Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

tiểu luận quản lý bảo tồn di sản 1 thực trạng và giải pháp bảo tồn phát huy di tích lịch sử văn hóa đền dạ trạch huyện khoái châu tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.99 KB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNGPHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO</b>

<b>TIỂU LUẬNQUẢN LÝ BẢO TỒN DI SẢN</b>

CHỦ ĐỀ: Học viên : CHỬ VĂN THẮNGLớp : DTHN2206Mã học viên : 2206051Giảng viên phụ trách : PGS.TS

Hà Nội – 4/2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Di tích lịch sử văn hóa đền Dạ Trạch (đền Hóa) nay thuộc thơn n Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân Cơng chúa. Tương truyền, đền Hóa Dạ Trạch được xây dựng trên nền cao của lâu đài thành quách xưa, ngay sau khi Chử Đồng Tử - Tiên Dung hóa về trời. Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mật độ dân cư ngày càng đông đúc, nhà cao tầng, chung cư mọc lên ngày càng nhiều đã phần nào ảnh hưởng đến di tích đền Dạ Trạch. Trải qua thời gian, trước tác động của tự nhiên, sự lão hóa của nguyên vật liệu kiến trúc, di tích Đền Dạ Trạch đã xuống cấp cần được tu bổ tôn tạo. tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy di tích lịch sử văn hóa đền Dạ Trạch”

<i><b>3. Mục đích nghiên cứu</b></i>

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trị của việc giữ gìn di tích trong giai đoạn hiện nay, tiểu luận đi sâu vào khảo sát phân tích, đánh giá thực trạng di tích đền Dạ Trạch và đưa ra nhưng giải pháp bảo tồn.

<i><b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Đối tượng ngiên cứu: thực trạng và giải pháp bảo tồn di tích lịch sử văn hóa đền Dạ Trạch hiện nay

<i><b>5. Phương pháp nghiên cứu</b></i>

Phương pháp nghiên cứu của đề tài là tổng hợp, phân tích từ các số liệu sẵn có, kết hợp thu thập thơng tin từ nguồn dữ liệu mở trên các phương tiện thông tin đại chúng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>NỘI DUNG</b>

<i><b>1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa và tổng quan di tích đề Dạ Trạch</b></i>

1.1. Một số khái niệm liên quan

Khái niệm Di sản văn hóa: Trong Cơng ước Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới của UNESCO ban hành năm 1972, tại điều 1 có quy định những loại hình sẽ được coi như là “di sản văn hố’’ bao gồm: Di tích kiến trúc (monuments), nhóm cơng trình xây dựng (groups of buildings) và các di chỉ (sites). Khái niệm di sản trong một số từ điển được hiểu theo một nghĩa đơn giản đó là tính năng thuộc về nền văn hóa của một xã hội cụ thể, chẳng hạn như truyền thống, ngôn ngữ, hoặc các tòa nhà, đã được tạo ra trong q khứ và vẫn cịn có tầm quan trọng lịch sử.

Ở nước ta, năm 2001 Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thơng qua, thuật ngữ “di sản văn hóa" chính thức được ghi trong văn bản pháp quy caonhất và được sử dụng phổ biến. Năm 2009 Luật di sản văn hóa được sửa đổi, bổ sung một số điều khoản, theo đó DSVH bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể, “là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”

Trong các cuốn Đại từ điển tiếng Việt, di tích lịch sử văn hóa được hiểu là “Tổng thể những cơng trình, địa điểm, đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu có giá trị lịch sử hay giá trị văn hóa được lưu lại.

Theo Luật di sản văn hóa: “Di tích lịch sử văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểmvà các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học". Ở đây, có thể hiểu rộng ra các cơng trình xây dựng, địa điểm đó là các tịa nhà, đài tưởng niệm, quảng trưởng, khu phố. gắn với các sự kiện lịch sử, các dichỉ khảo cổ, các địa điểm gắn với hoạt động tơn giáo tín ngưỡng.

Khái niệm Quản lý di tích lịch sử văn hóa: Quản lý văn hóa là một lĩnh vực cụ thể của quản lý, thường được hiểu là: Công việc của Nhà nước được thực hiện thống qua việc ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế, xãhội của từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung. Ngồi ra, quản lý văn hóa cịn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn.

