan thua chém tướng” song Quang Trung rất hiểu năng lực của họ cho nên ông đã nhận rõ các tướng lĩnh của mình đều là “hạngvõ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tuỳ cơ ứng biến là khơng có tài”. Vì thế ơng đã xếp Ngơ Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Hiểu rõ tướng lĩnh của mình, Quang Trung khơng phạt họ mà trái lại họ còn an ủi động viên họ “biết lo xa biết làm cho kẻđịch chủ quan kiêu ngạo”. Nhờ có sự sáng suốt am hiểu bề tơi tường tận, ân uy đúng mực như vậy bậc anh quân đó đã tập hợp, tổ chức được lực lượng giống nhưLê Lợi xưa kia:

<i>“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phớiTướng sĩ một lòng phu tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào”</i>

<b>Nhãn quan qn sự – chính trị của Nguyễn Huệ vơ cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên </b>

đường tiến quân đánh giặc Thanh, ơng đã giao cho Ngơ Thì Nhậm "người khéo lời lẽ" để "dẹp nổi việc binh đao", đem lại "phúc cho dân".“chúng là nước lớn gấp 10 lần nước mình, sau khi bị thua ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù như thế việc binh đao không bao giờ dứt. Đến luc sấy chỉ người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, khơng phải Ngơ Thì Nhậm thì khơng ai làm được. Chờ 10 năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu qn mạnh thì ta có sợ gì chúng. Quang Trung quả là nhà quân sự lỗi lạc, biết mình, biết người và có tầm nhìn xa trông rộng. Tất cả những việc Quang Trung làm đều vì hịa bình và phát triển của dân tộc, xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Vẻ đẹp của Quang Trung trong khúc khải hoàn ca chiến thắng còn in dấu trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du , một Sĩ phu Bắc Hà. Ông đã phác họa khắc họa về

<b>chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa Xuân Kỷ Dậu 1789.</b>

<i>“Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồngQuân vua một giận oai bốn phương</i>

<i>Thần tốc ruổi dài xông thẳng tớiNhư trên trời xuống ai dám đương …”</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

(Ngô Ngọc Du) <b>Đánh giá</b>

Bằng nghệ thuật kể chuyện tài tình, bút pháp miêu tả sinh động, chân thực. Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, Ngô gia văn phái đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh. Qua đó tahiểu rõ tim đen của quân xâm lược phương Bắc, hiểu rõ bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc. Chúng ta vơ cùng biếtơn, kính phục nhà quân sự thiên tài của Đại Việt – Nguyễn Huệ Quang Trung, 1 anh hùng quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt nhạy bén, có tài dụng binh như thần. QT xứng đáng là người anh hùng chiến trận đẹp vào bậc nhất trong lịch sử văn học Trung đại Việt Nam. Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vơ địch của lịng u nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:

<i>Mà nay áo vải cờ đào,</i>

<i>Giúp dân dựng nước xiết bao cơng trình.</i>

<i> (Ai tư vãn – Ngọc Hân công chúa)</i>

Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành cơng đặc sắc. Nó làm cho trang văn Hồng Lê nhất thống chí thấm đẫm chủ nghĩa u nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.

<b>*KB: </b>

Cuộc đại phá quân Thanh là mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Ngừơi làm nên kì tích ấy là vua QT Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải vừacó tài thao lược, vừa hết lịng vì nước, vì dân, một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống yêu nước của dân tộc. Ông là tấm gương sáng cho các thế hệ con cháu noi theo. Tên tuổi củaông sẽ sáng mãi ngàn thu.

<b>TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU ( 3254 câu)</b>

I. Tác giả

a, Cuộc đời (học thuộc SGK trang 78)b,Con người(học thuộc SGK trang 78)c, sự nghiệp(học thuộc SGK trang 78)II. Tác phẩm Truyện Kiều

- Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nơm- Truyện Kiều cịn có tên gọi khác là “Đoạn trường tân thanh”

- Truyền Kiều được Nguyễn Du viết dựa theo cốt truyện” Kim Vân Kiều truyện” của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

 Truyện Kiều có bố cục 3 phần:- Phần 1: Gặp gỡ và đính ước.- Phần 2: gia biến và lưu lạc- Phần 3: đoàn tụ

 Nội dung và nghệ thuật (Học thuộc SGK/80)

 Truyện Nôm phát triển mạnh mẽ nhất ở nửa cuối TK XVIII và TK XIX Truyện Nơm có hai loại: truyện Nơm bình dân và truyện Nơm bác học

<b>CHỊ EM THÚY KIỀU (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)</b>

 Vị trí đoạn trích: đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều.

 <b>Phân tích đoạn trích:I.Mở bài: </b>

Trong chiều dài lịch sử văn học của dân tộc từ thời xa xưa, khơng thể vắng bóng tên tuổi Đại thi hào Nguyễn Du. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc và giàu giá trịnhân văn. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất là Truyện Kiều, được sáng tác dựa trên cốttruyện “ Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm tài Nhân(Trung Quốc) nhưng Truyện Kiều

<b>lại mang một nét độc đáo sáng tạo riêng của Nguyễn Du. Ở Truyện Kiều có đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” .Bằng bút pháp “ước lệ tượng trưng” truyền thống đã thể hiện biệt tài khắc </b>

họa chân dung nhân vật của đại thi hào. Đọc đoạn trích, người đọc sẽ hình dung ra vẻ đẹp tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, cũng là vẻ đẹp chuẩn mực của người phụ nữ thời xưa.

Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạnthơ tuyệt bút, gồm 24 câu thơ lục bát, thuộc đoạn đầu của tác phẩm. đã khắc họa tài tình vẻ đẹp, tài năng cũng như dự báo trước được số phận tương lai của hai nàng Kiều, Vân xinh đẹp. Qua đoạn thơ, người đọc cũng thấy được một kỳ tài diệu bút với bút pháp tả người bậc thầy của Nguyễn Du.

 <b>Phân tích</b>

 4 câu thơ đầu với bút pháp ước lệ tượng trưng Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai giai nhân tuyệt thế:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.Mai cốt cách tuyết tinh thần,Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Hai câu đầu tác giả cho biết vị thứ của 2 chị em. Họ là 2 cơ con gái đầu lịng của gia đình Vương Viên ngoại trong đó Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Họ đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp, đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn. Cốt cách của học thanh tao, duyên dáng như mai; tâm hồn của học trắng trong, tinh sạch như tuyết. Bằng bút pháp ước lệ lấy “tuyết, mai” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ “mai cốt cách tuyết tinh thần”, Nguyễn Du đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của 2 “ả tố nga”.Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng bên cạnh vẻ đẹp chung ấy mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, hồn hảo, khơng chê được ở điểm nào “10 phân vẹn 10”.

 <b>Kết đoạn: 4 câu thơ ngắn gọn với bút pháp ước lệ tượng trưng tài tình, Nguyễn Du đã </b>

khái quát vẻ đẹp của 2 trang tuyệt sắc nhà họ Vương. Lời thơ khách quan qua đó ta cảm nhạn được thái độ yêu mến, trân trọng vẻ đẹp con người của Nguyễn Du.

<b>Vẻ đẹp của Thúy Vân: </b>

Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân. Với 4 dòng thơ ngắn gọn, ngôn ngữ điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của Thúy Vân, cơ gái ở độ tuổi trăng trịn.

Vân xem trang trọng khác vời,Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Câu thơ đầu vừa giới thiệu, vừa khái quat vẻ đẹp ấn tượng của Thúy Vân. Vẻ đẹp của nàng trang trọng khác vời. Hai chữ trang “trang trọng” đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang, quý phái của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: “trăng, hoa , mây, tuyết, ngọc”. Bằng bút pháp liệt kê và ước lệ tượng trưng, chân dung của Vân được miêu tả một cách khá tồn vẹn từ khn mặt, nét mày, làn da, mái tóc, nụ cười, tiếng nói. Vân có khn mặt đầy đặn, phúc hậu, sáng sủa như vầng trăng, có đơi lơng mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng mịn màng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Nghệ thuật so sánh “mây thua, tuyết nhường”; nghệ thuật nhân hóa “hoa cười, ngọc thốt” góp phần tốt lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, cao sang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự êm dịu, hoà hợp với xung quanh .Với vẻ đẹp như thế, ngầm dự báo Thúy Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời .Chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.

 <b>Kết đoạn: Bằng giọng thơ êm dịu nhẹ nhàng, cách sử dụng ngơn ngữ tài tình, nghẹ thuật </b>

ước lệ, tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công chân dung Thúy Vân với vẻ đẹpcao sang, quý phái. Qua bức chân dung ta cảm nhận được thái độ yêu mến , trân trọng vẻ đẹp con người của Nguyễn Du. Ngòi bút miêu tả chân dung của ông thật điêu luyện. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tả chân dung nhân vật.

 <b>Vẻ đẹp của Thúy Kiều ( 12 câu thơ tiếp)- Sắc đẹp của Kiều ( vẻ đẹp nhan sắc)</b>

Đọc Truyện Kiều ta rung động trước chân dung của Thúy Vân còn Thúy Kiều thì sao?Ngịi bút miêu tả chân dung Kiều của Nguyễn Du khiến ta phải bất ngờ.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Một hai nghiêng nước nghiêng thànhSắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Nếu như khi tả Vân, Nguyễn Du tả thật kĩ, thật cụ thể song khi vẽ Kiều tác giả chỉ dùngnhững nét phác hoạ thơng thống. Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹpđoan trang, quý phái của Vân để thấy sự hơn hẳn của Kiều về cả trí tuệ lẫn tâm hồn. Các từso sánh “càng, so bề, phần hơn”đã khẳng định vẻ đẹp nổi trội hơn của Kiều. Vân đã đẹp rồi,Kiều còn đẹp hơn.Nguyễn Du đã rất thành cơng với thủ pháp địn bẩy: mượn vẻ đẹp củaThúy Vân làm nền để tôn nhan sắc và tài năng của Kiều. Cum từ “sắc sảo, mặn mà” chothấy Kiều đẹp cả vể trí tuệ và tâm hồn. Vẫn bút pháp ước lệ tượng trưng truyền thống vớinhững hình ảnh thiên nhiên đẹp “làn thu thủy, nét xuân sơn, hoa, liễu” tác giả đã cực tả vẻđẹp của 1 giai nhân tuyệt thế. Một điều đặc biệt khác với Thúy Vân, khi khắc họa chân dungThúy Kiều Nguyễn Du chỉ đặc tả đôi mắt theo lối” điểm nhãn”. Bởi đôi mắt là “ cửa sổ tâmhồn”, thể hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo, mặn mà đều được hiện lênqua đơi mắt. Hình ảnh ước lệ đan cài với tiểu đối “ Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” gợi chúng tahình dung Kiều có đơi mắt đẹp trong sáng như nước mùa thu, đơi lơng mày thanh thốt nhưdáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều không được miêu tả trực tiếp mà tác giả thông qua sựghen ghét của thiên nhiên để nổi bật vẻ đẹp vượt trội của Kiều:

“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Phép so sánh, nhân hóa với hai từ “hờn, ghen” cho thấy vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt trội, vượt khỏi vòng kiềm tỏa của thiên nhiên, khiến thiên nhiên đố kị, giận hờn, ghen ghét. Cực tả vẻ đẹp của Kiều Nguyễn Du cịn dùng điển tích, thành ngữ, phép nói quá “một hai nghiêng nước, nghiêng thành’ để tô đậm nhan sắc yêu kiều, diễm lệ, tràn đầy sức sống của người thiếu nữ. Vẻ đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức cuốn hút lạ lùng, có thể làm cho ngườita say mê đến nỗi nghiêng nước, đổ thành. Vẻ đẹp của Kiều chỉ có một khơng hai “sắc đành địi một”. Vẻ đẹp vựơt trội, khơng hịa hợp với thiên nhiên. Với vẻ đẹp như thế, ngầm dự báo số phận Thúy Kiều sẽ không bình lặng mà éo le, đau khổ. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời .Chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận.

