Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Giáo trình tư tưởng hồ chính minh về văn hóa và Đạo Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.72 MB, 165 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỤC LỤC</b>

1.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 61.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong sự 19

nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

<b>Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỜI SỐNG MỚI, VĂN </b> 25

3.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục 463.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong sự 61

nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

<b>Chương 4. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHĂM LO BỒI DƯỠNG </b> 68

<b>THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU</b>

4.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo 68bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

4.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế 80hệ cách mạng cho đời sau trong sự nghiệp đổi mới ở nước

6.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 1076.2. Vận dụng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong sự nghiệp 120

đổi mới ở nước ta hiện nay

7.1. Nội dung cơ bản phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh 125

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>7.2. Vận dụng phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh trong sự 137 nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay</b>

<b>8.1. Nội dung cơ bản về phong cách Hồ Chí Minh 1428.2. Vận dụng phong cách Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới 160 </b>

<b>ở nước ta hiện nay</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI NÓI ĐẦU</b>

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về văn hóa và đạo đức là một bộ phận rất quan trọng. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và đạo đức là một nội dung trong chương trình giáo dục - đào tạo của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Để đáp ứng các yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng cục Chính trị chỉ đạo biên soạn giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí M inh về văn hóa và đạo đức” (Dùng cho đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội, trình độ đại học).

Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và đạo đức” gồm 8 chương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống mới, văn nghệ, báo chí cách mạng; tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng; tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh; phong cách Hồ Chí Minh.

Việc biên soạn giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và đạo đức” nhằm đáp ứng các yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Trường Sĩ quan Chính trị, cùng với những đòi hỏi mới trong thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay. Quá trình biên soạn, các tác giả đã kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu trong và ngồi Qn đội; đồng thời nhận được sự giúp đỡ của nhiều nhà khoa học và cơ quan chuyên môn ở Nhà trường. Tuy nhiên, việc biên soạn không tránh khỏi những hạn chế cần tiếp tục được bổ sung, làm rõ, các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng chí và bạn đọc để bổ sung, hồn thiện giáo trình tốt hơn.

<i>Trân trọng cảm ơn!</i>

<b>Các tác giả</b>

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Chương 1</b>

<b>TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA</b>

<b>1.1. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa và vị trí, vai trị của văn hóa</b>

<i><b>a) Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa</b></i>

Trong mục Đọc sách ở phần cuối tập “Nhật ký trong tù” (1942 - 1943), Hồ Chí Minh nêu quan niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.

Xuất phát từ cách tiếp cận mácxít, quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh rất gần gũi với nhận thức hiện đại, khi coi văn hóa khơng chỉ đơn thuần là đời sống tinh thần của con người - xã hội, mà bản chất của văn hóa là linh hồn, là sức mạnh trường tồn của cả dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại. Văn hóa khơng phải là tồn bộ đời sống con người xã hội, mà là phần cốt tử, kết tụ nên cái bản chất, bản sắc, cốt cách của dân tộc, của thời đại. Nó được thăng hoa từ hơi thở cuộc sống, từ năng lực, trình độ và phương thức sống của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Nó hiện diện trong mọi hoạt động, từ tư duy đến hành động, từ hoạt động cá nhân đến những vận động xã hội, từ hoạt động vật chất đến những sáng tạo tinh thần, những phát minh, sáng chế tạo ra những giá trị mới của sản xuất vật chất, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, văn học - nghệ thuật...

Theo Hồ Chí Minh, văn hóa khơng chỉ là cái tạo nên tính đặc thù của dân tộc, mà còn là những giá trị nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. “Nhu cầu đời sống” của con người luôn phát triển cũng như “đòi hỏi của sự sinh tồn” của xã hội loài người ln ln nâng cao, hồn thiện. Cũng có nghĩa, nói đến văn hóa là nói đến giá trị trong lao động sáng tạo của con người trên các bình diện hoạt động nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người, hướng tới chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa khơng chỉ là nói

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 458.</small>

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

đến những giá trị tĩnh, mà còn là sự vận động, phát triển và hoàn thiện những giá trị ấy trong những điều kiện về thời gian và không gian nhất định.

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội.

<i><b>b) Vị trí, vai trị của văn hóa</b></i>

<i>Vị trí của văn hóa.</i>

Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển xã hội là sự phát triển tổng thể với những quan hệ tương tác giữa bốn mặt ấy. Vì thế, khơng thể xem nhẹ một mặt nào và cũng không được phép tách rời một trong bốn mặt đó.

Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Hồ Chí Minh cho rằng, tuy “kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được”, nhưng điều đó khơng có nghĩa là văn hóa “thụ động” chờ cho kinh tế và chính trị phát triển xong rồi mới đến lượt mình phát triển, đó là tư duy siêu hình, tách rời, biệt lập. Văn hóa có tính tích cực chủ động, đóng vai trị to lớn như một động lực thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Người khẳng định rõ: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”1.

Văn hóa ở trong chính trị nghĩa là văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn hóa ở trong kinh tế nghĩa là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng và phát triển kinh tế. Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị cịn có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hóa. Trong chiến tranh, Hồ Chí Minh nêu ra khẩu hiệu: “Văn hóa hóa kháng chiến”, tức là làm cuộc kháng chiến mang tính văn hóa sâu sắc, cuộc kháng chiến mang tính nhân văn, tiến bộ và được tiến hành bởi những con người có văn hóa, có lý tưởng cao cả, có lịng thương u con người và có trí tuệ để tiến hành cuộc kháng chiến một cách sáng tạo, hợp lý trong điều kiện của mình. Văn hóa sẽ làm nền cho chính trị trở nên nhân văn, dân chủ, tránh được sự tha hóa, biến chất. Cịn kinh tế có tính văn hóa bởi văn hóa tác động vào kinh tế, tạo nên văn hóa sản xuất đúng đắn, tơn trọng con

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 458 - 459.</small>

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

người, bảo vệ mơi trường sinh thái; tạo nên văn hóa doanh nghiệp với mối quan hệ tốt đẹp, chăm lo đời sống con người, làm tốt công tác an sinh xã hội; tạo nên văn hóa doanh nhân với sự ý thức cao về trách nhiệm công dân, tích cực đóng góp cho xã hội chứ không chỉ là sự hưởng thụ cá nhân.

<i>Vai trị của văn hóa.</i>

<i>Văn hóa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội. Mục tiêu là cái </i>

đích đặt ra cần phải đạt tới đối với một công tác, nhiệm vụ nào đó. Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xã hội nghĩa là hướng tới xây dựng một xã hội, ở đó con người có trình độ văn hóa cao, xã hội dân chủ, có điều kiện phát triển toàn diện, được thoả mãn những nhu cầu tinh thần lành mạnh. Ngay sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, thực hiện “diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Trong đó, Người coi “diệt giặc dốt” là công việc quan trọng để tạo cơ sở xây dựng chính quyền cách mạng và phát triển kinh tế.

Mục tiêu của sự nghiệp văn hóa cũng là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Hồ Chí Minh, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu này thể hiện tính chất văn hóa rõ nét. Trả lời phỏng vấn báo nước ngồi, Người nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”1. Như vậy, lý tưởng sống cho con người và vì con người là một lý tưởng sống có văn hóa. Phát triển văn hóa là nhằm hình thành các giá trị nền tảng gắn với các mục tiêu phát triển con người: Đức - Trí -Thể - Mỹ. Xây dựng hình mẫu con người có đạo đức, trí tuệ, văn hóa, sức khỏe vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Và trước lúc đi xa, Người vẫn không quên căn dặn: “ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đề hăng hái xung phong, khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”2.

Văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội. Động lực là cái thúc đẩy sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Động lực lớn nhất là động lực con người với tư cách là sản phẩm của văn hóa. Trình độ văn hóa của con người trên từng lĩnh vực tạo nên động lực phát triển ở lĩnh vực ấy. Theo Hồ Chí Minh,

<small>1, 2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 187, 622.</small>

8

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

văn hóa có vai trị soi đường cho quốc dân đi. Người nói: Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ, phải xúc tiến cơng tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Con người là sản phẩm của văn hóa mà chính xã hội ấy tạo ra. Con người là nhân tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, trong đời sống xã hội. Bởi vậy Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, xây dựng con người mới để thúc đẩy sự phát triển của sự nghiệp cách mạng. Người cho rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”1. Văn hóa thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng về kinh tế - xã hội. Hồ Chí M inh cho rằng, trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Khi trình độ hiểu biết của người dân về kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật, lịch sử, xã hội... được nâng lên thì họ sẽ càng đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước cũng như văn hóa chung của toàn xã hội. Cho nên: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân”2.

<i>Văn hóa là cầu nối giao tiếp, thúc đẩy sự hiểu biết giữa các dân tộc, các cộng đồng. Bằng sự nỗ lực hoạt động không mệt mỏi trên mặt trận văn hóa </i>

thơng qua sách, báo, tạp chí, văn, thơ,... Hồ Chí Minh đã làm cho các dân tộc hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và con đường cách mạng chân chính cần phải thực hiện, qua đó kêu gọi họ đồn kết với nhau đứng lên chống kẻ thù chung. Đây là một thứ vũ khí tư tưởng vơ cùng đắc lực của Hồ Chí Minh trong q trình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

<i>Văn hóa góp phần khắc phục, hạn chế những tiêu cực, thói h ư , tật xấu trong xã h ộ i. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có tác dụng sửa đổi tham ô, lười </i>

biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới. K inh tế thì nâng cao đời sống vật chất, còn văn hóa có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Đời sống vật chất là cơ bản và rất cần thiết, bởi con người ta muốn tồn tại thì trước hết phải có những điều kiện thiết yếu về mặc, ăn, ở... Tuy nhiên, đời sống tinh thần cũng vô cùng quan trọng, giúp làm phong phú và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Được học hành, được thưởng thức những món ăn tinh thần, được thỏa mãn nhu cầu về dân chủ, tự do, đấu tranh với thói hư tật xấu, xây dựng những phẩm chất đạo đức tốt đ ẹ p . chính là sản phẩm mà nền văn hóa mới mang lại cho con người.

