Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.5 MB, 24 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
HỌC VIỆN TƯ PHÁP CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---o0o---
Ngày tháng năm sinh : 23/09/2000
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 04 năm 2023
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Trang
III. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI KHỞI KIỆN
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN 1. Thông tin đương sự
Địa chỉ: 241 Lê Lai, tổ 9, phường Đông Lân, Thành phố P, tỉnh G.L.
Địa chỉ: 33 đường Minh Khai, TP P, tỉnh G.L. - Người bị kiện:
Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L. Địa chỉ: số 06 Trần Hưng Đạo, Thành phố P, tỉnh G.L.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Văn Thành – Phó Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
2. Đối tượng khởi kiện
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
3. Yêu cầu khởi kiện
Hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
4. Ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của Người bị kiện
Chánh Thanh tra Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh G.L nhận định rằng việc ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Tuyết đã có hành vi vi phạm là đúng với quy định của pháp luật, được thể hiện nội dung ý kiến tại Công văn số 04/2014/CV-TTr ngày 29/05/2014 gửi Tòa án nhân dân tỉnh G.L (BL 19, 20, 21) cụ thể như sau:
- Ngày 23/12/2013, Thanh tra Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh G.L tiến hành kiểm tra nhà trọ Hồng Lan và phát hiện có hành vi vi phạm nên đã lập biên bản số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013. Tại các buổi làm việc (ngày 29/12/2013, ngày
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">12/2/2014 và ngày 9/3/2014), bà Tuyết đã thừa nhận hành vi vi phạm và xin chịu nộp phạt với khung thấp nhất, đồng thời cũng không cung cấp được Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn chứng minh các khách thuê có quan hệ vợ chồng hợp pháp. - Xét thấy vụ án có tính phức tạp cần có thời gian thêm xác minh nên Thanh tra Sở đã làm tờ trình và được Giám đốc Sở phê duyệt ngày 16/01/2014 để gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính.
- Ngày 10/3/2014, Chánh Thanh tra Sở ban hành Quyết định xử phạt số XP với hành vi vi phạm được nêu trong Quyết định căn cứ Khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013. Vì nhiều lần gọi điện thoại mời bà Tuyết đến nhận quyết định xử phạt nhưng bà Tuyết không đến nhận, do vậy Thanh tra Sở đã gửi qua đường bưu điện. Đồng thời, sau khi gửi thì phát hiện có sai sót về hình thức văn bản của Quyết định nên Thanh tra Sở đã có cơng văn đính chính và gửi kèm Quyết định xử phạt số 23/QĐ-XPHC đã được chỉnh sửa và gửi lại cho cơ sở ngày 18/3/2014.
23/QĐ-- Bà Tuyết sau đó có đơn khiếu nại và tại buổi đối thoại, bà Tuyết trình bày “mục đích viết đơn để xem lại khoản tiền phạt có đúng khơng” mà khơng khiếu nại về hình thức của Quyết định.
- Ngày 07/04/2014 Sở có cơng văn số 167/CV-VHTTDL về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Tuyết và ngày 20/4/2014 Thanh tra Sở ban hành Quyết định số 01/QĐ-TTr ngày 20/4/2014 về việc giải quyết đơn khiếu nại với nội dung: “Giữ nguyên mức phạt 15.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm của bà Nguyễn Thị Tuyết”. Do đó, Thanh tra Sở cho rằng, việc kiểm tra, xử phạt như trên là đúng pháp luật. 5. Thời hiệu khởi kiện
Căn cứ quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính. Theo đó, bà Tuyết nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP vào ngày 19/03/2014 và bà nộp đơn khởi kiện ngày 02/5/2014.là còn thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">6. Thẩm quyền của Tòa án
Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 về Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.”. Theo đó, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L nên vụ án này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Tỉnh G.L.
7. Tóm tắt nội dung vụ án
- Ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã đến kiểm tra cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị Tuyết tại số 241 đường Lê Lai, thành phố P, tỉnh G.L. Sau khi kiểm tra, Đoàn kiểm tra lập Biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 11/BB-VPHC, theo đó cơ sở kinh doanh của bà Nguyễn Thị Tuyết có vi phạm như sau:
“Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan phịng số 11 có ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành khơng có Giấy kết hơn, đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục), phịng số 9 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có Giấy kết hơn đang ở chung phịng xem ti vi. Vào thời điểm kiểm tra tại phòng số 11, chủ cơ sở kinh doanh phịng trọ Hồng Lan khơng vào sổ bà Nguyễn Thị Lành.