 <b>Kết đoạn: Bằng giọng thơ êm dịu nhẹ nhàng, cách sử dụng ngơn ngữ tài tình, nghẹ </b>

thuật ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công chân dung Thúy Kiều với vẻ đẹp vượt trội, sắc sảo, mặn mà. Qua bức chân dung ta cảm nhận được thái độ yêu mến , trân trọng vẻ đẹp con người của Nguyễn Du. Ngòi bút miêu tả chân dung của ông thật điêu luyện. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tả chân dung nhân vật. <b>Tài năng và tâm hồn của Kiều</b>

Khi tả Thúy Vân Nguyễn Du chỉ gợi tả nhan sắc, nhưng với Thúy Kiều tac giả còn giới thiệu cả tài và tình của nàng.

Sắc đành địi một tài đành họa haiThơng minh vốn sẵn tính trờiPha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Một thiên Bạc Mệnh lại cảng não nhân.

Về sắc chỉ mình Kiều là nhất cịn về tài may ra có người thứ 2 được như Kiều. Nguyễn Du đã khéo léo đưa từ “thơng minh” lên đầu câu để nhấn mạnh trí tuệ thiên bẩm của Kiều “ thơng minh vốn sẵn tính trời”, với sự thơng minh vốn có đã giúp Kiều có rất nhiều tài. Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức “làu bậc”. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậcvà đủ mùi”. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm.Mỗi khi tiếng đàn cất lên người nghe đều cảm thấy muộn phiền, sầu não. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị; tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi và cái tâm hồn đa sầu, đa cảm của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều q tồn mĩ, hồn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, trn chuyên. Cũng giống như bức chân dung ThúyVân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.

 <b>* Kết luận 12 câu: Bằng giọng thơ êm dịu nhẹ nhàng, cách sử dụng ngôn ngữ tài tình, </b>

nghẹ thuật ước lệ tượng trưng, ẩn dụ, so sánh, nhân hóa qua 12 câu thơ ngắn gọn NguyễnDu đã cực tả vẻ đẹp của 1 giai nhân tuyệt thế. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Với ngòi bút khắc họa chân dung tài ba Nguyễn Du hé mở tính cách, số phận của “ ả tố nga”. Qua bức chân dung của Thuý Kiều cho thấy sự tài tình trong ngịi bút tinh tế của Nguyễn Du. Đằm sau những lời thơ ấy là thái độ nâng niu trân trọng vẻ đẹp con người. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tả chân dung nhân vật.

 <b>Cuộc sống của chị em Kiều(4 câu thơ cuối)</b>

Kết thúc đoạn thơ là bốn câu lục bát giới thiệu đức hạnh và miêu tả cuộc sống phong lưu

, êm đềm, khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:

Phong lưu rất mực hồng quần,Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Êm đềm trướng rủ màn che,Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hai người con gái họ Vương khơng chỉ có sắc - tài - tình mà cịn có đức hạnh. Mặc dù đã đến tuổi “cập kê” tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng 2 nàng vẫn không vồn vã chuyện yêu đương, trai gái, gió trăng. Họ vẫn sốngtrong cảnh phong lưu, nề nếp, đoan chính, kín đáo, ý nhị.Hai chị em, hai bơng hoa vẫn cịn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Họ là những cô gái dịu dàng , mực thước, khuôn phép, gia giáo.

Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục của cuộc đời khỏi cuộc sống phong

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

lưu của hai chị em để đề cao đức hạnh của hai nàng. Tâm hồn họ thật đẹp, mang vẻ đẹp lítưởng của người phụ nữ xưa. Cả hai chị em xứng đáng được người đời tôn vinh, ngợi ca và trân trọng.

 <b>Đánh giá: </b>

Đoạn trích “ chị em Thúy Kiều” gồm 24 câu thơ lục bát đã thể hiện tài năng tuyệt vờicủa Nguyễn Du. Bằng giọng thơ êm dịu nhẹ nhàng, cách sử dụng ngơn ngữ tài tình, cơ đúc, lời văn giàu cảm xúc, ,sử dụng thành công bút pháp ước lệ tương trưng, ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, tác giả đã làm nổi bật chân dung người con gái đẹp. Chiêm ngưỡng chândung của TK và TV ta thấy nét vẽ nào của Nguyễn Du cũng cao q, hồn hảo và lí tưởng. Đằm sau bức chân dung là tấm lòng yêu mến, trân trọng vẻ đẹp, tài năng con người, dự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đó cũng là biểu hiện cảm hứng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

 <b>Kết bài: </b>

Đoạn trích thơ “Chị em Thuý Kiều” là một trong những đoạn thơ miêu ả chân dung hay nhất trong “Truyện Kiều”. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc, nét vẽ gợi cảm, có thần, các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được Nguyễn Du vận dụng tài tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình. Chúng ta khâm phục tài năng của Nguyễn Du. Ông xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tả chân dung nhân vật.

<b>KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH – Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du</b>

 <b>Vị trí đoạn trích. Nằm ở phần thứ 2 gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị lừa vào lầu </b>

xanh, kiều uất ức định tự vẫn. Tú bà vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu mới.

 <b>Phân tích đoạn trích:I.Mở bài: </b>

Trong chiều dài lịch sử văn học của dân tộc từ thời xa xưa, khơng thể vắng bóng tên tuổi Đại thi hào Nguyễn Du. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc và giàu giá trịnhân văn. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất là Truyện Kiều, được sáng tác dựa trên cốttruyện “ Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm tài Nhân(Trung Quốc) nhưng Truyện Kiều lại mang một nét độc đáo sáng tạo riêng của Nguyễn Du. Ở Truyện Kiều có đoạn trích “Kiềuở lầu Ngưng Bích”. Với nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài tình; bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cơ đơn, buồn tủi, là tấm lịng thủy chung, nhân hậu , hiếu thảo của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ơng có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà cịn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ơng, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người.Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

 <b>Phân tích: Sáu câu thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích và hồn </b>

cảnh cơ đơn, tội nghiệp của Kiều.

<i>Trước lầu Ngưng Bích khố xnVẻ non xa tấm trăng gần ở chung</i>

<i>Bốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia</i>

<i>Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.</i>

Mở đầu cho bức tranh tâm trạng của Kiều là câu thơ khái quát về cảnh ngộ của nàng. Hai chữ “khóa xn” cho thấy hồn cảnh thực của Kiều. Nàng đang bị giam lỏng ở lầu

<i>Ngưng Bích. Cảnh nơi lầu Ngưng Bích hiện lên với “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”. </i>

Phép đối “non xa- trăng gần” cho ta hình dung Kiều đang ở trên 1 cái lầu cao chơi vơi. Câu

<i>thơ 6 chữ “ Bốn bề bát ngát xa trông”chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của khơng gian </i>

khiến ta hình dung quanh Kiều là một không gian mênh mông và nàng đang trơ trọi giữa khơng gian hoang vắng đó. Ngồi trên lầu cao chơi vơi, nhìn phía trước là núi non trùng điệp,ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những cồn cát vàng trải dài vô tận, bụi hồng bay mở mịt. Tất cả cảnh ấy càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này. Nguyễn Du thật tài tình khi sử dụng từ ngữ: các tính từ (xa, gần, bát ngát); các chỉ từ(nọ, kia). Các từ đó đều có tác dụng mở rộng khơng gian khiến cho khơng gian nơi lầu Ngưng Bích thêm dàn trải. Kiều đang bị bủa vây bởi không gian rợn ngợp ấy và tâm trạng của nàng vô cùng đau khổ, xót xa.

<i>Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.</i>

Từ láy “bẽ bàng” lột tả thật sâu sắc tâm trạng đang choán ngợp trong Kiều lúc bấy giờ: vừa chua xót,chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya(những vật tinh khôi, trong sáng). Cụm từ “ mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hồn khép kín. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất kháchquê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn, những vật vô tri vô giác. Càng nghĩ Kiều càng cảm thấy bẽ bàng cho thân phận. Tâm trạng của nàng rối bời, nàng khơng biết tình hay cảnh khiến lịng nàng bị chia xé, nát tan. Cả không gian và thời gian vây bọc, giam hãm Kiều khiến nàng rơi vào tình cảnh cơ đơn tuyệt đối.

 <b>Kết đoạn: Sáu câu thơ với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện, ngơn ngữ giàu sức gợi </b>

hình, gợi cảm. Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên nỗi lịng, cảnh ngộ cơ đơn tội nghiệp của Th Kiều. Đó là sự cơ đơn, vơ vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy, cuộn dâng trong lòng Kiều. Đằm sau những lời thơ là nỗi niềm thương cảm của Nguyễn Du trước cảnh ngộ của con người.

 <b>8 câu thơ tiếp là nỗi nhớ thương người yêu và cha mẹ của Kiều.</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>- Nỗi nhớ người yêu :</b>

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, tạm quên đi những chia xé trong lòng, Kiều nhớ về những người thân của mình. Lúc này Kiều nhớ về người yêu.

<i>Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,Tin sương luống những rày trơng mai chờ.</i>

<i>Bên trời góc bể bơ vơ,</i>

<i>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.</i>

Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau

<i>lớn nhất của nàng lúc này là: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”Chính bởi thế mà người </i>

đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là phù hợp với quy luật tâm lí, thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Qua đó ta thấy Kiều hiện lên khơng phải là con người công thức, cứng nhắc theo lễ giáo phong kiến. Đây cũng là cách xử lí tâm lí mạnh bạo, tài tình của Nguyễn Du. Nỗi nhớ người yêu, được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lờiđộc thoại nội tâm của nhân vật. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, thủy chung, mà nay tìnhduyên đã chia lìa đơi ngả. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng cơng vơ ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, nàng hiểu rằng tấm lịng son sắt thủy chung mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy “tấm son” ấy còn là sự trong trắng của Kiều đã bị Tú Bà làm cho hoen ố biết đến khi nào mới gột rửa cho phai. Trong nỗi nhớ cịn có cả nỗi xót xa, ân hận.

 <b>Kết đoạn: Với nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài tình, Nguyễn Du đã cho chúng ta </b>

thấy rõ tâm trạng đau khổ, buồn thương của Kiều. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên đi nỗi khổ bản thân để nghĩ về Kim Trọng. Qua đó ta thấy Kiều là người tình thủy chung, người có tấm lòng vị tha, nhân hậu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nghĩ đến cảnh cha mẹ già ngày ngày tựa cửa ngóng chờ tin của đứa con lưu lạc. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ.Nàng xót thương da diết và day dứt khơn ngi vì khơng thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “Sân Lai, gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương sâu nặng , tấm lòng hiếu thảo của Kiều.Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi ngày thêm già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách khơng gian giữa nàng và cha mẹ là “cách mấy nắng mưa”.Cụm từ “cách mấy nắng mưa” là 1 ẩn dụ vừa nói lên thời gian xa cách, vừa biểu đạt sức tàn phá của thiên nhiên với cảnh vật và coin người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ,Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và ln ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết.