Di tích lịch sử văn hóa là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa dân tộc, vì vậy có thể hiểu: Quản lý di tích lịch sử văn hóa chính là sự định hướng, tạo điều kiện tổ chức, điều hành việc bảo vệ, gìn giữ các di tích, làm 27 cho các giá trị của di tích đượcphát huy theo chiều hướng tích cực. Việc quản lý di tích được thực hiện bởi các chủ thể quản lý (cơ quan quản lý, cộng đồng có di tích...) tác động bằng nhiều cách thức khác nhau đến đối tượng quản lý (các di tích) nhằm gìn giữ, bảo vệ và khai thác các giá trị của di tích phục vụ sự phát triển xã hội, đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thầncho cộng đồng.

<i><b>1.2. Nội dung quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa</b></i>

Di tích lịch sử văn hóa là tài sản vô cùng quý báu mà cha ông ta đã để lại cho hậu thế. Vì vậy gìn giữ DTLS - VH chính là tiếp tục kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha ơng đó là việc rất cần thiết. Đảng và nhà nước đã ban hành và hoàn thiện các văn bản qui phạm pháp luật.

Cách mạng tháng 8/11945 giành được độc lập, ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký xác lệnh số 65-SL về quản lý di sản văn hóa. Sắc lệnh gồm 6 điều, ấn định nhiệm vụ cho Đông phương Bác cổ học viện có nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tích trong tồn cõi Việt Nam, và nghiêm cấm việc phá hủy đền, chùa, đình, miếu, điện, thành quách , lăng mộ.

Ngày 28/6/1956, Trung ương Đảng ra thông tư số 38/TT- TW về việc bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Trong đó đề cập đến việc nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trong các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và toàn dân; đình chỉ ngay các hoạt động kinh tế đang phương hại trực tiếp đến cácdi tích; tiến hành phân loại và xây dụng kế hoạch tu bổ các di tích.

Ngày 3/7/1957, Thủ tướng Chính phủ ra thơng tư số 954/TTg về việc bảo vệ di tích và danh lam thắng cảnh.

Ngày 29/10/1957, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ký nghị định số 519/TTg về việc bảo vệ sử dụng DTLS-VH và danh lam thắng cảnh. Đây là văn bản pháp lý cập nhật đầy đủ đến việc quản lý nhà nước đối vơi DTLS - VH trong suốt hai thập kỷ chống Mỹcứu nước của nhân dân ta. Nghị định gồm 7 mục với 32 điều trong đó đề cập tới cơng tác quản lý DTLS-VH ở các góc độ như liệt hạng di sản văn hóa, quy định những tiêu

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chuẩn của các cơng trình được hạng là DTLS-VH; việc trùng tu tôn tạo di tích; chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với tổ chức cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy tác dụng DTLS-VH.

Nghị định 519/TTg do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 19/10/1957 đã phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, có giá trị lớn trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy DSVH Việt Nam phục vụ tích cực cho sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Ngày 31/3/1984, Hôi đồng nhà nước đã ban hành và công bố Pháp lệnh số 14LCT/HĐNN về việc bảo vệ và sử dụng DTLS-VH và các danh lam thắng cảnh. Pháp lệnh có 5 chương và 27 điều, xác định rõ biện pháp quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa gồm 3 việc: “Kiểm kê, đăng ký, công nhận và xác định các loại hình di tích và danh thắng. Quy định chế độ bảo vệ và sử dụng DTLS - VH và các danh lam thắng cảnh, tổ chức thực hiện các chế độ đó. Thanh tra việc thi hành những quy định của pháp luật về bảo vệ, sử dụng DTLS-VH và các danh lam thắng cảnh.

Pháp lệnh số 14-LTC/HĐNN ra đời đã tập trung thống nhất quản lý, sử dụng VH và danh lam thắng cảnh trên phạm vi cả nước, đưa công tác kiểm kê, lập hồ sơ xếphạng vào nề nếp. Quy định về cổ vật, việc tu bổ, tôn tạo và hoạt động bảo vệ di tích cũng đã rõ ràng và chặt chẽ. Pháp lệnh ra đời có ý nghĩa to lớn, là bước tiến về mặt pháp lý với mục đích làm cho cơng tác quản lý di sản văn hóa của dân tộc hoàn thiện hơn.

DTLS-Ngày 22/7/2001, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký lệnh số 09/LCTL công bố Luật Di sản văn hóa được kỳ họp quốc hội thữ IX thơng qua ngày 29/6/2001, Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2002. Với việc ra đời luật Di sản văn hóa đã tạo hành lang pháp lý cho cơng tác quản lý DTLS - VH trong cả nước.

