Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn: CÔNG CUỘC XOÁ NẠN MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN (1945 - 1954) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 99 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN XUÂN HỒNG




CÔNG CUỘC XOÁ NẠN MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN
(1945 - 1954)


Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.54


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ





NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh












THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN XUÂN HỒNG




CÔNG CUỘC XOÁ NẠN MÙ CHỮ Ở THÁI NGUYÊN
(1945 - 1954)



Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.54


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ





NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh










THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
MỤC LỤC


Mở đầu 1
1- Lí do chọn đề tài 1
2- Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 4
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5
5. Đóng góp của luận văn 6
6. Bố cục 6
Chƣơng 1: Tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945
7
1.1. Tỉnh Thái Nguyên dƣới ách cai trị của thực dân Pháp 7
1.2. Khái quát tình hình giáo dục ở tỉnh Thái Nguyên 10
Chƣơng 2: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1945 - 1950 26
2.1. Chủ trƣơng của chính quyền cách mạng về “diệt giặc dốt” 26
2.2. Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm
1945 – 1950 34
2.2.1. Từ năm 1945 đến năm 1947 34
2.2.2. Từ năm 1947 đến năm 1950 51
Chƣơng 3: Công cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1951 -
1954 63
3.1. Khái quát tình hình Thái Nguyên từ 1951 – 1954 63
3.2. Cuộc vận động xoá nạn mù chữ 65
Kết luận 76
Tài liệu tham khảo 84
Phụ lục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
MỞ ĐẦU
1- Lí do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra

đời. Vừa mới ra đời, Nhà nƣớc cách mạng non trẻ đã phải đối mặt với nhiều
khó khăn thử thách rất nghiêm trọng. Bên cạnh giặc ngoại xâm, giặc đói, là
giặc dốt do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân
số không biết chữ.
Trong tình hình ấy, Hội đồng Chính phủ họp và xác định việc xoá nạn
mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân là một trong sáu nhiệm vụ
cấp bách cần giải quyết của Nhà nƣớc cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhận xét: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một
chiến dịch chống nạn mù chữ” [12, tr.121].
Ngày 8-9-1945, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình
dân học vụ để xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Tháng 10-1945, Hồ Chí Minh ra
Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học: “Những người đã biết chữ hãy dạy
cho những người chưa biết chữ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức
mà học cho biết chữ: Vợ chưa biết thì chồng bảo, cha mẹ không biết thì con
bảo, người ăn người làm chưa biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở
lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm, láng
giềng…” [36, tr.12].
Thực hiện “Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, tại Thái Nguyên, phong trào chống nạn mù chữ diễn ra sôi nổi, lôi
cuốn hàng vạn ngƣời tham gia, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo và địa vị
xã hội. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, phong
trào bình dân học vụ ở Thái Nguyên vẫn tiếp tục phát triển mạnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Cuộc đấu tranh chống nạn thất học, xoá mù chữ trong cả nƣớc nói chung
và của tỉnh Thái Nguyên nói riêng có một vai trò rất quan trọng trong cuộc
đấu tranh củng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ (1945-1946) và
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lƣợc (1946 –
1954). Vì vậy, nghiên cứu quá trình hoạt động và thành tích của phong trào

xoá nạn mù chữ ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954 là việc
làm rất cần thiết, có ý nghĩa khoa học. Mặt khác, việc nghiên cứu này còn có
ý nghĩa thực tiễn đối với công cuộc xoá mù chữ hiện nay ở Thái Nguyên.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Công cuộc xoá nạn mù chữ
ở Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
Khoa học Lịch sử.
2- Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công cuộc xoá nạn mù chữ ở nƣớc ta nói chung và tỉnh Thái Nguyên
trong kháng chiến chống Pháp nói riêng là một đề tài thu hút nhiều nhà khoa
học nghiên cứu dƣới những góc độ khác nhau.
Trong cuốn “Về một nền giáo dục bình dân” (Bộ Quốc gia giáo dục xuất
bản, Hà Nội, 1946), tác giả Vũ Đình Hoè nêu rõ: Cách mạng tháng Tám thành
công, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đã đặt ra yêu cầu phải xây
dựng một nền giáo dục cho tất cả mọi ngƣời dân lao động. Tác giả đã trình
bày về cách thức tổ chức nền giáo dục bình dân, về hình thức và phƣơng pháp
tổ chức các lớp học bình dân, trong đó có Bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ
thời kì 1945 - 1954.
Cuốn “Việt Nam chống nạn thất học” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1980) của
tác giả Ngô Văn Cát đã trình bày công cuộc chống nạn thất học ở Việt Nam từ
trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1980. Nội dung cuốn sách
đƣợc chia làm 4 phần; trong đó phần một tác giả đã làm rõ công cuộc chống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
nạn thất học, đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam đặt thành một bộ phận trong
chính sách cách mạng, đã từng bƣớc trở thành phong trào khá mạnh mẽ trƣớc
Cách mạng tháng Tám. Trong phần hai, tác giả Ngô Văn Cát đã trình bày khá
sâu sắc về phong trào xoá nạn mù ở Việt Nam trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954).
Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn thất học, nâng

cao dân trí” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1986) của tác giả Vƣơng Kiêm Toàn đã
trình bày quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phản đối chính sách giáo
dục nô dịch của thực dân Pháp và sự cần thiết phải xây dựng một nền giáo
dục mới chống nạn thất học, nâng cao dân trí. Tác giả còn nêu rõ sự quan tâm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống nạn thất học, nhƣ ra Lời kêu gọi toàn dân
chống nạn thất học, các bài phát biểu khi tham dự các buổi khai giảng, các
buổi tập huấn giáo viên bình dân học vụ…
Trong cuốn “45 năm phát triển giáo dục Việt Nam” (Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1992), tác giả Phạm Minh Hạc đã làm rõ các bƣớc phát triển của nền
giáo dục nƣớc ta qua các giai đoạn chống Pháp 1945 - 1954, chống Mĩ 1954 -
1975 và thời kì cả nƣớc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội 1975 - 1990. Dƣới
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc hệ thống giáo dục ngày càng hoàn thiện,
bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông còn có hệ thống giáo dục Bình dân học
vụ mà sau này là Bổ túc văn hoá. Nội dung và chƣơng trình giáo dục luôn
đƣợc đổi mới, chất lƣợng giáo dục ngày càng đƣợc nâng cao. Cuốn sách đã ít
nhiều đề cập đến công cuộc xoá nạn mù chữ của Đảng và nhân dân ta.
Luận án Phó Tiến sĩ “Công cuộc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá ở
Bắc Bộ (1945 – 1954)” của tác giả Nguyễn Mạnh Tùng (Trƣờng Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội, 1996) không chỉ làm rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc đối
với công cuộc “diệt giặc dốt”, mà còn làm rõ các hình thức tuyên truyền, vận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
động học viên, tổ chức, duy trì lớp học, kết quả và ý nghĩa của công tác xoá
nạn mù chữ.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tập I (1936–1965)” (Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, 2003), đƣợc biên soạn công phu, nghiêm
túc, dựng lại một cách trung thực, khách quan quá trình hình thành và phát
triển của Đảng bộ tỉnh. Cuốn sách đã ghi lại những thành tựu to lớn của Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có

bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ thời kì kháng chiến chống Pháp.
Cuốn lịch sử Đảng bộ, lịch sử quân sự các huyện, thành đều đề cập ít
nhiều đến công tác xoá mù chữ trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tuy nhiên, theo chúng tôi đƣợc biết, cho đến nay chƣa có một công trình
nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về phong trào bình dân học vụ, xoá nạn mù
chữ ở tỉnh Thái Nguyên. Mặc dù vậy, những công trình đã đƣợc công bố nói
trên đều là những tài liệu quan trọng giúp tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu và
hoàn thành Luận văn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là: Công cuộc xoá nạn mù chữ ở Thái
Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Thái Nguyên.
- Thời gian: Từ năm 1945 đến năm 1954. Tuy nhiên, để làm rõ yêu
cầu của đề tài, Luận văn đề cập đến tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trong
thời gian trƣớc năm 1945.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
- Trình bày hệ thống quá trình triển khai thực hiện chủ trƣơng phát
động phong trào thanh toán nạn mù chữ ở tỉnh Thái Nguyên trong kháng
chiến chống thực dân Pháp.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức xoá nạn mù
chữ ở Thái Nguyên.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng: Các văn kiện Đảng, những
bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kì 1945-1954; các báo cáo,
thông tri của Liên khu Việt Bắc, Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Uỷ ban kháng chiến hành
chính tỉnh Thái Nguyên và các huyện trong tỉnh, các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học đã đƣợc công bố, các hồi kí, bút kí của những cán bộ tham gia phong
trào xoá nạn mù chữ từ năm 1945 đến năm 1954.
Ngoài những nguồn tài liệu thành văn nêu trên, trong quá trình thực hiện đề
tài, chúng tôi còn thu thập thêm nguồn tài liệu qua lời kể của những cán bộ, giáo
viên tham gia phong trào này.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết hợp
phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Các phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu,
tổng hợp cũng đƣợc sử dụng để làm sáng tỏ nội dung đề tài. Ngoài ra, chúng
tôi còn sử dụng phƣơng pháp điều tra, phỏng vấn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống quá trình
xoá nạn mù chữ ở Thái Nguyên trong những năm 1945 – 1954.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy
và học tập lịch sử địa phƣơng tỉnh Thái Nguyên.
- Rút ra những kinh nghiệm quý báu về hình thức và biện pháp xoá nạn
mù chữ, từ đó vận dụng vào công cuộc xoá nạn mù chữ hiện nay trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên và trên cả nƣớc.
- Luận văn còn góp phần giáo dục truyền thống hiếu học cho nhân dân
các dân tộc tỉnh Thái Nguyên.
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng nội dung:

Chƣơng 1: Tình hình giáo dục ở Thái Nguyên trƣớc Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Chƣơng 2: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những
năm 1945 – 1950.
Chƣơng 3: Cuộc vận động xoá mù chữ ở Thái Nguyên trong những
năm 1951 – 1954.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
CHƢƠNG 1
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC Ở THÁI NGUYÊN
TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1.1. Tỉnh Thái Nguyên dƣới ách cai trị của thực dân Pháp.
Lợi dụng sự suy yếu của xã hội phong kiến Việt Nam, từ giữa thế kỉ
XIX, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lƣợc nƣớc ta. Thái độ hèn
nhát, đầu hàng của vua quan triều Nguyễn là một trong những nguyên nhân
chủ yếu làm cho nƣớc ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng và đặt bộ máy cai trị ở các tỉnh
thuộc Nam Bộ, Trung Bộ và đồng bằng Bắc Bộ, thực dân Pháp bắt đầu đem
quân đánh chiếm các tỉnh miền núi phía Bắc.
Ngày 17-3-1884, từ Bắc Ninh, thực dân Pháp đem quân đánh chiếm Thái
Nguyên. Hai ngàn quân Thanh (Trung Quốc) bỏ chạy, nhƣng quân xâm lƣợc
đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân các dân tộc cùng với 600
quân của triều đình do Nguyễn Quang Khoáng chỉ huy. Chiều 19-3, Nguyễn
Quang Khoáng tử trận, quân Việt Nam buộc phải rút ra khỏi thành Thái
Nguyên cùng với nhân dân tổ chức đánh du kích, tiêu hao dần lực lƣợng quân
đội Pháp. Chiều ngày 19-3, quân Pháp ồ ạt tiến vào trong thành, cƣớp 39 khẩu
súng đại bác (trong đó có 25 khẩu bằng đồng), 20 súng máy, 200 súng trƣờng
cùng nhiều đạn dƣợc, thuốc súng và tiền, gạo dự trữ. Tuy chiếm đƣợc thành
Thái Nguyên, nhƣng chúng thƣờng xuyên bị quân ta đánh du kích quấy rối,

