Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

GIÁ TRỊ CỦA CON CÁI ĐỐI VỚI HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH: NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH() NGUYỄN NHƯ TRANG HOÀNG VĂN DŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.41 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>GIÁ TRỊ CỦA CON CÁI ĐỐI VỚI HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH:</b>

<b>NGUYỄN NHƯ TRANG<small>*</small>HỒNG VĂN DŨNG<small>**</small></b>

<i>Giá trị của con cái là một trong những thành tố trong cấu trúc hạnh phúc gia đìnhcủa người Việt. Dưới góc nhìn hạnh phúc, từ cuộc điều tra khảo sát xã hội học vềxây dựng tiêu chí gia đình hạnh phúc ở TPHCM, bài viết phân tích các giá trị củacon cái (giá trị về số con, về sự hiếu thảo và yêu thương đùm bọc nhau của các con,về việc con cái sống chung với cha mẹ khi về già) là một trong những thành tố trongcấu trúc hạnh phúc gia đình của người Việt. Giá trị của con cái cùng với những giátrị khác tạo nên hạnh phúc gia đình.</i>

<i>Từ khóa: giá trị con cái, hạnh phúc gia đình, Thành phố Hồ Chí Minh</i>

<i>Nhận bài ngày: 31/8/2022; đưa vào biên tập: 02/9/2022; phản biện: 15/9/2022; duyệtđăng: 10/10/2022</i>

<b>1. MỞ ĐẦU</b>

Giá trị con cái từ lâu đã trở thành chủđề nghiên cứu của các ngành khoa họcxã hội và nhân văn. Nó được tiếp cậnliên ngành hoặc chuyên ngành: tâm lýhọc, nhân học, văn hóa, kinh tế học,dân số học và xã hội học... Mỗi quốc gia,mỗi nền văn hóa và mỗi thời đại lịch sửcó những cách nhìn khác nhau về giá trịcon cái. Những biến đổi giá trị đứa conthường được các nhà xã hội học và dânsố học đề cập đến thông qua khái niệm“quá độ dân số” – quá trình chuyển từmức sinh cao, mức chết cao sang mứcsinh thấp, mức chết thấp, xảy ra do tácđộng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,làm thay đổi nhu cầu, động cơ sinh concủa các cặp vợ chồng. Với các xã hộichậm phát triển hoặc đang phát triển,hệ thống an sinh xã hội chưa đầy đủ,con cái là sức mạnh, nguồn của cải của

gia đình. Con cái cung cấp sức lao động,tạo thu nhập cho kinh tế gia đình, bảođảm cuộc sống của cha mẹ khi tuổi già.Ngược lại, ở những xã hội phát triển, anninh kinh tế được bảo đảm, người dânđược hưởng phúc lợi, an sinh xã hội tốt,giá trị kinh tế của con cái khơng cịnquan trọng, mà nhường chỗ cho giá trịtâm lý tình cảm.

Việt Nam là một quốc gia đang trongq trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.Những biến đổi về giá trị của con cáicũng đi theo quy luật chung của thế giới,nhưng truyền thống văn hóa vẫn thamgia đáng kể vào nhu cầu, động cơ kếthôn và hành vi sinh đẻ của các cặp vợchồng. Trong ba thập niên gần đây, khiNhà nước triển khai chính sách hạn chếsinh đẻ thơng qua Chương trình dân số -kế hoạch hóa gia đình, đã có nhữngnghiên cứu về mức sinh và giá trị concái từ các hướng tiếp cận văn hóa vàcấu trúc xã hội. Mục tiêu của các cơngtrình khoa học này là tìm hiểu nguyên

<small>học xã hội Việt Nam.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

nhân dẫn đến mức sinh cao của các cặpvợ chồng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn,nơi các hộ gia đình sau Đổi mới (1986)trở thành đơn vị sản xuất; từ đó đề xuấtcác kiến nghị và giải pháp chính sáchnhằm giảm thiểu mức sinh theo tiêu chí“mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1-2 con”.Trên thế giới, khoa học nghiên cứu vềhạnh phúc đã có lịch sử phát triển hàngtrăm năm với một khối lượng khổng lồcác cơng trình nghiên cứu liên quan đếnmọi khía cạnh của cuộc sống. Ở ViệtNam, từ khi Chính phủ cam kết thựchiện Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên

<i>hợp quốc về Ngày Quốc tế Hạnh phúc</i>

(2012) đã bắt đầu có những nghiên cứuđầu tiên về hạnh phúc của người ViệtNam. Tại TPHCM, “xây dựng gia đìnhhạnh phúc” đã được đưa vào văn kiệnĐại hội Đảng bộ Thành phố nhiệm kỳ2020-2025 (Ban Chấp hành Đảng bộTPHCM, 2020: 219). Một trong nhữngmục tiêu của Đề án của Thành phố làhồn thiện bộ tiêu chí đánh giá gia đìnhhạnh phúc (Quyết định số 1306/QĐ-UBND) và áp dụng trong thực tiễn đờisống xã hội. Giá trị con cái khơng chỉđược nhìn nhận ở khía cạnh kinh tế vậtchất, tâm lý tình cảm, mà cịn ở cả khíacạnh đời sống tinh thần, hạnh phúc củagia đình. Trong nghiên cứu này, chúngtôi tiếp cận giá trị con cái từ góc nhìncịn ít được đề cập đến ở Việt Nam,xem con cái là một thành tố trong cấutrúc hạnh phúc gia đình của người Việt.

<b>2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨUVỀ GIÁ TRỊ CON CÁI</b>

<b>2.1. Lý thuyết “dòng chảy của cải”</b>

Phát triển từ lý thuyết lựa chọn duy lý, lýthuyết “dòng chảy của cải” (weath flows)của Caldwell (1976, 2006) giải thích động

cơ, mục đích, hành vi sinh đẻ của cáccặp vợ chồng gắn với lợi ích kinh tế doviệc sinh con mang lại. Các cặp vợ chồngmuốn có nhiều con hơn nếu con cáimang lại lợi ích an sinh nhiều hơn sovới chí phí sinh đẻ và ni con. Ngượclại, các gia đình sẽ muốn có ít con hơn,thậm chí khơng muốn có con khi chi phícho con cái lớn hơn lợi ích thu được(Nguyễn Đức Vinh, 2020). Lý thuyết nàyđề cập đến giá trị kinh tế của con cái đốivới quyết định sinh con và hạnh phúcgia đình. Cha mẹ sẽ hài lịng nếu chi phísinh con và ni con được bù đắp bằngđóng góp của con cái vào thu nhập củagia đình và bảo đảm an sinh cho chamẹ lúc tuổi già. Ngược lại, mức độ hàilòng của cha mẹ đối với con cái sẽ giảmnếu chi phí ni dạy con cái, chi phí cơhội do cha mẹ sinh con không bù đắpđược bởi sức lao động, thu nhập kinh tếvà an sinh tuổi già do con cái mang lại.

<b>2.2. Quan điểm về sự phụ thuộc lẫnnhau giữa các thế hệ</b>

Lý thuyết về giá trị đứa con do Kagitcibasi(1982) đề xuất dựa trên mối quan hệ vàsự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thế hệtrong đời sống gia đình, bao gồm cáckhía cạnh tâm lý, xã hội và văn hóa. Cụthể, các giá trị của con cái mà cha mẹmong muốn nhận được bao gồm: (1)Con cái làm hài lịng cha mẹ thơng quađóng góp sức lao động, tăng thu nhậpgia đình và bảo hiểm cha mẹ lúc tuổi già.Điều này đặc biệt cần thiết đối với cácgia đình ở khu vực nơng thơn, nơi cịnnhiều hộ nghèo, hoạt động sản xuất cònsử dụng nhiều lao động chân tay và chếđộ phúc lợi, bảo hiểm xã hội còn hạnchế; (2) Con cái góp phần nâng cao vịthế, khơng gian giao tiếp, hòa nhập xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

hội cho cha mẹ. Sinh con tạo thêm mốiquan hệ họ hàng và củng cố thêm cácquan hệ hiện tại cả bên nhà vợ và nhàchồng, khẳng định mối quan hệ cộngđồng. Con cái là biểu tượng, phươngtiện để cha mẹ được công nhận theonhiều cách. Con cái cũng giúp khẳngđịnh mức độ thành công của hôn nhân,củng cố vị thế của người phụ nữ tronggia đình; (3) Con cái là nguồn cảm xúc,làm phong phú ý nghĩa cuộc sống chamẹ, gắn kết cha mẹ - con cái về huyếtthống, gắn kết các thế hệ cả bên trongvà bên ngoài.