<small>1, 2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 528, 371.</small>

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của văn hóa</b>

<i><b>a) Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người</b></i>

<i>Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn cho con người. Hồ Chí Minh thường xuyên </i>

quan tâm đến việc bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Theo Người, hành động anh hùng, cũng như sự nghiệp lớn chỉ có thể bắt nguồn từ mục tiêu lớn, lý tưởng lớn. Khi đã phai nhạt lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì bất cứ người nào cũng sẽ trở nên nhỏ bé, tầm thường và sẽ khơng cịn ý nghĩa trong sự vận động của lịch sử, dù đó là người đã được coi là lỗi lạc, đã từng được yêu mến quý trọng một thời.

Văn hóa phải góp phần xây đắp niềm tin tốt đẹp cho con người vào lý tưởng, vào nhân dân, vào tiền đồ của cách mạng và bản thân mình. Đây chính là sức mạnh tinh thần to lớn, giúp con người làm nên những điều kỳ diệu, mà sức m ạnh vật chất chưa chắc đã làm được. N iềm tin ấy được Hồ Chí M inh nhắc đến khi động viên toàn Đảng, toàn dân ta trong kháng chiến: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn to àn ” 1. Từ đó, xây dựng cho dân tộc ta có một niềm tin vững chắc, lan truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, lớp người này sang lớp người khác, trở thành một niềm tin sắt đá, vững bền. Niềm tin ấy giúp cả dân tộc Việt N am chiến thắng trong cuộc kháng chiến trường kỳ với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng thời, tiếp tục đồng hành cùng dân tộc Việt N am trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

<i>Bồi dưỡng tình cảm cao đẹp cho con người. Trong tư tưởng Hồ Chí </i>

Minh, nội dung bao trùm, rộng lớn nhất là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và tình cảm lớn nhất của Người là tình cảm yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức. Đây là điểm xuất phát của mọi sáng tạo, thể hiện quan điểm, triết lý sống của Người. Chính nhờ các hoạt động văn hóa mà Hồ Chí M inh mới có được lý tưởng, tình cảm cách mạng đó. Theo Hồ Chí Minh, phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình cảm lớn như lịng u nước, tình yêu thương con người, yêu cái Chân - Thiện - Mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, thủy

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 618.</small>

10

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

chung, ghét những thói hư tật xấu, những biểu hiện sa đọa, biến chất, căm thù mọi thứ giặc nội xâm ....

<i><b>b) Nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết của con người </b></i>

V.I.Lênin từng khẳng định: Người mù chữ là người đứng ngồi chính trị. Hồ Chí Minh cho rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”1; “Dốt thì dại, dại thì hèn”2. Cho nên, văn hóa ln gắn với tri thức và trình độ dân trí, khơng có văn hóa thì khơng có dân trí. Dân trí là trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân, của mỗi công dân. Những hiểu biết đó bao gồm nhiều lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, nghiệp vụ chuyên môn, khoa học kỹ thuật, lịch sử, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Xét về mặt “lượng”, dân trí theo quan niệm truyền thống là trình độ văn hóa chung của toàn xã hội, hoặc đơn giản hơn là trình độ học vấn trung bình của người dân. Đó là bao nhiêu phần trăm biết đọc, biết viết? Bao nhiêu phần trăm có trình độ học vấn cao?... Xét về mặt “chất”, dân trí là sự hiểu biết và ý thức về quyền và trách nhiệm của người dân và là lợi ích có thể mong đợi được khi thực thi quyền và trách nhiệm đó. Giá trị của dân trí cịn nằm ở mức độ quan tâm của người dân trước các vấn đề xã hội, mức độ dấn thân (muốn làm, dám làm) và khả năng hành xử trách nhiệm dân chủ của mình một cách có hiệu quả.

Văn hóa ln gắn với tri thức và trình độ dân trí. Tuy nhiên, văn hóa phải nâng cao dân trí theo từng nấc thang. Lúc đầu, nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết để xóa nạn mù chữ. Tiếp đến là từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật,... Cuối cùng, là để nhân dân có thể hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hóa, chứ khơng chỉ dừng lại ở mức tiếp nhận văn hóa. Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung và điểm riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là: “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”3. Khi đất nước giành được độc lập, Hồ Chí Minh nói: “Một trong những cơng việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”4; đồng thời kêu gọi: “Quốc dân Việt Nam! Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”5.

<small>1,4, 5 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 7, 402 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 125.3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 92.</small>

11

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>c) Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp</b></i>

<b>, </b>

<i><b>lành mạnh cho con người</b></i>

Phẩm chất thường được biểu hiện qua lối sinh hoạt, lối làm việc và cách ứng xử của con người. Phẩm chất có nhiều loại: Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ... trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức. Có phẩm chất đạo đức cách mạng nói chung và có những phẩm chất đạo đức dành cho các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người như phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy thuốc...

Về phong cách sống, văn hóa phải góp phần tạo nên phong cách giản dị, nói đi đơi với làm, nghiêm khắc với mình và độ lượng với người. Với đặc trưng có tính thẩm mỹ cao, văn hóa giúp cho con người phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển với cái lạc hậu cản trở con người và xã hội tiến lên. Từ đó, phấn đấu để làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều; đồng thời, làm cho cái lạc hậu, lỗi thời ngày càng giảm bớt, cái xấu xa, hư hỏng ngày càng bị loại bỏ khỏi đời sống con người và xã hội lồi người.

Tóm lại, sự nghiệp xây dựng văn hóa chính là sự nghiệp xây dựng con người với những phẩm chất tốt đẹp. Phải làm thế nào để cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, soi đường cho quốc dân đi. Nó phải là sự nghiệp của toàn dân, của mỗi con người nhưng lực lượng nòng cốt là những người làm cơng tác văn hóa - giáo dục.

<b>1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất của nền văn hóa mới</b>

<i><b>a) Tính dân tộc của nền văn hóa mới</b></i>

<i>Tính dân tộc là cái “cốt ”, cái tinh túy, đặc trưng của nền văn hóa mới. Nó </i>

phân biệt và khơng nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Cốt cách dân tộc là “nhất thành bất biến”, đồng thời có sự phát triển, bổ sung những tinh hoa mới trên cơ sở của sự “gạn đục khơi trong”. Tính dân tộc của văn hóa được thể hiện trước hết ở tính cách, tâm hồn con người Việt Nam, được biểu hiện qua truyền thống văn hóa, hệ giá trị, cách tư duy và hành động mang bản sắc Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động, quật cường, dũng cảm trong đấu tranh, thương người, đoàn kết,... Hệ giá trị đó sẽ được chuyển thành các chuẩn mực xã hội để định hướng cho hành động của con người và đánh giá con người, giữ cho xã hội được ổn định. Đó còn là cách tư duy và ứng xử mang bản sắc Việt Nam, như cách đánh giặc của dân tộc Việt Nam là đánh du kích, thiên la địa võng, mn hình vạn trạng; cách bày tỏ tình u thì nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị nhưng vô cùng sâu sắc. Hồ Chí Minh yêu cầu, muốn thể hiện được tính dân tộc

12

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

của văn hóa, người làm văn hóa văn nghệ phải học lịch sử, học truyền thống dân tộc: “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”1.

<i>Tính dân tộc cịn thể hiện ở hình thức và phương tiện diễn đạt. Dân tộc </i>

Việt Nam có nếp cảm, nếp nghĩ riêng, có hình thức diễn đạt đi thẳng vào lòng người, lay động sâu sắc tâm hồn người nghe. Hồ Chí Minh căn dặn .• “N hân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải học cách kể chuyện của nhân dân, nên kèm theo nhiều tranh vẽ dễ hiểu mà đẹp”2. Người cũng yêu cầu phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không được lạm dụng chữ và tiếng nước ngồi. “Tiếng nói là một thứ của rất quý báu của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó đi”3.

Văn hóa là vốn q của dân tộc nên Hồ Chí Minh ln quan tâm đến nhiệm vụ trau dồi bản sắc riêng của văn hóa dân tộc. Người nhấn mạnh, phải trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam, phải lột tả cho hết tinh thần dân tộc. Nếu dân tộc hóa mà phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó. Ngược lại, thế giới hóa văn hóa phải chú ý đến văn hóa của mình và văn hóa của mình sẽ chiếm được vị trí ngang với các nền văn hóa thế giới.

<i><b>b) Tính khoa học của nền văn hóa mới</b></i>

Tính khoa học của văn hóa là thuận chiều với các trào lưu tiến hố của tư tưởng tiến bộ vì hồ bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; nó gắn với thực tiễn và đời sống nhân dân. Hồ Chí M inh nhận xét: Tư duy nông nghiệp là một loại tư duy kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển, nên tư duy lý luận, khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa trở thành mặt chủ đạo của ý thức toàn xã hội. Trong điều kiện đó, mê tín dị đoan có đất để phát triển. Cho nên, nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân.

Tính khoa học của văn hóa địi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, như chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín, dị đoan. Khi xây dựng nền văn hóa khoa học thì phải đối xử như thế nào với các tơn giáo, tín ngưỡng - một lĩnh vực vốn rất nhạy cảm và mang bản chất là thần bí, là duy tâm. Hồ Chí Minh đã thừa nhận tính tích cực của tơn giáo là đề cao điều thiện, đức hy sinh, từ bi, bác ái; tôn trọng đức tin của nhân dân, không vì đức tin của mình mà hạ nhục đức tin của người khác. Theo Người: Tín ngưỡng của từng vùng, miền

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 255.2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 667.3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 165.</small>

13

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

có những phong tục, tập quán khác nhau. Có cái cịn tốt đẹp, có ích dụng cho đạo đức nhân gian thì chưa nên đụng chạm đến; nếu nó liên hệ đến giáo pháp thì phải linh động, uyển chuyển khai triển ra, mở rộng thêm. Có cái quá tối tăm, ngu muội thì nên nhẫn nại, nhẫn nại nhiều ngày, nhiều tháng để giáo giới họ. Giá trị nào mà đã trở thành phổ thông, đã trở thành thước đo đạo đức xã hội - thì đệ tử của Như Lai phải biết tôn trọng. Điều nào mà mọi người cười chê - thì đấy cũng được xem như cấm giới, điều luật phải thọ trì lúc ứng xử, giao tiếp ...

