Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Luận văn: PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN LÀM CÁC BÀI THỰC HÀNH PHẦN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LỚP 10 THPT TỈNH THÁI NGUYÊN THEO HƯỚNG TÍCH CỰC pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.05 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



ĐỖ THỊ TÂM





PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN LÀM CÁC BÀI
THỰC HÀNH PHẦN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LỚP 10
THPT TỈNH THÁI NGUYÊN
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ
MÔN ĐỊA LÝ
MÃ SỐ: 60.14.10



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ HỒNG




THÁI NGUYÊN, 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



ĐỖ THỊ TÂM






PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN LÀM CÁC BÀI
THỰC HÀNH PHẦN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN LỚP 10
THPT TỈNH THÁI NGUYÊN
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC







LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC









THÁI NGUYÊN, 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu trong
thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Theo đánh giá chung chương trình, nội dung
và phương pháp giáo dục phổ thông nước ta hiện nay còn nhiều bất cập chưa
đáp ứng với yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước. Một trong những
nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên là do sự yếu kém của khâu kết hợp giữa
lý luận với thực tiễn, bài học lý thuyết và thực hành. Vì vậy cần phải đổi mới
phương pháp dạy học theo mục tiêu gắn với thực tiễn, phát huy tính tích cực
của người học theo hướng rèn luyện năng lực tự khám phá kiến thức, biến quá
trình đào tạo ở nhà trường thành quá trình tự đào tạo.
Những thập niên gần đây nhiều nước trên thế giới rất coi trọng nâng cao
chất lượng và hiệu quả đào tạo ở tất cả các ngành học và cấp học. Trong bối
cảnh đó công nghệ dạy học mới ra đời và được áp dụng ngày càng rộng rãi. Đặc
trưng nổi bật của công nghệ dạy học là sự định lượng hoá mục tiêu dạy học để
việc dạy học trở thành đối tượng có thể quan sát, hệ thống hoá được, trong đó
nội dung dạy học bắt đầu được tổ chức theo xu hướng vận dụng các phương
pháp mới. Theo đó, ngành giáo dục Việt Nam đang từng bước nghiên cứu và áp
dụng công nghệ dạy học cũng như đổi mới PP dạy học, đồng thời chương trình
và sách giáo khoa (CT & SGK) cũng thay đổi phù hợp với nhu cầu học tập đáp
ứng yêu cầu trong quá trình phát triển của đất nước. Hệ thống CT & SGK trong
nhà trường phổ thông các cấp đã có thêm nhiều nội dung mới theo hướng tăng
mạnh kênh hình, giảm dần kênh chữ, tỷ trọng BTH tăng lên đáng kể.

Tuy nhiên, thực trạng giảng dạy trong nhà trường cho thấy thực hành
hiện vẫn là khâu yếu, chưa được quan tâm đầy đủ dẫn tới kết quả học tập của
học sinh chưa tương xứng với yêu cầu. Đây chính là tình hình chung của các
trường phổ thông ở thành phố cũng như vùng nông thôn và đặc biệt là ở vùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
khó khăn. Nhìn chung CT & SGK Địa lý trước đây nặng về lý thuyết, các
BTH còn ít nên kỹ năng thực hành của học sinh còn yếu và khả năng vận
dụng kiến thức đã học vào thực tế còn hạn chế, tính năng động, sáng tạo, làm
việc khoa học của người học chưa được phát huy.
Từ năm 2006-2007, CT & SGK Địa lý lớp 10 được triển khai đại trà trên
phạm vi toàn quốc. Đòi hỏi phải ứng dụng các phương pháp dạy học mới theo
hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Theo tinh thần
đó, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của một số trường THPT tỉnh Thái Nguyên,
chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Phương pháp hướng dẫn làm các bài thực hành phần Địa lý tự nhiên
lớp 10 THPT tỉnh Thái Nguyên theo hướng tích cực”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu vận dụng các phương pháp hướng dẫn làm BTH nhằm rèn
luyện kĩ năng xử lý các BTH, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy BTH
Địa lý lớp 10 (phần Địa lý tự nhiên) theo CT & SGK hiện nay.
- Vận dụng các phương pháp hướng dẫn làm BTH qua thực nghiệm trong
điều kiện một số trường THPT tỉnh Thái Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở để đưa ra kiến nghị áp dụng rộng rãi
phương pháp hướng dẫn làm BTH trong CT & SGK hiện nay.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về nội dung và phương pháp hướng dẫn làm
BTH phần địa lý tự nhiên lớp 10 THPT.
- Tìm hiểu các dạng BTH cơ bản theo CT & SGK phần Địa lý tự nhiên

lớp 10, cho cả ban cơ bản và ban nâng cao cùng với các phương pháp hướng
dẫn phù hợp với điều kiện đào tạo cụ thể.
- Đề xuất hướng vận dụng các phương pháp trong giảng dạy địa lý
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, trên cơ sở đánh giá kết quả
thực nghiệm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
- Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả bước đầu tìm hiểu một số
phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn làm BTH phần Địa lý tự nhiên
lớp 10 THPT đạt hiệu quả cao.
- Phạm vi ứng dụng của luận văn là một số trường THPT trong địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu và tìm ra các phương pháp tối ưu để giảng dạy các BTH
đã được đề cập tới cả trong và ngoài nước. Song do CT & SGK Địa lý luôn
thay đổi và đây lại là vấn đề tương đối khó, việc nghiên cứu tiến hành phức
tạp, đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị công phu, vì vậy nó cũng có những
hạn chế nhất định. Các BTH trong SGK thường ít được chú trọng, tâm lý giáo
viên thường ngại dạy vì để dạy tốt BTH thường đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và
phương tiện dạy học kèm theo nên tốn rất nhiều thời gian.
Về phía học sinh để làm tốt các BTH cũng phải có sự chuẩn bị đồ dùng
học tập, sự kiên trì, có óc sáng tạo và nắm chắc kiến thức lý thuyết.
Gần đây, các BTH rất được coi trọng và chú ý. Đã có một số tài liệu đề
cập đến phương pháp để tiến hành giảng dạy các BTH Địa lý nhưng vẫn còn
rất ít ỏi và các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu còn hạn chế, chưa
đúng với tầm quan trọng của nó.
Chúng tôi điểm qua một số tác phẩm của Việt Nam và Thế giới đề cập
đến vấn đề này:

* Ở Việt Nam :
- Mai Xuân Cương, Đào Trọng Năng (dịch). Các phương pháp giảng dạy
Địa lý, Nxb GD (1976).
- Nguyễn Dược, Mai Xuân San. Phương pháp giảng dạy Địa lý (dùng
cho các trường cao đẳng sư phạm), Nxb GD (1986).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Nguyễn Dược, Nguyễn Việt Hùng, Trần Văn Thắng. Dạy học các bài
thực hành Địa lý PTTH, Nxb Đại học sư phạm Huế (1993).
- Mai Xuân San. Rèn luyện kỹ năng Địa lý cho học sinh trường THPT,
Nxb GD (1997).
- Đặng Văn Đức, Nguyễn Thu Hằng. Phương pháp dạy học Địa lý theo
hướng tích cực, Nxb ĐHSP HN (2003).
- Nguyễn Trọng Phúc. Phương pháp dạy học Địa lý theo hướng tích cực,
Nxb ĐHSP HN(2004)…
* Trên Thế giới :
- I.F. Kharlamôp - Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế
nào, tập 1, Nxb GD (1979).
- Panssetnhicova L. V - Phương pháp giảng dạy Địa lý trong nhà trường,
Nxb GD (1975)…
Những tác phẩm trên đều đề cập đến các dạng và hình thức thực hiện
các BTH Địa lý, đó là cơ sở để chúng tôi tham khảo trong quá trình thực
hiện đề tài.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phƣơng pháp điều tra thực tế, thu thập tài liệu
- Tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau: Sách báo chuyên
ngành, tài liệu nghiên cứu khoa học có nội dung liên quan.
- Tìm hiểu thực tế dạy học Địa lý nói chung và các PP hướng dẫn làm
BTH phần Địa lý tự nhiên lớp 10 nói riêng, đặc biệt là những chương trình có

sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
6.2. Phƣơng pháp phân tích hệ thống
Phương pháp phân tích hệ thống ngày càng được áp dụng rộng rãi trong
các công trình nghiên cứu Địa lý. Phương pháp này được sử dụng để nghiên
cứu tổng hợp Địa lý tự nhiên và Địa lý KT - XH, trong đó các thành phần cấu
tạo luôn có tác động và quan hệ với nhau chặt chẽ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Nội dung kiến thức, phương pháp truyền đạt phải được phân tích trong
một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất, sao cho nội dung và phương pháp
cùng hỗ trợ cho việc nắm vững các kỹ năng làm BTH của học sinh.
6.3. Phƣơng pháp bản đồ
Phương pháp Bản đồ được sử dụng phổ biến trong dạy học Địa lý cả Địa
lý tự nhiên và Địa lý KT - XH, vì vậy có thể nói bản đồ là ngôn ngữ đặc biệt
trong Địa lý học.
6.4. Thực nghiệm sƣ phạm
- Tiến hành thực nghiệm một số BTH phần Địa lý tự nhiên trong CT &
SGK Địa lý lớp 10 ban cơ bản và ban nâng cao.
- Đánh giá kết quả thu được để sửa chữa, bổ xung các phương pháp cho
phù hợp.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên dạy Địa lý từ THCS
đến THPT.
6.5. Phƣơng pháp thống kê toán
Sử dụng toán thống kê để xử lý, kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được qua
tìm hiểu thực tế; qua việc thực nghiệm các phương pháp hướng dẫn làm BTH
phần Địa lý tự nhiên lớp 10 THPT.
6.6. Phƣơng pháp tổng kết kinh nghiệm
Sử dụng các phương pháp hướng dẫn làm BTH Địa lý thí nghiệm lớp
10 cho phù hợp với từng địa phương là quá trình thử nghiệm lâu dài, phụ

thuộc vào tình hình thực tế từng trường mà từ đó đưa ra những giải pháp tối
ưu phù hợp.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Xác định được các phương pháp hướng dẫn làm BTH phù hợp với nội
dung CT & SGK hiện nay, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội với mục tiêu
của giáo dục là phát huy vai trò tự học của học sinh theo hướng tích cực, sáng
tạo nhằm phát triển tư duy của học sinh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Vận dụng lý luận dạy học hiện đại vào quá trình hướng dẫn làm BTH.
Thay đổi cách dạy và học BTH trong điều kiện một số trường phổ thông đặc
biệt là các trường THPT vùng dân tộc và miền núi tỉnh Thái Nguyên.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được trình bày làm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Các phương pháp hướng dẫn làm bài thực hành phần Địa lý
tự nhiên lớp 10 THPT.
Chương 3: Kết quả thực nghiệm sư phạm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY
HỌC ĐỊA LÍ
Quá trình dạy học hiện đại được nhìn nhận theo quan điểm mới là hoạt