<b>2.3. Quan điểm chia thành các nhómgiá trị</b>

Quan điểm chia giá trị con cái thành 2nhóm: i) Các giá trị liên quan đến việccủng cố sự bền vững của hôn nhân,thỏa mãn nhu cầu tâm lý tình cảm củacha mẹ, được gọi là giá trị bên trong; ii)Các giá trị mang tính phương tiện củahôn nhân như kinh tế, lao động..., đượcgọi là giá trị bên ngồi (Vũ Tuấn Huy,

<i>2004). Trong cơng trình Gia đình và</i>

<i>biến đổi gia đình ở Việt Nam của Lê</i>

Ngọc Văn (2012: 192) đã chia giá trị concái thành bốn nhóm: i) Giá trị tâm lý -tình cảm: con cái là nhân tố tiên quyếtbảo đảm sự bền vững của hôn nhân,niềm vui và hạnh phúc của gia đình; ii)Giá trị lao động/kinh tế: con cái là lựclượng lao động của đơn vị sản xuất làhộ gia đình; iii) Giá trị an sinh: con cái lànhân tố bảo đảm an sinh cho gia đìnhvà cuộc sống của cha mẹ khi về già; iv)Giá trị tâm linh: con cái là người tiếp nốitổ tiên, kế tục dòng dõi. Tác giả cũngcho rằng, xã hội đã có nhiều thay đổinhưng giá trị truyền thống vẫn tiếp tụcđược duy trì trong gia đình hiện đại.

Trong một tập hợp các nghiên cứu mớicủa Viện Gia đình và Giới có đưa ranhững quan niệm về giá trị của con cáitrong gia đình như: con cái có tầm quantrọng trong việc gắn kết hơn nhân; quanniệm về không sinh con được chấpnhận; quan niệm con cái là phầnthưởng hơn là chi phí cơ hội; quan niệmgia đình mong muốn có con nhưngkhơng nhiều con; nhân tố hiện đại hóađang làm thay đổi dần cách nhìn nhậnvề con cái; quan điểm và thực tế số concủa gia đình phù hợp nhau; giới tínhcon cái cân bằng và giảm dần sự ưathích con trai; giá trị của con cái chuyểndịch từ giá trị kinh tế sang giá trị tâm lýtình cảm; và quan niệm về sự khác biệtgiữa con trai và con gái trong gia đình(Trần Thị Minh Thi, 2021).

<b>3. KHÁI NIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU</b>

<b>3.1. Khái niệm giá trị con cái</b>

Giá trị con cái là một thuật ngữ phái sinhtừ khái niệm giá trị trong hệ thống giá trịhơn nhân và gia đình. Nó được nhìnnhận trên các phương diện xã hội, vănhóa, sinh học thông qua quan niệm,đánh giá của cha mẹ. Theo L.W. Hoffmanvà M.L. Hoffman (1973), giá trị con cáiliên quan đến những chức năng mà concái có thể đảm nhiệm hoặc những nhucầu mà con cái có thể đáp ứng cho chamẹ trong gia đình. Kagitchibasi (1982)cho rằng các giá trị con cái mang lại chocha mẹ trong gia đình gồm ba loại: giátrị tâm lý, giá trị xã hội và giá trị kinh tế.Giá trị tâm lý là niềm vui, niềm tự hào,hạnh phúc của cha mẹ. Giá trị xã hội làviệc có con sẽ được mọi người coitrọng, nhất là khi có con trai. Giá trị kinhtế là những lợi ích con cái mang lại cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

cha mẹ như kiếm tiền đóng góp vào thunhập gia đình; ni dưỡng, chăm sóccha mẹ khi tuổi già.