<i><b>c) Tính đại chúng của nền văn hóa mới</b></i>

<i>Văn hóa phải vì con người, vì nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định, văn </i>

hoá phải lấy hạnh phúc của dân tộc làm cơ sở, lấy lợi ích của nhân dân làm khuôn phép. Đối tượng phản ánh của nền văn hóa mới là quần chúng nhân dân. Trước kia trong xã hội cũ, văn hóa nghệ thuật được coi là món ăn tinh thần sang trọng, chỉ dành riêng cho một số người “ăn trên ngồi chốc”. Đó là một trong những điều bất cơng của xã hội cũ. Cịn trong thời kỳ cách mạng, văn hóa phải hướng tới đối tượng phản ánh và phục vụ là quảng đại quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó có lĩnh vực văn hóa - cách mạng văn hóa. Trong lĩnh vực văn hóa, quần chúng nhân dân có vai trò hết sức quan trọng. Quần chúng nhân dân là người sáng tác ra các sản phẩm văn hóa. Đó là kho tàng ca dao, tục ngữ, những câu hò, vè, các truyền thuyết, thần thoại còn lưu truyền đến ngày nay và khẳng định giá trị bền vững của mình. Hồ Chí Minh gọi là “những hòn ngọc quý”, vừa rất hay, lại rất ngắn chứ không “trường thiên đại hải”, “dây cà ra dây muống”. Quần chúng nhân dân là người nuôi dưỡng sáng tác bằng những nguồn nhựa sống của thực tiễn. Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa, văn nghệ. Đó là đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng của nhân dân là nguồn chất liệu khơng bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Văn nghệ có quyền hư cấu, song phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của sinh hoạt. Thực chất, quần chúng là đối tượng phản ánh, nên khi muốn có tài liệu sáng tác phải nghe đồng bào, chiến sĩ, hỏi nhân dân; phải thấy, phải xem và ghi chép đầy đ ủ .

<i>Quần chúng nhân dân đánh giá, kiểm nghiệm các tác phẩm văn hố. Vì </i>

vậy, cần phải: “Đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại. Mình đọc mấy lần rồi cũng chưa đủ. Phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh, đọc lại. Chỗ nào ngúc ngắc, chữ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải chữa lại”1. Khi viết một tác phẩm, một bài

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 208.</small>

14

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

báo, hay chuẩn bị một bài phát biểu, Hồ Chí Minh đều đọc đi đọc lại, nhờ người khác đọc và đánh dấu vào những chỗ cần sửa. Người hiểu rằng, muốn kêu gọi nhân dân làm cách mạng thì phải giúp cho họ hiểu, mà muốn họ hiểu thì phải dùng cách nói của họ, nếu nói mà họ khơng hiểu gì thì coi như là cách mạng thất bại. Cách làm này thể hiện thái độ trân trọng đối với tri thức của nhân dân và là một bài học hữu ích cho cán bộ lãnh đạo các cấp.

<i>Quần chúng nhân dân được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa. Quần </i>

chúng cần những tác phẩm hay, chân thật, hùng hồn, tạo cho họ sự đam mê, chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn. Đó là những tác phẩm hay, diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được; đồng thời, phản ánh được những giá trị truyền thống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại, vừa phải ca ngợi cái chân thật của người tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai. Văn hóa phải phục vụ nhân dân để nhân dân hưởng thụ các giá trị văn hóa. Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú; hình thức phải trong sáng, vui tươi, khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì thấy có ích. Các văn nghệ sỹ “cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thơi. Cũng như vào vườn hoa cần cho mọi người thấy được nhiều loại hoa đẹp”1.

Tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng của nền văn hóa mới có quan hệ chặt chẽ với nhau, hợp thành một chỉnh thể thống nhất, ngày càng thấm sâu vào ý thức sáng tạo của các nhà hoạt động văn hóa nước ta, giúp họ sáng tạo nên những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn hóa mới.

<b>1.1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại</b>

<i><b>a) Giữ gìn và ph át huy bản sắc văn hóa dân tộc</b></i>

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trở thành những nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân tộc và con người Việt Nam. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lịng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Đối với văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh luôn trân quý, nâng niu; giữ gìn; khai thác và phát huy, phát triển; càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin càng phải coi trọng những truyền

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 665.</small>

15

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

thống văn hóa tốt đẹp của cha ơng.

Với tinh thần u nước của nhân dân ta, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”1. Yêu nước là một sức mạnh tinh thần, nhưng phải làm sao để biến nó thành sức mạnh vật chất, thành hành động cụ thể để đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta.

Đối với phong tục tập quán của nhân dân ta, trong “Đời sống mới”, với bút danh Tân Sinh, Hồ Chí Minh viết: “Đời sống mới khơng phải cái gì cũ cũng

<i>bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta </i>

phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải

<i>giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà </i>

<i>hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp. </i>

Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới”2.

<i>Bàn về mối quan hệ giữa cái cũ - cái mới và cách giải quyết, Hồ Chí Minh </i>

khơng chỉ bó hẹp quan điểm của mình trong lĩnh vực văn hóa, phong tục tập quán mà coi đó là phương pháp luận để giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống. Bởi cái cũ thường đã quá quen rồi nên người ta cho là bình thường, cái mới vừa ra đời nên cịn lạ lẫm, hồi nghi. Cách giải quyết và ứng xử của con người trong đời sống hàng ngày ra sao cũng là một biểu hiện cụ thể của văn hóa.

Đối với ngơn ngữ dân tộc, Người yêu cầu: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà khơng dùng, lại đi mượn của nước ngồi, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao”3.

Đối với các di sản văn hóa phi vật thể và vật thể, Hồ Chí Minh ln quan tâm giữ gìn và bảo vệ. Thời gian giữ chức Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh bảo tồn các di sản văn hóa, nghiêm cấm phá hoại các di sản văn

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 37 - 38.2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 112.3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 465.</small>

16

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

hóa (văn bia, đền chùa, miếu mạo, lăng tẩm ...). Ngày 23/11/1945, trong bộn bề những khó khăn, thách thức đối với một nhà nước mới, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 65/SL “Ân định nhiệm vụ Phương Đơng Bác cổ học viện” có nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong tồn cõi Việt Nam. Trong đó, Người đã đánh giá cao vai trò của di sản văn hóa, coi việc bảo tồn cổ tích là việc cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước nhà. Sắc lệnh nêu rõ: Nghiêm cấm việc phá hủy những đình chùa, đền miếu hoặc nơi thờ tự khác, những cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tơn giáo hay khơng, có ích cho lịch sử, nhưng chưa được bảo tồn. Sắc lệnh số 65/SL tuy ngắn gọn, súc tích, nhưng phản ánh những tư tưởng, quan điểm rất cơ bản, sâu sắc, thể hiện tầm nhìn chiến lược, những quan điểm của định hướng hết sức đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước ta đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là cần thiết nhưng tránh “phục cổ” một cách máy móc. Nghĩa là, khơi phục vốn cũ, thì nên khơi phục cái gì tốt, cịn cái gì khơng tốt thì phải loại dần ra. Đồng thời, phê bình những nơi “khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần th á n h ,. quên cả sản xuất, cứ trống mõ bì bõm, ca hát lu bù”1. Bản thân Hồ Chí Minh ln đánh giá rất cao giá trị truyền thống của văn học nghệ thuật dân tộc và Người thường dẫn Chinh phụ ngâm, Kiều, những câu hị, lời ca điệu ví quen thuộc vốn rất đặc trưng, tiêu biểu cho vốn văn nghệ dân tộc như tuồng, chèo, hát ví, hốt xoan, hát d ặ m . để nhắc nhở các văn nghệ sĩ về thái độ trân trọng truyền thống văn hóa dân tộc. Theo Người, khôi phục không có nghĩa là sao chép nguyên mà phải mạnh dạn cải tiến và cải tiến khơng có nghĩa là biến cái này thành cái kia.

Tóm lại, bản sắc văn hóa dân tộc khơng phải là thứ nhất thành bất biến, mà phải có đào thải, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Giữ gìn văn hóa khơng có nghĩa là đóng cửa, khép kín với bên ngồi mà phải đi đơi với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và tẩy trừ văn hóa nơ dịch, lai căng.

<i><b>b) Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại</b></i>

Nằm ở vị trí giao cắt Đơng - Tây, Nam - Bắc, văn hóa Việt Nam đón nhận ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa lớn. Tiếp thu truyền thống tiếp biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) tài tình của ơng cha, Hồ Chí Minh khẳng định sự cần thiết phải tiếp biến văn hóa và đây là một quy luật phát triển của văn hóa Việt Nam. Trong quá trình giao lưu, hội nhập với thế giới thì cũng phải hội nhập cả

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 557.</small>

17

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

về văn hóa. Hồ Chí Minh xuất thân từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa quốc tế vô sản (trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên), sau đó lại trở về với dân tộc, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào văn hóa dân tộc, nâng văn hóa dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách toàn diện, cả cổ kim, Đông - Tây, trên tất cả các mặt: Học thuật, tư tưởng triết học, ngôn ngữ, chữ v iết... Tiêu chí tiếp thu là những cái hay, cái tốt, phù hợp với mình, nhằm mục đích làm giàu cho văn hóa dân tộc.

Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đơng phương và Tây phương. Do đó, văn hóa Tây phương hay Đơng phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ. Tư duy văn hóa Hồ Chí Minh là tư duy mở rộng để thâu hóa, nó rất xa lạ với mọi thứ kỳ thị văn hóa. Một phóng viên trên tờ báo Mỹ “Diễn đàn” đã nhận xét: “Cụ (Hồ) là một người yêu mến nền văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước của Cụ”1. Nhà báo Mỹ D.Halberstam đã nhận xét: Cụ Hồ Chí Minh chẳng những đã giải phóng đất nước mình, đã thay đổi chiều hướng chế độ thuộc địa ở châu Á và châu Phi mà Cụ còn làm được một việc đáng chú ý hơn: Cụ đã sử dụng cả nền văn hóa và tâm hồn của kẻ thù để chiến thắng.