nên ngày 21-3-1884, sau khi đã phá thành, tƣớng Bơrie đờ Lislơ hạ lệnh cho
quân Pháp rút về Bắc Ninh.
Sáng ngày 15-4-1884, hai đại đội quân Pháp và một số nguỵ quân dƣới
quyền chỉ huy của thiếu tá Râygát từ Đa Phúc hành quân qua Phổ Yên lên
đánh chiếm Thái Nguyên lần thứ hai. Đến Lƣu Xá bị quân ta chặn đánh quyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
liệt, nên mãi đến 13 giờ 10 phút ngày 16-4, chúng mới chiếm đƣợc thành.
Quân ta rút khỏi thành, nhƣng vẫn tiếp tục tổ chức bao vây cắt đứt các đƣờng
tiếp tế lƣơng thực, thực phẩm của quân Pháp. Bị đẩy vào tình thế khó khăn,
ngày 19-4-1884, quân Pháp lại phải bỏ thành Thái Nguyên rút qua Phú Bình
về Bắc Ninh.
Sau hai lần đánh chiếm vẫn không giữ đƣợc thành Thái Nguyên, ngày
10-5-1884, từ Bắc Ninh quân Pháp lại tổ chức một cánh quân lớn do trung
tá Đonniê chỉ huy, đánh chiếm Thái Nguyên lần thứ ba. Trƣớc sức mạnh áp
đảo của kẻ thù, tỉnh lị Thái Nguyên thất thủ, thực dân Pháp chiếm giữ đƣợc
thành Thái Nguyên lâu dài.
Nhƣ vậy, phải trải qua gần hai tháng với ba cuộc hành quân quy mô lớn,
thực dân Pháp mới đánh chiếm và giữ đƣợc thành Thái Nguyên. Sau đó, từ
thành Thái Nguyên, quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng trên địa bàn các
huyện trong tỉnh.
Sau khi chiếm đƣợc thị xã Thái Nguyên, thực dân Pháp ráo riết xây dựng
bộ máy đàn áp, cai trị. Chúng chia tỉnh Thái Nguyên thành 7 huyện: Tƣ Nông,
Phổ Yên, Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ, Văn Lãng, Phú Lƣơng và châu Định
Hoá, với 51 tổng, 199 làng. Ngoài tỉnh lị Thái Nguyên và các huyện lị, châu
lị, chúng còn đặt thêm 3 trung tâm hành chính tại Chợ Chu (Định Hoá),
Phƣơng Độ (Phú Bình) và Hùng Sơn (Đại Từ).
Bộ máy cai trị của Pháp ở cấp tỉnh gồm có một viên Công sứ ngƣời Pháp
thuộc ngạch quan cai trị hạng ba làm chủ tỉnh; một viên Phó Công sứ thuộc

ngạch quan cai trị hạng tƣ; 2 tham tá; 3 thanh tra lính khố xanh (ngoài ra còn
có một đại diện Công sứ tại Hùng Sơn, 8 trƣởng trại lính khố xanh, 2 nhân
viên thuế đoan và độc quyền, một nhân viên ngành công chính, một nhân viên
bƣu điện, một viên chức ngạch quan cai trị hạng năm đại diện Công sứ tại
Chợ Chu, một tham tá bậc nhất đại diện Công sứ tại Phƣơng Độ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp là quan lại ngƣời Việt
từ tỉnh xuống các châu, huyện gồm một Án sát mang hàm Tuần phủ phụ trách
chung toàn tỉnh; một Thƣơng tá phụ tá cho Án sát; 2 Tri phủ (Phú Bình và
Đại Từ); 4 Tri huyện (Phú Lƣơng, Phổ Yên, Võ Nhai, Đồng Hỷ) và Tri châu
Định Hoá. Tại trung tâm hành chính Phƣơng Độ (Phú Bình), có 1 quan lại
mang hàm Tri phủ cùng với đại diện của Công sứ Pháp phụ trách chung; 1
giáo thụ; 1 thông ngôn; 1 lại mục; 2 nhân viên bƣu điện Chợ Chu và Chợ
Mới. Ở các tổng, có các Chánh tổng, Phó tổng cai quản; ở làng có Lí trƣởng,
Phó Lí trƣởng và Hội đồng kì hào, kì mục điều hành công việc. Hầu hết các
viên quan nắm quyền cai trị từ cấp làng trở lên ở Thái Nguyên đều thuộc giai
cấp địa chủ phong kiến cấu kết làm tay sai cho thực dân Pháp.
Bên cạnh bộ máy cai trị, thực dân Pháp còn thiết lập bộ máy đàn áp
với lực lƣợng quân sự lớn đƣợc bố trí ở 37 đồn binh rải khắp các châu,
huyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Mỗi đồn binh lẻ có khoảng từ 30
đến 50 lính, những đồn binh lớn gồm nhiều trại lính có từ 100 đến 200
lính. Những đồn binh này gồm lính lê dƣơng (ngƣời Âu) và lính khố đỏ,
khố xanh thuộc quân đội Pháp, do ngƣời Pháp trực tiếp chỉ huy. Nếu tính
mỗi đồn binh trung bình có 50 lính thì trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có
ít nhất 1.800 lính chính quy. Ngoài ra, còn có lính khố vàng, khố lục,
lính dõng do quan lại ngƣời Việt chỉ huy. Số lính này đƣợc trang bị đầy
đủ, đồn trú tại các phủ, huyện, châu. Nhƣ vậy, tổng cộng trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên số quân lính vũ trang khoảng trên 2.000 ngƣời. Toàn

