Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tìm hiểu kết cấu hoạt động và tính chọn sơ bộ cơ cấu quay khiên đào của máy khoan hầm tbm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>LỜI NĨI ĐẦU </b>

Trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc xây dựng các cơ sở hạ tầng trong đó có các máy móc hỗ trợ trong việc đào hầm cóý nghĩa hết sức quan trọng. Hiện nay có nhiều cơng trình thi cơng hầm đường,chính vì vậy mà máy móc có vai trị hết sức quan trọng, khơng thể thiếu trong các công việc đào hầm. Hiện nay, các nhu cầu về máy móc trong các cơng trình là rất nhiều, các cơng trình hầm liên tục được xây dựng trong quá phát triển của xã hội đó là một minh chứng cho thấy rõ điều này.

Hiện nay, nhu cầu về máy đào hầm để phù hợp với các điều kiện làm việc, khn khổ về kích cơ cũng như phạm vi sử dụng khác nhau, khi làm việc cho năng suất và hiệu quả làm việc cao, tuy nhiên việc tìm hiểu, nghiên cứu về chúng để có thể bảo dưỡng, sửa chữa cũng gặp nhiều khó khắn.

<b>Em được nhận đồ án môn máy xây dựng chuyên dùng đó là: “Tìm hiểu kết cấu hoạt động và tính chọn sơ bộ cơ cấu quay khiên đào của máy khoan hầm TBM ”. Quá trình tìm hiểu giúp em hiểu rõ hơn về việc sử </b>

dụng, vận hành, sửa chữa bộ phận có trên máy và mở mang nhiều kiến thức về loại máy này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Chương 1. TÌM HIỂU KẾT, CẤU HOẠT ĐỘNG CỦA THIẾT BỊ</b>

<b>1.1. Giới thiệu chung1.1.1. Khái niệm</b>

<i>TBM( tunnel boring machine) là thiết bị khoan hầm có thể thi cơng trên mọi </i>

loại địa chất từ đá cứng đến đất yếu, đất sét, đất bồi hay đất cát dưới mực nước ngầm, đi xuyên núi hay lòng biển.TBM là thiết bị đào và làm đường hầm bằng phương pháp nghiền nát đá, hồn tồn khơng gây nổ. Đầu máy có đường kính 5,5m, nặng 450 tấn được lắp 37 mũi khoan làm bằng hợp kim đặc biệt gọi là "blackdiamon", có thể đâm thủng những lớp đá cực cứng. Cùng với việc đào không khoannổ và vận chuyển vật liệu đá đào ra ngoài bằng băng chuyền, thiết bị này đồng thời cịn lắp dựng bê tơng đúc sẵn vỏ đường hầm. Nghĩa là máy đi đến đâu đường hầm được hồn thiện ngay đến đó

Trong điều kiện nền đất yếu với các loại đất kết dính có độ sét hoặc hàm lượng phù sa cao và khơng thấm nước thì việc sử dụng khiên đào là giải pháp lựa chọn hợp lý.

TBM là loại khiên cần bằng áp của herrenknecht được sử dụng trong các điểu đào bởi đầu cắt của khiên sẽ được gia cố gương đào. Chất tạo bọt được bơm vào trước đầu cắt làm cho đất đào kết dính lại đảm bảo kiểm sốt chính xác áp lực hỗ trợ bề mặt cũng như dễ dàng đưa được đất đào ra ngoài.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1.1.2. Ưu điểm của phương pháp thi cơng</b>

Có thể thi cơng trên mọi loại địa chất từ đá cứng đến đất yếu, đất sét, đất bồi hay đất cát dưới mực nước ngầm, đi xun núi hay dưới lịng biển

TBM có độ an tồn cao, thân thiện mơi trường và khơng làm rung động, chấn động như nổ mìn

Thích hợp áp dụng cho đường hầm đô thị

Thi công không ảnh hưởng đến các cơng trình xung quanh. Máy TBM đào đất, đá và lắp vỏ hầm theo một chu trình được kiểm sốt nghiêm ngặt, khi thi cơng hầm bằng TBM thì trên mặt đất xe cộ vẫn chạy bình thường

Thi công nhanh là ưu điểm nổi bật của công nghệ TBM vì mỗi ngày có thể đào vàlắp vỏ bê tơng trung bình từ 10-20m/ngày trong đất yếu và 50-100m/ ngày trong địa chất là đá. Đó là chưa kể đến những ưu điểm khác như ít làm ơ nhiễm mơi trường, hiệu quả kinh tế cao khi cơng trình được đưa vào sử dụng nhanh hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>ngănĐệm </small>

<small>Van </small>

<small>Mạch bùn</small>

<small>VữaKhoang </small>

<small>đàoKhiên </small>

<small>Động cơ điện</small>

<small>Máy nghiềnBánh </small>

<small>Cơ cấu lắp khiênKhoang làm </small>

<small>việc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>Khiên đào máy TBM</i>

Một hệ thống TBM có thể dài đến 600 feet ( khoảng 183m). Buồng đào nằm phía sao bánh cắt và đường ngăn cách với buồng làm việc bởi một bức tường chìm.