Trong xây dựng chế độ mới, Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ của văn hóa là phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng của văn hóa đế quốc, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hấp thụ những cái đẹp của văn hóa tiến bộ trên thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Để đạt được u cầu đó, Người địi hỏi những người làm văn hóa, văn nghệ phải có kiến thức, chịu khó học hỏi. Người nói: “Phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xơ v i ế t . Phải nghiên cứu tồn diện văn hóa của các dân tộc khác, chỉ trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn văn hóa của chính mình”2.

Khi tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh yêu cầu phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: Khuyến khích các văn nghệ sĩ phải mở rộng tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới nhưng không phải cái gì của nước ngồi mình cũng tiếp thu hết mà phải tiếp thu một cách có chọn lọc, cái gì hay và phù hợp với

<small>1 Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của nhân dân Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1990, tr. 301.</small>

<small>2 Hồ Chí Minh, Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội - 1981, tr. 516.</small>

18

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

mình thì mới tiếp thu theo tinh thần “gạn đục khơi trong”; văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, cả hai đều là những giá trị trường tồn, gắn bó hữu cơ nhưng phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, giao lưu văn hóa với nước ngồi nhưng khơng được đánh mất bản sắc văn hóa của mình. Nói như ngơn ngữ hiện đại là “hòa nhập nhưng khơng hịa tan”; trong tiếp thu phải tránh bê ngun xi một cách thơ thiển, “có vay phải có trả”, tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước. Người nhắc nhở các nhà văn hóa: Mình có thể bắt chước cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu - Mỹ, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả. Trong giao lưu văn hóa cũng phải có hai chiều: vừa đón nhận tinh hoa văn hóa thế giới đồng thời phải sáng tạo nên những sản phẩm văn hóa đặc sắc để giới thiệu cho bạn bè thế giới biết đến nền văn hóa Việt Nam. Cho nên, tiếp thu văn hóa nhân loại phải song hành với việc quảng bá văn hóa dân tộc để đem hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với nhân loại, đưa Việt Nam hội nhập vào nền văn hóa thế giới. Đấy chính là q trình quốc tế hóa nền văn hóa Việt Nam.

<b>1.2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY</b>

<b>1.2.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội</b>

Để đẩy nhanh quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần phải tập trung nâng cao nguồn lực bên trong của dân tộc. Nguồn lực đó được thể hiện tập trung ở tiềm lực vật chất và tiềm lực tinh thần của dân tộc. Mối quan hệ giữa tiềm lực vật chất và tiềm lực tinh thần là mối quan hệ biện chứng, thống nhất, không thể tách rời nhau, gắn bó với nhau. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, chúng ta càng phải quán triệt sâu sắc quan điểm, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Chăm lo bảo vệ xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa là chăm lo bảo vệ, xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của dân tộc, thống nhất ý chí và bản lĩnh của dân tộc, quyết tâm của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Cần phải khai thác các nguồn lực văn hóa của dân tộc để làm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực văn hóa này thể hiện trình độ lý luận, trình độ tư duy khoa học và quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, thể hiện ở nhiệt tình cách mạng, ý chí khát vọng phát triển đất nước cùng với trình độ và kỹ năng của người lao động, ở khả năng sáng tạo và chiếm lĩnh, sử

19

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại của họ; thể hiện ở việc khai thác và sử dụng hợp lý các di sản văn hóa, các danh lam thắng cảnh để phát triển du lịch, dịch vụ văn hóa, thể hiện ở việc phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế; thể hiện ở việc hỗ trợ cho các ngành kinh tế nâng cao văn hóa doanh nghiệp và thương mại, nâng cao tri thức, tầm nhìn và kỹ năng trong hoạt động kinh tế - xã hội ...

Quan điểm coi văn hóa là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội là quan điểm khoa học, hiện đại và mang tính thực tiễn cao, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa gắn với kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế hiện nay. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng ta đa khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”1. Quan điểm này được các Đại hội IX, X, XI, XII, XIII tiếp tục khẳng định. Chính vì vậy, chúng ta phải đặc biệt chú trọng nâng cao tầm nhìn, tầm văn hóa trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tất cả các lĩnh vực khác nhau. Hiểu biết sâu sắc thời đại và dân tộc là điểm xuất phát quan trọng để chúng ta đề ra được chủ trương và hành động đúng. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam... xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”2. Như vậy, chúng ta thấy rằng, cùng với việc làm tốt công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, củng cố quốc phịng, an ninh thì thực hiện hiệu quả định hướng phát triển văn hóa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung của đất nước. Theo đó, cần nhận thức một cách thống nhất rằng: Còn văn hóa là cịn tất cả. Mất văn hóa là mất tất cả.

Phát triển văn hóa chính là giữ cho được cái gốc, cái còn lại cuối cùng của một quốc gia - dân tộc. Các trị văn hóa chứa đựng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong hoạt động của mỗi con người, mỗi tập thể, trong giá trị của từng sản phẩm hàng hóa... Văn hóa và các giá trị văn hóa cịn là nhân cách của

<small>1 Đảng Cộng sản Việt Nam: “Báo cáo chính trị của Ban Châp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng”, Văn kiên Đai hôi Đang thơi kỳ- đôi mơi va hôi nhâp (Đai hôi VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính tri qc gia - Sự thât, Ha Nôi - 2013, tr. 356 - 357.2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 143.</small>

20

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

mỗi con người, còn là cốt lõi để tạo nên thương hiệu quốc gia, hình ảnh đất nước. Mỗi việc làm dù rất nhỏ nhưng nếu mang đến sự hữu ích cho xã hội, cho đất nước, cho nhân loại đều hàm chứa trong đó những giá trị văn hóa của mỗi con người, của một dân tộc. Văn hóa và phát triển văn hóa cịn là một ngành kinh tế mũi nhọn và tạo dựng sự phát triển bền vững của đất nước.

<b>1.2.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc</b>

Trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, tồn Đảng, tồn dân ta đang tiếp tục phấn đấu thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khóaVIII) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; triển khai thực hiện quan điểm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về mục tiêu phát triển văn hóa là: “Phát triển con người tồn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”1. Quán triệt quan điểm trên, cần thực hiện các vấn đề cơ bản sau:

Tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ b ạc... Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ vững và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Xây dựng và tăng cường

<small>1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trịquốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 115 - 116.</small>

21

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

hiệu quả hoạt động của thiết chế văn hóa ở tất cả các cấp, đồng thời nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số cơng trình văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của đất nước. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, chú trọng nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa ở nơng thơn, vùng khó khăn, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đơ thị và nơng thôn.

Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Hồn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa của dân tộc. Xây dựng và thực hiện các chính sách về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngơn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số; chăm lo xây dựng đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn nghệ, nghệ thuật. Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hóa, xa rời tơn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản về mọi mặt, nhất là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Phát triển mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có những biện pháp hạn chế, ngăn chặn mặt tiêu cực.

Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa. Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa... Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước. Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả của các sản phẩm văn hóa. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vơ hiệu hóa sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là giới trẻ trước những tác động của các trào lưu văn hoá trên thế giới.

<b>1.2.3. Quân đội nhân dân Việt Nam quán triệt, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa</b>

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Quân đội ta luôn là một lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành tốt các chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Được tôi luyện và trưởng thành trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực sự trở thành “trường học lớn” của lớp lớp thanh niên

22

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Việt Nam. Từ “trường học lớn” này, đã đào luyện nên những con người “Bộ đội Cụ Hồ”, những chiến sĩ sống có lý tưởng; một lịng, một dạ trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; với đồng chí, đồng đội thương yêu nhau như ruột thịt, đồng cam, cộng khổ; với nhân dân nghĩa nặng, tình sâu...

Quân đội là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc cũng có vai trị to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, khi xây dựng và phát triển văn hóa - bộ phận quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội - quân đội cũng được vững mạnh hơn. Do đó, đối với quân đội ta, văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, văn hóa có mặt trên tất cả các lĩnh vực, từ xây dựng đơn vị, giáo dục chính trị, tư tưởng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy... Giá trị văn hóa lớn nhất và sâu sắc nhất là những phẩm chất cao đẹp của người quân nhân cách mạng. Phẩm chất đó được biểu hiện tập trung ở lịng trung thành vơ hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng, ở đạo đức, lối sống chân thành, lối ứng xử đầy tình nghĩa với đồng chí, đồng đội và nhân dân...

Nhiệm vụ đặt ra cho quân đội trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay là cần tập trung vào xây dựng quân đội về chính trị theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sĩ quân đội. Nâng cao đời sống văn hóa trong quân đội, xây dựng và bồi dưỡng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trở thành những quân nhân có văn hóa, các đơn vị trở thành những tập thể có văn hóa. Chú trọng xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, các thiết chế văn hóa và những đảm bảo cần thiết trong các đơn vị quân đội, nhất là ở các đơn vị cơ sở. Đưa những giá trị văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú vào đời sống tinh thần của bộ đội, như lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, những phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ” vào nuôi dưỡng phẩm chất, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đấu tranh loại trừ những sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy, phản động ra khỏi môi trường qn đội, góp phần làm trong sạch bầu khơng khí tinh thần, văn hóa tồn xã hội.

Xây dựng một mơi trường văn hóa lành mạnh không chỉ giới hạn trong không gian doanh trại các đơn vị mà được mở rộng ra địa bàn đóng quân, địa bàn công tác của đơn vị và được kết hợp với nhiều hoạt động văn hóa của tồn xã hội, trực tiếp là với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “xố đói giảm nghèo”, xây dựng trường học, làm nhà tình nghĩa, xố nạn mù chữ và tái mù chữ ...

23

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng mơi trường văn hóa và xây dựng con người mới trong quân đội là trách nhiệm chung của các lực lượng, ở mọi cấp và của mọi cán bộ, chiến sĩ. Trong đó, phát huy vai trị của đội ngũ sĩ quan các cấp, nhất là đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội ở đơn vị cơ sở. Bởi đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội không chỉ là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, mà họ cịn tiên phong, lực lượng nòng cốt, là “linh hồn”, “điểm tựa”, “ngọn cờ” của Đảng trong quân đội để dẫn dắt, tập hợp bộ đội xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở. Vì vậy, mỗi người sĩ quan chính trị cấp phân đội phải nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở để không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của quân đội về văn hóa; rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, hợp lý; hiểu biết về những kiến thức, tri thức khoa học cần thiết trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng; thực sự là một tấm gương mẫu mực về phẩm chất, đạo đức, lối sống trong giáo dục, thuyết phục, cảm hóa bộ đội.