động nhận thức tự giác của học sinh được thực hiện dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, nhằm mục đích rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thế giới
quan, là tiền đề quan trọng trong sự phát triển nhân cách và trí tuệ.
1.1.1. Đặc điểm hệ thống kiến thức Địa lí
Kiến thức Địa lí là kết quả phản ánh trong nhận thức con người về sự tồn
tại khách quan, mối quan hệ của các sự vật hiện tượng cũng như các quy luật
Địa lí tự nhiên, là cơ sở hình thành thế giới quan duy vật biện chứng, góp
phần vào dạy học các môn khoa học khác như toán học, vật lý, hoá học, sinh
học cũng như hình thành kiến thức tổng hợp cho HS về môi trường tự nhiên
và xã hội. Các kiến thức địa lí dạy trong nhà trường phổ thông là các khái
niệm, quy luật, các kỹ năng được sắp xếp theo một trình tự nhất định phù hợp
với chương trình và mục tiêu đào tạo, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi. Sự hình
thành các kiến thức được thực hiện qua các thao tác trí tuệ như phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hoá và khái quát hoá, giúp học sinh gắn kết lý thuyết
môn học với các khoa học khác và đời sống.
Các kiến thức Địa lí trong nhà trường được cấu tạo đồng tâm nâng cao từ
cái chung đến cái cụ thể, kiến thức lớp dưới làm cơ sở cho lớp trên, bao gồm
kiến thức về tự nhiên, KT - XH. Học sinh có thể mở rộng tầm hiểu biết thông
qua phương tiện thông tin đại chúng và từ thực tiễn nhằm làm sâu sắc thêm
vốn kiến thức.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Hệ thống kiến thức Địa lí là hệ thống mở được tồn tại và phát triển trong mối
quan hệ nhân quả dựa trên kiến thức đã nắm bắt được có thể tìm tòi, sáng tạo ra
kiến thức mới ở mức độ cao hơn. Đặc trưng của kiến thức Địa lí là tính không
gian rộng lớn, các quá trình diễn ra lâu dài nên rất phong phú và phức tạp, vì vậy
cần tăng cường sự hỗ trợ của các phương tiện để hình thành kiến thức mới.
1.1.2. Những yêu cầu khi giảng dạy bài thực hành Địa lý lớp 10 THPT
Bài thực hành được giảng dạy sau khi học sinh học các bài lý thuyết và

đã có một số kỹ năng ban đầu. Giờ thực hành yêu cầu học sinh rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo, các thao tác thành thạo và phát huy tính năng động sáng tạo,
nguồn trí lực dồi dào trong học tập. Kỹ năng thực hành Địa lí là yêu cầu
không thể thiếu của việc học môn Địa lí bởi các kỹ năng là thước đo kết quả
học tập của học sinh theo xu hướng dạy học tích cực.
Căn cứ vào CT & SGK Địa lí 10 hiện nay việc tổ chức và đổi mới
phương pháp dạy và học bài thực hành Địa lí phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tổ chức cho học sinh học các bài tập thực hành Địa lí bằng phương
pháp tự học có hướng dẫn của giáo viên.
- Xây dựng các phòng thực hành bộ môn với trang thiết bị phù hợp với
mục đích, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy đáp ứng nhu cầu
học tập của học sinh.
- Bài thực hành thường gắn với các thiết bị dạy học nên tổ chức theo kiểu
cá thể hoá hoặc chia nhóm nhằm phát huy vai trò tự học của học sinh.
- Học sinh cần chuẩn bị bài thực hành trước khi tiến hành ở trên lớp.
- Cải tiến việc kiểm tra đánh giá, nâng cao vai trò và khả năng tự đánh
giá của học sinh.
1.1.3. Các phƣơng pháp dạy học Địa lí chủ yếu ở bậc THPT
Phương pháp dạy học là nhân tố quan trọng của quá trình dạy học, trên
quan điểm hệ thống nhân tố này được đặt trong mối quan hệ với nhân tố khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
như mục tiêu và nội dung dạy học. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo thì phương
pháp dạy học ở phổ thông được chia làm hai nhóm.
* Nhóm phương pháp tổ chức hoạt động nhận thức :
- Phương pháp dạy học dùng lời gồm phương pháp thuyết trình, phương
pháp vấn đáp, giảng giải, gọi chung là những phương pháp truyền thống.
- Phương pháp luyện tập: mục đích của phương pháp này thông qua hoạt
động lặp lại giúp học sinh có những phản xạ tự động và nhớ lại từ ngữ, tình

huống cụ thể dựa trên lôgic giữa sự vật và hiện tượng khác nhau.
- Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp làm cho giữa lý thuyết
gần gũi với thực tiễn.
- Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ bản đồ: bản đồ là
ngôn ngữ của Địa lí, một phương tiện trực quan, nguồn tri thức Địa lí học.
- Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức qua số liệu thống kê
và biểu đồ: các số liệu thống kê chứng minh và giải thích được nhiều khái
niệm và phạm trù Địa lí học.
- Phương pháp hướng dẫn học sinh quan sát, khai thác tri thức Địa lí qua
tranh ảnh băng hình, video
* Nhóm các phương pháp dạy học thực tiễn :
- Quan sát ngoài thực địa.
- Ôn tập, luyện tập.
Do đặc thù của khoa học Địa lí mà các đối tượng nghiên cứu vừa phân
bố rộng rãi trong không gian, vừa cụ thể lại vừa trừu tượng, vừa cá biệt và có
tính tổng thể nên phương pháp đặc trưng của bộ môn là sử dụng các phương
tiện nghe nhìn giúp học sinh hình thành khái niệm, kỹ năng, kỹ xảo chủ động
tìm tòi kiến thức phát triển óc tư duy sáng tạo, khả năng suy luận các vấn đề
liên quan đến kiến thức lý thuyết với thực tiễn của Địa lí học. [4]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
1.1.4. Xu hƣớng đổi mới các phƣơng pháp dạy học
Trong giáo dục học nhân tố quyết định thành bại là cách thực hiện.
Phương pháp dạy học là nhân tố quan trọng của quá trình dạy học, là cách
thức hoạt động của người giáo viên để truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ
năng, là sự kết hợp các biện pháp và phương tiện trong quá trình dạy học
hướng tới mục đích của giáo dục. Vấn đề dạy học hiện nay là phải tổ chức
hoạt động cho người học tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả nhất: đó là
người học tích cực chủ động lĩnh hội tri thức đồng thời có được kỹ năng cần