 <b>Kết đoạn: Với nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài tình, Nguyễn Du đã cho chúng ta </b>

thấy rõ tâm trạng nhớ thương, xót xa của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng đã quên đi nỗi khổ bản thân để nghĩ về cha mẹ. Trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu. Nàng quả là người con rất mực hiếu thảo, người có tấm lịng vị tha đáng trọng.

 <b>8 câu thơ cuối : Tâm trạng buồn, lo âu cảu Kiều qua cách nhìn cảnh vật.</b>

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuổì cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ,sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìncủa Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn thân phận. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

<i>Buồn trơng cửa bể chiều hơm,Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>

<i>Buồn trơng ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?</i>

<i>Buồn trông nội cỏ rầu rầu,</i>

<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.</i>

Tám câu thơ ngắn gọn nhưng đã có 4 cảnh được gơi tả. Mỗi cảnh ứng với một cặp câu thơ lục bát. Hai câu đầu mở ra cảnh biển mênh mơng với hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi, hưuquạnh, một cánh buồm đơn độc giữa biển nước mênh mông trong buổi chiều tà . Quả là một không gian nghệ thuật gợi buồn. Từ láy “thấp thống, xa xa” gợi hình ảnh con thuền lúc mờ,lúc tỏ, lúc có, lúc khơng, lênh đênh trên mặt nước mỗi lúc một xa chưa có bến bờ neo đậu. Cảnh đó gợi liên tưởng tới thân phận nhỏ bé, đơn độc, lạc lõng, bơ vơ của Kiều. Kiều cũng đang lênh đênh giữa dịng đời khơng biết sẽ trôi dạt về đâu. Tiếp theo là cảnh những cánh hoa man mác trôi dạt trên ngọn nước mới sa. Từ láy “man mác” chỉ những cánh hoa mỏng manh vừa bị ngon nước mới sa dập vùi, xô đẩy khiến nó đang lênh đênhtrơi dạt, sống chết dở dang. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trơi man mác” gợi nỗi buồn lo da diết. Ta liên tưởng tới thân phận mỏng manh, nhỏ bé, nổi lênh vô dịnh không biết trôi dạt về đâu của Kiều.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Cảnh tiếp cảnh, trước mắt Kiều xuất hiện một cảnh thiên nhiên khác:

<i>Buồn trông nội cỏ rầu rầu,</i>

<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.</i>

Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là

“cỏ non xanh tận chân trời”, còn cỏ ở đây “rầu rầu”. Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu xanh của sự sống, của hi vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vơ vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnhnày không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa hèn của Thuý Kiều. Cảnh cuối cùng thiên nhiên hiện lên thật dữ dội. Sóng biển, gió biển đang ầm ầm bủa vây quanh lầu Ngưng Bích. Đây là đỉnh điểm của bức tranh tâm trạng. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng và yếu đuối nhất vì cảnh tượng ấy hé ra một dự cảm đáng sợ cho tương lai đó là giơng bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Và quả thật, ngay sau lúc này Kiều mắc lừa Sở Khanh để rồi lâm vào cảnh” Thanh lâu2 lượt, thanh y 2 lần”. Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình quen thuộcđã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.Cảnh đã nhuốm màu tâm trạng. Một thế giới nội tâm sâu thẳm và đầy bi kịch được toát lên từ cảnh. Trình tự tả cảnh của Nguyễn Du cũng thật đặc sắc. Cảnh được miêu tảtừ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Các từ láy (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, , ầm ầm)vừađể tả cảnh vừa thể hiện tâm trạng buồn, lo âu của Kiều. Điệp từ “ Buồn trông” được nhắc lại 4 lần ở đầu mỗi câu lục,thêm nữa những câu hỏi tu từ “Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa; Hoa trơi man mác biết là về đâu?” có tác dụng tạo âm hưởng trầm buồn, diễn tả nỗi buồnchất ngất, dồn dập, kéo dài , càng lúc càng tăng. Cụm từ “buồn trông” trở thành điệp khúc đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng. Từ láy “ầm ầm” được đảo lên đầu câu gây ấn tượng mạnh vì ầm ầm là thứ âm thanh bất thường, nó phá vỡ khung cảnh yên tĩnh dứt Kiều ra khỏi dòng suy tư, trả nàng về với thực tại – 1 thực tại nghiệt ngã, phũ phàng.

Tám câu thơ với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với ngơn ngữ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã làm nổi bật tâm trạng buồn chất ngất và lo âu của Kiều. Đoạn thơ là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của Kiều, cũng qua đó giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

<b>* Đánh giá cả bài: </b>

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tảcảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cơ đơn, buồn tủi, là tấm lịng thủy chung, nhân hậu nàng dành cho Kim Trọng và cha mẹ.Kiều ở lầu Ngưng Bích cịn là một bức tranh đa dạng, phong phú về tình và cảnh. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du thiên nhiên cùng một lúcđảm nhận 2 chức năng : thể hiện ngoại cảnh và tâm cảnh. Thiên nhiên trở thành phương tiện đặc sắc để Nguyễn Du khắc họa thế giới nội tâm của kiều. Thiên nhiên liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Nguyễn Du quả xứng đáng là bậc thầy về tả cảnh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>Kết bài: Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ miêu tả nội tâm </b>

nhân vật hay nhất của Truyện Kiều. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện Nguyễn Du cho chúng ta thấy bức tranh tâm trạng Kiều nơi lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ có giá trị nhân

văn sâu sắc, thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau củaThúy Kiều.

<b>LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGATrích tác phẩm Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu.</b>

 <b>Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên. MB: </b>

Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Ông để lại nhiều áng văn chương có giá trị nhằm truyền bá đạo lí làm người. Truyện “Lục Vân Tiên” là tác phẩm tiêu biểu . Truyện đề cao tinh thần nghĩa hiệp, cứu khốn phò nguy. Trong truyện có sự viêc Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. Ởđoạn trích này hình ảnh Lục Vân Tiên hiện lên thật đẹp. Chàng là một nhân vật lí tưởng, người anh hùng có lịng thương người, dũng cảm và tinh thần nghĩa hiệp đáng kính.

<b>Khái quát: Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu trong giai </b>

đoạn sáng tác trước khi thực dân Pháp xâm lược. Đoạn trích "Lục Vân Tiên Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" là một trong nhưng đoạn trích hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc đời và tính cách Lục Vân Tiên có những nét trùnghợp với cuộc đời và tính cách của tác giả. Điểm nổi bật trong tính cách Lục Vân Tiên là tinh thần nghĩa hiệp. Một phẩm chất cao đẹp của mọi thời xưa và nay.Để làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của Lục Vân Tiên tác giả đã đặt nhân vật vào 2 tình huống: Lục Vân Tiên đánh cướp và Lục Vân Tiên trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga.

<b>hở về kinh đơ ứng thí. Trên đường chàng ghé thăm cha mẹ, tình cờ gặp bọn cướp Phong </b>

Lai đang bức hại dân lành. Chàng chỉ có một mình, tay không, trong khi bạn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ,thanh thế lẫy lừng, nhưng Vân Tiên không đắn đo, nề hà. Thương người vô tội chàng bẻ cây bên đường làm gậy xông vào đánh cướp.

Vân Tiên ghé lại bên đàngBẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Kêu rằng “Bớ đảng hung đồChớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

Thật tuyệt vời, giữa đường gặp chuyện bất bình, khơng do dự, khơng tính tốn thiệt hơn, rất khẩn trương Vân Tiên sẵn lòng ra tay giúp đỡ. Tác giả đã miêu tả cụ thể cuộc giao tranh giữa Vân Tiên với bọn cướp

Vân Tiên tả đột hữu xơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Khác nào Triệu Tử phá vịng Đương giangLâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngayPhong Lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Hình ảnh Vân Tiên hiện lên thật đẹp, mang vẻ đẹp của người dũng tướng. “ Tình thương người đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm cho người thư sinh họ Lục. Lũ cướp rất đông và đáng sợ gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí. Hắn dữ tợn và có sức khỏe mn người khơn địch! Giữa vịng vây của lũ cướp, khơng một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, Lục Vân Tiên đã dũng cảm đánh cướp. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã so sánh Lục Vãn Tiên đánh cướp với chiến công của hổ tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Đương Dang thời Tam quốc để ca ngợi tinh thần quả cảm của người anh hùng vị nghĩa: Chiến thắng của Vân Tiện là chiến thắng của nhân nghĩa, của lẽ phải, của tình yêu và lòng dũng cảm phi thường. Vân Tiên hiện thân cho vẻ đẹp của những trang nam nhi hảo hán thời phong kiến sẵn sàng cứu khốn phò nguy.

<b>Ld2: Trong cuộc trò chuyện Vân Tiên đã bộc lộ tư cách của con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài và rất từ tam nhân hậu. Vân Tiên không biết người</b>

bị hại là ai nên chàng đã lại và hỏi han ân cần:

“Dẹp rồi lũ kiến chịm ongHỏi ai than khóc ở trong xe nầy” .

Khi biết đó là 2 cơ gái và các cơ chưa hết hãi hùng, chàng động lịng, an ủi hai cơ: “ Vân Tiên nghe nói động lịng

« Tiểu thơ con gái nhà aiĐi đâu nên nỗi mang tai bất kì

Chẳng hay tên họ là chiKh mơn phận gái việc gì đến đây

Trước sau chưa hãn dạ nầyHai nàng ai tớ, ai thầy nói ra »

Những câu nói chân thành mộc mạc thể hiện sự quan tâm chu đáo của Vân Tiên. Cuối đoạn trích hình ảnh Vân Tiên hiện lên thật đẹp. Khi nghe Kiều Nguyệt Nga có nhã ý muốn trả ơn, Vân Tiên đã khảng khái từ chối và nói ra phương châm sống của mình.

« Vân Tiên nghe nói liền cười

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Làm ơn há dễ trông người trả ơnNay đà rõ đặng nguồn cơnNào ai tính thiệt so hơn làm gì

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Ta ấn tượng với nụ cười bao dung, tốt bụng của Vân Tiên. Coi việc cứu giúp người bị hại là đương nhiên, là bổn phận, chàng không coi đó là cơng trạng Việc làm ơn của chàng xuất phát từ tinh thần chính nghĩa, tự nguyện, chân thành, mong muốn được giúp người chứ khơng tính tốn đến việc trả ơn. Đó là suy nghĩ và cách ứng xử mang tinh thần nghĩa hiệp của bậc anh hùng hảo hán. Người tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở che bênh vực người lầm than, bị áp bức. Nếu thấy việc nghĩa mà khơng làm thì cịn đâu đáng mặt anh hùng? Suy nghĩ ấy càng làm cho chúng ta thêm khâm phục và yêu mến Vân Tiên.

 <b>Đánh giá:</b>

Bằng ngôn ngữ mộc mạc giản dị, lời thơ gần với lời nói hằng ngày, mang đậm màu sắc địa phương Nam Bộ, tác giả đã khắc họa thành cơng hình ảnh Lục Vân Tiên trang cốt cách tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài. Sống và hành động theo phương châm: "Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ". Vân Tiên cũng như người anh hùng Từ Hải trong "Truyện Kiều".

"Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

Giữa đường dẫu thấy bất bằng chẳng tha!"

Qua nhân vật Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình. Ông mong muốn trong thời buổi xã hội còn nhiều hỗn loạn, nhiễu nhương sẽ có những người tài đức, những bậc anh hùng sẵn sàng ra tay giúp người hoạn nạn. Ươc mơ đó thật đẹp thể hiện tấm lịng nhân văn cao cả của ơng. Tinh thần nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên như viên ngọc quý sáng bừng lên dư vị ngòi bút sắc nhọn của Nguyễn Đình Chiểu:

"Chở bao nhiêu đạo thuyền khơng khẳm,Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà."

Tấm gương Lục Vân Tiên mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về sức mạnh thẩm mĩ của thi ca, của truyện thơ Lục Vân Tiên mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời.

 <b>Kết bài: Tóm lại Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mang trong mình truyền </b>

thống cao đẹp, trọng nghĩa khinh tài của dân tộc ta. Lục Vân Tiên cho chúng ta bài học lớn về đạo đức và cách làm người, không thể làm ngơ trước những tai họa và đau khổ của người khác. Trang sách đã gấp lại nhưng hình ảnh người anh hùng luôn hiện rõ. Một tấm gương sáng về tinh thần thượng võ. Lục Vân Tiên giúp chúng ta sống đẹp hơn. Ta học tập ở chàng trai cả tài lẫn đức.

 <i>( Nguyễn Đình Chiểu)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

 <b><small>ĐỀ 8: PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH “LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA” CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU</small></b>

 <b>A. Mở bài</b>

 Nguyễn Đình Chiểu - một nhà thơ lớn của dân tộc ta mà cố Thủ tướng Phạm VănĐồng đã từng gọi ông là “Ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”. Một trong nhữngtác phẩm xuất sắc gắn với tên tuổi của Nguyễn Đình Chiểu là “Truyện Lục Vân Tiên”,trong đó bài thơ “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn để lại nhiều ấntượng với người đọc đặc biệt là nhân vật Lục Vân Tiên - một hình tượng trang nam tửhành hiệp trượng nghĩa cứu người hoạn nạn, đại diện cho người anh hùng lý tưởng củanhân dân.

 <b>B.Thân bài</b>

 <b>1. Khái quát : </b>

 “Truyện Lục Vân Tiên” là một tác phẩm truyện thơ nôm, gồm 2082 câu thơ lục bátxoay quanh cuộc đời nhân vật Lục Vân Tiên. Lục Vân Tiên là nhân vật trung tâm của tácphẩm đồng thời cũng là nhân vật mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xây dựng để kí thácnhững tư tưởng, quan điểm cũng như thể hiện một ước mơ về thế giới công bằng, conngười sống với nhau bằng tình nghĩa chứ khơng phải bằng những thứ vật chất thơngthường. Có thể nói trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn thểhiện được rõ nét và sâu sắc nhất được những phẩm chất đáng quý ở Lục Vân Tiên.

 <b>2. Nhân vật Lục Vân Tiên</b>

 <b>a. Vân Tiên mang dáng dấp của một người anh hùng hiệp nghĩa</b>

 - Nói về nhân vật LVT trong đoạn trích “LVTCKNN” trước hết ta nhận thất ở nhân vật

<b>này là bóng dáng của một người anh hung hiệp nghĩa, một chàng trai dũng cảm.</b>

Điều đó được thể hiện ngay từ những câu thơ mở đầu của đoạn trích. <i>“Vân Tiên ghé lại bên đàng</i>

<i>Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”</i>

 + Đọc những câu thơ đầu tiên này, ta khơng khỏi ấn tượng với một chàng trai có nghĩakhí và lí tưởng sống cao đẹp. Trên đường đi, Vân Tiên tình cờ gặp bọn cướp Phong Laiđang hồnh hành làm hại người dân vô tội. Chứng kiến cảnh đó, LVT khơng đành lịngkhoanh tay đứng nhìn, chàng vội vàng “bẻ cây làm gậy” rồi xông vào đánh cướp. Trongkhi lúc này bọn cướp vừa đông lại gươm giáo đầy mình cịn chàng thì chỉ có một mìnhlại khơng có vũ khí. Rõ ràng là LVT khơng hề toan tính, khơng suy nghĩ thiệt hơn, chỉbiết rằng điều cần làm lúc này là đánh tan bọn cướp để cứu dân lành. Không phải là mộtngười anh hùng nghĩa hiệp có tinh thần dũng cảm hẳn là chàng sẽ chẳng thể hành độngđược như vậy

 + Không chỉ thể hiện trong hành động, sự dũng cảm và tinh thần hiệp nghĩa của LVT cịnđược thể hiện trong lời nói của chàng:

 <i>“Kêu rằng bớ đảng hung đồ</i>

<i>Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”</i>

 => Câu nói của VT đã thể hiện rõ thái độ của chàng. Đó là sự bất bình trước những kẻngang nhiên cướp bóc làm hại người dân vơ tội. Lời nói ấy chính là lời tuyên chiến giữachính nghĩa đối với thế lực phi nghĩa bạo tàn. Sau câu nói ấy là hành động Vân Tiên đánhcướp. Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả cụ thể hành động ấy:

 <i>“Vân Tiên tả đột hữu xông</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

 <i>Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”</i>

 - Mặc dù kẻ thù lúc này đã “ truyền quân bốn phía” với gươm giáo đầy mình nhưng VânTiên khơng hề sợ hãi. Chàng “tả đột hữu xông”. Thành ngữ “tả đột hữu xông” cùng vớiphép so sánh đã cho ta nhận ra ở Vân Tiên là bóng dáng của một dũng tướng, một conngười có tài thao lược và tinh thần dũng cảm. Tài năng ấy được cổ vũ bởi sức mạnh củachính nghĩa nên cuối cùng bọn cướp Phong Lai đã phải quăng gươm giáo bỏ chạy. Vàchính những phẩm chất ấy của Vân Tiên càng làm ta thêm yêu mến và cảm phục .

 <b>b. Vân Tiên là một chàng trai có tấm lòng nhân hậu, biết quan tâm và yêu thươngmọi người.</b>

 - Không chỉ là một người hiệp nghĩa, dũng cảm, LVT trong đoạn trích này cịn là mộtchàng trai có tấm lịng nhân hậu, biết u thương và quan tâm người khác. Nghe tiếngkhóc ở trong xe, Vân Tiên đã đến gần vừa là để hỏi han quan tâm vừa là để thông báocho người trong xe yên tâm vì giờ lũ cướp đã bị dẹp tan, khơng cịn mối đe dọa nàonữa.Người đọc không khỏi ngạc nhiên bởi một chàng trai trẻ tuổi sao có thể chu đáo âncần đến như vậy? Thật đáng trân trọng.

 <b>c. Vân Tiên là một chàng trai trọng lễ tiết</b>

 - Khi đọc những câu thơ tiếp theo của đoạn trích, ta lại nhận ra Vân Tiên còn nhiềunhững phẩm chất đáng quý nữa. Chàng thực sự là một người trọng lễ tiết. Khi biết lũcướp đã bỏ đi, Kiều Nguyệt Nga muốn ra khỏi xe để tạ lạy tỏ lòng biết ơn Vân Tiênnhưng chàng đã vội ngăn lại bằng lời nói có phần gấp gáp:

 <i>“ Khoan khoan ngồi đó chớ raNàng là phận gái ta là phận trai”</i>

 - Trong XH phong kiến, nam nữ không được tùy tiện mà gặp mặt bởi quan niệm “nam nữthụ thụ bất thân” đặc biệt là với con gái. Việc một người con gái giao lưu, gặp gỡ với mộtngười đàn ông khơng phải chồng mình có thể bị đánh giá khơng tốt về phẩm giá. Và vìthế mà họ cũng khơng được coi trọng. Hiểu được điều đó nên LVT đã ngăn cản khơngcho KNN ra ngồi, chàng khơng muốn làm ảnh hưởng đến danh dự, phẩm giá của KNN.Những chi tiết như thế chứng tỏ chàng là một người trọng lễ tiết.

 <b>d. Quan điểm về việc nghĩa và người anh hùng</b>

 <b>- Tất cả những phẩm chất đó đã khiến cho Vân Tiên trở thành một hình tượng đẹp trong</b>

<i><b>lòng bạn đọc nhưng đẹp hơn cả là quan niệm về việc nhân nghĩa của chàng ở cuối đoạn</b></i>

<i>Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”</i>

 - Theo quan điểm của mình, Vân Tiên cho rằng làm ơn vốn xuất phát từ tinh thần chínhnghĩa tự nguyện đầy chân thành, mong muốn chỉ là giúp người chứ không phải mong báođáp, hàm ơn. Và nếu một người gặp việc nghĩa mà khơng làm thì khơng phải là ngườianh hùng đáng trọng. Từ quan niệm của Vân Tiên và cũng là của Nguyễn Đình Chiểu,chúng ta đã có thêm cái nhìn khác về một người anh hùng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

 - Người anh hùng đâu chỉ là những người xông pha trận mạc đánh đuổi kẻ thù mà cịn lànhững người dám xả thân vì nghĩa, dám đứng ra bênh vực lẽ phải, bảo vệ dân lành. Đó làngười anh hùng của cuộc sống thường nhật.

 <b>3. Đánh giá:</b>

 - Có thể thấy rằng “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm bấthủ của văn học trung đại. Bằng sự kết hợp giữa tự sự và miêu tả, tác phẩm đã xây dựngthành cơng hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên. Chàng là người tiêu biểu cho cái thiệnmang vẻ đẹp hào hiệp trong cái xã hội đầy bất công tàn ác. Nhân vật Vân Tiên mãi làhình ảnh đẹp mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin khát vọng về truyền thống đạođức tốt đẹp của nhân dân ta. Thông qua nhân vật này chúng ta nhận ra ở nhà thơ NguyễnĐÌnh Chiểu là sự trân trọng, ngợi ca dành cho những con người dám xả thân vì nghĩa.Ơng đã dạy cho chúng ta một bài học về lẽ sống đẹp ở đời.

 <b>C. Kết bài</b>

 “Truyện Lục Vân Tiên” đã khép lại rồi nhưng dường như những điều mà NĐC gửigắm trong tác phẩm vẫn còn vang vọng mãi. Hơn hai thế kỉ đã trôi qua nhưng hình tượngLục Vân Tiên vẫn mãi là một hình ảnh đẹp. Đọc tác phẩm này, ta khơng khỏi cảm phụctrước tài năng và đức độ của NĐC, ta lại càng thêm trân trọng những con người sẵn sàngvì nghĩa quên thân như Lục Vân Tiên. Chàng trai trẻ tuổi ấy đã nhắc nhở thế hệ trẻ chúngta sống phải có trách nhiệm với mọi người, sống đẹp, sống có ích cho xã hội.

<b>Phần III: Văn học hiện đạiĐồng chí của nhà thơ Chính Hữu</b>

<b>2.Khái quát: </b>

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội đã trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

yêu và hi vọng của cả dân tộc.Bài thơ Đồng chí viết về đề tài người lính, ca ngợi tình đồng đội gian khổ, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp .

<b>* 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.</b>

Mở đầu bài thơ Chính Hữu đã nhìn nhận, đi sâu vào hồn cảnh xuất thân và cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính:

<i>Q hương anh nước mặn, đồng chua,Làng tôi nghèo đặt cày lên sỏi đá.Anh với tôi đôi người xa lạ</i>

<i>Tự phương trời chẳng hẹn quen nhauSúng bên súng, đầu sát bên đầuĐêm rét chung chăn thành đơi tri kỉĐồng chí</i>

Hai câu thơ đầu với cấu trúc song hành, đối xứng, giọng điệu tâm tình Chính Hữu đã làm hiện lên hai "gương mặt" người chiến sĩ trẻ, họ đang tâm sự cùng nhau về quê hương. Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ. thành ngữ để nói về làng q, nơi chơn nhau cắt rốn thân u củamình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận. Các anh cùng chung 1 hồn cảnh, chung 1 giai cấp nơng dân nghèo khó. Sự đồng cảnh cũng chính là cái gốc, là cơ sở hình thành nên tình đồng chí.

Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệtnhững bãi mía, nương dâu, ra đi chiến đấu để giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khókhăn dường như khơng thể làm cho những người lính chùn bước. Với lịng u nước nồngnàn, họ lên đường gia nhập vào hàng ngũ quân đội. Vốn là những người “xa lạ”trong đờisống họ đã gặp gỡ và quen nhau và trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiếnđấu. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “ Nhớ ” cũng thể hiện tình cảm này.

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứGặp nhau hồi chưa biết chữQuen nhau từ buổi một hai”

Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. Thật là thú vị,Chính Hữu đã rất khéo léo trong cách sử dụng từ ngữ. Ơng khơng dùng “hai” mà nói “đơi”,thêm nữa hình ảnh sóng đơi “anh với tôi”; “quê anh; làng tôi” đã khẳng định sự gắn bó keosơn khơng thể tách rời của những người lính. Những người lính,họ đến với cách mạng vì lítưởng dâng hiến cho đời. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin vàkhi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”

Câu thơ vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa biểu tượng. Nghĩa thực là hình ảnh nhữngngười lính sống và chiến đấu bên nhau. Nghĩa biểu tượng: súng biểu tượng cho nhiệm vụchiến đấu; đầu biểu tượng chi chí hương, lí tưởng. Cả câu thơ cho ta hiểu những người lính

họ cùng chung nhiệm vụ, chung chí hướng, lí tưởng và mục đích chiến đấu. Đó cũng là cơsở vững chắc hình thành nên tình đồng chí. Phép liệt kê với điệp ngữ “ súng; đầu; bên” tạoâm điệu chắc khỏe đồng thời làm cho l nhằm khẳng định tình cảm gắn bó của những người

lính. Họ ln kề vai sát cánh bên nhau, giữ chắc tay súng để bảo vệ quê hương.Tình đồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

chí cịn nảy nở và thành bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui.

<i>Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ</i>

Hình ảnh thơ cụ thể, giản dị nhừng giàu sức gợi đã biểu hiện mối tình tri kỉ của những người bạn tâm giao. Đêm rừng Việt Bắc lạnh cắt da, cắt thịt, chăn không đủ đắp nên họ phải chung chăn. Chính sự chia sẻ thiếu thốn gian khổ ấy đã thắt chặt tình cảm của những người đồng đội. Mỗi khi mảnh chăn đơn đắp lại, bầu tâm sự lại được mở ra để rồi họ hiểu bạn như hiểu mình, trở thành “đơi tri kỉ”, gắn bó, gian khổ, sống chết có nhau. Cùng viết về sự sẻ chia ấy, Tố Hữu trong bài “ Việt Bắc” đã viết.

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”(Tố Hữu)

Sau 6 câu thơ nói về cơ sở của tình đồng chí tác giả đã nhấn mạnh tình đồng chí thiêng liêng bằng 1 dịng thơ gồm 2 tiếng “ Đồng chí!”.Dịng thơ đặc biệt, dồn nén bao cảm xúc vàý tứ sâu xa. Nó vang lên như 1 lời khám phá, phát hiện, như 1 lời khẳng định về tình cảm giản dị mà rất đỗi thiêng liêng – tình đồng chí. Nó giống như 1 nốt nhấn trong bản nhạc và cũng có vai trị như cái bản lề khép lại nội dung đoạn 1, mở ra nội dung đoạn 2 – biểu hiện tình đồng chí.

 <b>10 câu thơ tiếp : Biểu hiện của tình đồng chí. </b>

Tình đồng chí được biểu hiện cụ thể và cảm động trong cuộc sống chiến đấu qua những lờithơ mộc mạc. Đồng chí trước hết là sự cảm thơng sâu xa tâm tư nỗi lịng của nhau. Ở họ có sự hiểunhau sâu sắc:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay,Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính.

Trong những giây phút sống chiến đấu bên nhau những người lính kể cho nhau nghe chuyện quê nhà.Cái chất nông dân thuần phác của những người lính mới đáng quý làm sao.Họ ra đi để lại ruộngnương, nhà cửa và bao nỗi nhớ niềm thương của những người thân. Đến lúc này chỉ xuất hiện “anh”chứ khơng cịn “ tơi”. Chính Hữu muốn nói với chúng ta rằng anh với tơi đã hòa làm 1. Tâm tư, nỗilòng của anh cũng chính là tâm tư nỗi lịng của tơi. Hai chữ “mặc kệ” được dùng rất đắt, nó thể hiệnthái độ dứt khoát, mạnh mẽ mang dáng dấp trượng phu. Yêu lắm những mảnh đất thân quen,những mái nhà thân thuộc.... Nhưng những người lính họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng những gìquý giá để ra đi vì nghĩa lớn, đi theo khát vọng của tiếng gọi yêu thương, của trái tim yêunước. Dầu rằng “mặc kệ” nhưng trong sâu thẳm nỗi lịng của người lính hình bóng của quêhương vẫn bao trùm vẫn ôm ấp họ. Xác định “mặc kệ” để đỡ lưu luyến lúc ra đi chứ khơngphải để qn. Cùng ý thơ đó nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết :

“Người ra đi đầu không ngoảnh lạiSau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Quả đúng như vậy, những người lính họ dứt khốt nhưng khơng vơ tình, trong lịng họ vẫn nặng tình với quê hương thân yêu, bởi sau từ “mặc kệ” tác giả đã khéo léo đưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

vào đó hình ảnh quen thuộc “giếng nước gốc đa”. Đây là hình ảnh hốn dụ gợi liên tưởng đến làng quê, đến nỗi nhớ của những người thân nơi quê nhà dành cho người lính.

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa “giếng nước gốc đa” cũng có nỗi “nhớ” khơn ngi với những người lính. Qua đó ta hiểu những người thân của người lính đang đau đáu ngóng trơng, nhớ về họ. Đã dứt áo ra đi nhưng những người trai cày vẫn cảm nhận sâu sắc nỗi nhớ sau lưng mình, điều đó chứng tỏ rằng trong sâu thẳm nỗi lịng họ ln thường trực nỗi nhớ gia đình, q hương. Đó chính là tâm tư, nỗi lịng chung của người lính, cả tơi và anh cùng thấu hiểu nỗi lịng đó cảu nhau. Có cả 2 nỗi nhớ ở hai phía chân trời. Chính nỗi nhớ ấy, tình u q hương ấy đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa.

Tình đồng chí cịn được biểu hiện ở sự cùng nhau chia sẻ gian lao, khó khăn thiếu thốn của cuộc đời người lính:

Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh,Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai Quần tơi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá Chân không giày...Thương nhau tay nắm lấy bàn tay".

Những câu thơ ngồn ngộn những chi tiết rất thực, phản ánh hiện thực cuộc sống mà những người lính phải đối mặt nơi chiến trường. Cảnh “sốt run người vầng trán ướt mồ hơi” giúp hình dung những gian khổ tột cùng mà những người lính phải trải qua.

Chữ "biết" nghĩa là cùng nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Họ từng phải nếm trải, chịu đựng sự hành hạ cuả bệnh tật, của những cơn sốt rét rừng ghê gớm. Cả anh và tôi cùng phải trải qua những giây phút thập tử nhất sinh. Trong bài “ Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng ta cũng bắt gặp hình ảnh những người lính trải qua gian khổ, họ cũng phải nếm trải những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng khơng mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.

<i>“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm”</i>

( Tây Tiến - Quang Dũng)

Khơng chỉ có thế những người lính họ cịn phải trải qua những khó khăn gian khổ, thiếuthốn của cuộc đời người chiến sĩ. Những ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội còn thiếuthốn đủ đường, thiếu thuốc men, lương thực, quân tư trang cũng thiếu. Giữa mùa đơng giálạnh họ chỉ có trang phục phong phanh: “Áo rách vai; quần vá; chân không giày”. Gian khổ,thiếu thốn nhưng những người lính vẫn vững lịng theo kháng chiến, trên môi họ luôn nởmột nụ cười lạc quan, yêu đời: “miệng cười buôt giá”. Câu thơ với 2 vế đối lập đã làm nổibật phẩm chất cao đẹp của người lính. Gian khổ tột cùng nhưng họ vẫn lạc quan. Hình ảnhngười lính thật đáng trân trọng, đáng khâm phục và tự hào biết bao mỗi khi ta đọc nhữngcâu thơ nói về cuộc sống kham khổ của họ.

“Áo vải chân khôngĐi lùng giặc đánh”

( Nhớ - Hồng Nguyên)

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Trong đoạn thơ tác giả đã sử dụng những hình ảnh sóng đơi, đối ứng nhau trong từng cặp (anh với tơi; áo anh, quần tơi)góp phần diễn tả sự gắn bó, sẻ chia, sự giống nhau trong cảnh ngộ của những người lính. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê. Cảm xúc từ dồn nén đến dâng trào để rồi đến câu cuối cùng của khổ là hình ảnh thật cảm động:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Thật giản dị và cảm động! Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mĩ phơ trương.Tình thương đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "tay nắm lấy bàn tay".Chính đơi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí. Cách biểu lộ tình u thương khơng ồn ào nhưng vơ cùng thấm thía, ấm áp tình đồng đội. Trong buốt giá gian lao, anh nắm tay tôi,tôi nắm bàn tay anh, để động viên chia sẻ những khó khăn gian khổ,, truyền cho nhau

hơi ấm tình thương, niềm tin và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách,gian lao. Chỉ cần 1cái nắm tay thơi tất cả mọi khó khăn gian khổ bị đẩy lùi. Cử chỉ không lời nhưng thật đẹp, nó đã sưởi ấm lịng những người lính giúp họ vượt qua sự khốc liệt cuả chiến tranh. Câu thơ ấm áp ngọn lửa tình cảm yêu thương. Cái nắm tay thay cho mọi lời nói. Chính Hữu đã thật tinh tường khi phát hiện sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính.

 <b>3 câu thơ cuối là hình ảnh người lính trong đêm canh gác, bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. </b>

Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là biểu tượng đẹp nhấtcủa tình đồng chí:

Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

3 câu thơ cuối là hình ảnh người lính trong đêm canh gác, bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng . Bức tranh có thời gian, khơng gian cụ thể. Thời gian là đêm nay, không gian là rừng hoang sương muối. Nổi bật trong khơng gian khắc nghiệt này là hình ảnh những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Từ “chờ” cho thấy tư thế sẵn sàng, tinh thần chủ động đánh giặc của những chiến sĩ. Đó là tư thế đẹp thể hiện phẩm chất cao đẹp của người lính Cụ Hồ. Thật tuyệt vời, trong phiên canh gác những người lính ln sát cánh bên nhau. Sức mạnh của tình đồng đội đa giúp họ vượt qua tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình đồng chí đã thành ngọn lửa sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang sương muối giá buốt nơi chiến trường. Tầm vóc của những người lính bỗng trở nên lớn lao, anh hùng.