Kế thừa khái niệm giá trị con cái màL.W. Hoffman - M.L. Hoffman vàKagitchibasi đề xuất, giá trị con cái đềcập trong bài viết này tiếp tục là nhữngtiêu chí về con cái, mà giá trị của nhữngtiêu chí này có tầm quan trọng và ýnghĩa đối với hạnh phúc gia đình.

<b>3.2. Khái niệm gia đình hạnh phúc</b>

Hạnh phúc là một khái niệm phức hợpvà “mờ“ (fuzzy), nghĩa là không thể xemxét hạnh phúc từ một mức độ và đưa ramột định nghĩa duy nhất chính xác vềhạnh phúc. Tuy nhiên, những thành tựugần đây, đặc biệt là những thành tựutrong nghiên cứu định lượng về hạnhphúc (Helliwell, 2015; OECD, 2013) đãchứng minh rằng, mặc dù hạnh phúc làmột khái niệm mờ, là cảm nhận chủquan, nhưng nó phản ánh một trạng tháikhách quan “rõ ràng” thuộc nội tâm củacon người. Chẳng hạn, các nhà khoahọc đã phát hiện thấy những mối liên hệchính xác giữa những cấp độ cảm nhậnchủ quan về hạnh phúc với các trạngthái khách quan tương ứng của não bộ(Layard, 2008).

Trong cơng trình nghiên cứu của cáctác giả phương Tây, hạnh phúc thườngđược giải thích là sự thỏa mãn nhu cầucá nhân trong bối cảnh xã hội cụ thể,bao gồm các nhu cầu về vật chất, tinhthần, môi trường tự nhiên và xã hội…Hạnh phúc là mức độ một người đánhgiá tổng thể về chất lượng cuộc sốnghiện tại của mình, hay nói khác đi làmức độ người đó hài lịng về cuộc sốngcủa mình (OECD, 2013). Khái niệm “hàilịng với cuộc sống” (life satisfaction) có

ý nghĩa tương tự và thường được sửdụng như khái niệm “hạnh phúc”.

Căn cứ vào khái niệm “hạnh phúc”được định nghĩa, “gia đình hạnh phúc”phái sinh từ khái niệm “hạnh phúc”được hiểu là mức độ hài lịng của mộtgia đình về cuộc sống xét trên tổng thể,trong một bối cảnh xã hội cụ thể, vàomột thời điểm cụ thể. Giá trị con cái đốivới hạnh phúc gia đình trong bài viếtnày là các giá trị về số con, về sự hiếuthảo của con cái, về sự yêu thươngđùm bọc giữa các con, và sự sốngchung của con cái với cha mẹ khi về già.

<b>3.3. Phương pháp chọn mẫu khảo sátvà đặc điểm nhân khẩu xã hội củamẫu</b>

Nghiên cứu khảo sát 800 hộ gia đình tại5 quận/huyện của TPHCM trong khnkhổ đề tài “Xây dựng tiêu chí gia đìnhhạnh phúc ở TPHCM hiện nay”<small>(1)</small> năm2020.

Để đảm bảo tính đại diện, khách quanvà độ tin cậy cao của mẫu<small>(2)</small>nghiên cứu,chúng tôi kết hợp thực hiện nhiềuphương pháp chọn mẫu khác nhautrong chọn quận/huyện, xã/phường, tổdân phố/thơn đến việc chọn hộ gia đìnhđể thực hiện cuộc điều tra khảo sát. Tạimỗi quận/huyện chọn ngẫu nhiên 1phường/xã. Ước tính tỷ lệ hộ khơng thểtiếp cận phỏng vấn là 20%. Như vậy, sốhộ chọn đưa vào danh sách phỏng vấntại mỗi xã/phường là:

800 hộ / (1- 0,2) /5 quận, 1 phường =200 hộ

Để nâng cao tính đại diện và giảm saisố, các quận/huyện được chia thành 5nhóm. Mỗi nhóm chọn ngẫu nhiên 1quận/huyện, số quận/huyện được chọnlà 5. Mỗi quận/huyện chọn ngẫu nhiên 1

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

phường/xã, số phường/xã được chọn là5. Mỗi phường/xã chọn ngẫu nhiên 4tổ/thôn, sử dụng phương pháp ngẫunhiên hệ thống để chọn ra 50 hộ. Đơn vịchọn mẫu là hộ gia đình.