thiết để hình thành nhân cách trong ứng xử với xã hội và môi trường.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự tăng trưởng
không ngừng về kinh tế của các nước trên thế giới, những vòng xoáy biến đổi
của nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập đòi hỏi người giáo viên
phải thiết kế được hệ phương pháp dạy học mềm dẻo, linh hoạt, giúp người
học thích ứng, hoà nhập tích cực với cuộc sống hiện thực. Sau nhiều thập kỷ,
hệ thống dạy học cá thể hoá được lặp lại ở trình độ cao tương ứng với bước
phát triển nhảy vọt về chất của vòng xoáy ốc. Dạy học cá thể hoá tương ứng
với nền giáo dục có quy mô lớn và trình độ phát triển cao, đa dạng, luôn biến
động với những hình thức tổ chức đa dạng và linh hoạt đáp ứng nhu cầu học
tập của người học.
Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là CNTT
đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự nghiệp GD & ĐT. Đổi mới phương pháp dạy học
trên cơ sở ứng dụng CNTT là phương pháp làm tăng giá trị và tốc độ trao đổi
thông tin nhanh và hiệu quả hơn.
Các thành tựu tin học ứng dụng trong giảng dạy là một trong những giải
pháp hiệu quả thực hiện mục tiêu của quá trình dạy học, tác động lớn tới các
nội dung đổi mới các môn học trong đó có môn Địa lí.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Máy tính với các phần mềm dạy học tương ứng là phương tiện dạy học
hiện đại và hiệu quả giúp cho quá trình dạy học theo hướng tích cực lấy học
sinh làm trung tâm. Địa lí là môn khoa học có từ rất sớm lại gần gũi với cuộc
sống và liên quan đến nhiều môn khoa học nên có thể tìm kiếm thông tin từ
nhiều nguồn, nhiều dạng tư liệu khác nhau. Sử dụng máy tính với các phần
mềm trong dạy học địa lý là bước đột phá trong quá trình dạy học, thay đổi
phương pháp dạy học truyền thống của giáo viên và phương pháp học tập của
học sinh. Các phần mềm vi tính giúp học sinh có cách nhìn trực quan, gây
hứng thú trong học tập. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại là tiền đề để

phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả: như sử dụng sơ đồ, khai thác biểu
đồ, tự luận, trắc nghiệm, khai thác kiến thức từ hình ảnh, video
Việc tăng cường chú trọng bài tập thực hành trong giảng dạy Địa lí là lựa
chọn tối ưu với tình hình thực tế hiện nay. Khối lượng tri thức của khoa học
Địa lí ngày càng tăng nhanh mà khả năng tiếp thu có hạn, thời gian dành cho
học tập ở nhà trường phổ thông lại ngắn (1 - 2 tiết/tuần) nên học sinh không
có khả năng nắm hết những kiến thức cơ bản, hiện đại nhất phù hợp với yêu
cầu thực tế xã hội và đất nước.
Để chọn lọc được kiến thức cơ bản cần căn cứ vào CT & SGK, cần thiết
phải kết hợp với các tài liệu và giáo trình khoa học có liên quan, đảm bảo tính
thống nhất của từng lớp, từng cấp. Muốn thực hiện tốt điều này người giáo
viên cần nắm vững toàn bộ nội dung chương trình, khối lượng kiến thức trong
mỗi tiết học phù hợp với đối tượng và gắn liền với bài tập thực hành kỹ năng
Địa lí. Đọc bản đồ, biểu đồ, khai thác số liệu thống kê được gắn liền vào
phần bài học, câu hỏi bài tập với tư cách là một phần của nội dung bài giảng
nhằm phát triển tư duy trong dạy học Địa lí, tư duy mang lại kết quả mới về
chất trong quá trình nhận thức của học sinh trên cơ sở phân tích, tổng hợp, so
sánh, hệ thống hoá các hiện tượng địa lí cụ thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Rèn luyện và phát triển năng lực tư duy cho học sinh trong quá trình học tập
là yêu cầu không thể thiếu với người giáo viên. Theo cách nói của nhà giáo dục
Đức Đistenxec viết: “Người giáo viên giỏi là người dạy cho học sinh đi tìm chân
lý” bởi kiến thức theo thời gian có thể quên đi những cái còn lại là phương pháp
tư duy độc lập sáng tạo để học sinh biết tự học trong cuộc sống ngoài thực tiễn.
Đây là cái đích mà mỗi giáo viên cần đạt tới trong quá trình dạy học.
Xu hướng cải tiến phương pháp dạy học hiện nay là phương pháp dạy
học lấy học sinh làm trung tâm, nhằm huy động tối cao chức năng tâm lý và
nhận thức. Cần huy động học sinh tích cực tái hiện, tích cực tìm tòi phát hiện

cái mới, cái hay, cái thú vị và đặc biệt là tích cực sáng tạo. Thông qua các
phương pháp dạy học, các bài tập thực hành trong giảng dạy Địa lí cần được
lồng ghép, tích hợp trong tất cả các tiết học đồng thời tăng thời lượng trong
chương trình học.
Quan điểm về dạy thực hành Địa lí đã có chuyển biến tích cực, nhưng
trong đó, cách dạy để đạt hiệu quả tối ưu các bài thực hành là yếu tố quan
trọng giúp học sinh phát huy năng lực trí tuệ, tư duy sáng tạo tìm tòi, đồng
thời rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS là khởi nguồn cho khả năng thích
ứng nhanh chóng với thị trường lao động trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước.
1.2. CÁC PHƢƠNG PHÁP TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC BTH ĐỊA LÝ TỰ
NHIÊN LỚP 10 THPT
1.2.1. Quan điểm dạy học tích cực
Phương pháp dạy học theo hướng tích cực thực chất là cách dạy hướng
tới việc học tập tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen học
tập thụ động của học sinh.
Dạy và học tích cực là một trong những mục tiêu chung và cũng là một
tiêu chuẩn về giáo dục hiệu quả hiện nay, đó là đổi mới nhiều mặt của quá
trình dạy học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Việc dạy học được thực hiện theo hướng tích cực sẽ đem lại hiệu quả cao
bản chất của nó đã thay đổi theo hướng là lấy học sinh làm trung tâm, dạy học
gắn với người học và nhu cầu của xã hội.
Người giáo viên không đóng vai trò truyền đạt kiến thức mà là người
thiết kế và giúp học sinh thực hiện học tập một cách tích cực, phù hợp với
điều kiện cụ thể.
Từ việc chỉ chuyển giao thông tin trước đây, giáo viên phải biết tạo ra
các điều kiện học tập và hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh được
thách thức tham gia một cách tích cực và sáng tạo trong việc lĩnh hội tri thức