Câu thơ cuối vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa biểu tượng, là hình ảnh đẹp được nhậnra từ những đêm hành quân phục kích giặc của những người lính. Người chiến sĩ trên đườngra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

đơng "rừng hoang sương muối" thì có "đầu súng trăng treo", cảnh vừa thực vừa mộng, vềkhuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang “treo” vào đầu súng, vầng trăng là biểutượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh."Đầu súng trăng treo" là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộđội vẫn u đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nướcthanh bình. Hình ảnh ấy cịn gợi ra những liên tưởng phong phú: Súng và trăng là gần vàxa; thực tại và mơ mộng; chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ. Cac mặt đó bổsung cho nhau, hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Xa hơn nữa đó cũngcó thể xem là biểu tượng cho thơ ca kháng chiến; nền thơ kết hợp giữa hiện thực và lãngmạn. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến hình ảnh súng trongthơ Quang Dũng:

“Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”

Mỗi nhà thơ cảm nhận một vẻ khác nhau. Về hình ảnh thơ này Chính Hữu đã từng nói:“ngồi hình ảnh 4 chữ này cịn có nhịp điệu như nhịp lắc của 1 cái gì lơ lửng, chơng chênhtrong sự bát ngát. Nó nói lên 1 cái gì lơ lửng ở rất xa chứ khơng phải là buộc chặt”. 1 cảmnhận thật tuyệt vời. Chính vì ý nghĩa biểu tượng đẹp và khái quát ấy tác giả đã lấy câu thơlàm nhan đề cho cả tập thơ cuả mình.

 <b>Đánh giá: </b>Bài thơ Đồng chí vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của những người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến

chống Pháp.Với thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức gợi cảm, ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca daođược Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ để r[ì qua đó ta hiểu rõ cơ sở và những biểu hiện tình cảm của tình đồng chí, đồng đội. Tình cảm ấy tự nhiên, giản dị mà sâu sắc thiêng liêng. Nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng. Cùng với bài “Nhớ” của Hồng Nguyên; “Tây Tiến” của Quang Dũng bài thơ “Đồng Chí” đã góp phần tơ đậm bức chân dung của người lính trong buổi đầu chống Pháp và làm sống động đề tài người lính trong chiến tranh.

<b>* Kết bài: </b>Đồng chí là bài thơ hay, độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nơng dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bằng hững hình ảnh chân thực Chính Hữu đã khắc họa thành công gương mặt những chiến sĩ vệ quốc một thời. Hội tụ trong họ là những phẩm chất cao đẹp. Tình đồng chí của họ thật thiêng liêng,nó kết thành sức mạnh giupa những chàng trai “áo rách, chân khơng giày” đánh tan giặc Pháp. Hình ảnh những người lính thật anh dũng, lớn lao. Chính Hữu đã khắc tạc bức

tượng đài về người chiến sĩ thật tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<b>Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật.I. Tác giả, tác phẩm (SGK)</b>

<b>II.Phân tích</b>

<small>1.</small> <b>Mở bài: Phạm Tiến Duật là 1 trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm </b>

kháng chiến chống Mĩ. Bản thân nhà thơ la anh bộ đội Trường Sơn nên tác giả hiểu rất rõ cuộc sống cũng như tâm tình của người lính. Bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” được viết vào năm 1969 - khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bon đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược Trường Sơn. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày. Những đoàn xe vận tải quân sự vẫn nối đi nhau đi lên phía trước. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đánh Mỹ.

<small></small> <b>Khái quát: Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những chiến sĩ lái xe trên đường Trường </b>

Sơn đã đi vào văn học với tư cách là những anh hùng. “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay,độc đáo viết về những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn. Phát hiện được đề tài, nhà thơ đã khai thác mọi khía cạnh bất ngờ và thú vị. Giọng điệu thay đổi thích hợp, nhịp điệu ln ln biến hóa. Hình ảnh người chiếnsĩ lái xe vì miền Nam phía trước được khắc họa đậm nét, sinh động, nổi bật được cốt cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

hủy những chiếc xe khiến chúng trở nên hư hại nhưng chiến tranh không thể lay chuyển được tinh thần của những chiến sĩ lái xe.

Ung dung buồng lái ta ngồiNhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Phép đảo trật từ từ, từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu vừa có ý nghĩa gợi hình, gợi tả thái độ vừa làm nổi bật tư thế ung dung , tự tin, hiên ngang, dũng cảm của người chiến sĩ lái xe. Câu thơ toát lên sự nhịp nhàng, thăng bằng của chiếc xe đang bon bon trên tuyến đường Trường Sơn và thái độ ngoan cường của những người lính trẻ. Nó đãkhắc sâu vào tâm khảm mỗi người về hình tượng người lính

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nướcMà lịng phơi phới dậy tương lai”

Một vẻ đẹp sáng ngời tỏa ra từ tâm hồn. Mặc cho chiếc xe khơng có kính các anh vẫn cầm chắc vơ lăng, phóng tầm mắt “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Điệp từ “ nhìn” đượcnhắc lại 3 lần nhấn mạnh tinh thần tập trung cao độ của các chiến sĩ lái xe. Họ chủ động quan sát đường đi và xung quanh. Hay nhất là ánh mắt “nhìn thẳng”. Đó là cái nhìn tự tin, nhìn thẳng về phía trước, nhìn thẳng vào gian khổ không hề run sợ, né tránh. Từ ánh mắt nhìn của các chiến sĩ chúng ta cịn hình dung địa hình xe chạy. Có những lúc xe chạy trên đường bằng, có những lúc lên dốc xuống đèo cheo leo nguy hiểm. Dù thế các anh vẫn dũng cảm, đĩnh đạc, ung dung.

<b>Khổ 2 Phạm Tiến Duật đã dành trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ lái xe </b>

"nhìn thấy" và những cảm giác, ấn tượng khi họ ngồi lái những chiếc xe khơng kính. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chimNhư sa, như ùa vào buồng lái.

Ngồi lái những chiếc xe khơng có kính chắn gió người lái và cảnh vật dường như khơng có gì ngăn cách. Gió thổi, cánh chim chiều và cả ánh sao đêm như ùa vào buồng lái. Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng: "gió vào xoa mắt đắng” tạo cho giọng thơ hóm hỉnh đồng thời thấy rõ thái độ bình thản của những chiến sĩlái xe khi đón nhận thử thách. Vì xe khơng có kính, gió tạt vào khoang lái khiến mắt các chiến sĩ đắng cay. “Mắt đắng” vì gió xoa, mắt đắng cịn là vì thiếu ngủ. Nhiều khi các chiến sĩ phải lái thâu ngày thâu đêm, quả là gian khổ. Trên những chiếc xe khơng kính người chiến sĩ cịn nhìn thấy những con đường như đang chạy thẳng vào tim. Một cảm giác rất thực. Qua cảm nhận ấy chúng ta hình dung những chiếc xe với tốc độ rất cao đang lao nhanh về phía trước. “ con đường” ở đây mang hàm nghĩa, nó cịn là con đườngcách mạng, con đường chiến đấu chính nghĩa vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập tự do của đất nước và dân tộc, con đường của trái tim. Điệp từ “nhìn thấy” cộng với phép liệt kê các hình ảnh “gió; con đường; sao trời; cánh chim” cho chúng ta hình dung khi lái những chiếc xe khơng kính các chiến sĩ dễ dàng tiếp xúc và quan sát thiên nhiên bên ngoài. Các động từ “sa; ùa, đột ngột” cùng với nhịp thơ nhanh mạnh đã góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự đang lướt nhanh trong bom đạn, qua đó chúng ta

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

cảm nhận được cảm giác mạnh mà các chiến sĩ lái xe đang trải qua khi ngồi lái những chiếc xe khơng kính.

 <b>Khổ 3: Những gian khổ, những thử thách mà các chiến sĩ lái xe khơng kính phải đốimặt.</b>

<b>Những người lính trẻ rất yêu đời lạc quan, bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ.</b>

Tinh thần tuyệt vời ấy được Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực,giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc:

Khơng có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!

Nếu khổ thơ trên là "gió" thì khổ thơ tiếp theo là "bụi". Trên những chiếc xe khơng kính, bụiđường Trường Sơn tạt vào khoang lái khiến mái tóc xanh của các chàng trai qua mấy dặm trường có sự đổi thay đáng kinh ngạc: "Bụi phun tóc trắng như người già". Phép so sánh cụ thể, chân thực ,độc đáo và dí dỏm cùng với động từ “phun” giúp chúng ta hình dung rất rõ những gian khổ, khó khăn mà người lính lái xe khơng kính phải chịu đựng. Đầu bạc trắng vì bụi đường Trường Sơn, mặt “lấm lem” nhưng “ chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc”. Taấn tượng với hình ảnh người lính hút thuốc “phì phèo” – 1 kiểu hút thuốc rất lính thể hiện sựtrẻ trung, yêu đời phơi phới của các chiến sĩ. Khơng chỉ có thế ta cịn cảm nhận được tinh thần lạc quan, vơ tư, phớt tỉnh của các anh qua giọng “cười ha ha”, một nụ cười yêu đời, tự nhiên, sảng khoái. Cái cười này khác với cái cười “buốt giá” trong bài thơ “Đồng chí”, đây là nụ cười ngạo nghễ của những con người tràn đầy niềm tin chiến thắng. Nụ cười rất đặc trưng của những chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ.

“Ơi đất anh hùng dễ mấy mươiChìm trong khói lửa vẫn xanh tươiMưa bom, bão đạn lịng thanh thảnNhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười”.

(“Theo chân Bác”- Tố Hữu)

Trong khổ thơ, các cụm từ “ừ thì; chưa cần rửa; phì phèo; cười ha ha” đã góp phần tạo chogiọng thơ ngang tàng, dí dỏm, trẻ trung, tơ đậm thái độ coi thường hiểm nguy, bất chấp giankhổ của những người lính l xe Trường Sơn. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp, thật đángkhâm phục và ngợi ca.

 <b>Khổ 4: Những gian khổ, những thử thách mà các chiến sĩ lái xe khơng kính phải đối mặt.</b>

Khổ 4 với những câu thơ đậm chất văn xi, mộc mạc như lời nói thường ngày, giọngđiệu đùa vui hóm hỉnh pha chút ngang tàng, tác giả tiếp tục làm nổi bật những thử thách,những gian khổ mà những chiến sĩ lái xe khơng kính phaỉ đối mặt.

Khơng có kính, ừ thì ướt áo

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!