Để có kết quả đại diện, chúng tơi sửdụng phương pháp gia quyền theo tỷ lệ

dân số (số hộ) của 5 quận/huyện đượcchọn. Danh sách mẫu cuối cùng đượcchọn là 1.000 hộ gia đình. Trong đó,ước tính trừ đi khoảng 200 trường hợp(tương đương 20% không thể tiếp cậnhoặc từ chối phỏng vấn), số hộ hoànthành phỏng vấn là 800 hộ.

<small>Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu xã hội của mẫu nghiên cứu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>Cao đẳng0,63,82,51,91,32,0</small>

<small>Thất nghiệp/khơng có khả năng lao</small>

<b>4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU4.1. Tầm quan trọng của con cái</b>

Giá trị con cái trong các nghiên cứu từtrước đến nay về hơn nhân gia đìnhthường được hiểu là cầu nối gắn kếtcha mẹ với nhau, là chỗ dựa về tinhthần, là chỗ dựa về vật chất, là sự kếtục của cha mẹ trong tương lai. Giá trịcon cái còn được coi là biến số trungtâm ở cấp độ cá nhân. Tuy nhiên biếnsố này không phải là biến số bất biếnmà biến thiên theo những thay đổi của

xã hội mà đặc biệt là sự thay đổi củavăn hóa (Nauck, 2005). Ngày nay xã hộiphát triển, nền kinh tế có những thay đổinhất định làm cho đời sống của các giađình tốt hơn trước. Lý thuyết dịng chảycủa cải có xu hướng phù hợp với xã hộitruyền thống, coi trọng và đề cao giá trịkinh tế mà con cái mang lại cho cha mẹ.Tuy nhiên xã hội càng phát triển thì giátrị kinh tế của con cái càng giảm trongkhi giá trị tâm lý ngày càng trở nên quantrọng hơn. Nghiên cứu của Kagitchibasivà Atace đã chỉ ra sự suy giảm của giátrị kinh tế mà con cái mang lại cho giađình khơng đồng nghĩa với sự suy giảmgiá trị tổng thể của con cái (Kagitchibasiand Atace, 2005). Trong nghiên cứu xâydựng tiêu chí đánh giá gia đình hạnhphúc ở TPHCM, vị trí của giá trị kinh tếmà con cái mang lại cho gia đình cũngcó sự thay đổi. Kết quả khảo sát tầmquan trọng của con cái đối với hạnhphúc gia đình thơng qua các giá trị chothấy giá trị tinh thần mà con cái mangđến cho cha mẹ có tỷ lệ lựa chọn caonhất với 84,2%. Trong khi đó giá trị về

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

vật chất xếp thứ 3 thay vì ở vị trí quantrọng như vốn có (Biểu đồ 1).

<small>Biểu đồ 1. Tầm quan trọng của con cái đối vớihạnh phúc gia đình</small>

<small>Tỷ lệ %</small>

<small>Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài “Xây dựngtiêu chí gia đình hạnh phúc ở TPHCM hiệnnay”, tháng 5 năm 2020.</small>

Như vậy, sự đồng nhất trong các nghiêncứu quốc tế cũng như ở Việt Namkhông chỉ nhấn mạnh tầm quan trọngcủa con cái đối với cha mẹ và đối vớihạnh phúc của gia đình, mà cịn chỉ raxu hướng thay đổi giá trị, đề cao giá trịtinh thần tâm lý tình cảm hơn các giá trịvề vật chất. Giá trị về số con, về sự hiếuthảo, sự yêu thương và

đùm bọc lẫn nhau giữacác con tiếp tục đượcphân tích ở phần tiếp theo.