(tự suy nghĩ và tìm tòi bên cạnh việc nghe giảng, làm bài tập ).
Để thực hiện dạy học tích cực có hiệu quả phải sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy và các hoạt động học tập khác nhau, có sự kết hợp giữa các
phương pháp truyền thống và các phương pháp dạy học mới cũng như các
phương tiện dạy học hiện đại phù hợp với từng nội dung và điều kiện dạy học.
Bản chất cơ bản của phương pháp dạy học tích cực là dạy học thông qua
việc tổ chức các hoạt động cho người học. Người học - chủ thể và hoạt động
học - được cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ
đạo, qua đó được tự lực khám phá cái mình chưa biết chứ không tiếp nhận tri
thức đã sắp đặt sẵn.
Dạy theo cách này không những cung cấp tri thức mà còn hướng dẫn
hành động. Người học phải biết hành động và tích cực tham gia các hoạt động
của cộng đồng. Ở đây học chữ và học làm gắn quyện với nhau. “Tự học làm
đến biết làm, muốn làm và cuối cùng muốn tồn tại và phát triển như nhân
cách một con người lao động, tự chủ, năng động và sáng tạo”.
Đối với dạy học tích cực việc rèn luyện phương pháp tự học là rất quan
trọng. Đây không chỉ để nâng cao hiệu quả dạy học mà là mục tiêu của dạy
học. Bởi lẽ sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện đại với sự bùng nổ của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
khoa học và thông tin thì việc dạy học không chỉ dạy cho học sinh kiến thức
mà phải dạy cho học sinh phương pháp học - cách tìm ra tri thức, cũng như
khơi dậy lòng ham học. Điều đó sẽ giúp cho người học chủ động, linh hoạt,
dễ dàng thích ứng với biến động phức tạp trong cuộc sống.
Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực cao
của mỗi học sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức mới. Tuy nhiên mọi con
đường học tập không chỉ mang tính chất cá nhân mà lớp học là một môi
trường học tập mở, giữa thầy và trò, trò với trò có mối quan hệ cá nhân được
điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ sẽ giúp người học nâng mình lên một

trình độ mới. Chính cách học hợp tác này giúp cho học sinh thích ứng với đời
sống xã hội tốt hơn.
Một điều rất quan trọng trong dạy học tích cực là dạy học có sự phản hồi
để được điều chỉnh từ cả phía thầy và trò. Vì vậy việc kiểm tra đánh giá học
sinh không mang tính độc quyền của người giáo viên như trước đây, mà học
sinh cũng được tự đánh giá. Mặt khác việc kiểm tra đánh giá không chỉ là tái
hiện kiến thức, lặp lại kỹ năng mà còn khuyến khích óc sáng tạo, rèn luyện
khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh. Do đó phải có những
phương pháp và kỹ thuật đánh giá được đưa vào nhà trường giúp cho việc
đánh giá trở nên thuận lợi, kịp thời góp phần để điều chỉnh việc dạy và học.
Như vậy dạy học tích cực thực sự sẽ đem lại chất lượng và hiệu quả mới
cho việc dạy học. Muốn vậy giáo viên không đơn thuần là người truyền đạt
kiến thức mà trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động - độc
lập hoặc theo nhóm để học sinh tự lực chiếm lĩnh các kiến thức mới, hình
thành các kỹ năng, thái độ mới theo yêu cầu của sự phát triển hiện này. Vì thế
vai trò của người giáo viên ngày càng trở nên quan trọng. Yêu cầu đối với
giáo viên thực sự cao hơn, phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ
sư phạm lành nghề, có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm mới có thể tổ chức,
hướng dẫn hoạt động học tập độc lập của học sinh có hiệu quả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Để có thể đạt được những yêu cầu nói trên trong việc dạy học tích cực
người giáo viên phải có khâu chuẩn bị chu đáo và công phu trước giờ lên lớp. Từ
nội dung, phương pháp đến cách thức tổ chức dạy học, cũng như việc sử dụng
các phương tiện dạy học như thế nào, đối tượng học sinh ra sao… đều phải được
dự kiến, chuẩn bị trước thì bài học mới có thể thành công, đem lại hiệu quả như
mong muốn. Do đó dạy học tích cực không chỉ tích cực hoá người học mà còn
tích cực hoá người dạy, góp phần đổi mới toàn diện mọi khâu của quá trình dạy
học, trong đó khâu thiết kế bài giảng đóng vai trò quan trọng.

1.2.2. Các phƣơng pháp tích cực trong dạy BTH Địa lí tự nhiên lớp 10
THPT
PP hướng dẫn HS làm các BTH không chỉ nhằm mục đích rèn luyện cho
HS những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng vẽ biểu đồ, lược đồ, kỹ năng phân
tích, so sánh, nhận xét, tổng hợp các sự vật, hiện tượng Địa lí, mà cao hơn
nữa là giúp cho HS biết vận dụng những kiến thức lý thuyết vào thực tế. Để
làm tốt các BTH đòi hỏi người học phải vận dụng các kiến thức lý thuyết, từ
đó khắc sâu các kiến thức cũ, hình thành kiến thức mới, đồng thời phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong việc nhận thức các vấn đề Địa
lí tự nhiên, KT - XH.
Trong thực tế khi tìm hiểu các PP dạy học Địa lí ở các trường phổ thông
Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, cho thấy hiện nay người ta sử dụng một
số PP dạy học tích cực đó là: PP giải thích - minh hoạ, PP đàm thoại, PP dạy
học nêu vấn đề, PP hướng dẫn HS khai thác tri thức từ bản đồ, PP hướng dẫn
HS khai thác tri thức Địa lí qua các số liệu thống kê và biểu đồ, PP hoạt động
theo nhóm, PP tìm tòi khám phá, PP sử dụng CNTT Đối với việc hướng dẫn
và thiết kế các BTH Địa lí thì các PP như: PP hướng dẫn HS khai thác tri thức
từ bản đồ, PP hướng dẫn HS khai thác tri thức Địa lí qua các số liệu thống kê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
và biểu đồ, PP đàm thoại, PP hoạt động theo nhóm, PP sử dụng CNTT là
những PP mang lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên mỗi BTH có mục đích và yêu cầu khác nhau do đó khi hướng
dẫn HS làm BTH, GV cần linh hoạt vận dụng các PP nêu trên, có thể kết hợp
nhiều PP trong BTH để bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tránh sự nhàm chán, gây
hứng thú học tập cho người học.
* Phương pháp giải thích- minh hoạ:
PP giảng giải là PP giáo viên dùng lời để giải thích các sự kiện, hiện
tượng Địa lý…PP giảng giải thường kết hợp với các phương tiện trực quan