Trên cơ sở đó, làm tốt cơng tác tun truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trị của việc xây dựng nền văn hóa, con người mới trong Quân đội; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự quản lý, điều hành của người chỉ huy đối với xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần; thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp hoạt động văn hóa trong quân đội cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản động và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

<b>VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU</b>

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị, tính chất của văn hóa.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

3. Quân đội nhân dân Việt Nam quán triệt, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

24

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<b>2.1.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống mới</b>

<i><b>a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về đời sống mới</b></i>

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đời sống mới là hệ thống những quan điểm tồn diện và sâu sắc về vị trí, vai trò, nội dung, phương pháp thực hành đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nội dung đời sống mới rất phong phú, bao gồm xây dựng đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới.

<i>Đạo đức mới</i>

Đạo đức mới là nội dung cốt lõi của đời sống mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Hồ Chí Minh đã đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính. Người khẳng định: “Nêu cao và thực hiện cần, kiệm, liêm, chính là nhen lửa cho đời sống mới”1. Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Đạo đức mới chính là cội nguồn sức mạnh bên trong mỗi con người. Bởi vì, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp lâu dài, khó khăn địi hỏi sự phấn đấu tu dưỡng không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và rất nhiều thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau. Mặt khác, đạo đức góp phần tạo ra và nâng cao vị thế, uy tín cho con người, nhất là người cách mạng. Do đó, “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”2. Mặt khác, đạo đức mới có vai trị to lớn vì nó liên quan trực tiếp tới sự thành bại của cách mạng, hưng suy của một dân tộc. Người chỉ rõ: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”3. Theo Người, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng là nhiệm vụ thường xuyên nhưng cần đặc biệt chú trọng các thời điểm: Khi cách mạng giành được thắng lợi, khi cách mạng gặp khó khăn và khi cách mạng chuyển giai đoạn.

<small>J, 2, 3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 128, 16, 354.</small>

25

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Phạm vi, nội hàm đề cập đạo đức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất toàn diện và sâu sắc, bao gồm mọi đối tượng, mọi tầng lớp nhân dân; trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trong phạm vi từ hẹp đến rộng, từ gia đình đến nhà trường, xã hội, từ dân tộc đến quốc tế ... nhưng nổi lên 3 mối quan hệ chủ yếu của con người: Đối với mình, đối với người, đối với công việc. Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh những yêu cầu đạo đức đối với “tự mình” và coi đây là nhân tố cốt lõi để hình thành nên đạo đức mới trong xã hội. Bởi vì, xét đến cùng đạo đức mới trong xã hội được tạo lên từ nhân cách tốt đẹp của mỗi cá nhân. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã xác định một hệ thống những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới, đó là: Tận trung với nước, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Người khẳng định: Xây dựng và thực hành đời sống mới trước hết là xây dựng và thực hành các chuẩn mực đạo đức cách mạng.

Quá trình tu dưỡng, rèn luyện các chuẩn mực đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện tốt các nguyên tắc như: Nói đi đơi với làm và nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống; phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời. Những nguyên tắc tu dưỡng đạo đức mới là một chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ mật thiết với nhau, địi hỏi mỗi người phải tự giác nhận thức và thực hành đầy đủ, nghiêm túc và sáng tạo.

<i>Lối sống mới</i>

Cùng với xây dựng đạo đức mới, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới lối sống mới và việc xây dựng lối sống mới đối với mỗi con người, cũng như với một tập thể, một cộng đồng. Theo Hồ Chí Minh, lối sống mới là lối sống văn minh, tiến bộ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc xây dựng lối sống mới đòi hỏi phải “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc”1. Trong đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ cần tập trung vào bốn điểm chính là ăn, mặc, ở, đi lại. Đó là những nhu cầu thiết yếu để con người tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ phải ăn, mặc, ở, đi lại thế nào cho đúng với đời sống mới mà chúng ta xây dựng, có nghĩa là nói về mặt văn hóa của nó. Mặt văn hóa của ăn, mặc, ở, đi l ạ i . cũng phụ thuộc vào lối sống có văn hóa hay khơng có văn hóa của con người. Người viết: “Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 113.</small>

26

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

lượt thượt, xa xỉ, loè loẹt”1. Theo Người, nâng cao chất lượng về ăn, mặc, ở ... là nhu cầu chính đáng của mỗi con người. Bởi vì, người ta ai cũng mong muốn được ăn ngon, mặc đẹp. Tuy mong muốn đó là chính đáng nhưng phải đúng thời, đúng hồn cảnh mới là người có đạo đức, có lối sống mới. Người khẳng định: “Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như vậy là khơng có đạo đức”2.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng lối sống mới phải xây dựng một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, ít lịng ham muốn về vật chất, chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với nhân dân, đồng chí, bạn bè, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu lịng yêu thương quý trọng con người, đối với mình thì nghiêm khắc, đối với người thì khoan dung, độ lượng, sẵn lịng giúp đỡ. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phong cách làm việc: “Phải siêng năng, có ngăn nắp, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì, thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn. Chớ làm dối”3; đồng thời, phải sửa đổi phong cách làm việc cũ sao cho có tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Ba loại tác phong này có quan hệ mật thiết với nhau. Sửa đổi phong cách làm việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ làm cơng tác lãnh đạo, quản lý. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, đã là cán bộ cách mạng phải có phong cách sống, phong cách làm việc tốt, để làm gương mẫu cho quần chúng nhân dân học tập, noi theo.

<i>Nếp sống mới</i>

Theo Hồ Chí Minh, quá trình xây dựng lối sống mới sẽ dần trở thành thói quen, nền nếp ở mỗi người thành phong tục, tập quán của cả một cộng đồng, trong phạm vi một địa phương và mở rộng ra cả nước. Đây chính là q trình hình thành nếp sống mới hay nếp sống văn minh. Theo Người, nhờ có nếp sống mà xã hội và con người không cần phải đi đường vịng, khơng phải bắt đầu lại những quá trình lịch sử đã trải qua. Nếp sống trong xã hội được thể hiện ở những cách thức, những quy ước của cộng đồng đã trở thành thói quen trong lao động sản xuất; trong sinh hoạt, như ăn, mặc, ở; trong tổ chức đời sống xã hội, như phong tục, lễ nghi, đạo đức, pháp luật. Do đó, Hồ Chí M inh chỉ rõ để hình thành nếp sống mới đòi hỏi phải kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tinh thần, thuần phong mỹ tục, tập quán tốt đẹp lâu đời của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh thần phong tục tập quán tốt đẹp của nhân loại; đồng thời,

<small>J, 3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 117.2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 589.</small>

27

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

phải biết cải tạo những phong tục, tập quán lạc hậu, bổ sung những cái mới, cái tiến bộ mà trước đó chưa có. Q trình xây dựng lối sống mới cũng là quá trình làm cho lối sống đó trở thành thói quen ở mỗi con người, trở thành phong tục, tập quán tốt đẹp của cả một cộng đồng, trong phạm vi một địa phương rồi mở rộng ra trong cả nước và bây giờ chúng ta gọi là nếp sống văn minh.

Như vậy, đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Ba nội dung ấy có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trị chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và nếp sống và được thể hiện sinh động trong lối sống và nếp sống. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức mới phải được tiến hành đồng thời với xây dựng lối sống mới và nếp sống mới. Đạo đức mới là nền tảng để xây dựng lối sống mới, nếp sống mới lành mạnh, vui tươi, hướng con người tới tầm cao của văn hóa, của một đất nước dân chủ, văn minh và giàu mạnh.

<i><b>b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp xây dựng đời sống mới </b></i>

Sửa đổi những thói quen, phong tục, tập qn khơng cịn phù hợp, loại bỏ cái xấu, cái lạc hậu; xây dựng cái tốt, cái tiến bộ là một công việc rất khó khăn, phức tạp. Vì vậy, Người cho rằng để xây dựng đời sống mới cần quán triệt và thực hiện tốt phương châm: “Khơng phải là cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp l ý . Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển t h ê m . Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm” 1. Trên cơ sở đó, để xây dựng đời sống mới theo Hồ Chí Minh phải tuân theo các phương pháp sau:

<i>Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, cảm hóa, nêu gương. </i>

Xây dựng đời sống mới đòi hỏi phải thay đổi những thói quen, cải tạo những phong tục, tập quán cũ lạc hậu. Theo Người, đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp khơng thể hoàn thành xong một sớm, một chiều, không thể thực hiện tuỳ tiện, giản đơn, thô bạo. Bởi vì, thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng, nhưng chúng ta khơng thể xố bỏ bằng bạo lực trấn áp, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài. Người chỉ rõ, trước hết phải tuyên truyền, giải thích để mọi người hiểu được cái lợi của việc xây dựng những thói quen, phong tục, tập quán mới, hướng dẫn cách làm cụ thể để mọi người, mọi nhà, mọi làng, mọi cơ quan, đơn vị, xí nghiệp hiểu để làm, để thực hiện cho được đời sống mới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước hết, phải tuyên truyền, giải thích và làm gương. Phải chịu khó nói rõ cho

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr.112 - 113.</small>

28

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

mọi người hiểu đời sống mới có ích thế nào, cách thi hành đời sống mới thế nào. Nói một lần họ chưa hiểu thì nói nhiều lần. Nói đi, nói lại, bao giờ người ta hiểu, người ta làm mới thôi”1.

Thực hành đời sống mới phải đề cao trách nhiệm nêu gương ở từng người, từng nhà, từng làng xóm và nhân rộng ra cộng đồng, xã hội. Điều rất quan trọng theo Hồ Chí Minh trong thực hành đời sống mới là phải miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước; nhất là những người quản lý, lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, những người làm công tác tuyên truyền, vận động xây dựng đời sống mới. Người chỉ rõ: “Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tun truyền một trăm năm cũng vơ ích”2.