<b>4.2. Giá trị về số con</b>

Kết quả khảo sát đã chỉ rakinh tế là yếu tố quantrọng ảnh hưởng trực tiếpđến hạnh phúc của giađình. Trong ba lĩnh vựccủa bộ tiêu chí gia đìnhhạnh phúc: i) lĩnh vực đờisống kinh tế vật chất vàthể chất; ii) lĩnh vực cácmối quan hệ gia đình và

xã hội; iii) lĩnh vực đời sống văn hóatinh thần của gia đình, thì lĩnh vực kinhtế đạt điểm hài lòng thấp nhất. Kết quảkhảo sát cũng xác định giá trị về số conlà một trong những tiêu chí quan trọngđánh giá mức độ hạnh phúc của giađình. Vậy liệu mức sống có liên quannhư thế nào đến số con của mỗi giađình? Đây là cơ sở để chúng tôi tiếp tụcxem xét giá trị về số con đối với hạnhphúc gia đình bằng cách phân tíchtương quan giữa số con mong muốnvới tình trạng mức sống của hộ gia đình.Mặc dù các gia đình ở những mức sốngkhác nhau nhưng phần lớn đều muốnsinh 2 con với tỷ lệ chung là 68,5%(Biểu đồ 2). Điểm đáng chú ý là tỷ lệ giađình muốn sinh từ 3 con trở lên chiếmhơn 1/5 mẫu khảo sát với 20,9%. Nhưvậy là mơ hình gia đình 2 con vẫn là mơhình mà nhiều gia đình mong muốn,phù hợp với chính sách dân số củaĐảng và Nhà nước trong suốt nhữngnăm qua. Phân tích cũng cho thấy sốgia đình muốn sinh 1 con có tỷ lệ nghịchvới mức sống, cụ thể gia đình có mức<small>Biểu đồ 2. Số con mong muốn của các gia đìnhTỷ lệ %</small>

<small>Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài “Xây dựng tiêu chí gia đìnhhạnh phúc ở TPHCM hiện nay”, tháng 5 năm 2020.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

sống càng cao thì tỷ lệ muốn sinh 1 concàng thấp (mức sống dưới trung bình13%; mức sống trung bình 8%; mứcsống trên trung bình 5,1%). Điều này cóthể hiểu rằng khi mức sống càng tăngthì xu hướng tận hưởng cuộc sống vớicác giá trị về đời sống tinh thần càngngày càng được các gia đình chú trọnghơn thay vì tập trung vào việc sinh con.Kết quả từ khảo sát định tính cho thấyrõ hơn:

“Thực ra nếu nói đúng trong tâm thì việccó nhiều con sẽ làm mình hạnh phúchơn, con cháu đủ đầy và có cuộc sốngtốt thì ai cũng mong muốn. Nhưng kinhtế thì cũng có giới hạn của nó nên mìnhchấp nhận có ít con để tận hưởng cuộcsống thay vì lại vất vả việc sinh nở vànuôi nấng” (PVS, nữ 42 tuổi, kinh doanh,mức sống trên trung bình).

TPHCM là địa phương có mức sinhthấp nhất cả nước. Số con của một phụnữ tại Thành phố thấp hơn mức trungbình của cả nước và vùng Đông NamBộ, đặc biệt mức chênh lệch với cảnước là rất lớn. Cả nước có mức sinhtrung bình là 2,09, trong khi tại TPHCMchỉ là 1,39 (Tổng cục Thống kê, 2019).Số con mong muốn nhằm đảm bảohạnh phúc gia đình như phân tích ở trêncao hơn số con thực tế mà các gia đìnhhiện có. Như vậy là vẫn còn khoảngtrống giữa số con thực tế và số conmong muốn. Và có thể khẳng định,hạnh phúc gia đình thực sự viên mãnkhi khoảng trống này được lấp đầy.

<b>4.3. Giá trị về sự sống chung của concái với cha mẹ khi về già</b>

Trong bối cảnh xã hội phát triển và cónhiều thay đổi, các giá trị cá nhân đượcđề cao, con cái cũng có xu hướng muốn

tách ra ở riêng khi trưởng thành thay vìsống cùng cha mẹ trong đời sốngtruyền thống. Tuy nhiên khi phân tích hệsố tương quan của chỉ báo con cái sốngchung với cha mẹ già với điểm số hạnhphúc trong cùng lĩnh vực cho kết quảkhác với thực tế chúng ta thấy (Bảng 2).Hệ số tương quan hạng Spearman(Spearman rank-order correlation coefficient)dùng để đo lường mối liên kết giữa haibiến trên thang đo thứ tự/xếp hạng. Hệsố tương quan có giá trị tuyệt đối cànglớn thì mối tương quan càng mạnh.<small>Bảng 2. Hệ số tương quan (Spearman) vớiđiểm hạnh phúc của lĩnh vực đời sống tinhthần</small>