Kết luận: Chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi phạm như trên”.
- Ngày 29/12/2013, Thanh tra Sở mời bà Nguyễn Thị Tuyết đến làm việc, tại buổi làm việc bà Tuyết viết bản tường trình, đã thừa nhận hành vi vi phạm và xin sửa chữa. Tại thời điểm này, bà Tuyết vẫn không bổ sung được giấy đăng ký kết hơn của các đối tượng nói trên.
- Ngày 16/01/2014, Thanh tra Sở đã làm tờ trình số 02/TT-TTr ngày 16/01/2021 xin gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính, tờ trình đã được Giám đốc Sở phê duyệt.
- Ngày 12/02/2014, Thanh tra Sở tiếp tục mời bà Tuyết đến làm việc và yêu cầu bà bổ sung giấy đăng ký kết hôn của các đối tượng nói trên. Tại đây, bà cũng viết bản tường trình về sự việc xảy ra tại cơ sở ngày 23/12/2013.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">- Ngày 09/03/2014, Bà Tuyết có buổi làm việc với Thanh tra Sở, bà Tuyết có ký vào biên bản kết luận hành vi vi phạm và mức phạt ở đầu khung theo quy định tại Khoản 1 Điều 125 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính Phủ.
- Ngày 10/03/2014, Trên cơ sở Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, Phó Giám đốc kiêm Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP.
Theo đó, xử phạt bà Nguyễn Thị Tuyết với mức phạt tiền là 15.000.000 đồng với lý do đã có hành vi vi phạm hành chính “thiếu tinh thần trách nhiệm, tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (áp dụng Khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ).”
- Ngày 18/03/2014, Thanh tra Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ban hành Công văn số 02/2014/CV-TTr để đính chính những sai sót về mặt hình thức văn bản của Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP.
- Ngày 24/03/2014, Bà Nguyễn Thị Tuyết không đồng ý với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP nên bà làm Đơn khiếu nại (lần đầu) gửi đến người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại là Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
- Ngày 27/03/2014, Thanh tra Sở gửi thông báo về việc thụ lý giải quyết khiếu nại và trực tiếp đối thoại với bà Tuyết. Tại buổi đối thoại, bà Tuyết trình bày “mục đích viết đơn khiếu nại để xem lại khoản tiền phạt có đúng khơng”, ngồi ra khơng có thắc mắc hay khiếu nại về mặt hình thức của Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2012.
- Ngày 07/04/2014, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L có Cơng văn số 167/CV-VHTTDL trả lời đơn khiếu nại ngày 24/03/2014 của bà Tuyết.
- Ngày 20/04/2014, Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra Quyết định số 01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (lần đầu) và kết luận vẫn giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">- Ngày 02/05/2014, Bà Nguyễn Thị Tuyết không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại trên, bà làm Đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh G.L yêu cầu hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.
- Ngày 13/05/2014, Thông báo thụ lý vụ án số 03/2014/TB-THC của Tòa án án nhân dân tỉnh G.L.
- Ngày 10/09/2014, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2014/QĐST-XX của Tòa án án nhân dân tỉnh G.L.
II. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA 1. Định hướng hỏi
- Xác định tư cách tham gia xét hỏi tại phiên tòa: Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.
- Xác định hướng bảo vệ: Đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện. - Xác định mục đích hỏi: Làm rõ những điểm chứng minh toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện hoàn toàn có đủ cơ sở để được cơng nhận.
2. Danh sách câu hỏi
a. Hỏi Người khởi kiện – Người đại diện theo ủy quyền Ông Mai Anh Tuấn: - Ơng cho biết thời điểm Đồn kiểm tra đến cơ sở kinh doanh của bà Tuyết là mấy giờ?
- Ông cho biết, tại thời điểm kiểm tra, bà Tuyết đã bị lập biên bản về những hành vi vi phạm gì?
- Tại thời điểm kiểm tra, Thanh tra Sở có phát hiện việc giao nhận tiền nào của các khách thuê với nhau để thực hiện hành vi mua bán dâm không?
- Tại thời điểm lập biên bản vi phạm, Thanh tra có giải thích về những hành vi vi phạm nêu trên hay không?
- Khi khách nam – nữ đến thuê trọ thì cơ sở của bà Tuyết yêu cầu khách xuất trình những giấy tờ gì? Có bắt buộc xuất trình giấy đăng ký kết hơn khơng?