<i>Xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ từng người, từng gia đình. Mỗi </i>

người là một cá thể để tạo nên gia đình, mỗi gia đình là một tế bào để tạo nên xã hội. Mỗi người, mỗi gia đình đều thực hiện đời sống mới thì mới có thể xây dựng được đời sống mới ở các tập thể, các đơn vị, ở làng xã, phố phường và trên cả nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh và đòi hỏi mỗi người, mỗi nhà phải ra sức thực hiện đời sống mới, Người viết: “Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường.”3 và “Ai cũng làm như thế, thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở nên một nước mới, một nước văn minh”4.

<i>Kết hợp giữa xây và chống, lấy xây làm chính. Theo Hồ Chí Minh, xây </i>

cái hay, cái tốt, cái tích cực, tiến bộ; chống cái sai, cái xấu, cái tiêu cực, lạc hậu, trái với đời sống mới. Mục đích của chống là để xây, nhưng muốn xây thì phải chống, chống càng hiệu quả, thì xây càng được vững chắc. Vì vậy, xây và chống phải kết hợp chặt chẽ với nhau, trong đó xây là nhiệm vụ cơ bản, chủ chốt và lâu dài. Hồ Chí Minh cho rằng, trong mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng nên phải đấu tranh để cho cái thiện, cái tốt trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Theo Người, phải tiến hành giáo dục những chuẩn mực của đời sống mới, khơi dậy được ý thức tự giác của mỗi người, mỗi tổ chức vươn đến cái đẹp, cái tốt, cái thiện, loại bỏ cái xấu, cái sai, cái thấp hèn.

<small>12 3 4 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 125, 126, 116 - 117,118</small>

29

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i>Phải tổ chức được các phong trào thi đua sâu rộng, thiết thực. Xây dựng </i>

đời sống mới phải tạo thành các phong trào thi đua sôi nổi, liên tục và rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng đời sống mới của cá nhân hay của tập thể, cộng đồng vừa nhanh, vừa có chất lượng, thì một trong những giải pháp rất quan trọng là phải tổ chức được các phong trào thi đua sâu rộng, thiết thực. Phải có được một cuộc vận động sôi nổi, một phong trào hiện thực, mà ở đó diễn ra những hoạt động sáng tạo, phong phú của những con người tích cực, chủ động thực hiện khẩu hiệu: Người người thi đua, nhà nhà thi đua, làng làng thi đua, ngành ngành thi đua... cùng nhau xây dựng đời sống mới. Theo Hồ Chí Minh: “Cách tốt nhất là tổ chức thi đua. Người này thi đua với người khác. Nhà này thi đua với nhà khác, làng này thi đua với làng khác. Ai hơn thì được nhân dân kính trọng và Chính phủ khen thưởng”1.

<b>2.1.2. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn nghệ</b>

<i><b>a) Văn nghệ là mặt trận, nghệ sỹ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng</b></i>

<i>Văn hóa văn nghệ là một mặt trận. Quan điểm Hồ Chí Minh về văn nghệ </i>

thể hiện tính chiến đấu, tính cách mạng của văn hóa. Trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”, Hồ Chí Minh viết: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp. Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông. Nay ở trong thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong”2. Văn hóa văn nghệ là một mặt trận có nghĩa văn nghệ cách mạng là một bộ phận của cuộc đấu tranh cách mạng. Thực chất, đây là cuộc cách mạng trong lĩnh vực văn hóa. Cách mạng là thay cũ đổi mới. Cách mạng trong văn hóa là cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ. Từ “mặt trận” thể hiện tính chất cam go, quyết liệt của văn nghệ cách mạng khi phải đấu tranh với những điều phản cách mạng, phản văn hóa. Cho nên, tác phẩm văn nghệ phải là vũ khí sắc bén vạch trần cái xấu, cái phản động, nêu gương cái tốt, cái tiến bộ. Đồng thời, văn hóa văn nghệ có vai trị thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh thần đấu tranh, tổ chức lực lượng, động viên dân chúng phấn khởi, tin tưởng thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi đã có chính quyền, tính chất của mặt trận văn hóa văn nghệ khơng giảm đi, mà trái lại còn tăng lên và nặng nề hơn. Bởi lẽ, xây dựng nền văn nghệ cách mạng là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài. Văn hóa văn nghệ góp phần định hướng tư tưởng đúng đắn, bóc trần những thói hư tật xấu: Tham ơ, lãng phí, quan l i ê u . là những trở lực trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong “Đề cương văn

<small>J, 2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 119, 451.</small>

30

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

hóa Việt Nam” năm 1943, Đảng đã xác định rõ: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt động. Khơng chỉ cách mạng chính trị mà cịn phải làm cách mạng văn hóa nữa.

<i>Nghệ sỹ là chiến sĩ. Hồ Chí Minh chỉ rõ, để làm tròn nhiệm vụ, người </i>

nghệ sĩ phải có lập trường, tư tưởng đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng, đặt lợi ích và nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân lên trên hết; có đạo đức nghề nghiệp; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, chuyên mơn; có lịng say nghề, yêu nghề. Vũ khí của các chiến sỹ văn nghệ chính là các tác phẩm văn nghệ và ngòi bút của họ. Đó phải là thứ vũ khí sắc bén, là ngịi bút “phị chính trừ tà”1, vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc văn hóa, bảo vệ chính nghĩa, lẽ phải, sự công bằng... Thứ vũ khí ấy được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đề cập từ cuối thế kỷ XIX: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Sau này, nhà thơ Sóng Hồng cũng khẳng định: Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ. Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền.

<i>Tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Để văn </i>

nghệ có tính chiến đấu, Hồ Chí Minh yêu cầu những tác phẩm văn nghệ phải đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân và thực tiễn đời sống; phản ánh được yêu cầu của xã hội và thời đại; phản ánh phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức nghệ thuật và tất cả hướng đến mục đích cuối cùng là để phục vụ lợi ích của nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Hồ Chí Minh cịn đang bơn ba tìm đường cứu nước. Để văn nghệ có tính chiến đấu, nội dung của tác phẩm văn nghệ trước hết phải tố cáo sự đầu độc văn hóa, đàn áp nền văn hóa dân tộc của chủ nghĩa thực dân. Người chỉ rõ: “Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đường từ Pháp đến Đơng Dương xa quá, xa đến nỗi sang được tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng, đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rượu ty, nên người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém đến cả người vô tội”2.

Tác phẩm văn nghệ còn phải cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân bị áp bức. Người khẳng định: “Không! Người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi m ã i . Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê ghớm, khi thời cơ đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ

<small>1, 2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 157, 99.</small>

31

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi”1. Văn nghệ phải góp phần tun truyền, giáo dục, cổ vũ, động viên tồn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, trong kháng chiến chống ngoại xâm, trong xây dựng nền văn nghệ mới, xã hội mới, con người mới.

<i><b>b) Văn nghệ ph ải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân, mang đậm bản sắc dân tộc và hơi thở của thời đại</b></i>

Thực tiễn đời sống nhân dân bao gồm các hoạt động lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng đời sống mới. Văn nghệ phản ánh thực tiễn theo quy luật của cái đẹp. Khi đến thăm “Phòng triển lãm văn hóa” tháng 10/1945, Hồ Chí Minh nhận xét: Những bức tranh này tỏ rõ các nghệ sĩ của ta lâu nay đều đã cố gắng tìm một con đường đi. Nhưng tiếc một điều là không muốn đi dưới đất, mà cứ vút lên trời: Chất mơ mộng quá nhiều, mà cái chân thật của sinh hoạt rất ít... Và muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật thì phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con người.

Thực tiễn đời sống nhân dân đem lại nguồn sinh khí vơ tận cho văn nghệ. Thực tiễn ấy cung cấp những chất liệu không bao giờ cạn cho văn nghệ sĩ, từ đó với tài năng sáng tạo và tinh thần nhân văn của họ luôn hướng về người lao động. Vì thế, văn nghệ sĩ có thể nhào nặn, thăng hoa để tạo nên những tác phẩm có giá trị, có sức sống, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian. Yêu cầu quan trọng bậc nhất với những chiến sĩ văn nghệ là phải thật hịa mình vào quần chúng, phải liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân để thấu hiểu và thấu cảm tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.

<i><b>c) Văn nghệ ph ải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại, ph ải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân</b></i>

<i>Tác pham văn nghệ phải xứng đáng với dân tộc và thời đại. Theo Hồ Chí </i>

Minh, đó phải là những tác phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác phẩm đó phải phục vụ đơng đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng yêu thích, đem lại những chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mọi người dân. Văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là hạ thấp nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ những sản phẩm “loại hai’, những món ăn tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật cao.

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 40.</small>

32

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i>Tác phắm văn nghệ phải phản ánh hay, chân thật sự nghiệp cách mạng. </i>

Tác phẩm hay là tác phẩm được trình bày sao cho ai cũng hiểu được và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, trăn trở và giác ngộ. Về nội dung, đó phải là tác phẩm phản ánh chân thật và phong phú sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở vào giai đoạn quyết liệt (1951), Hồ Chí Minh căn dặn văn nghệ sĩ phải bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp họ phát triển và nâng cao tinh thần ấy. Đến những năm 60, Người nói những tác phẩm mà quần chúng chờ đợi là “những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những để làm gương cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau”1.

Hồ Chí Minh cho rằng, tác phẩm văn nghệ phải phản ánh chân thực hiện thực đời sống. Việc phản ánh chân thực không chỉ dừng lại ở phản ánh những gì đã có trong đời sống của nhân dân, mà còn phải hướng nhân dân loại bỏ cái xấu, cái sai, cái giả, cái dở, cái không đúng để vươn tới cái lý tưởng. Đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Về hình thức thể hiện, tác phẩm văn nghệ phải diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được; đọc xong phải suy ngẫm và có những chuyển biến tích cực nhận thức và hành động. Người nhiều lần phê phán lối viết dài dòng, rỗng tuếch, chỉ làm tốn giấy tốn mực, mất công người xem. Tác phẩm văn nghệ phải phong phú, đa dạng như nhiều bông hoa đẹp trong vườn hoa đẹp. Đề tài bao trùm của giới văn nghệ sĩ là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhưng văn nghệ thể hiện đề tài bao trùm đó bằng nhiều thể loại, nhiều tác phẩm khác nhau, cung cấp cho xã hội nhiều món ăn khác nhau, đương nhiên phải là những món ăn bổ ích cho đời sống tinh thần của con người và xã hội. Chính điều đó mở ra con đường sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ.