<small>Các giá trị/Chỉ báo</small> <sup>Hệ số tương</sup><sub>quan*</sub><small>Con cái sống chung với cha</small>

<small>Việc sum họp, đoàn tụ của gia</small>

<small>Thời gian nghỉ ngời, thư giãn-0.233</small>

<small>Việc học hành và sự hiểu biết</small>

<small>của các thành viên gia đình-0.218</small>

<small>Về mồ mả/ nơi yên nghỉ của</small>

<small>* Hệ số tương quan âm (-) do thang đo nghịchNguồn: Kết quả khảo sát của đề tài “Xâydựng tiêu chí gia đình hạnh phúc ở TPHCMhiện nay”, tháng 5 năm 2020.</small>

Điểm hạnh phúc trong lĩnh vực này là7,56. Kết quả phân tích tương quan(Spearman) với điểm hạnh phúc chothấy chỉ báo con cái sống chung với chamẹ già có giá trị tuyệt đối cao nhất, cómối tương quan mạnh nhất với điểmhạnh phúc, tiệm cận nhất với điểm hạnhphúc. Như vậy có thể khẳng định nhằmđảm bảo hạnh phúc gia đình, nhất là đốivới những gia đình có bố mẹ già thì concái sống cùng là một giá trị quan trọngmà các gia đình ln mong muốn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>4.4. Giá trị về sự hiếu thảo, sự yêuthương đùm bọc nhau của các con</b>

Sự hiếu thảo của con cái với cha mẹ vàcác thành viên trong gia đình và sự đùmbọc yêu thương lẫn nhau giữa các conlà những giá trị thuộc lĩnh vực các mốiquan hệ gia đình và xã hội. Đây lànhững giá trị cốt lõi bên trong gia đình,những giá trị này nhận được sự hài lịngvới tỷ lệ lựa chọn khá cao: 88% gia đìnhhài lịng với sự hiếu thảo của con cáitrong gia đình, 88,9% hài lòng với sựyêu thương và đùm bọc lẫn nhau của

các con (Biểu đồ 3). Khi các giá trị cốtlõi bên trong nhận được sự hài lịng caocó nghĩa là các mối quan hệ bên tronggia đình chắc chắn bền chặt, sẽ là tiềnđề tốt có tính bền vững đối với hạnhphúc gia đình.

Nghiên cứu về hạnh phúc gia đìnhkhơng chỉ nghiên cứu các yếu tố mangđến hạnh phúc cho gia đình, mà cầnnghiên cứu cả những yếu tố làm cho giađình khơng hạnh phúc hoặc hạnh phúcbị giảm sút. Từ đó giúp chúng ta nhậndiện các giá trị có ý nghĩa với đời sốnggia đình. Việc nhậndiện này giúp cácgia đình chủ độngthúc đẩy các giá trịtích cực trong cuộcsống và hạn chếcác giá trị tiêu cực

hạnh phúc gia đình.Biểu đồ 4 là kết quảkhảo sát của đề tàivề các yếu tố manglại hạnh phúc và<small>Biểu đồ 3. Mức độ hài lịng của các gia đình đối với giá trị sự hiếu</small>

<small>thảo và yêu thương đùm bọc nhau của các con</small>

<small>Tỷ lệ %</small>

<small>Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài..</small>

<small>Biểu đồ 4. Các yếu tố mang lại hạnh phúc và làm giảm sút hạnh phúc (Đơn vị: %)</small>

<small>Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài “Xây dựng tiêu chí gia đình hạnh phúc ở TPHCM hiện nay”,tháng 5 năm 2020.</small>