<small>Khoang đào</small>

<small>Xe con vận chuyển</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Đầu cắt</i>

Đầu cắt ở phía trước máy được sử dụng để đào và vận chuyển đất đến vùng trộn ( các đầu cắt phải phù hợp với từng điều kiện địa chất)

<i>Buồng đào và buồng làm việc</i>

Buồng đào được lấp đầy bằng dung dịch betonit và 2/3 buồng làm việc. Dưới tác dụng của đệm khí sẽ tạo ra áp suất cho bentonite giúp cân bằng áp lực với đất và nước ngầm trong quá trình đào. Tùy thuộc vào áp lực của đất và nướcngầm, ta có thể điều chỉnh đệm khí sao cho phù hợp bằng van khí.

<small>Áp lực tạo ra bởi bentonite</small>

<small>Đệm khí tạo ra áp suất cho bentonite</small>

<small>Áp lực đấtÁp lực nước ngầm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Các vật liệu đào được rơi vào buồng khai quật. Các hạt kích thước nhỏ được hịa tan phần lớn bentonite trong khi các hạt có kích thước lớn chìm xuống đáy và được hai máy nghiền xử lí. Phần mở của ống hút được bảo vệ bởi lưới đầu phun.

Vật liêụ đào được bơn qua đường hút và vận chuyển đến máy lọc. Tại đâydất và vật liệu sẽ được tách ra khỏi bentonite và bentonite sạch được chuyển lại mạch bùn.

<small>Máy nghiềnỐng hút </small>

<small>được bảo vệ bởi lưới</small>

<small>Đường dẫn bentonite sạch</small>

<small>Bentonite </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>Vận chuyển vỏ hầm.</i>

Các đoạn vỏ hầm được chuẩn bị tại khoang phía trước các toa chuyển đất đào. Các đoạn này được xoay vào vị trí nhờ cần lắp dựng theo một vị trí xác định. Cần lắp dựng đưa các tấm từ toa chứa vào vị trí đã được định sẵn. Cần dựng các quá trình này đến khi đốt hầm được hoàn thành. Các đoạn đốt hầm được lắp ráp khi TBM đào. Đưa các đoạn vỏ hầm vào vị trí mất khoảng 5 phút tức là mất khoảng 60 phút để hoàn thành một đốt. Trong khi lắp đặt đốt vỏ hầm, TBM duy trì áp lực lên đất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Dùng bu lông để gắn các đoạn lại với nhau</i>

Miếng đệm dọc cạnh của tấm bê tơng giúp nó chống nước. Các bu lông được sử dụng để gắn các đoạn lại với nhau. Lỗ ở giữa mỗi tấm sẽ được bít chặt sau đó. Cần dựng tiếp tục đưa các đoạn vào vị trí.

<i>Phân đoạn chính</i>

Cần dựng đẩy đoạn khóa vào vị trí, các kích gắp khớp kiểm sốt hướng đào. Kích đẩy được dung để đẩy TBM tiến lên và duy trì áp lục cần thiết lên gương.

<b>1.2.2. Các bộ phận chính </b>

Phương pháp đào hầm bằng TBM có nhiều ưu điểm so với khoan hầm thủ công hoặc khoan nổ mìn. Nếu trong phương pháp khoan mìn hoạc đào thủ công tốc độ mở lớn nhất trên một gường đào là 30-100m/tháng cho đường ngầm ơtơ 2 luồng thì cũng trong đất như vậy TBM có thể đảm bảo tố độ mở hầm 300-400m/tháng và lớn hơn. Giá thành xây dựng giảm trung bình 20-30%. Đặc biệt sử dụng TBM có hiệu quả khi đào đường hầm kéo dài hơn 1 đến 1,5 km

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

TBM được trang bị cơ cấu đào đất, gầu và băng tải để vận chuyên đất lên các phương tiện vận chuyển TBM tác động mang tính lựa chọn được sử dụng phổ biến.Bộ phận làm việc của chúng được di chuyển trên cần gắn trên phần thân của máy đào, máy kéo hoặc máy tời chuyên dùng. Máy có một hoạc hai đầu cắt-cần lái cho phép tạo nên hầm đào dạng bất kỳ nào : vòm, chữ nhật, tròn, elip vv… Nhược điểmcủa TBM là không thể sử dụng chúng trong điều kiện đất thay đổi trong phạm vi rộng. Tiếp tục hoán thiện TBM là xem xét tạo ra các cơ cấu tác động trong phạm visử dụng rộng với các bộ phận làm việc roto hoạc nhiều cần trang bị cơ cấu treo để