Sau một thời gian áp dụng, Luật Di sản văn hóa 2001 khơng phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy Luật Di sản văn hóa 2001 được sửa đổi bổ sung một số điều luật năm 2009 là văn bản hợp nhất giữa luật Di sản văn hóa năm 2001 và sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa năm 2009. Luật điều chỉnh những vấn đề hoàn toàn mới, hoàn thiện nâng cao những vấn đề đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đây phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.

Những văn bản pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị Di sản văn hóa qua từng thời kỳ lịch sử, cái sau có giá trị cao hơn cái trước, cho thấy tính nhất quán tạo động lực

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

giúp cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, tơn vinh những di sản văn hóa tiêu biểu nhất, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.

1.3. Tổng quan về di tích lịch sử văn Hóa đền Dạ Trạcha. Giới thiệu chung về Làng Yên Vĩnh

Làng Yên Vĩnh thuộc xã Dạ Trạch huyện Khoái Châu Tỉnh Hưng Yên. Xa xưa, Yên Vĩnh và Đa Hịa là hai xóm của làng Phong Hịa, thành hồng làng của họ là thần Rí. Sau, do đất bãi sông được bồi tụ, dân các nơi đến khai phá, đất được mở rộng, dân số tăng đã làm cho Phong Hịa phải phân đơi thành hai làng Đa Hịa và n Vĩnh (hay Vĩnh). Nhóm cư dân Yên Vĩnh có nguồn gốc từ dân làng Vĩnh Khang bên Phú Xuyên - Hà Tây sang đây khai phá đất mới, những người tiên phong là bốn gia đình dân chài của các dòng họ Nguyễn, Hà, Lê, Chu, những vị này sau thành những tiên công của làng. Tên gọi làng mới Yên Vĩnh được đặt ghép từ chữ đầu tên làng cũ là “Vĩnh” với chữ “Yên” để cầu mong có cuộc sống n ổn, cịn bốn “tiên cơng” trên là những ngườiđã tạo ra bốn dịng họ đầu tiên ở đất Yên Vĩnh ngày nay. Làng Vĩnh bên cạnh làng Đa Hòa, theo dọc đê và qua Đa Hòa khoảng hơn 1km, rẽ trái xuống chân đê là tới trung tâm của làng và tới đền Hóa. Theo đường đê này, làng Vĩnh cách Hà Nội khoảng 30km.

Câu chuyện hình thành làng n Vĩnh cịn được kể rằng: khi mới đến đây, dân làng (xóm) Vĩnh sinh sống bằng nghề cá và mò cua, bắt ốc, khai phá bãi phù sa rộng lớn ven sông. Các gia đình dần phát triển đơng lên, họ có ý định lập làng riêng. Một đêm, bốn ông đánh dậm làng Vĩnh đã đào hố sâu ngoài cánh đồng để chơn các vỏ ốc, vỏ trai. Sau đó, họ trình đơn lên quan xin xét chia đất với bằng cứ là khi đào đất ngoài đồng, nếu thấy vỏ ốc, vỏ trai ở đâu thì đất của dân Yên Vĩnh đến đó... dân làng Vĩnh được đất lập làng mới, sau này đã lập bát nhang trên bốn gò đất đắp mộ bốn ơng đánh dậm ngồi cánh đồng để thờ và ghi nhớ cơng ơn, gọi đó là bốn ơng Đống. Các gị đất trên được xem là dấu ranh giới giữa Đa Hòa và Yên Vĩnh, sau do nước lụt, đồng ruộngđược bồi cao nên các gò này đã khơng cịn. Dân làng Đa Hịa coi việc trên là sự “chiếm” đất, sự kiện này đã gây nên hiềm khích giữa hai làng dẫn đến “lời thề” đóng đinh cột đình khơng cho trai gái hai làng lấy nhau... Sự chia làng đã dẫn đến việc đền thờ thành hồng làng Phong Hịa xưa là thần Rí đã thuộc về đất làng Đa Hòa, dân làng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Vĩnh tự nhiên “mất” thành hoàng, nhưng lại có ngơi đền Hóa (vì nó nằm trên đất làng Vĩnh).

b. Khái quát về di tích lịch sử đền Dạ Trạch (đền Hóa)