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">- Ơng cho biết bà Tuyết nhận được Quyết định xử phạt số 23/QĐ-XP chính xác vào khi nào?
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP đã gây ra những thiệt hại gì cho bà Tuyết?
b. Hỏi Người bị kiện – Người đại diện theo ủy quyền Ông Dương Văn Thành: - Chánh Thanh tra Sở đã nhận định bà Tuyết có hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm đúng không?
- Tại thời điểm kiểm tra ngày 23/12/2013, Thanh tra có phát hiện hành vi giao – nhận tiền nào của các đối tượng thuê phòng tại cơ sở của bà Tuyết không?
- Vậy cơ sở nào để chứng minh khách th phịng tại nhà trọ Hồng Lan đã thực hiện hành vi mua dâm, bán dâm?
- Căn cứ pháp luật nào để Thanh tra Sở xác định việc các đối tượng giao cấu khơng có Giấy đăng ký kết hôn là hoạt động mua dâm, bán dâm?
- Tại Biên bản số 11 có nêu được hành vi vi phạm của cơ sở bà Tuyết hay không? - Thanh tra Sở đã căn cứ vào Nghị định 158/2013/NĐ-CP để lập Biên bản vi phạm trên khi Nghị định này chưa có hiệu lực là đúng hay sai?
- Tại sao giữa Biên bản số 11/BB-VPHC và Quyết định 23/QĐ-XP lại căn cứ theo 2 văn bản ở 2 lĩnh vực khác nhau?
- Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với vi phạm hành chính về phịng, chống bạo lực gia đình thơi có đúng khơng?
- Vậy việc Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành quyết định xử phạt đối với vi phạm hành chính về phịng, chống tệ nạn xã hội là đúng hay sai?
- Ông hãy cho biết Quyết định xử phạt 23/QĐ-XPHC được ban hành vào thời gian nào?
- Luật quy định từ ngày lập biên bản đến ngày ban hành quyết định xử phạt là bao nhiêu ngày?
- Thời hạn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Tuyết kể từ ngày lập Biên bản xử lý vi phạm đã q 60 ngày có đúng khơng?
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">- Tại sao người ký tên tại Văn bản xin gia hạn thời hạn ra quyết định theo Công văn số 02/TT-TTr ngày 16/01/2014 (bút lục 43) là Chánh Thanh tra Thượng tá Nguyễn Thạc trong khi người có thẩm quyền ký Quyết định xử phạt số 23/QĐ-XPHC là ông Trần Ngọc Minh?
c. Hỏi Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Thường:
- Ông hãy cho biết ông với bà Lành có mối quan hệ gì? Hai ơng bà đã đăng ký kết hơn chưa?
- Ơng và bà Lành có trao đổi tiền hoặc vật chất gì để thực hiện hành vi giao cấu khơng?
Ơng Phan Văn:
- Ơng cho biết, ơng và bà Nguyễn Thị Thùy là vợ chồng sắp cưới đúng không? - Khi Đồn kiểm tra Thanh tra Sở đến, ơng và bà Thuỷ đang làm gì? - Ơng và bà Thủy có thỏa thuận trao đổi tiền hoặc vật chất gì để thực hiện hành vi giao cấu không?
III. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI KHỞI KIỆN
Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị Đại diện Viện kiểm sát, thưa các vị Luật sư đồng nghiệp và toàn thể mọi người đang có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay.
Tơi là Luật sư Trịnh Phương Thảo, đến từ Văn phòng Luật sư Cơng Lý, Đồn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Hôm nay, theo yêu cầu của người khởi kiện và được sự chấp thuận của Q Tịa, tơi có mặt tại phiên tòa với tư cách là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết, trong vụ án “Kiện yêu cầu huỷ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L” do Toà án nhân dân tỉnh G.L thụ lý ngày 13/05/2014.