bộ lính này trải ra thành một mạng lƣới đóng chốt ở những đầu mối quan
trọng nhất, chụp lấy lãnh thổ Thái Nguyên, trung bình từ 5 đến 6 hộ dân
trong tỉnh có một họng súng chĩa vào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở cấp tỉnh, Công sứ chủ tỉnh là
ngƣời đứng đầu về mọi mặt chính trị, quân sự, tƣ pháp, kinh tế, văn hoá – xã
hội.
Sau khi thiết lập đƣợc bộ máy cai trị, cùng với chính sách bóc lột kinh tế,
đàn áp chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá - giáo dục nô
dịch, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng ngu dốt, lạc hậu.
1.2. Khái quát tình hình giáo dục ở tỉnh Thái Nguyên
Từ thời phong kiến, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đã có truyền
thống hiếu học, nhiều ngƣời bằng ý chí và nghị lực của mình đã quyết tâm
học tập, đạt đƣợc vốn kiến thức văn hoá uyên bác. Hàng chục vị thi đỗ đại
khoa, tiến sĩ (học vị cao nhất dƣới thời phong kiến) đƣợc triều đình trọng
dụng, góp phần vào sự hƣng thịnh của quốc gia. Tiêu biểu là các danh nhân
Trình Hiển - thuộc xứ Thái Nguyên đỗ Tiến sĩ năm 1429; Nguyễn Cầu, quê ở
Phổ Yên, đỗ tiến sĩ năm 1463, đƣợc truy phong chức Khâm sai đại thần, chỉ
huy sứ thị vệ long quân Cẩn hầu, Chính đô đốc đức bác quận công; Đỗ Cận,
ngƣời xã Thống Thƣợng (nay là xã Minh Đức) huyện Phổ Yên, đỗ tiến sĩ năm
1478, đƣợc phong tới chức Thƣợng thƣ - một trong sáu vị quan đứng đầu bộ
máy hành chính dƣới triều vua Lê Thánh Tông; Phạm Nhĩ quê ở huyện Đồng
Hỷ, đỗ tiến sĩ năm 1493, đƣợc bổ nhiệm làm quan tới chức Phủ doãn phủ
Phụng thiên (viên quan đứng đầu kinh thành Thăng Long); Đàm Chí, quê Túc
Duyên huyện Đồng Hỷ (nay thuộc thành phố Thái Nguyên), đỗ tiến sĩ năm
1535, làm quan tới chức Thừa Chính sứ, tƣớc Vân Trai (Bá Tƣớc); Dƣơng
Ức, quê Hoá Trung - Đồng Hỷ, đỗ tiến sĩ năm 1541, làm quan tới chức Thừa
Chính sứ; Đồng Doãn Giai, quê ở Hùng Sơn huyện Đại Từ, đỗ tiến sĩ năm

1763, làm quan tới chức Hàn Lâm hiệu thảo, sau đó sung chức Đốc Đồng trấn
Lạng Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu quá trình xâm lƣợc nƣớc ta.
Đến năm 1886, chúng cơ bản hoàn thành công cuộc xâm lƣợc bằng quân sự
đối với Thái Nguyên và bắt đầu tính đến việc nô dịch bằng văn hoá và giáo
dục. Dƣới chiêu bài “khai hoá văn minh”, thực dân Pháp mở thêm một số
trƣờng tân học học theo chƣơng trình của chính quốc Pháp, nhằm đào tạo tay
sai và thực hiện âm mƣu đồng hoá lâu dài hết sức thâm độc. Thông qua việc
dạy cho lớp trẻ ngƣời bản xứ về nền văn minh của nƣớc Pháp, “ngôn ngữ đẹp
đẽ của nước Pháp”, chúng hi vọng thế hệ trẻ trƣớc hết là con, em các tầng lớp
trên của Thái Nguyên sẽ dần bị “Pháp hoá”, sùng bái văn chƣơng và nền văn
hoá Pháp, coi khinh nền văn hoá cổ truyền của dân tộc và sẽ trở thành ngƣời
dân thuộc địa trung thành với mẫu quốc Pháp.
Để kìm hãm nhân dân Thái Nguyên trong vòng ngu dốt, thực dân Pháp
đặt thêm nhiều quy định khắt khe về hạn chế việc học của trẻ em.
Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Anbe Xarô ban hành bộ luật về giáo dục
mang tên “Học chính tổng quy” và thành lập Hội đồng tƣ vấn học chính Đông
Dƣơng với chức năng tổng quát là giúp cho Toàn quyền Đông Dƣơng đề ra
những quy chế cho ngành giáo dục.
Đến năm 1919, Anbe Xarô ra lệnh bãi bỏ các trƣờng học chữ Hán và các
khoa thi hƣơng, thi hội; Đồng thời cũng ra lệnh cấm các trƣờng tƣ hoạt động
(trừ các trƣờng tƣ Thiên Chúa giáo do các cố đạo ngƣời Pháp mở). Nằm trong
chƣơng trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, tại Thái
Nguyên chúng tuyển mộ rất nhiều ngƣời lao động làm thuê không cần có học
thức vào làm việc ở các hầm mỏ, nhà máy và các đồn điền cao su. Chúng chỉ
cần một số ít ngƣời thừa hành nhƣ đốc công, cai, kí không cần đòi hỏi học
hành nhiều. Vì vậy, thực dân Pháp chỉ giới hạn việc học ở mức thấp nhất.