<small>Biểu đồ 4.1. Giá trị mang lại hạnh phúc (%)</small> <sub>Biểu đồ 4.2. Giá trị làm giảm sút hạnh phúc (%)</sub>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

các yếu tố làm giảm sút hạnh phúc giađình. Chúng tơi giữ ngun giá trị sựhiếu thảo của con cái, sự yêu thươngvà đùm bọc giữa các con ở Biểu đồ 4.1và giá trị con cái hư hỏng bất hiếu, cáccon không yêu thương đùm bọc lẫnnhau trong tương quan với các giá trịkhác thuộc lĩnh vực các mối quan hệ giađình và xã hội, giúp chúng ta nhận diệnrõ hơn vị trí và tầm quan trọng của giátrị này đối với hạnh phúc gia đình.Phân tích số liệu ở bảng trên cho thấyrõ giá trị về sự hiếu thảo của con cáiđược các gia đình đề cao với 77% lựachọn và xếp thứ 2, đứng sau giá trị vợchồng yêu thương hòa thuận (87,2%).Tương tự như vậy, giá trị con cái hưhỏng bất hiếu chiếm tỷ lệ cao nhất với84,8% gia đình đồng ý và lựa chọn làgiá trị mang lại đau khổ và bất hạnh đốivới hạnh phúc gia đình. Giá trị sự yêuthương đùm bọc giữa các con và giá trịđối nghịch các con không yêu thươngđùm bọc lẫn nhau đều xếp thứ 3 trongtương quan với các giá trị khác. Nhưvậy, kết quả phân tích ở đây cho thấy rõgiá trị của sự hiếu thảo của con cái vàsự yêu thương đùm bọc lẫn nhau đượccác gia đình khẳng định là có tầm quantrọng lớn đối với hạnh phúc gia đình.Để có thêm cơ sở cho việc phân tích vànhấn mạnh ý nghĩa của giá trị con cáiđối với hạnh phúc gia đình, chúng tơitiến hành phân tích hệ số tương quanSpearman giữa điểm số hạnh phúc vớitừng giá trị. Điểm số hạnh phúc tronglĩnh vực các mối quan hệ gia đình và xãhội là 7,66. Kết quả phân tích cho thấy,các hệ số tương quan đều có ý nghĩathống kê p<0.01, trong đó hệ số tươngquan của sự hiếu thảo của các con và

sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữacác con có giá trị tuyệt đối cao nhất,được mơ tả cụ thể ở bảng sau:

<small>Bảng 3. Hệ số tương quan (Spearman) vớiđiểm hạnh phúc của lĩnh vực các mối quan hệtrong gia đình</small>

<small>Các giá trị/Chỉ báo</small> <sup>Hệ số tương</sup><sub>quan*</sub><small>Sự yêu thương, đùm bọc giữa</small>

<small>Mối quan hệ cha mẹ và con cái-0.281Sự hòa thuận giữa vợ và chồng-0.274Quan hệ với hàng xóm láng giềng-0.247</small>

<small>* Hệ số tương quan âm (-) do thang đo nghịch</small>

<small>Nguồn: Kết quả khảo sát của đề tài “Xâydựng tiêu chí gia đình hạnh phúc ở TPHCMhiện nay”, tháng 5 năm 2020.</small>

Giá trị về sự yêu thương đùm bọc giữacác con và sự hiếu thảo của các con làhai giá trị nhận được sự hài lòng caonhất (88% và 88,9%) trong tập hợp cácchỉ báo thuộc lĩnh vực các mối quan hệgia đình và xã hội. Hai giá trị này tiếptục có hệ số tương quan mạnh nhấttrong tập hợp các giá trị tạo nên hạnhphúc gia đình trong cùng lĩnh vực (-0.352 và -0.294). Các giá trị này đềuthuộc quan hệ cốt lõi bên trong gia đình,là các giá trị được xác định quan trọngvà có tính quyết định đối với hạnh phúcgia đình.

<b>5. KẾT LUẬN</b>

Hạnh phúc gia đình được thể hiện trênba lĩnh vực: lĩnh vực kinh tế, vật chất vàthể chất; lĩnh vực các mối quan hệ giađình và xã hội; lĩnh vực đời sống vănhóa tinh thần của gia đình. Trong đó cácgiá trị về con cái ở mỗi lĩnh vực lànhững thành tố quan trọng trong cấutrúc hạnh phúc gia đình của người Việt.

</div>

×