<b>2.1.3. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng</b>

<i><b>a) Vai trị, mục đích của báo chí cách mạng</b></i>

<i>Báo chí cách mạng là một bộ phận của văn hóa, là phương tiện xây dựng, truyền bá và thực thi văn hóa. Báo chí cách mạng là vũ khí sắc bén của công tác </i>

tư tưởng, là công cụ tuyên truyền đường lối quan điểm của Đảng đến quần chúng, góp phần tích cực vào việc xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, củng cố nền tảng, hệ tư tưởng vững chắc cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng động viên quần chúng đoàn kết, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Với

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 504.</small>

33

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

nhà báo Hồ Chí Minh, ngịi bút ln là một phương tiện để phò chính, trừ tà. Bàn về vai trị của tờ báo Đảng, Người viết: “Đảng ta mạnh vì Đảng ta tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, suốt từ trên xuống dưới. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động thông suốt và thống nhất. Tờ báo Đảng là như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta nhiều điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và cơng tác. Hàng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất cơng tác của chúng ta”1.

<i>Báo chí cách mạng là vũ khí sắc bén đấu tranh xã hội, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Báo chí phục vụ nhân </i>

dân, là tiếng nói của nhân dân, phục vụ mục đích trong sáng và cao cả của Đảng, của sự nghiệp cách mạng, là công cụ để khơi dậy, biểu dương cái tốt, người tốt, việc tốt, ngăn chặn và đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực. Cách mạng tháng 8/1945 thành công, trên cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh thêm báo chí có vai trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng, chấn hưng đất nước. Khi trao đổi với các nhà báo Việt Nam về đề tài của mình, Người khẳng định: “Tất cả các bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là: Chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy đó”2. Sau năm 1954, báo chí cách mạng được Đảng trao cho sứ mệnh thiêng liêng là lĩnh ấn tiên phong trong việc tuyên truyền, giáo dục về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với quan điểm xuyên suốt: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là mục tiêu, là tiêu chí quy định chức năng, nhiệm vụ; đồng thời cũng là môi trường phát triển của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

<i><b>b) Nhiệm vụ của báo ch í cách mạng</b></i>

<i>Báo chí phải phục vụ đường lối chính trị. Báo chí xuất hiện và phát triển </i>

do u cầu thơng tin chính trị, kinh tế và giao lưu văn hóa tư tưởng của xã hội. Ngay từ những bài viết đầu tiên đơn giản nhất, báo chí đã có khuynh hướng chính trị rõ ràng, có nhiệm vụ phục vụ đường lối chính trị. Hồ Chí Minh xác định: “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung”3. Đó chính là sự phát triển cụ thể chức năng của báo chí: Tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể. Nói cách khác, nhiệm vụ của báo chí chính là tác động vào nhận

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 514.2 Hồ Chí Minh, T ồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 171.3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 102.</small>

34

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

thức xã hội nhằm thay đổi nhận thức theo hướng tích cực để đưa quần chúng vào hoạt động thực tiễn cách mạng.

<i>Báo chí thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động cách mạng. Báo chí có </i>

nhiệm vụ tun truyền, cổ động để mọi người hiểu về chủ nghĩa cộng sản, hiểu về cách mạng Việt Nam. Khi bàn về công tác tuyên truyền, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc không những tiến hành chiến tranh xâm lược bằng quân sự, chúng còn gây chiến tranh bằng tuyên truyền. Chúng dùng báo chí và đài phát thanh hàng ngày, tranh ảnh và sách vở in rất đẹp, các nhà hát, các trường học, các lễ cúng bái ở nhà thờ, chùa chiền, các cuộc hội họp.v.v. để tuyên truyền xuyên tạc. Người ví tuyên truyền cũng là một mặt trận, không kém mặt trận quân sự: “Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đã đánh thắng địch về mặt quân sự!”1. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng và hành động của quần chúng thông suốt và thống nhất. Muốn công tác tuyên truyền đạt hiệu quả, bao giờ cũng phải tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền mới có nhiều người nghe; muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều. Cùng với tuyên truyền, cổ động, Hồ Chí Minh cịn coi báo chí là diễn đàn để huấn luyện, giáo dục về chính trị, nghiệp vụ và đạo đức. Người phân tích: “Tờ báo Đảng là như những lớp huấn luyện giản đơn, thiết thực và rộng khắp. Nó dạy bảo chúng ta những điều cần biết làm về tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công tác. Hằng ngày nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất cơng tác của chúng ta”2.

<i>Báo chí phải định hướng dư luận, lãnh đạo dư luận. Theo Hồ Chí Minh: </i>

“Khơng biết lãnh đạo dư luận, không biết thúc đẩy và nâng cao tinh thần tranh đấu của nhân dân”3 là một trong những khuyết điểm của báo chí. Báo chí phải tạo ra được một khơng khí cơng chúng để hưởng ứng và làm theo cái tốt, công phẫn và tẩy chay cái xấu. Báo chí khơng chỉ lãnh đạo dư luận mà cần phải lãnh đạo, tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng.

<i>Báo chí phải thể hiện tinh thần chiến đấu. Đối với Hồ Chí Minh, đề tài </i>

xuyên suốt của báo chí cách mạng đó là chống thực dân, đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tun ngơn của Người thể hiện tính khơng khoan nhượng với cái cũ mà xấu - phi nghĩa là thực

<small>1, 2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 491, 514.3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 481.</small>

35

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

dân, phong kiến, địa chủ và kiên quyết bảo vệ, xây dựng cái mới - chính nghĩa là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội. Đây cũng thể hiện quan điểm của Người về tính chiến đấu của báo chí cách mạng. Tính chiến đấu của báo chí thể hiện ở việc biểu dương nhân tố tích cực, biểu dương cái đúng, cái tốt, cái mới, đồng thời phê phán mạnh mẽ nhân tố tiêu cực, phê phán cái sai, cái xấu, cái cũ; tính chiến đấu của báo chí cịn thể hiện ở việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Hồ Chí Minh yêu cầu: “Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”1. Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ, nhiệm vụ của người làm báo rất quan trọng và vẻ vang. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”2. Muốn hoàn thành tốt sứ mệnh, nhà báo cách mạng phải trau dồi bản lĩnh chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình.

<i><b>b) Những yêu cầu với người làm báo</b></i>

<i>Người làm báo phải có lập trường chính trị vững vàng. Hồ Chí Minh đã </i>

chỉ ra một số khuyết điểm: “Nắm vấn đề chính trị không được chắc chắn,... viết về chính trị thì khơ khan”3. Theo Người, có lập trường chính trị vững vàng, xác định ta, bạn, thù thì mới viết đúng: “tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được”4. Người làm báo có lập trường chính trị vững chắc, tức là đứng hẳn về lập trường của giai cấp công nhân; khơng có chút tự tư tự lợi làm mờ tối tư tưởng và hiểu biết của mình. Lập trường chính trị của người làm báo được thể hiện ngay trong tác phẩm báo chí. Qua tác phẩm báo chí, người làm báo bày tỏ quan điểm, thái độ với các sự kiện xảy ra; đấu tranh với các quan điểm sai trái và các tư tưởng thù địch; lên án phê phán các hiện tượng tiêu cực, các thói hư tật xấu; bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 540.2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 466.3, 4 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 164, 166.</small>

36

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<i>Người làm báo phải có kiến thức sâu rộng, am hiểu thực tế. Sự hiểu biết </i>

sâu rộng, gần gũi với thực tiễn của người làm báo đã làm cho các tác phẩm báo chí tăng thêm tính thuyết phục và hấp dẫn bạn đọc. Hồ Chí Minh từng nói và viết về rất nhiều chủ đề khác nhau của cách mạng Việt Nam, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế .... Người nói và viết cho rất nhiều đối tượng khác nhau, trong đó đối tượng được nói và viết nhiều nhất là cho đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam.

<i>Người làm báo phải đưa thơng tin chân thực, chính xác. Theo Hồ Chí </i>

Minh, nhà báo viết phải “chân thực” - chân thực là sức mạnh vì nó có lịng tin. Mỗi bài viết của phóng viên phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những con số, những sự kiện đã được xem xét kiểm tra, chọn lọc. Bài viết phải đem lại cho người đọc lượng thông tin cao và chính xác. Viết và nói phải thực hiện đúng phương châm: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi khơng có gì cần nói, khơng có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”1. Tính chân thật ln được xem là đạo đức của người làm báo cách mạng. Báo chí phản ánh những ý kiến xây dựng của nhân dân, nói lên tâm tư, nguyện vọng của dân.

<i>Người làm báo phải thực sự gần gũi, hiểu biết sâu sắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của bài báo bắt nguồn từ xác định </i>

đối tượng phục vụ là đại đa số nhân dân, phải được đại đa số nhân dân ham

<i>chuộng. Do vậy, người làm báo cách mạng phải thực sự gần gũi, hiểu biết sâu sắc </i>

tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, giải đáp đúng yêu cầu được thông tin của dân, làm rõ những vấn đề mà dư luận còn mơ hồ hoặc bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Ngơn ngữ báo chí phải phù hợp với nhiều đối tượng khác nhau, phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, trung thực, có sức thuyết phục. Đặc biệt, Người u cầu báo chí phải góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

<i><b>c) Trách nhiệm của Đảng và cơng chúng đối với báo chí </b></i>

<i>Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với báo chí cách mạng là một nguyên tắc quan trọng. Theo Hồ Chí Minh, Đảng không những lãnh đạo, định hướng </i>

cho báo chí tác nghiệp mà còn chăm lo về con người, tổ chức và mọi mặt hoạt động của báo chí. Do đó, nếu xa rời sự lãnh đạo của Đảng báo chí sẽ mất phương hướng, mục tiêu. Báo chí là một loại hình truyền thơng đại chúng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và có vai trị to lớn trong việc định hướng dư luận. Nhưng

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 342.</small>

37

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

điều đó chỉ có được khi cơng chúng đặt niềm tin vào báo chí. Niềm tin của cơng chúng đối với báo chí là sự tin tưởng vào chất lượng và nội dung thơng tin được báo chí đưa ra. Chính từ sự tin tưởng đó, công chúng mới đi theo định hướng của báo chí, có phản hồi và tích cực hợp tác, trở thành nguồn tin của báo chí; có như vậy báo chí mới hồn thành chức năng định hướng dư luận của mình. Mối quan hệ giữa bạn đọc với tờ báo, nhà báo đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nhà báo, bạn đọc và nhân dân kiểm tra xem những việc ấy đã làm chưa? Làm đến đâu?... Nếu làm được chu đáo, thì báo phải có lời khen ngợi. Nếu làm khơng chu đáo, thì nhà báo và nhân dân phải tiếp tục phê bình đấu tranh. Ý kiến bạn đọc là những ý kiến đấu tranh. Cái mới đấu tranh với cái cũ, cái tốt đấu tranh với cái khơng tốt. Đấu tranh thì phải đấu tranh đến kết quả thắng lợi”1.