Từ năm 1924, Toàn quyền Méclanh thi hành một chƣơng trình “cải cách
giáo dục” hết sức nguy hại. Tên thực dân nổi tiếng về đàn áp cách mạng này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
viện lẽ rằng 9/10 học sinh nông thôn Việt Nam không đủ sức theo học hết bậc
sơ học cho nên chỉ cần mở nhiều loại trƣờng ở bậc sơ học là đủ. Theo chƣơng
trình này, trẻ em Thái Nguyên muốn tốt nghiệp trung học phải trải qua 13
năm học và 8 kì thi.
- 3 năm sơ học để thi tốt nghiệp yếu lƣợc rồi thi lên lớp nhì.
- 3 năm tiểu học rồi thi lên đệ nhất.
- 4 năm cao đẳng tiểu học để thi thành chung rồi thi lên đệ nhị trung học.
- 2 năm trung học để thi nửa trung học (bán phần tú tài).
- 1 năm chuyên khoa và thi tốt nghiệp trung học (tú tài).
Nhƣ vậy, thực dân Pháp muốn dùng việc thi cử và lên lớp để hằng năm
loại ra khỏi nhà trƣờng một số đông học sinh. Hằng năm, số học sinh từ lớp
này lên lớp khác rơi rụng đến 50%.
Ở Thái Nguyên, một thời gian dài sau khi hoàn thành việc chiếm đóng,
thực dân Pháp không mở trƣờng học. Sau này, do nhu cầu đào tạo tay sai,
chúng phải mở một vài trƣờng, lớp ở thị xã Thái Nguyên và một số thị trấn
nhƣng cũng chỉ hạn chế ở bậc sơ học (tức tiểu học). Dƣới thời Pháp thuộc, cả
huyện Phú Lƣơng chỉ có 3 trƣờng tiểu học không toàn cấp (ở Phủ Lý, Đu và
Yên Ninh), với tổng số chƣa đến 100 học sinh. Cả huyện Phú Bình có 2
trƣờng tiểu học (ở Hà Châu và Phƣơng Độ), còn ở các huyện Phổ Yên, Định
Hoá, Đồng Hỷ, mỗi huyện cũng chỉ có 1 trƣờng tiểu học với khoảng 100 học
sinh…
Hằng năm, khoản ngân sách mà thực dân Pháp dành cho giáo dục hết sức
ít ỏi. Tính riêng năm 1931, chi phí cho giáo dục chỉ chiếm 1,2% tổng chi ngân
sách của tỉnh và không bằng một phần mƣời chi phí cho xây dựng và tu bổ
nhà tù.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Năm học 1932-1933 đƣợc coi là đỉnh cao của nền giáo dục của thực dân
Pháp ở Đông Dƣơng thì số nhân viên làm công tác giáo dục toàn tỉnh chỉ có
37 ngƣời, trong đó có 1 giáo thụ thanh tra các trƣờng, 33 giáo viên và trợ
giáo, 3 nữ giáo viên. Một số ngƣời có đủ khả năng cần thiết lại không chấp
hành theo sự phân công của chính quyền thực dân. Số trƣờng học tăng hơn so
với năm học trƣớc, với 2 trƣờng tiểu học toàn cấp (trƣờng kiêm bị), 1 trƣờng
đặt ở thị xã, 1 trƣờng đặt ở Chợ Chu, 18 trƣờng sơ học, 1 lớp nội trú dành cho
học sinh ngƣời Thổ đặt tại Chợ Chu (Định Hoá), 22 chi nhánh của trƣờng
kiêm bị đặt ở các huyện, 2 trƣờng hàng tổng đặt tại Sơn Cốt và Thƣợng Vũ, 1
trƣờng tƣ thục ở thị xã và một số lớp tƣ gia ở các làng. Mặc dù vậy, số học
sinh toàn tỉnh chỉ có 1.435 ngƣời, chiếm tỉ lệ không đầy 2% so với dân số
trong tỉnh, riêng huyện Định Hoá tỉ lệ ấy còn chƣa đƣợc 1%. Trong năm học
1939 – 1940, Tính chung cả hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn cũng chỉ vẻn
vẹn có 91 trƣờng cấp I (trong đó hầu hết là bán cấp) với 2.920 học sinh.
Thực dân Pháp mở trƣờng học chủ yếu để đào tạo thông ngôn, tuỳ phái,
viên chức nhỏ phục vụ bộ máy cai trị thực dân, phong kiến. Đa số học sinh
vào học ở các trƣờng này là con em giai cấp thống trị, địa chủ và những nhà
giàu có; còn tuyệt đại đa số con em nhân dân lao động không đƣợc đến
trƣờng.
Ngoài những thủ đoạn trên, thực dân Pháp còn thực hiện nội dung giáo
dục phản động, phản dân tộc, phản khoa học. Tiếng Pháp đƣợc học từ lớp
Đồng ấu. Các môn khoa học tự nhiên nặng về lí thuyết, thiếu phần thực hành
và thiếu hẳn những tri thức thực tiễn về Việt Nam. Các môn khoa học xã hội
đều mô phỏng theo sách dùng ở nƣớc Pháp hoặc có biên soạn lại ít nhiều.
Lịch sử chỉ là lịch sử của các nhân vật anh hùng, của những triều đại. Những
con ngƣời tiêu biểu cho lực lƣợng nhân dân, những cuộc khởi nghĩa oanh liệt
của quần chúng chống lại chính quyền thống trị bị xem là những cuộc nổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
loạn của quân giặc cƣớp. Đúng nhƣ Nguyễn Ái Quốc nhận xét là: “đồi bại,
xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa” [37, tr.125].
Chính sách hạn chế phát triển giáo dục đã gây nên hậu quả hết sức nặng
nề. Số trƣờng lớp quá ít đã không đáp ứng đƣợc yêu cầu học tập của nhân dân
Thái Nguyên, nhất là của trẻ em. Các trƣờng ở thị xã Thái Nguyên có vẻ bề
thế quy mô, có hệ thống chức sắc và ngƣời phục vụ đông đảo còn các trƣờng
ở nông thôn thì hiu quạnh, tẻ nhạt với cơ sở vật chất nghèo nàn, bệ rạc. Một
nhà thơ lúc này đã miêu tả:
“Mái trường tranh lủng dột nhiều nơi,
Hễ có mưa to chẳng chỗ ngồi,
Lũ trẻ đôi khi đang buổi học,
Đứa thì đội nón, đứa mang tơi!” [30, tr.61].
Hậu quả rõ rệt hơn cả là nạn thất học, mù chữ diễn ra trầm trọng. Theo
niên giám thống kê Đông Dƣơng, các năm 1936 – 1937 và 1941 – 1942, số
ngƣời biết chữ chỉ chiếm 2% dân số. Nha học chính Đông Dƣơng phải thú
nhận: “95% dân chúng Việt Nam không biết một thứ chữ gì”. Theo tài liệu
thống kê của cơ quan Bình dân học vụ, đến trƣớc Cách mạng tháng Tám
1945, cả nƣớc có hơn 90% dân số bị mù chữ. Trong đó, ở Thái Nguyên tỉ lệ
mù chữ còn cao hơn, chiếm hơn 95% dân số. Ở nhiều vùng, nhiều dân tộc, tỉ
lệ này là 100%. Rõ ràng, chính sách hạn chế giáo dục là một bộ phận cấu
thành của chính sách cai trị độc ác nổi tiếng của thực dân Pháp ở Việt Nam
nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng.
Tuy vậy, cũng cần thấy rằng, việc hình thành hệ thống trƣờng tân học,
ngoài mục đích đào tạo một lớp ngƣời bị “Pháp hoá”, đã tạo nên sự biến đổi
tự nhiên trong nền giáo dục cổ truyền Thái Nguyên. Một số ngôi trƣờng đƣợc
xây dựng có bàn ghế, bảng đen, học cụ…là những hiện tƣợng hoàn toàn mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
lạ. Một số kinh nghiệm sƣ phạm về mặt tổ chức và giảng dạy đƣợc tiếp thu
nhƣ quy định hạn tuổi, khai sinh, học bạ,…
Để đầu độc nhân dân Thái Nguyên về văn hoá, thực dân Pháp khuyến
khích duy trì những phong tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời, mê tín dị đoan,
tuyên truyền phổ biến lối ăn chơi truỵ lạc, trác táng. Chúng dùng thuốc phiện
để đầu độc nhân dân ta và làm suy yếu giống nòi. Trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, thuốc phiện đƣợc bán công khai, nhiều tiệm hút, tiệm rƣợu, sòng bạc
đƣợc mở ra để thu hút, lôi kéo thanh niên vào con đƣờng nghiện ngập, ăn chơi
sa đoạ, mòn mỏi về thể xác, tinh thần, lãng quên con đƣờng đấu tranh cách
mạng. Chỉ tính riêng năm 1920, thực dân Pháp đã bắt nhân dân Thái Nguyên
phải tiêu thụ 210.411 lít rƣợu cồn, 714 kg thuốc phiện. Trong những năm
1930 - 1931, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, việc bán rƣợu và
thuốc phiện không đạt mức quy định. Để kịp thời chấn chỉnh, chính quyền
thuộc địa đã giao chỉ tiêu phân bổ số rƣợu và thuốc phiện cần bán cho các địa
phƣơng. Chính quyền cấp dƣới phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với việc
tiêu thụ hai mặt hàng quan trọng này. Với thủ đoạn trên, chỉ trong mấy tháng
đầu năm 1932, thực dân Pháp đã bắt 81.076 ngƣời dân của tỉnh Thái Nguyên
phải tiêu thụ 88.326 lít rƣợu cồn và 105 kg thuốc phiện.
Bên cạnh dòng giáo dục nô dịch của chính quyền thực dân phong kiến,
còn có dòng giáo dục yêu nƣớc và cách mạng.
Ngay từ những năm đầu thế kỉ XX, các nhà nho yêu nƣớc tiến bộ Việt
Nam đã nhận thấy sự cần thiết phải gắn việc canh tân giáo dục với cuộc vận
động cách mạng giải phóng dân tộc. Tháng 3-1907, một số nhà nho yêu nƣớc
tiến bộ nhƣ Lƣơng Văn Can, Nguyễn Quyền đã mở trƣờng Đông Kinh nghĩa
thục. Hoạt động chính của trƣờng nhằm mở mang việc học tập bằng chữ quốc
ngữ cho nhân dân. Mặc dù chỉ tồn tại trong vòng 8 tháng (từ tháng 3 đến
tháng 11 năm 1907), nhà trƣờng đã tạo ra một phong trào học chữ quốc ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
có khí thế hào hứng, có nội dung, phƣơng pháp và tổ chức mới khác với lối
học chữ Hán nặng tính hƣ văn. Việc dạy các môn học ở trƣờng đƣợc kết hợp
với tổ chức nói chuyện thời sự, bình văn, giảng sách thu hút quần chúng bằng
cả nội dung và hình thức tổ chức mới mẻ.
Tiếp sau đó, Nguyễn Ái Quốc – nhà yêu nƣớc Việt Nam, trong quá trình
hoạt động cách mạng, đã tố cáo chính sách thống trị ngu dân của thực dân
Pháp ở Việt Nam và đề ra yêu sách về mở mang giáo dục. Năm 1919, trong
yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Véc-xai, Nguyễn Ái Quốc đề xuất đòi tự do học
tập và mở các trƣờng cho ngƣời bản xứ ở khắp các tỉnh.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp ở Tua,
Nguyễn Ái Quốc tố cáo thực dân Pháp bắt dân tộc Việt Nam sống trong ngu
dốt tối tăm và không có quyền tự do học tập.
Đến năm 1925, trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc
dành hẳn chƣơng IX nói về chính sách thống trị ngu dân của thực dân Pháp ở
các thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Năm 1927, tác phẩm Đường Cách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc đƣợc xuất
bản. Trong đó có viết:
“ 1. Lập trường học cho công nhân
2. Lập trường cho con cháu công nhân” [37, tr.241].
Năm 1929, chƣơng trình của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
ghi rõ: “Bỏ những trường học cũ của đế quốc và thay bằng trường học cách
mạng không phải trả tiền” [24, tr.205].
Đầu 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nắm quyền lãnh đạo cách
mạng. Từ đây, các hoạt động giáo dục trở thành một mặt trận đấu tranh của
nhân dân ta chống thực dân Pháp và gắn bó chặt chẽ với các mặt trận đấu
tranh khác. Các văn kiện đầu tiên của Đảng đều xác định mục tiêu đấu tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
trên lĩnh vực giáo dục. Chính cương vắn tắt của Đảng có ghi “Phổ thông giáo
dục theo công nông hoá” [57, tr.18] và trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng có ghi 10 khẩu hiệu thì khẩu hiệu thứ 9 ghi là: “Thực hành giáo dục
toàn dân” [57, tr.28].
Trong những năm phong trào cách mạng tạm lắng (1932 – 1935), Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng chủ trƣơng “biến nhà tù đế quốc thành trường học
cách mạng”. Đến năm 1934, Nghị quyết Hội nghị Ban lãnh đạo Đảng ở nƣớc
ngoài nhắc lại: “Các tổ chức của đảng phải mở rộng và tăng cường những lớp
học của trung niên” và đến tháng 3-1935, Nghị quyết Hội nghị cán bộ Đảng
Bắc Kì đề ra việc “tổ chức những hội học đêm” [15, tr.19].
Trong cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939, nội dung những lá đơn thỉnh
nguyện trong phong trào Đông Dƣơng Đại hội đều có các mục về giáo dục,
văn hoá.
Năm 1936, Đảng đƣa ra bản yêu sách 12 điểm, trong đó nêu rõ phải mở
rộng nền giáo dục, sửa đổi những thể lệ vào trƣờng học, lên lớp, thi cử, cƣỡng
bách giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ…
Cuối năm 1936, đƣợc sự phân công của chi bộ hải ngoại của Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng, đồng chí Đặng Tùng đã gây dựng cơ sở Đảng đầu tiên của
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên tại xã La Bằng huyện Đại Từ. Sau khi đƣợc thành
lập, cơ sở Đảng ở La Bằng đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, tập hợp
một số ngƣời tích cực vào Hội tƣơng tế, giáo dục, tổ chức và rèn luyện họ
thành lực lƣợng nòng cốt trong đấu tranh cách mạng. Từ mùa xuân năm 1937,
chi bộ Võ Nhai đƣợc thành lập và đặc biệt quan tâm đến công tác xoá mù chữ
cho nhân dân. Nhiều lớp truyền bá quốc ngữ đƣợc mở ra ở các xã Phú
Thƣợng, La Hiên, Tràng Xá, lôi cuốn nhiều nam, nữ thanh niên thuộc đủ các
thành phần dân tộc trong huyện đến học, nhờ đó nhiều ngƣời đã thoát nạn mù
chữ. Các nam nữ thanh niên đã lập ra các nhóm đọc báo tiến bộ, nhƣ báo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