Đền Hóa cũng là đền hàng tổng (tổng Vĩnh/Yên Vĩnh) như đền Đa Hòa (của tổng Mễ), thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Tây Sa, nằm trên đất làng Vĩnh/Yên Vĩnh (nay cùng làng Đức Nhuận Thượng lập thành xã Dạ Trạch). Trước kia, đền Hóa được xem là đền thờ Chử Đồng Tử của cả vùng Dạ Trạch (vùng đầm xưa). Khu vực đền Hóa rộng gần hai mẫu, trước là gị đất mà dân làng thường gọi là gò rùa, nằm giữa đầm nước mênh mông Dạ Trạch, xung quanh là vùng lau sậy rộng lớn, kề bên sông Hồng. Theo truyền thuyết, đây là nơi vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã “dựng” lâu đài, cùng dân lập nên làng xóm, bến chợ đơng vui. Một đêm, cơn lốc đưa họ về trời (“hóa”) đã biến nơi này thành một đầm nước lớn. Dân đã lập đền thờ vợ chồng thánh Chử tại đây và lấy sự tích trên để đặt tên là đền Hóa, tên của đền có thể gọi ghép là đềnHóa - Dạ Trạch và cịn được gọi tên là đền Tam vị Thánh tiên.

Ngôi đền cổ nổi tiếng thâm nghiêm và linh thiêng vì có những lùm cây nhãn, cây muỗm cổ thụ bao phủ, tạo cho nó vẻ u tịch. Khi xưa, khách đến đền lễ thường phải dùng thuyền mới vào được, sau đó cịn phải leo 19 bậc mới tới sân đền. Ngày nay, vùng đầm nước mênh mông quanh đền đã bị lấp gần hết nên khó tưởng tượng được cảnh mặt nước đầm in bóng ngơi đền xưa. Phía trước đền chỉ cịn lại một hồ nước hìnhbán nguyệt nhỏ, cịn lạch nước bên trái là dấu tích của cái đầm lớn xưa, quanh đền còn lại một số cây nhãn, cây muỗm... Không biết đền cổ được xây từ bao giờ, tương truyềntướng Triệu Quang Phục đã cầu đảo trên gò rùa này trước khi khởi binh đánh giặc Lương (Trung Quốc) vào thế kỷ VI, về sau dân làng có lập miếu thờ Triệu Việt Vương,cách đền Hóa khoảng 100m, nay khơng cịn nên bài vị của Triệu Quang Phục được đưa về thờ tại đền Hóa. Vùng đầm lầy xưa đã đổi thay để nay thành đồng ruộng, làng xóm. Đền Hóa hiện nằm bên trong đê cũng do Chu Mạnh Trinh chủ trì dựng lại trên nền ngôi đền cổ sau khi ông tổ chức xây đền Đa Hịa, tuy khơng lớn và lộng lẫy bằng nhưng nó cũng khá đẹp.

Bài văn khắc trên bia đá còn lưu giữ tại khu đền, bên cạnh lầu chng phía trước đền Hóa đã phản ánh việc ngơi đền đã từng được trùng tu dưới triều Nguyễn, vào các năm 1819, 1890 (theo hồ sơ di tích của làng Vĩnh). Sau khi được nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa năm 1988, nó được tu sửa lớn một lần nữa. Đền Hóa được

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

xây dựng theo hướng đơng, hình chữ cơng, có ba tịa nhà rất đẹp, trên mái đền được đắp nổi hai con rồng uốn khúc. Phía trong đền, các trang trí ở vì kèo, các bức cốn, cửa võng được chạm trổ theo kiểu bong, thủng rất tinh xảo với những hình rồng, phượng, hoa trái gần giống với đền Đa Hịa nhưng ở quy mơ nhỏ hơn. Đền Hóa cịn có vẻ đẹp chắc chắn bởi những hàng cột lim to, những gian đại bái cao và rộng nên rất thống, ánh sáng bên ngồi đưa vào đã tôn thêm vẻ đẹp của những nét chạm khắc cầu kỳ bên trong đền. Hậu cung đền chia hai phần: trong và ngồi. Hậu cung trong có mái vịm uốn tam cấp gợi lên hình ảnh những cánh buồm trên đồn thuyền Tiên Dung. Chính giữa hậu cung trong là ban thờ với ba pho tượng lớn bằng đồng tạc hình vợ chồng ChửĐồng Tử (giữa) - Tiên Dung (trái) và Tây Sa (phải) trong tư thế ngồi. Bên trái hậu cung trong là nơi đặt ban thờ Triệu Việt Vương (được “nhập” vào đây sau khi đền của ngài bị hỏng), bên phải đặt ban thờ ngai và bài vị của thân phụ, thân mẫu Chử Đồng Tử - ông bà Chử Cù (Toại) Vân - Bùi Thị Gia. Ở hậu cung ngồi, phía bên phải là nơi đặt thờ chiếc gậy thần và cái nón tiên của thánh Chử, phía đối diện là nơi đặt thờ tượngBế ngư thần/thuyền quan (nằm ngang khoảng 0,9m) được tạc bằng gỗ có sơn son thếp vàng.