<i>Công chúng là người tham định giá trị của các tác pham báo chí. Công </i>

chúng là người thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước; là đối tượng phản ánh của báo chí. Vì thế, gắn bó với cơng chúng, bám sát cuộc sống của công chúng là tôn chỉ của báo chí. Báo chí phải góp phần cung cấp tri thức cho công chúng, tăng cường sự nhất quán về chính trị, tư tưởng trong khối đại đoàn kết toàn dân; biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, các biểu hiện tiêu cực; giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Thơng tin báo chí khi chưa được công chúng tiếp nhận mới chỉ là thông tin khả năng. Nếu công chúng không tiếp nhận các văn bản thông báo, không mua, không đọc báo, không nghe phát thanh, không tiếp nhận thông tin sẽ phá vỡ mối quan hệ nhà báo - tác phẩm - cơng chúng. Khi đó, thành quả lao động báo chí chưa được cơng chúng đón nhận và thưởng thức. Như thế, báo chí mới thực hiện được một nửa chức năng của mình. Cần khuyến khích bạn đọc phê bình báo để báo chí cách mạng làm trịn chức năng, nhiệm vụ phục vụ nhân dân. Người chỉ rõ: “Nếu các bạn viết báo mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, là các bạn chưa thành cơng”2. Cơng chúng chính là người tham gia vào việc góp ý, đồng tình hay khơng đồng tình, biểu dương hay phê bình khi họ đã thẩm định được những giá trị đích thực của thơng tin báo chí. Vấn đề khơng phải báo chí viết cái gì mà là thơng tin đáng tin cậy đến đâu. Không phải bất cứ vấn đề nào cũng được đưa lên báo mà phải chọn lọc kĩ lưỡng.

<small>J, 2 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 230, 163.</small>

38

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>2.2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỜI SỐNG MỚI, VĂN NGHỆ, BÁO CHÍ CÁCH MẠNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA </b>

<b>HIỆN NAY</b>

<b>2.2.1. Nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống mới trong xã hội</b>

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ”1. Do đó, để xây dựng đời sống mới, cấp ủy chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương cần đẩy mạnh chăm sóc sức khoẻ và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Chú trọng ban hành các chủ trương, chính sách nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân như: chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều, bền vững, hiệu quả nhằm bảo đảm an sinh xã hội và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu. Đặc biệt, quan tâm chăm lo: “nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện hiệu quả các chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe và tầm vóc người Việt Nam, bảo đảm toàn dân đều được quản lý, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe”2. Trong điều kiện sức khỏe của nhân dân đang chịu tác động ảnh hưởng tiêu cực từ tình trạng ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe của nhân dân cần phải đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng dịch, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; đồng thời, cần ban hành các thiết chế vệ sinh phòng dịch đủ mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ lấy nhiễm của bệnh dịch.

Xây dựng đời sống mới là quá trình lâu dài, gian khổ, vì “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những cái cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”3. Để xây dựng đời sống mới, nhiệm vụ hàng đầu là cần giáo dục những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam, cốt lõi là truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây là những phẩm chất nhân cách tốt đẹp nhất của mỗi người dân Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chế độ mới. Do đó, việc giáo dục những phẩm chất nhân cách này vừa là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt, vừa cơ bản, lâu dài của

<small>1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 241.</small>

<small>2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 151.</small>

<small>3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 617.</small>

39

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Đảng và Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra định hướng: “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”1.

Giáo dục lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Đây là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, quan trọng, địi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước. Nhiệm vụ trọng tâm nhất là phải đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục - đào tạo, trong đó phải coi giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho nhân dân là nền tảng, là động lực để phát triển xã hội bền vững. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, tạo mơi trường văn hóa lành mạnh để mỗi tập thể cá nhân khơng ngừng hồn thiện nhân cách. Hình thành “miễn dịch cộng đồng” trước cái xấu, cái sai; đồng thời, cần tập trung “thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”2.

Thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hịm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày”3. Muốn vậy, các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung nâng cao chất lượng công tác giáo dục nhân cách trong nhân dân, nhất là thế hệ trẻ ở từng cấp học, ngành học; coi trọng đẩy mạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình bằng các hình thức thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện, đặc thù của các địa phương gắn với việc xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Chú trọng đề cao ý thức thượng tôn pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về mặt xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân được thực hiện nghiêm túc và đầy đủ. Nâng cao hiệu quả “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thường xuyên chú trọng xây dựng nhân cách, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên để làm gương cho quần chúng noi theo; đấu tranh có hiệu quả với mọi hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu gây phiên hà trong thực hiện công vụ, từng bước làm trong sạch bộ máy chính trị, bộ máy hành chính các cấp góp phần củng cố lòng tin của nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện hệ

<small>1, 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trịquốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 116, 143.</small>

<small>3 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 38.</small>

40

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

thống chính sách hỗ trợ việc làm, an sinh xã hội góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân, gắn với phát huy truyền thống văn hóa, từng bước loại bỏ các hình thức lễ hội phi văn hóa, gây phản cảm, bức xúc trong nhân dân. Đấu tranh hiệu quả với các tệ nạn xã hội, biến tướng của các loại hình tội phạm, vi phạm pháp luật, từng bước tạo lập môi trường sống lành mạnh ở từng cộng đồng dân cư.

<b>2.2.2. Bảo vệ, giữ gìn và phát triển nền văn nghệ cách mạng</b>

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra những hạn chế trong bảo vệ, giữ gìn và phát triển nền văn nghệ ở nước ta: “Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc cơng cuộc đổi mới, có tác động tích cực đối với con người”1. Để khắc phục hạn chế trên, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước. Chú trọng tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị, đặc trưng của văn nghệ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, khắc phục những nhận thức lệch lạc, thiếu đầy đủ. Trên cơ sở đó, cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp, các ngành, các địa phương phải cụ thể hóa nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn và phát triển văn nghệ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng địa phương, từng ngành.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về công tác văn nghệ. Hoàn thiện việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác văn nghệ. Chú trọng việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực nghệ thuật; rà soát, bổ sung và xây dựng mới các chế độ, chính sách đối với hoạt động nghệ thuật, như chế độ lương, nhuận bút, đãi ngộ tài năng, bồi dưỡng lao động nghề nghiệp, chế độ hưu bảo đảm cho giới nghệ sĩ yên tâm công hiến sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời, xây dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn nghệ cổ truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của hoạt động văn nghệ của các dân tộc thiểu số. Có kế hoạch đầu tư xây dựng các cơng trình văn hóa văn nghệ; nâng cấp, cải tạo và xây mới một số nhà hát, rạp chiếu phim, trung tâm triển lãm văn hóa, văn nghệ có chất lượng cao, tầm cỡ lớn, tính chất hiện đại ở các thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước. Xây dựng và phát triển đội ngũ nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển mạnh mẽ nền văn hóa văn nghệ Việt Nam trong thời kỳ mới.

<small>1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trịquốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2021, tr.84.</small>

41

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<b>2.2.3. Phát huy vai trị c ủa báo chí cách mạng trong sự nghiệp đổi mới đất nước</b>

Trong bất cứ giai đoạn nào, báo chí cách mạng ln đóng vai trị xung kích trong xây dựng mơi trường thơng tin lành mạnh, với dịng chủ lưu là thơng tin tích cực, tạo khơng khí tin tưởng, phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Để tiếp tục phát huy vai trò của báo chí trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra chủ trương: “Xây dựng nền báo chí truyền thơng chun nghiệp, nhân văn và hiện đại”1. Quán triệt quan điểm trên, cần chú trọng tuyên truyền nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về vai trị của báo chí cách mạng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, trọng tâm là nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng để những người làm báo nhận thức được vinh dự và trách nhiệm lớn lao của nghề làm báo - một nghề cao quý, vẻ vang, nhất là trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, để không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao nhận thức chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là đạo đức nhà báo.

Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước để bảo đảm báo chí hoạt động đúng định hướng, hiệu quả trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thơng. Trên cơ sở đó, các tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, cơ quan chủ quản báo chí phải tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí tạo ra nguồn thơng tin lành mạnh định hướng nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân, ngăn chặn tình trạng “thương mại hóa báo chí”; đồng thời, thường xuyên phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các cơ quan trong hệ thống chính trị trong việc trao đổi, định hướng thông tin, đặc biệt là đối với các sự kiện lớn, những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau để kịp thời thơng tin chính xác đến các tầng lớp nhân dân.

Chú trọng tăng cường đầu tư để phát triển báo chí theo hướng hiện đại. Trọng tâm là tập trung đầu tư cho nghiên cứu phát triển, các ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao hiệu quả hoạt động. Quan tâm đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ nhà báo giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thông về công nghệ, có kiến thức rộng trong mọi lĩnh vực và chú trọng rèn luyện đạo đức của người làm báo. Để đáp ứng sự phát triển “không giới hạn” trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra nhanh chóng, cần chủ

<small>1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trịquốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 146.</small>

42

</div>

×