(tranh ảnh, số liệu, bản đồ…) để minh hoạ cho lời giải thích, trong trường hợp
này thường gọi là PP giải thích - minh hoạ. Trong khi giải thích, GV có thể
dùng biện pháp quy nạp, trước tiên đưa ra các số liệu, sự kiện, hiện tượng Địa
lý cụ thể rồi sau đó mới tìm ra nguyên nhân.
Gần đây, xu hướng tăng cường phát huy trí lực của HS, PP giảng giải
thường kết hợp với PP đàm thoại để trở thành một biện pháp yêu cầu HS tìm và
phát biểu về mối quan hệ nhân quả. Việc giải thích trước đây thường do GV chủ
động thực hiện, nay được chuyển thành những câu hỏi để cho HS trả lời.
* Phương pháp đàm thoại:
Là PP mà GV là người chủ động khéo léo đặt câu hỏi hoặc hệ thống câu
hỏi để HS trả lời. Trong PP đàm thoại sự tham gia của HS có ở nhiều mức độ.
Điều đó phụ thuộc vào yêu cầu của GV về mục đích của cuộc đàm thoại. PP
này có thể dùng để cung cấp tri thức mới cho HS. Cũng có thể PP này dùng
để phát huy trí lực, gợi mở cho HS làm sáng tỏ những vấn đề mới, giúp cho
HS tự khám phá những tri thức bằng sự tái hiện những tài liệu đã học từ
những kinh nghiệm đã được tích luỹ trong cuộc sống.
Nếu căn cứ vào mục đích sư phạm của PP đàm thoại, có thể phân ra: đàm
thoại gợi mở, đàm thoại củng cố, đàm thoại tổng kết, đàm thoại kiểm tra.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Trong dạy học Địa lí, PP đàm thoại thường được vận dụng trong hầu hết
tất cả các loại bài và cũng thường được kết hợp các PP dạy học Địa lí khác
như: sử dụng bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu
PP này phụ thuộc vào kĩ thuật đặt câu hỏi của GV và cách tổ chức hoạt
động cho HS.
* Phương pháp dạy học nêu vấn đề:
PP dạy học nêu vấn đề thực chất là hình thức cải tiến của PP diễn giải
truyền thống trước đây, trong PP này GV không trình bày tri thức theo trình
tự làm sẵn mà có sự sắp xếp tài liệu để đặt những tình huống có vấn đề,

những mâu thuẫn kích thích người học phải suy nghĩ, tìm cách giải quyết.
Thông qua đó, GV giúp HS nắm được các biện pháp của hoạt động nhận thức
và lĩnh hội tri thức mới. Như vậy mấu chốt của PP dạy học nêu vấn đề là tạo
ra được những tình huống có vấn đề.
Trong quá trình dạy học nêu vấn đề, GV là người chủ động nêu vấn đề,
đồng thời cũng là người giải quyết vấn đề. Toàn bài là một vấn đề lớn được
chia thành một số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau.
Đối với PP này điều quan trọng nhất là GV phải có nghệ thuật tạo ra một
chuỗi tình huống có vấn đề, đồng thời chính GV là người điều khiển hoạt
động của HS nhằm tự lực giải quyết vấn đề.
* Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ bản đồ:
Bản đồ là PP đặc trưng trong nghiên cứu Địa lý, là PP đem lại hiệu quả
trong quá trình giảng dạy và học môn Địa lý. Khi hình thành các khái niệm
chung về Địa lý tự nhiên, Địa lý kinh tế cũng như khi xem xét các khái niệm
đơn nhất, ta thấy mỗi khái niệm Địa lý đều có quan hệ với bản đồ, bằng cách
này hay cách khác: “bất kỳ một đối tượng Địa lý nào cũng được thể hiện
trong không gian và thời gian như một đối tượng có đường nét xác định trên
bề mặt Trái đất. Nó chỉ được hiểu rõ và giải thích đúng khi tính đến vị trí của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
nó trên bản đồ, chỉ nhờ vào bản đồ mà các đối tượng đó có được tính chất địa
lý của nó. Cũng vì điều này mà các tác giả viết về phương pháp giảng dạy Địa
lý trong cũng như ngoài nước đều giành quan tâm chú ý đến bản đồ giáo khoa
ở nhiều mức khác nhau. Có thể nói, bản đồ về nguyên tắc rất cần thiết cho
việc nghiên cứu, dạy, học Địa lý. Các kiến thức Địa lý, qua trừu tượng hoá
đều được thể hiện trên bản đồ. Ngôn ngữ bản đồ là phương tiện cơ bản để mô
tả các đối tượng Địa lý”.
Về mặt kiến thức, bản đồ có khả năng phản ánh sự phân bố và những
mối quan hệ của đối tượng Địa lí trên bề mặt Trái đất một cách cụ thể mà