Qua phần trình bày của phía Người khởi kiện và phần hỏi cơng khai tại phiên tịa ngày hơm nay đã thể hiện rõ nội dung của vụ án. Tôi xin phép khơng tóm tắt lại nội dung tranh chấp trong vụ án.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Quyết định hành chính bị kiện trong vụ án này là Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L. Theo đó, Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ra Quyết định số 23 xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Tuyết có hành vi vi phạm tại Khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ và mức phạt là 15 triệu đồng. Quyết định số 23 ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp và chính đáng của bà Tuyết, do đó, việc bà Tuyết nộp đơn khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết là hoàn toàn hợp pháp. Căn cứ Khoản 1 Điều 30 và Khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015, khiếu kiện trong vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh G.L. Bên cạnh đó, ngày 20/04/2014 Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra Quyết định số 01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn khiếu nại Quyết định số 23 của bà Tuyết và kết luận vẫn giữ nguyên Quyết định số 23/QĐ-XP. Không đồng ý với giải quyết khiếu nại, ngày 02/05/2014 bà Tuyết nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh G.L. Như vậy, theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì việc khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết được thực hiện trong thời hiệu khởi kiện. Ngoài ra về thủ tục, căn cứ theo Khoản 1, 2 Điều 125, Điều 126, Điều 130 Luật Tố tụng hành chính 2015, Tịa án đã thực hiện đúng trình tự thủ tục thụ lý và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, phiên tịa ngày hơm nay diễn ra là đúng theo quy định của pháp luật.
Kính thưa Hội đồng xét xử, sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự tại phiên tồ hơm nay, tơi hồn tồn đồng ý với yêu cầu khởi kiện của thân chủ tơi, bởi Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 của Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L được ban hành không đúng quy định của pháp luật (sau đây gọi tắt là Quyết định số 23).
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L (sau đây gọi tắt là Biên bản số 11) đã vi phạm pháp luật về nội dung và áp dụng văn bản pháp luật chưa có hiệu lực.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sau đây gọi tắt là Luật XLVPHC), mẫu Biên bản vi phạm hành chính được ban hành kèm theo Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ thì Biên bản số 11 (Bút lục số 7, 8) có những vi phạm như sau:
(1) Không ghi thông tin của những người chứng kiến (Nguyễn Văn Thường, Phan Văn, Nguyễn Thị Lành, Nguyễn Thị Thùy Trang) nhưng cuối Biên bản lại có chữ ký của 4 người chứng kiến;
(2) Chưa xác định được hành vi vi phạm vào điểm, Khoản, Điều nào của Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013;
(3) Chỉ ký tên mà không ghi rõ họ và tên của một thành viên Đoàn kiểm tra; Bên cạnh đó, Biên bản số 11 cịn có vi phạm về áp dụng văn bản pháp luật chưa có hiệu lực theo quy định tại Khoản 1 Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008: “…Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực”. Cụ thể, Biên bản số 11 được lập vào ngày 23/12/2013 nhưng lại áp dụng Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 có hiệu lực vào ngày 01/01/2014 để xác định hành vi vi phạm là hồn tồn khơng có cơ sở. Mặt khác Quyết định số 23 lại áp dụng Nghị định 167/2013/NĐ-CP để ra quyết định xử phạt. Điều này có thể thấy rằng Biên bản số 11 và Quyết định số 23 có sự khơng thống nhất trong việc áp dụng văn bản pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định Biên bản số 11 đã vi phạm quy định pháp luật. Do đó khơng thể lấy một văn bản vi phạm pháp luật, khơng có giá trị pháp lý để làm căn cứ ra quyết định xử phạt hành chính đối với thân chủ tôi.
Thứ hai, Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ban hành Quyết định số 23 là không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Căn cứ quy định tại Điều 69 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với những hành vi quy định tại Mục 4 Chương II Nghị định 167/2013/NĐ-CP, cụ thể là “vi phạm hành chính về phịng, chống bạo lực gia đình”. Cịn những hành vi quy định tại Mục 2 Chương II Nghị định 167/2013/NĐ-CP về “vi phạm hành chính về phịng, chống tệ nạn xã hội” thuộc thẩm quyền xử phạt của Thanh tra Lao động – Thương binh và Xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Tuy nhiên, xem xét Quyết định số 23, Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L căn cứ xử phạt theo Khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP là quy định thuộc Mục 2 Chương II Nghị định 167/2013/NĐ-CP, thuộc thẩm quyền xử phạt của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội. Mặt khác, xem xét hồ sơ vụ án khơng có bất cứ văn bản nào về việc Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội ủy quyền cho Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch xử phạt đối với trường hợp của bà Tuyết.
Như vậy, việc Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra Quyết định số 23 xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP là vượt quá thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, Quyết định số 23 được ban hành đã vi phạm quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC về Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.”
Theo đó, thời hạn tối đa để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính gồm cả trường hợp xin gia hạn là không quá 60 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong vụ án này, Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC được lập ngày ngày 23/12/2013 nhưng đến ngày 10/3/2014 (ngày thứ 77 kể từ ngày lập biên bản) Chánh Thanh tra Sở mới ban hành Quyết định số 23, do đó đã vượt quá thời hạn tối đa để ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
</div>