21
“Đời nay”, “Tin tức” để thông qua đó tuyên truyền đƣờng lối, chủ trƣơng cách
mạng của Đảng cho quần chúng. Tại thị xã Thái Nguyên, phong trào học chữ
quốc ngữ diễn ra khá sôi nổi, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh
niên, phụ nữ. Có lúc, tổ chức đƣợc 9 lớp học ban đêm thu hút gần 100 học
viên tham gia.
Năm 1937, nhận thấy rõ yêu cầu xoá nạn mù chữ, Đảng tổ chức “Các
lớp dạy chữ”, “Các hội sách báo”, “Các hội văn hoá”, “Các ban học tối”…
Đầu năm 1938, Ban Chấp hành Đảng bộ Bắc Kì đã quyết định vận động
thành lập một tổ chức công khai chống nạn thất học, mang tên “Hội Truyền
bá quốc ngữ” do ông Nguyễn Văn Tố làm Hội trƣởng. Từ ngày 29-7-1938,
Hội Truyền bá quốc ngữ mới chính thức đi vào hoạt động.
Mặc dù thực dân Pháp đã cho phép hoạt động, nhƣng chúng luôn tìm
mọi cách gây khó khăn và kìm hãm sự phát triển của Hội. Đến trƣớc Chiến
tranh thế giới thứ hai, ngoài 4 khu trƣờng đƣợc mở tại Hà Nội, Hội cũng chỉ
phát triển thêm đƣợc hai cơ sở ở Hải Phòng và Việt Trì. Khi Chiến tranh thế
giới thứ hai bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dƣơng rút vào hoạt động bí mật,
sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội gặp nhiều khó khăn hơn.
Tuy vậy, Đảng vẫn trực tiếp quan tâm lãnh đạo phong trào chống nạn
thất học. Tháng 11-1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng ra nghị
quyết chỉ rõ: “cứ mở rộng những tổ chức văn hoá như Hội Truyền bá quốc
ngữ, lớp dạy tối…”. Sang tháng 11-1940, nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng nhấn mạnh: “Cưỡng bách giáo dục tới bậc sơ học, thủ tiêu
nạn mù chữ” [15, tr.22]. Nhờ có sự quan tâm của Đảng, Từ năm 1942 đến
trƣớc Cách mạng tháng 8-1945, Chi hội Truyền bá quốc ngữ đƣợc thành lập ở
nhiều địa phƣơng, trong đó có Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Chi hội Truyền bá quốc ngữ Thái Nguyên hoạt động rộng rãi ở thị xã và