Cùng với các cỗ ngai, tượng Bế ngư thần quan (tượng Cá) được tạc vào năm 1890, khi đền được tu sửa (theo tài liệu của Ban quản lý di tích xã). Ngồi ra, hai bên cửa ra vào giữa hậu cung ngoài và hậu cung trong là hai tượng ngựa, một trắng một đỏ, dân làng nói đó là ngựa của các thánh đã dùng khi đi chữa bệnh cứu dân quanh vùng này. Trong đền cịn treo nhiều hồnh phi câu đối nói lên sự tích và những điều kỳ lạ, ca ngợi và tôn vinh danh tiếng của các thánh như Uất thơng giai khí (Khí tụ lại phát dần lên), Âm dương hợp củng (Âm dương cùng hòa hợp), Sở quá giả hóa (Tự làm quá đi hóa thành cái khác), Hải thưởng tam thánh (Ba vị thánh lên trời ở biển này - vùng đất này), đặc biệt là bức trâm sơn son thếp vàng treo trên cửa ngang gian hậu cung ngoài viết lại bài thơ giáng bút của thánh Chử truyền cho quan Án sát Chu Mạnh Trinh năm 1905. Nội dung văn giáng bút này đã nhắc lại truyền tích xưa và khuyên hậu thế nên suy ngẫm về nó...

Đền Hóa nhìn ra hồ bán nguyệt, qua đó đến một lầu chng, chiếc chng có tên là Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch) được đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902). Trong đền hiện còn 8 sắc phong của các triều vua đời hậu Lê, niên hiệu sắc phong giống ở đền Đa Hòa, thuộc thế kỷ XVII- XVIII.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

c. Truyền thuyết về Thánh Chử Đồng Tử

Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá (huyện Văn Giang, Hưng Yên); có bản viết là Chử Vi Vân. Theo “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần – NXB Giáo dục). Chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.

Thời ấy Vua Hùng Vương thứ ba có cơ con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, khơng chịu lấy chồng. Vào một ngày đẹp trời, nàng cho thuyền dạo chơi dọc sơng Hồng, lúc đó Chử Đồng Tử đang ngâm mình bắt cá dướisông, nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh . Ngắm phong cảnh hữu tình, cơng chúa Tiên Dung cho dừng thuyền, sai thị nữ lên bờ quây màn tắm bên một khóm lau, chẳng ngờ lại đúng nơi chàng trai họ Chử giấu mình. Nước dội cát trơi, phút chốc nàngthấy lộ ra thân hình một chàng trai trẻ cũng khơng quần áo. Trước người con gái có thân thể ngọc ngà, Chử sợ hãi định chạy trốn nhưng Tiên Dung ngẫm thấy là duyên trời định bèn nói: “Ta và chàng tình cờ gặp nhau thế này, âu cũng là nhân duyên do trờisắp đặt”, liền đó nàng truyền mang quần áo cho Chử Đồng Tử và cùng chàng làm lễ kết duyên ngay trên thuyền.

Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vơ cùng, khơng cho Tiên Dung về cung. Tiên Dung thấy vậy không dám về, ở lại cùng Chử Đồng Tử sống cuộc đời bình dị mà hạnhphúc. Họ mưu sinh bằng nghề chài lưới và trao đổi hàng hố trên sơng. Nơi ấy trở thành nơi đô hội, thuyền bè buôn bán tấp nập. Một hơm có người bày cho cách ra ngồi bn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hơm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Tiên (có bản ghi là Quỳnh Vi – tham khảo “Việt sử giai thoại” – Chuyện kể Chử Đồng Tử; đây là tên một ngọn núi chỉ có trong thần thọai), Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chàng bèn giao tiền cho khách bn đi mua hàng, cịn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tửmột cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu

</div>

×