Lái xe ngày nắng ngập trong bụi, ngày mưa thì buồng lái ướt như ở ngồi trời “mưa tn,mưa xối như ngồi trời”.Các động từ “tn; xối” giúp ta hình dung rõ gian khổ mà ngườilính lái xe khơng kính phải nếm trải. Thế là các anh nếm trải đủ mùi gian khổ( gió, bụi,mưa...).Cụm từ “ừ thì”được lặp lại có giọng điệu như 1 thách thức thể hiện thái độ chấpnhận của người chiến sĩ lái xe. Họ chấp nhận mọi khó khăn gian khổ như 1 tất yếu . Giankhổ chồng chất nhưng các chiến sĩ lái xe khơng kính vẫn bình thản, phơi phới, lạc quan “chưa cần rửa lái trăm cây số nữa”. Quả là 1 sự bình thản đạt tới mức vơ tư lự. Đối mặt vớigian khổ và hiểm nguy nhưng các chiến sĩ khơng lùi bước. Lịng nhiệt tình cách mạng củacác anh càng được dâng cao, nó được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”.Trên cung đường ấy các anh tiếp tục phải đối mặt với bao gian khổ, hiểm nguy, có khi phảitrẩ giá bằng cả xương máu và tính mạng nhưng các anh vẫn phơi phới, thênh thênh đầy nghịlực. Câu thơ cuối khổ “ mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi” đã tô đậm tinh thần lạc quan, coithường gian khổ của những người lính lái xe Trường Sơn. Đó cũng chính là hình ảnh củangười chiến sĩ Giải phóng qn thời chống Mĩ .Tinh thần của họ thật đáng trân trọng, khâmphục. Nhà thơ Dương Hương Ly đã từng ca ngợi:

<i>“Cuộc đời vẫn đẹp saoTình yêu vẫn đẹp saoDù đạn bom man rợ thét gào</i>

<i>Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích”</i>

 <b>Khổ 5,6: Tình đồng đội của những người chiến sĩ lái xe khơng kính.</b>

Sau bao ngày gió bụi vượt nắng, vượt mưa qua hàng trăm cây số sau những tháng ngàygian khổ, những người lính trẻ đã có cuộc gặp mặt giữa rừng Trường Sơn đầy khốc liệt.Những cuộc gặp gỡ, những cái bắt tay đầy độc đáo:

Những chiếc xe từ trong bom rơiĐã về đây họp thành tiểu độiGặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

Trong gian lao thử thách, tình đồng chí, đồng đội càng trở nên thiêng liêng, máu thịt. Bằng hình ảnh thơ chân thực, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị khổ thơ 5,6 đã ghi lại hình ảnhtiểu đội xe khơng kính và cuộc trú qn giữa rừng của những chiến sĩ lái xe. Hình ảnh những chiếc xe từ trong bom rơi đã gợi lên khơng khí một thời bom đạn,khói lửa ác liệt. Đồng thời cho ta hình dung những chiếc xe gan góc, kiên cường qua bao thử thách, gian

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

lao hội tụ về để thành tiểu đội xe khơng kính. Từ tiểu đội xe khơng kính tác giả muốn nóitới tiểu đội của những người lính lái xe. Họ đã phải trải qua bao gian nan nguy hiểm và họ tập hợp thành bạn bè, đồng chí, đồng đội. Sau những chặng đường gian khổ và có khingay cả trên tuyến đường họ đã gặp nhau và giành tình cảm cho nhau:

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Vì xe khơng có kính nên khi gặp nhau các anh dễ dàng trao cho nhau những cái bắttay. Ta thấy ở họ sáng ngời tình đồng đội. Tình cảm cao đẹp ấy đã góp phần tạo nên chiếnthắng. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Chính Hữu trong bài “ Đồng chí” ơngcũng đã phát hiện cái nắm tay chan chứa tình đồng đội của người lính.

<i>“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.</i>

Cịn Phạm Tiến Duật, cái bắt tay có nét mới hơn: độc đáo, tự hào, sảng khoái, thú vị bởi. Cái thiếu thốn của xe lúc này lại trở thành tiện lợi của các anh. Khi xe khơng có kính các anh dễ dàng trao cho nhau cái bắt tay. Bắt tay để chào nhau, để chia sẻ, tiếp thêm cho nhau sức mạnh, nghị lực và lòng quyết tâm chiến đấu. Trong niềm vui gặp gỡ cũng có nhiều mất mát hi sinh. Sau cái bắt tay ấy các anh lại tiếp tục đi xa, đi sâu hơn vào chiến trường để thực hiện nhiệm vụ của mình.

Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắmthiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm trong cuộc chiến:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Sau những chuyến đi là bữa cơm hội ngộ. Bữa cơm nấu vội giữa trời đất bao la của núi rừngTrừơng Sơn cho ta cảm nhận sâu sắc tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những ngườilính. Sinh hoạt có tính chất tạm nhưng các anh gắn bó với nhau như gia đình. Tình đồng độicũng là tình anh em gia đình ruột thịt. Có tình cảm nào thiêng liêng hơn tình cảm gia đình?Chính tình cảm ấy đã sưởi ấm lòng các chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn các anh. Đọc đoạn

<i><b>thơ, khiến ta nhớ đến 3 nữ thanh niên xung phong trong truyện ngắn “Những ngơi sao xa</b></i>

<i>xơi” của Lê Minh Kh. Tình đồng đội của họ gắn bó, keo sơn, thắm thiết hơn cả tình chị</i>

em ruột thịt. Ta cũng nhớ đến các cơ gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từmột người mẹ. Sống và chết cũng khơng lìa xa.

<i>Cúc ơi! Em ở đâu?...…Gọi em,</i>

<i>Gào emKhản cổ cả rồi</i>

<i>Cúc ơi!”</i>

( trích bài thơ “Cúc ơi” - Yến Thanh)

Sau những giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi , ngả mình trên chiếc võng dã chiến mắc “chơng chênh” đồn xe lại tiếp tục lên đường

“lại đi, lại đi, trời xanh thêm”.

Câu thơ với nhiều thanh bằng kết hợp với điệp từ “lại đi” tạo âm điệu nhẹ nhàng, gợi chúng ta hình dung đồn xe thanh thản tiến về phía trước không chút do dự, không sợ hiểm nguy. Hướng đi của họ với mang muốn sẽ thấy “trời xanh thêm”.”Trời xanh thêm”là hình ảnh ẩn dụ đẹp, ngầm chỉ 1 cuộc sống bình yên, tươi sáng với chiến thắng vẻ vang. Với ý

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nghĩa đó ta hiểu rằng trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sĩ lái xe luôn chan chứa hi vọng, dạt dào niềm tin. Họ tin một ngày mai chiến thắng. Tấm lòng của các anh thật đáng trân trọng biết bao.

 <b>Khổ cuối: Hình ảnh những chiếc xe khơng kính và tinh thần yêu nước của những chiến sĩ lái xe.</b>

Khổ cuối bài thơ làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh. Chất hiện thực và lãng mạn hòa quyện với nhau đã làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe khơng kính và ý chí tinh thần chiến đấu kiên cường của những người chiến sĩ lái xe.

"Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn Khơng có mui xe, thùng xe có xướcXe vẫn chạy vì miền Nam phía trước; Chỉ cần trong xe có một trái tim

Hai câu đầu với biện pháp liệt kê kết hợp với điệp ngữ “khơng có”giúp ta hình dung rõ hơn hình ảnh những chiếc xe khơng kính. Đến lúc này, chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích. Nó bị hư hại nhiều hơn, trở nên trần trụi, biến dạng,méo mó. Xe khơng chỉ khơng có kính mà cịn khơng có đèn, khơng có mui và thùng xe có xước. Ởđây có sự đối lập giữa cái khơng và cái có. Có 3 cái khơng” khơng kính, khơng đèn, khơng mui” chỉ có 1 cái có “thùng xe có xước” nhưng cái có này là cái có của sự hư hại. Quả là sự đối lập đầy kịch tính, bất ngờ và thú vị, nó tô đậm cái riêng của Phạm Tiến Duật. Chứng kiến những chiếc xe ta hiểu rõ hơn sự dữ dội, khốc liệt của chiến tranh ngảycàng gia tăng. Xe đầy thương tích nhưng những chiếc xe vẫn như những dũng sĩ kiên cường, vẫn bon bon trên tuyến đường Trường Sơn

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước; Chỉ cần trong xe có một trái tim

Ở đây có sự đối lập giữa tình trạng hư hỏng của xe với hoạt động không ngừng của xe. Điều đó đã tơ đậm tinh thần bất khuất của những chiến sĩ lái xe. Tất cả khó khăn, thách thức với các anh chẳng là gì. Trên con đường ra trận dù bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, khơng đèn, khơng mui, dù đường ra trận có khi đồng nghĩa với cái chết nhưng các anh vẫn ln cảm thấy bình n vì trong xe có “một trái tim”. Hình ảnh trái tim là hình ảnh hốn dụ, nó chỉ hững chiến sĩ lái xe với tư thế tự tin, ung dung , hiên ngang, dũng cảm, tinh thần vượt khó tuyệt vời, lịng lạc quan phơi phới, lịng u nước nồng nàn, ý chí chiến đấu bền bỉ vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Có trái tim chiếc xetrở thành 1 cơ thể sống, thành 1 khối thống nhất với chiến sĩ lái xe. Hình ảnh thơ thật đẹpcó tác dụng làm sáng tỏ chủ đề và tơn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng. Xe có thể thiếu nhiều thứ nhưng không thể thiếu được “trái tim” hướng về miền Nam ruột thịt. Hành trang ra trận của những người lính cần biết bao trái tim như thế. Vẫngiọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày, Phạm Tiến Duật đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe Trường Sơn trong những năm đánh Mỹ.

Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :

<i>“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khíSống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i>Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùngSức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”</i>

<i>( Tuổi 25- Tố Hữu)</i>

 <b>Đánh giá: </b>

“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật là một bài thơ hay. Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mĩ đã kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo nên những vần thơ "góc cạnh" đầy ấn tượng. Ngơn ngữ giàu tính khẩu ngữ, giọng điệu tự nhiên, khỏe khoắn tác giả đã đưa vào thơ hình tượng những chiếc xe khơng kính thật độc đáo để từđó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những chiến binh, sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm bất chấp mọi khó khăn, nguyhiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, sắn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam. Các anh là những chiến sĩ trung kiên. Hình ảnh, tâm hồn các anh như những hạt ngọc long lanh luôn ngời ngời tỏa sáng. Cùng viết về đề tài người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn , Phạm Tiến Duật cịn có rất nhiều bài thơ khác như “Lửa đèn”,

“Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”; “ Gửi em cô thanh niên xung phong”. Hay Lê Minh Khuê với “ Những ngôi sao xa xôi” cũng đã làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của những nữ thanh niên xung phong, những người lính trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ. Họ là những tấm gương tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam, những con người

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nướcMà lòng phơi phới dậy tương lai”.

 <b>KẾT BÀI: Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền </b>

thoại của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Bài thơ thật đặc biệt, có hồn. Chất hiên thực và chất anh hùng ca hòa quyện, dào dạt trong bài thơ đã tỏa sáng tâm hồn phơi phới lạc quan, lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Bài thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng.

<b>Câu hỏi: </b>

<b>? Tại sao hình ảnh chiếc xe khơng kính là hình ảnh độc đáo? </b>

Những chiếc xe khơng kính của Phạm Tiến Duật là một hình tượng thật độc đáo và mới lạ vìxưa nay những phương tiện, xe cộ, tàu thuyền khi đưa vào thơ thường được mĩ lệ hóa, thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực nhưng với Phạm Tiến Duật ông không trang điểm cho chiếc xe của mình. Chiếc xe của ơng thật đến trần trụi( xe khơng kính, khơngđèn, khơng mui, thùng xe có xước), những chiếc xe ấy vẫn lao mình trong bom đạn của chiến tranh, nó trở nên dũng mãnh, ngang tàng, trở thành 1 hiện tượng độc đáo tỏa sáng chấtthơ. Thực mà lung linh sắc màu lãng mạn.