nhiều huyện trong tỉnh, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân. Hoạt động
tích cực của Chi hội Truyền bá quốc ngữ đã xây dựng đƣợc một phong trào
chống nạn thất học khá mạnh mẽ, nêu cao truyền thống hiếu học của nhân dân
ta. Phong trào đã để lại những kinh nghiệm quý báu về xây dựng ngành học,
cụ thể là về chƣơng trình và phƣơng pháp dạy học, về tuyên truyền cổ động
và về đội ngũ giáo viên.
Hội Truyền bá quốc ngữ xây dựng chƣơng trình học cho những ngƣời bị
mù chữ theo hai lớp học có tên gọi là lớp sơ đẳng và lớp cao đẳng. Mục đích
chƣơng trình lớp sơ đẳng là làm cho học viên đọc đƣợc, viết đƣợc chữ quốc
ngữ và làm đƣợc hai phép tính cộng, trừ đơn giản. Mục đích lớp cao đẳng là
làm cho học viên củng cố và nâng cao đƣợc kết quả học tập ở lớp sơ đẳng
bằng cách thông qua nhiều bài tập đọc và chính tả, vừa đọc, viết chữ quốc
ngữ đƣợc thông thạo, vừa nắm đƣợc một số kiến thức thông thƣờng, ngoài ra
làm đƣợc đủ bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia, và những bài toán đơn giản.
Thông qua việc áp dụng chƣơng trình học của Hội đề ra, Chi hội Truyền
bá quốc ngữ Thái Nguyên mong muốn những ngƣời thất học đƣợc thoát nạn
mù chữ một cách chắc chắn, đƣợc cung cấp một số kiến thức thƣờng dùng và
sử dụng có ích vốn kiến thức ấy trong sinh hoạt và hoạt động xã hội của mình.
Bên cạnh việc quan tâm xây dựng một chƣơng trình học tối thiểu cần
thiết, Chi Hội Truyền bá quốc ngữ còn chú trọng thực hiện chƣơng trình ấy
bằng một phƣơng pháp dạy học thích hợp đối với ngƣời lớn.
Trƣớc đây, để dạy vỡ lòng, tức dạy vần quốc ngữ, phƣơng pháp truyền
thống là phƣơng pháp “đánh vần từng chữ”: trƣớc hết cho học các chữ cái từ
a, b, c đến x, y rồi cho học các vần bằng, vần trắc, cuối cùng cho tập đánh
vần, tức chắp cánh bằng cách đọc từng chữ. Học theo phƣơng pháp này vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
mất thời gian, vừa gây nên sự chán nản cho ngƣời học, đặc biệt là ngƣời lớn
tuổi, bận bịu bao nhiêu công việc hằng ngày, làm cho họ dễ bỏ dở việc học.