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

lắp đặt hệ thống chống tạm thời cũng như các phương tiện thơng gió và hút bụi. Cơng nghệ đào hầm- đối với đất mềm, hầm ngầm được đào từng đoạn trên toàn bộ tiết diện kết hợp với hệ thống chống đỡ tạm thời. phương pháp này chỉ nên sử dụngcho các đoạn hầm ngắn từ 200-300m. Các khu vực có đất đá đủ cứng có thể dùng các thiết bị sau: Đất có hệ số kiên cố f=4-6 phổ biến sử dụng phương phát đặt bậc dưới, trong đó phần trên bậc được mở ngay trên tồn bộ chiều dài hầm đào hoặc vượt trước so với phần dưới với l= 30-50m

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Đất đá dạng phiến, sét kết aleurolit v.v. có hệ số kiên cố f = 3-5, cúng như đất yếu no nước thường sử dụng phương pháp mới của áo (HATM). Đầu tiên tiến hành đàophần đỉnh hầm, gia cường bằng bê tông - phun dày 15-20cm, phun lên lớp lưới thép(h.18). Có thể dùng hệ chống liên hợp từ bê tông phun kết hợp neo hoặc cung vịm. Vỏ mềm bê tơng phun có khả năng biến dạng mà khơng bị sụt lở nhờ tính từ biến của bê tơng phun. Sau khi khối đất xung quanh tắt biến dạng (ghi theo đồng hồ neo) tiến hành đào phần giữa của hầm và đổ bê tông vỏ hầm hoặc bê tông - phun dày 25-30cm. Khi có nước ngầm trong hầm đào, cần dán lớp cách nước giữa lớp bọc ngoài và vỏ hầm. Trong phương pháp này kết cấu vỏ hầm được giảm nhẹ rất nhiều nhờ tận dụng quá trình ngưng từ biến của đất, tuy nhiên dễ xuất hiện sự cố khi vành đường hầm lún nhiều,đặc biệt khi tải trọng ngồi khơng đều.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>Lắp đặt cốp pha cho bê tông tại chỗ</i>

Khiên mở hầm là hệ chống di động. Trong phương pháp này đất được đào và vỏ hầm cố định được lắp đặt gần như đồng thời. Các khiên khác nhau về hình dáng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

kích thước mặt cắt, khả năng chịu lực, phương pháp đào đất và gia cường mặt gương hầm v.v. Hình dạng mặt cắt ngang của các khiên rất khác nhau: tròn, vòm, chữ nhật, thang, elip v.v... Trong phần lớn các trường hợp, khiên có dạng hình trịn tương ứng với dạng vỏ hầm. Nhưng sử dụng tiết diện đường hầm hiệu quả hơn lại là vị hầm có dạng chữ nhật. Theo phương pháp đào đất khiên có loại chính: - Khơng cơ giới hố: đất được đào thủ công hoặc dùng dụng cụ cơ giới cầm tay. - Cơgiới hoá: tất cả các thao tác đào đất, thu dọn đất hoàn toàn được cơ giới hố. Cấu tạo khiên : - Vịng dao cắt đất theo chu tuyến hầm đào và để bảo vệ người làm việc trong gương hầm. Khi mở hầm trong đất mềm, vịng dao có phần trên rộng radầm dẫn, còn trong đất yếu- mái đua ngăn ngừa sự cố. - Vòng tựa cùng vòng dao là các kết cấu chịu lực chính của khiên. các kích để di chuyển khiên được phân bố đều theo chu vi vòng tựa. khi đường kính khiên khoảng 10m thường được bố trí 30-36 kích. - Vỏ đi gia cường chu tuyến của hầm đào tại vị trí thi cơng vịng tiếp theo của vỏ hầm. Các khiên khơng cơ giới hố được trang bị bổ sung các vách ngăn ngang và đứng, các tấm sàn đua, cũng như các kích sàn và gương hầm. các vách ngăn ngang và đứng tạo cho kết cấu khiên độ cứng cần thiết và chia gương hầm thành các ơ lưới, trong đó đất được đào đi. Vấn đề hoàn thiện các kết cấu của khiênđược tiến hành theo hướng tạo ra những khiên di chuyển độc lập với vỏ hầm kết hợp tựa vào vòng chống nhờ vỏ ống lồng v.v…

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Các khiên cơ giới hoá. Khiên cơ giới hoá được trang bị các bộ phận để đào đất và gia cường mặt gương hầm, ngồi ra các khiên cịn được trang bị các cơ cấu để bốc đất và đưa ra ngồi giới hạn của khiên. Các khiên cơ giới hố giảm mức độ nặng nhọc, tăng tốc độ mở hầm, đảm bảo chu tuyến hầm đào phẳng, cho phép sử dụng các dạng vỏ hầm hợp lý (ép vào đất, nén ép toàn khối v.v..)