<b>Bài: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ – Huy Cận - 1958</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

 <b>Thân bài: *Khái quát:</b>

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Với thể thơ 7 chữ, hình ảnh đẹp, tráng lệ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, cảm hứng trữ tình, nghệ thuậtđiêu luyện Huy Cận đã thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông - nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương, những conngười lao động cần cù, ngày đêm làm giàu cho đất nước.

<b>a.Hai khổ thơ đầu: </b>

<b>Khổ 1: cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi</b>

Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá được tác giả miêu tả rất độc đáo và đầyấn tượng.

Mặt trời xuống biển như hịn lửaSóng đã cài then đêm sập cửa.

Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi,Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Cảnh có thời gian và khơng gian. Khơng gian là “mặt trời xuống biển”, ứng với khơnggian đó là thời điểm lúc hồng hơn. Khung cảnh hiện lên vừa rộng lớn, vừa gần gũi với con người nhờ một liên tưởng so sánh thú vị của nhà thơ . Phép so sánh cụ thể, độc đáo “Mặt trời xuống biển như hịn lửa”, kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ tài tình: “Sóng cài then – Đêm sập cửa”, Huy Cận đã vẽ trước mắt chúng ta khung cảnh hồng hơn trên biển thật đẹp, rực rỡ, huy hồng. Trong bức tranh đó nổi bật là hình ảnh mặt trời như một quả cầu khổng lồ đang dần đi xuống lòng sâu của biển khơi. Từ cảm nhận của tác giả” Sóng cài then, đêm sập cửa” người đọc có những liên tưởng thú vị: vũ trụ bao la như một ngôi nhà lớn với màn đêm bng xuống là tấm cửa khổng lồ cịn những lượn sóng là then cửa. Từ cảm nhận ấy chúng ta thấy thiên nhiên thật gần gũi với con người, là ngôi nhà lớn của con người. Quang cảnh kết thúc kì vĩ, tráng lệ của một chu kì thiên nhiên lại là sự mở đầu ngày lao động mới của con người:

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

“ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hai câu thơ tái hiện cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Từ “lại” cho thấy công việc ra khơi đánh cá vào thời điểm này của ngư dân là công việc thường xun, liên tục. Mặt khác nó cịn gợi lên sự đối lập giữa trạng thái của thiên nhiên với hoạt động của con người: Khi thiên nhiên , vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì những ngư dân họ lại bắt đầu công việc của minh. Sự đối lập ấy vừa thể hiện sự vất vả, vừa nói lên tình u lao động của con người. Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khốt. Đồn ngư dân ào xuống, đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Khí thế của những ngư dânđươc thể hiện rõ trong câu thơ cuối khổ: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Bằng sự liên tưởng, tưởng tượng kì diệu, với bút pháp khoa trương, lãng mạn Huy Cận đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ, chân thực từ sự gắn kết 3 sự vật, hiện tượng: câu hát, cánh buồm và gió khơi. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động. Câu hát như có sức mạnh vật chất cùng với gió làm căng cánh buồm cho con thuyền lướt sóng ra khơi. Hình ảnh thơ thật đẹp, thể hiện khí thế hăng hái, sôi nổi, hào hứng, lạc quan, hăm hở của những ngư dân khi ra khơi đánh cá.

 <b>Khổ 2 là Mong ước của những ngư dân khi ra khơi đánh cá.</b>

“Hát rằng cá bạc biển Đông lặngCá thu biển Đơng như đồn thoiĐêm ngày dệt biển mn luồng sángĐến dệt lưới ta đoàn cá ơi”.

Khi ra khơi những ngư dân họ cất cao tiếng hát. Câu hát của họ vang lên thật hào hùng, lãng mạn. Hình ảnh so sánh đẹp: “Cá thu như đoàn thoi”, cộng với sự tưởng tượng kì thú: những đàn cá đơng đúc bơi ngang dọc như dệt lên muôn luồng sáng lung linh tuyệt đẹp trên biển khơi. Câu hát đã ngợi ca sự giàu có, phong phú của biển với nhiều cá quý, cá ngon.Biển cả đẹp đẽ, giàu có và thân thiết biết bao đối với con người. Qua câu hát ngư dân đã gọi cá đến dệt lưới cho mình, thể hiện mơ ước đánh bắt được nhiều cá, thu được thành quả tốt đẹp trong chuyến ra khơi. Mong ước của họ thật giản dị, chính đáng, họ mong trời yên biển lặng, sóng êm, gặp luồng cá lớn để đánh bắt được nhiều. Với giọng thơ ngọt ngào ngân dài, nhịp thơ chậm rãi góp phần tạo ra sự vang ngân của tiếng hát. Biện pháp nhân hóa “cá dệt; cá ơi” đã diễn tả sự thân thiết, gần gũi của thiên nhiên với con người. Qua đó ta hiểu được tình u thiên nhiên, sự gắn bó của thiên nhiên với con người.

<b>b. 4 khổ thơ tiếp theo: Cảnh đánh cá trên biển đêm.</b>

<b>* Khổ 3: Hình ảnh con thuyền đánh cá và tinh thần làm chủ của những ngư dân khi rakhơi đánh cá. </b>

Bằng con mắt quan sát tinh tế, cảm hứng lãng mạn tràn đầy Huy Cận đã phát hiện vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển đêm trong niềm vui khỏe khoắn, phơi phới của người lao động. Hình ảnh con thuyền đánh cá và tinh thần làm chủ của những ngư dân khi ra khơi đánh cá được Huy Cận làm nổi bật qua những lời thơ thật đẹp.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Dàn dan thế trận lưới vây giăng”

Đoàn thuyền đánh cá được đặt vào không gian rộng lớn của biển trời trăng sao đã làm tăng thêm kích thước,tầm vóc,vị thế của con người. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp khoa trương phóng đại cùng với những liên tưởng mạnh bạo bất ngờ để sáng tạo hình ảnh về người lao động . Những hình ảnh : “lái gió,buồm trăng,mây cao,biển bằng,dò bụng

biển…”đã biến con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la trở thành con thuyền kì vĩ khổng lồ,hịa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Đồn thuyền có gió làm lái có trăng làm buồm đang lướt đi giữa một khơng gian mênh mơng khống đạt bên trên là mây cao bên dưới là biển bằng hùng vĩ.

Con thuyền ở đây khác hẳn với con thuyền cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không cùng trời đất

<i>mênh mang trong bài “Tràng giang” của Huy Cận trước cách mạng: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp</i>

<i> Con thuyền xi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khơ lạc mấy dịng”. </i>

Cịn trong “ Đồn thuyền đánh cá” con thuyền khơng hề nhỏ bé, đơn độc mà lại rất lớn lao làm chủ biển cả bao la rộng lớn. Con thuyền đã hòa nhập vào thiên nhiên, trở thành một hình ảnh trung tâm vừa đẹp,vừa khỏe khoắn và thơ mộng.Ta thấy cảm hứng lãng mạng tràn đầy đã hòa nhập với cảm hứng thiên nhiên vũ trụ để dệt lên một bức tranh lao động tuyệt đẹp. Dường như con người đã đánh thức thiên nhiên vũ trụ để cùng bước vào một ngàylao động mới hứa hẹn nhiều thành công. Khác với Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên vũ trụ ở đây không đối lập với con người ,không làm cho con người nhỏ bé cô đơn mà thiên nhiên kì vĩ đã góp phần nâng cao, tơn lên vẻ đẹp và tầm vóc của con người đó chính là nét mới trong cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ của Huy Cận trong bài thơ này. Trongđoạn thơ tác giả đã sử dụng liên tiếp các động từ: “lái,lướt,đậu,dò,dàn đan,vây giăng” cộng với nhịp thơ nhanh ,mạnh ,khỏe khoắn góp phần làm nổi bật hình ảnh người lao động trong tư thế chủ động làm chủ công việc,làm chủ biển khơi. Họ “ra đậu dặm xa” chủ động dò bụng biển .Họ giăng lưới bắt cá như những người lính đang giàn quân trên mặt trận để chinhphục biển khơi .

<b>*khổ 4:vẻ đẹp lung linh kì vĩ và sự giàu có của biển đêm </b>

<b>Xen vào bức tranh lao động của những ngư dân là vẻ đẹp lộng lẫy, lung linh kì vĩ và </b>

sự giàu có của biển đêm.

Ca song lấp lánh đuốc đen hồngCái đi em quẫy trăng và chóe Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long

Bốn câu thơ có sự pha trộn giữa thực tế và ảo mộng làm cho biển đêm mang vẻ đẹp thật lãng mạng huyền ảo. Tác giả đã sử dụng phép liệt kê: “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” cho ta thấy sự phong phú giàu có của biển khơi với nhiều loại cá quý cá ngon. Đặc biệt mới là và bất ngờ là hình ảnh “Ca song lấp lánh đuốc đen hồng-Cái đuôi em quẫy trăng và chóe”.Đây là hình ảnh được sáng tạo bằng liên tưởng tượng bay bổng từ quan sát thực tế. Con cá song trên mình có những chấm đen, chấm hồng rất đẹp khiến tác giả liên tưởng đến những ngọn đuốc đen hồng lung linh trong đêm. Từ cách miêu tả ngoại hình màu sắc của cá khiên ta tưởng tượng trước mắt là một bức tranh về cá thật lộng lẫy. Bầy cá như những nàng tiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

vũ hội. Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá tung tăng bơi lượn, quẫy đi, sóng sánh ánh trăng vàng. Với cách miêu tả tài tình Huy Cận đã vẽ lên bức tranh về biển đêm thật lung linh, diễm lệ. Nhà thơ gọi cá là “em” - một tiếng gọi thân thương tình tứ. Điềuđó thể hiện sự gần gũi chan hòa giữa con người với thiên nhiên.

<i>Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả</i>

đúng như thế, mỗi lồi cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô triđược đánh bắt bởi bàn tay con người. Với những người ngư dân ở đây cá còn là bạn, là“em”, là niềm cảm hứng cho người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ chothi ca. Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhà thơ đã lắng nghêm thanh tiếng sóng vỗ rì rầm:

<i>"Đêm thở : sao lùa nước Hạ long"</i>

Phép nhân hóa “Đêm thở sao lùa” gợi cho người đọc một sự liên tưởng thú vị. Vũ trụ về đêm như một cơ thể sống khổng lồ, có âm thanh tiếng sóng là tiếng thở của màn đêm và ánh sao trên trời chiếu tỏa xuống mặt biển, những con sóng nối nhau xơ dạt vào bờ khiến tácgiả hình dung: “sao đang lùa nước Hạ Long”. Với trí tưởng tượng bay bổng tác giả đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm vẻ đẹp vốn có của biển khơi. Biển thật đẹp, nên thơ, huyền ảo.

<b>*Khổ 5: tinh thần phấn khởi hăng say của ngư dân trong khi đánh cá.</b>

Khổ 5 là tinh thần phấn khởi hăng say của ngư dân trong khi đánh cá.

<b>*Khổ 6 : cảnh kéo lưới của những ngư dân.</b>

Bóng đêm đang dần tan trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say. Ngày đang đến ,trên bầu trời ánh sao đang mờ, vào thời điểm ấy những ngư dân bắt đầu kéo lưới. Cảnh kéo

lưới được miêu tả đầy ấn tượng và rất chân thực.Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

</div>

×