Để tránh tình trạng ấy, ông Hoàng Xuân Hãn, Trƣởng ban và một số
ngƣời trong Ban Tu thƣ của Hội Truyền bá quốc ngữ, đã nghiên cứu một
phƣơng pháp dạy học mới là “phương pháp đọc lên thành tiếng”, một cải tiến
quan trọng trong phƣơng pháp dạy học ngƣời mới học đọc, học viết và trở
thành phƣơng pháp chính thức của Hội Truyền bá quốc ngữ và ngành Bình
dân học vụ sau này. Theo phƣơng pháp này, học chữ cái không theo thứ tự a,
b, c mà học từ chữ ít nét đến nhiều nét, chữ dễ viết đến khó viết. Mặt khác,
học chữ cái xen với học vần, ghép chữ với chữ hoặc chữ với vần để chắp
tiếng, chắp từ và chỉ sau một số bài đã có thể tập đọc đƣợc những bài ngắn có
nội dung gần gũi với đời sống hằng ngày, làm cho học viên cảm thấy thoải
mái và thích thú học chữ.
Các giáo viên đã tìm các biện pháp liên hệ, so sánh để học sinh dễ nhận,
dễ nhớ mặt chữ và đặt thành câu ca dao vừa vui, vừa cụ thể thiết thực, vừa dễ
hiểu, dễ hấp dẫn, dễ thuộc, dễ nhớ nhƣ:
I – t (tờ) giống móc cả hai,
I ngắn có chấm – t (tờ) dài có ngang.
Hay: O tròn như quả trứng gà,
Ô thời đội mũ, ơ là thêm râu.
Hay: “O, a” hai chữ khác nhau,
Vì “ a” có cái móc câu bên mình.
Dạy hết 34 bài trong quyển “Vần quốc ngữ” là dạy xong phần chữ cái và
vần. Bài cuối cùng trong quyển vần, dạy ôn các chữ cái, dạy viết các chữ hoa
và dạy đọc các chữ in. Để cho học sinh học xong lớp sơ đẳng có thể đọc, viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
tƣơng đối thông thạo, Chi hội lại cho học sinh tiếp tục tập đọc và tập viết
chính tả theo quyển “Sách tập đọc sơ đẳng” do Hội biên soạn. Những bài
trong quyển sách tập đọc này còn nhằm phổ biến cho học sinh những kiến
thức thông thƣờng cần thiết. Để củng cố hơn nữa kết quả học tập bƣớc đầu

của học sinh, giúp cho họ vừa thoát nạn mù chữ một cách chắc chắn, vừa
nâng cao đƣợc kiến thức, Chi hội mở tiếp lớp cao đẳng. Bên cạnh đó, ở một
số trƣờng còn tổ chức thƣ viện, cho học sinh đọc ngay ở trƣờng hay mƣợn về
nhà xem, cũng nhằm mục đích củng cố kết quả xoá nạn mù chữ và nâng cao
kiến thức cho học sinh cũ hay còn đang học.
Công tác tuyên truyền cổ động đƣợc Chi hội và các trƣờng rất coi trọng
nhƣ tổ chức diễn thuyết, thành lập các tiểu ban gồm những ngƣời tiêu biểu
trong từng ngành, từng giới để vận động ngƣời trong từng ngành, giới tham
gia. Công tác tuyên truyền cổ động quan trọng nhất là vận động giáo viên và
học viên để giữ vững đƣợc các lớp học từ đầu đến cuối khoá học và mỗi khoá
học lại phát triển thêm đƣợc nhiều lớp, nhiều học viên.
Dƣới chế độ thực dân, phong kiến, đời sống của nhân dân lao động rất
khổ cực, nhiều ngƣời ăn bữa sớm đã phải lo bữa tối. Vì thế, giáo viên phải
đến từng ngõ, từng nhà vận động họ đi học, tổ chức và quản lí học viên để
duy trì lớp học. Khi thấy học viên nghỉ mấy buổi học liền, giáo viên phải hỏi
nguyên do, nếu ốm thì đến thăm và cho thuốc khi có điều kiện, nếu bận, thì
giúp đỡ dạy cho những bài vì nghỉ chƣa đƣợc học và vận động cố gắng đi học
tiếp… Thái độ vui vẻ, hoà nhã, ân cần, thân mật, tận tuỵ của giáo viên là một
yếu tố quyết định tinh thần học tập tích cực của học viên.
Một số bài ca dao do Hội biên soạn đƣợc phổ biến rộng rãi nhằm động
viên tinh thần của ngƣời dạy và ngƣời học nhƣ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
“Tiến lên anh! Tiến lên anh!
Tiễu trừ giặc dốt, cứu nhanh đồng bào
Cố lên anh! Cố lên anh
Mau mau đem chữ nước mình truyền ra
Khắp trong tầng lớp trẻ già

Để mai họ sẽ cùng ta lên đường
“Giặc dốt diệt, Việt Nam cường!”
Nêu cao khẩu hiệu trên trường đấu tranh
Hỡi các anh! Hỡi các anh!
Trông người tiến trước, ta nhanh kịp đà
Tương lai của nước non nhà
Dở, hay trách nhiệm do ta một phần!”…[22, tr.52]
Ở nhiều trƣờng, giáo viên còn tổ chức cho học viên tham gia các cuộc
vui lửa trại và diễn kịch cổ động, gây thêm tình gắn bó giữa học viên với giáo
viên, với khoá học.
Nhiều học viên nghèo phải làm công cho các chủ tƣ gia, chủ hiệu, chủ
xƣởng. Giáo viên không những phải vận động học viên mà còn phải vận động
cả các tƣ gia, chủ hiệu, chủ xƣởng để ngƣời làm đi học.
Trong những điều kiện đó, mỗi giáo viên đồng thời phải là một cổ động
viên. Chính vì thế, việc tuyên truyền vận động giáo viên rất đƣợc chú trọng.
Ngƣời giáo viên không những đƣợc Chi hội giúp đỡ giảng dạy đúng
phƣơng pháp, mà còn đƣợc tham khảo thêm các tài liệu hƣớng dẫn về sƣ
phạm, với các nội dung nhƣ: Tƣ cách ngƣời thầy giáo; kỉ luật giảng dạy;
những cử chỉ và hoạt động của thầy giáo ở trong lớp học; những phần việc
phải làm trong một buổi dạy học; cách thức thƣởng phạt, lối giảng dạy cho

×