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Phụ thuộc vào loại đất, có thể sử dụng các bộ phận đào đất khác nhau, ví dụ: - Đối với đất sét, á sét và đá phiến gốc sét khô và cứng có hệ số kiên cố f tới 2,5-3. Bộ phận đào đất của khiên có dạng vơđilơ 4 tia với lưỡi cắt dạng thanh và lưỡi cắt dạng đĩa (h.21b). - Đất sét khơ mácnơ và sét phiến có hệ số kiên cố f tới 3 thường sử dụng khiên với bộ dẫn động thuỷ lực (h.21c). - Đất phân lớp và đất hỗn hợp nên dùng các khiên cơ giới có bộ phận làm việc dạng cần, tác động lựa chọn (h.22a). - Đất đá bị phá hoại có hệ số kiên cố f tới 5 có thể sử dụng các khiên cơ giới có bộ phận làm việc kiểu phay (h.22b).

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Đất khơng dính có độ ẩm tự nhiên, có thể sử dụng các khiên có sàn ngăn nằm ngang đua ra chút ít sau vòng dao và nằm ở độ cao 0,8-1,2m. Nhờ vậy gương hầm được chia ra nhiều tầng, trong mỗi tầng đó, đất được đổ trên các sàn theo góc

nghiêng tự nhiên đảm bảo ổn định cho gương hầm không cần gia cường cưỡng bức (h.23). Để mở hầm ngầm trong đất no nước khơng dính, có thể sử dụng hệ thống khiên cơ giới hoá khác nhau, đảm bảo đào đất và gia cường mặt gương hầm

(h.24a). Để mở đường hầm trong đất no nước không ổn định sử dụng các khiên có buồng hơi ép gần gương hầm hoặc các khiên có buồng chứa huyền phù bê tơng gầngương hầm (h.24b). Đất sét dính và bùn có độ thấm nước thấp, sử dụng các khiên cơ giới có gia tải đất tạo nên trong buồng cạnh gương lò nhờ nén chặt đất đào. Các tấm được trang bị bộ phận làm việc dạng rôto và màng liên tục tách buồng cạnh gương lò khỏi phần còn lại của khiên (h.24c)

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Như vậy, các khiên cơ giới hiện đại cho phép tiến hành mở hầm trong các điều kiệnđịa chất cơng trình rất khác nhau. Nhược điểm cơ bản của chúng là vùng sử dụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

cho từng cơ cấu riêng bị hạn chế. do đó tiếp tục hồn thiện các khiên cơ giới hoá được tiến hành theo hướng đa năng hố, sao cho có thể sử dụng ln chuyển các bộphận làm việc để đào các loại đất khác nhau hoặc sử dụng các bộ phận làm việc liên hợp cấu tạo từ nhiều chi tiết, mỗi chi tiết phục vụ cho một vài loại đất nhất định. Lắp ráp các khiên và trang thiết bị cần thiết cho chúng được thực hiện trước khi mở hầm. Phụ thuộc vào dạng cơng trình ngầm, chiều sâu chơn ngầm của chúng,tình hình địa chất cơng trình, các khiên có thể được lắp ráp trực tiếp cạnh cửa chínhcủa đường hầm, trong hố đào lộ thiên hoặc qua giếng đứng hoặc được lắp ráp trongcác buồng ngầm đặc biệt

<b>Chương 2. Tính chọn sơ bộ cơ cấu quay của khiên đào</b>

<b>2.1 Cơ cấu quay của khiên đào</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

*Nguyễn lí dẫn động: Lưỡi cắt được dẫn động bằng động cơ điện thông qua bộ truyền bánh răng ăn khớp trong.

<b>2.2 Tính chọn cơ bộ cơ cấu quay của khiên đào</b>

Các thông số yêu cầu: D = 17,5m; F = 1600KN; v= 3500m/s Lưỡi cắt Vành răng Bánh răng Động cơ điện Trong đó: D – đường kính khiên đào; F – Lực vòng trên khiên đào; v – vận tốc khiên đào 2.2.1. Chọn động cơ

</div>

×