không một phương tiện nào có thể làm được, những kí hiệu, màu sắc, cách
biểu hiện trên bản đồ là những nội dung Địa lí được mã hoá, trở thành một
thứ ngôn ngữ đặc biệt “ngôn ngữ bản đồ”.
Về mặt PP, bản đồ được coi là phương tiện trực quan, giúp HS khai thác,
củng cố tri thức và phát triển tư duy trong quá trình giảng dạy Địa lí. Để khai
thác được tri thức trên bản đồ, GV cần phải hướng dẫn cho HS hiểu bản đồ,
đọc được bản đồ, nắm được kiến thức lí thuyết về bản đồ, trên cơ sở đó có
được kĩ năng làm việc với bản đồ. Điều đó hoàn toàn đúng với nhận định
“Địa lí bắt đầu bằng bản đồ, kết thúc cũng bằng bản đồ”.
* Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức Địa lí qua các số
liệu thống kê và biểu đồ:
Các số liệu thống kê có ý nghĩa nhất định trong việc hình thành các tri
thức về Địa lí tự nhiên cũng như Địa lí KT - XH.
Trong Địa lí tự nhiên nhờ số liệu thống kê biết được sự phát triển, mối
quan hệ của các hiện tượng tự nhiên, KT - XH, qua những số liệu, HS có thể
xác định được cơ cấu của các ngành kinh tế, giải thích được tốc độ tăng
trưởng, trình độ phát triển của một nước, hay biết được độ dài của một con
sông, lượng mưa trung bình của một vùng/ năm Là một trong những biện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
pháp làm tăng tính hiểu biết về thực tiễn, định lượng hoá đối tượng nghiên
cứu, bởi vì các số liệu không chỉ có trong các tài liệu Địa lí mà chúng còn
được giới thiệu rộng rãi trên các báo chí, các tài liệu thông tin đại chúng.
Thông thường, trong quá trình dạy học Địa lí, GV giới thiệu các số liệu
để cùng HS giải thích, làm sáng tỏ nội dung bài học hoặc cho HS phân tích để
khai thác tri thức Địa lí mới. Trong quá trình sử dụng các số liệu GV cần bồi
dưỡng cho HS năng lực so sánh, đối chiếu, phân tích số liệu, hoặc trong
trường hợp, để tìm ra được những kiến thức mới cần xử lí các số liệu với các
tính toán cụ thể. Làm như vậy mới hướng dẫn HS khai thác được hết ý nghĩa

về sự phong phú của các con số cũng như các dạng biểu đồ, đồ thị trong dạy
học Địa lí nói chung, dạy học BTH nói riêng.
* Phương pháp dạy học theo nhóm:
Là phương pháp đưa HS vào môi trường học tập (nghiên cứu, thảo luận)
theo các nhóm. Một trong những lý do chính để sử dụng PP này là nhằm
khuyến khích HS trao đổi và biết cách làm việc hợp tác với người khác.
Tổ chức HS học tập theo nhóm không chỉ phát huy tính tích cực, tự giác,
khả năng chủ động sáng tạo trong hoạt động nhận thức của HS, tạo điều kiện
để mọi người cùng tham gia, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, chuẩn bị
cho lao động phân công hợp tác trong cộng đồng mà qua cách học này nhiều
kĩ năng xã hội cũng được hình thành và phát triển như: kĩ năng giao tiếp, kĩ
năng giải quyết vấn đề, kĩ năng nói, diễn đạt
PP dạy học theo nhóm đã được chứng minh là một PP dạy học có hiệu
quả và đang được sử dụng rộng rãi, với PP này người học có thể nhận rõ trình
độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần phải học hỏi thêm
những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là
trực tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Vì vậy PP này còn gọi là “Phương pháp
huy động mọi người cùng tham gia”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
* Phương pháp tìm tòi khám phá:
Đây là PP có giá trị cao trong việc dạy học, nhằm giáo dục cho HS năng
lực sáng tạo, các kỹ năng trí tuệ quan trọng như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
khái quát, xử lí các số liệu khác nhau…để rút ra những nhận xét, những kết
luận. Đòi hỏi HS phải nắm tri thức một cách vững chắc, phong phú cả về lí
thuyết lẫn thực tế.
Tìm tòi khám phá là cả một quá trình, một dãy những hoạt động được
tiến hành theo trật tự nhằm khám phá câu trả lời cho một vấn đề định ra trước
đó và được thực hiện theo quy trình sau:

- Nhận biết vấn đề
- Định nghĩa vấn đề
- Thu thập số liệu và dữ kiện thích hợp
- Sắp xếp và phân tích số liệu dữ kiện
- Xây dựng giải pháp
- Thử nghiệm
- Đưa ra kết luận
* Phương pháp ứng dụng CNTT:
Chúng ta đang sống trong thời kì phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật và công nghệ thông tin. Những thành tựu của nó đã đẩy nhanh tốc độ
phát triển của xã hội, tác động và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực của
sản xuất và đời sống. Trong sự phát triển đó giáo dục cũng đã có sự thay đổi
lớn lao, vai trò và vị thế ngày càng trở nên to lớn và quan trọng. Khoa học kỹ
thuật đã tạo ra một nguồn tri thức khổng lồ đòi hỏi lĩnh hội sâu rộng trong đời
sống - đó chính là nhiệm vụ đặt ra cho giáo dục. Đồng thời để đáp ứng kịp
thời sự phát triển đó giáo dục cần phải đào tạo ra một nguồn nhân lực có trình
độ tương xứng. Mối quan hệ đó đẩy giáo dục phát triển lên một tầm cao mới -
một nền giáo dục hiện đại - giáo dục gắn với CNTT

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Do đó hiện nay trong việc dạy học nói chung, thiết kế bài giảng nói riêng
ngoài các phương pháp dạy học truyền thống thì CNTT đóng vai trò quan
trọng với những tính năng ưu việt.
Chúng ta biết rằng để tiến hành thành công bài học trên lớp thì giáo viên
phải có một bản thiết kế bài giảng (giáo án) thật tốt. Ở đó bao gồm toàn bộ ý
tưởng thể hiện nội dung, phương pháp, cách tổ chức dạy học cũng như các
tình huống hoạt động học tập mà chuẩn bị cho người học.
Để làm tốt việc thiết kế bài giảng có sử dụng CNTT, giáo viên phải có
đầy đủ những tư liệu cần thiết phục vụ cho bài học. Tất cả đều được vi tính

hoá để có thể sử dụng hiệu quả. Chính vì vậy CNTT không chỉ là phương tiện
dạy học hữu ích (máy vi tính, máy chiếu, màn hình Overheat ) mà chính là
một thư viện thu nhỏ, một tổng bộ bao gồm những yếu tố cần thiết phục vụ
cho dạy học.
Với khả năng lưu trữ thông tin với khối lượng lớn cho phép giáo viên có
thể tự thành lập cho mình ngân hàng thông tin để sử dụng khi thiết kế bài
giảng. Ví dụ: các loại bản đồ tranh ảnh, các số liệu thống kê, các video trong
quá trình dạy học của mình giáo viên có thể tích luỹ, các phương tiện công
nghệ thông tin là nơi lưu giữ được nhiều nhất, tốt nhất, đó là kho tư liệu quý
giá phục vụ tốt cho việc thiết kế bài giảng điện tử.
Nếu máy vi tính được nối mạng thì việc thiết kế bài giảng rất thuận lợi,
nhất là trong điều kiện học sinh được học trên máy vi tính (1-2 HS/máy). Ở
đó giáo viên có thể cập nhật một khối lượng thông tin vô cùng phong phú phù
hợp với nội dung bài dạy, cũng như hướng dẫn cho học sinh có thể khai thác
trực tiếp tri thức (thiết kế bài giảng điện tử dạng mở).
Các chương trình ứng dụng của CNTT cho phép giáo viên có thể xử lý
số liệu một cách đơn giản, hướng dẫn học sinh làm các bài thực hành về biểu
đồ nhanh chóng, tiện lợi như phần mềm Excel. Đồng thời các phần mềm tin

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
học có nội dung Địa lí giúp cho việc khai thác xây dựng bản đồ Địa lí phù
hợp với từng nội dung dạy học (Mapinfo), đây chính là tiện ích quan trọng đối
với dạy học Địa lí nói chung, thiết kế bài giảng Địa lí nói riêng.
CNTT còn cho phép giáo viên thể hiện bài giảng trên lớp một cách đơn
giản, dễ hiểu, có sức hấp dẫn lớn đối với người học. Cho phép thay đổi, sửa chữa
bản thiết kế một cách dễ dàng, cũng như có thể sử dụng nhiều tình huống học tập
với các nội dung dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau.
Một trong những lợi thế to lớn của CNTT đối với thiết kế bài giảng Địa
lí là tính trực quan, khoa học rất cao, vừa có thể cụ thể hoá (bằng các hình

ảnh, video) vừa có thể khái quát hoá (Bản đồ, sơ đồ, mô hình ) giúp cho việc
phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh một cách có hiệu quả nhất.
Các phương tiện thiết bị kỹ thuật cho bài giảng cần thiết phải linh hoạt,
sinh động, đa dạng. Nội dung bài học có thể chủ yếu ở nhiều dạng vừa chi
tiết, khái quát vừa đầy đủ lại hiện đại với nhiều hệ thống kênh hình, kênh chữ
cũng như âm thanh, phim ảnh Do đó có thể nói công nghệ thông tin góp
phần to lớn là hoàn thiện, hiện đại hoá việc thiết kế bài giảng của giáo viên,
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
Mặt khác các phương tiện, thiết bị kỹ thuật của CNTT cho phép người
giáo viên tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, học sinh có nhiều thời
gian để học tập, nghiên cứu hơn. Quá trình trao đổi diễn ra nhiều hơn qua đó
làm tăng khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh.
Như vậy từ những vai trò to lớn ấy của CNTT đối với việc dạy học nói
chung và thiết kế bài giảng nói riêng chúng ta thấy rằng cần thiết phải đưa
CNTT vào trong quá trình dạy học để nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu
quả dạy học.
1.3. THỰC TIỄN DẠY HỌC CÁC BÀI THỰC HÀNH Ở MỘT SỐ TRƢỜNG THPT
TỈNH THÁI NGUYÊN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
1.3.1. Khái quát về tình tình KTXH tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh với diện tích tự nhiên 3546.6 km
2
có nhiều dân tộc
anh em cùng sinh sống với dân số 1137.7 nghìn người (2007), là cửa ngõ giao
lưu kinh tế - xã hội của vùng Trung du và miền núi phía Bắc với các tỉnh
Đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên có thế mạnh về
tài nguyên khoáng sản và một số cơ sở công nghiệp đang trên đà phát triển;
nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 6%. Cây chè là một trong

những cây công nghiệp mũi nhọn, đồng thời là thương hiệu nổi tiếng trên thị
trường trong và ngoài nước. Thành phố Thái Nguyên là trung tâm công
nghiệp nặng của vùng Đông Bắc, với các ngành công nghiệp sản xuất sắt
thép, kim loại màu, công nghiệp khai khoáng và cơ khí chế tạo. Thành phố
Thái Nguyên đồng thời là một trong những trung tâm đào tạo với nhiều
trường Đại học và Trung học chuyên nghiệp, dạy nghề tạo động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm, Đại học Thái Nguyên, các trường Cao
đẳng, đào tạo nguồn nhân lực với số lượng lớn cho đất nước. Thái Nguyên là
một trong những trung tâm giáo dục và dạy nghề quan trọng sau Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.
Tuy nhiên Thái Nguyên cũng còn nhiều vùng khó khăn và đặc biệt khó
khăn có địa hình phức tạp, nhiều dân tộc thiểu số, nền kinh tế chậm phát triển
chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp, cơ cấu vật nuôi, cây trồng độc canh, ít ngành
nghề, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Đời sống người
dân còn khó khăn, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, giao thông đi lại chưa thuận lợi
nên học tập gặp nhiều trở ngại, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu. Chất lượng
cuộc sống của người dân tỉnh Thái Nguyên so với cả nước thấp, nguồn thu nhập
chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng năng suất không ổn định, tốc độ gia tăng
dân số còn cao, chỉ tiêu GDP hiện tại còn thấp so với trung bình cả nước.

×