Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Quyền An Tử Theo Pháp Luật Của Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới Và Kiến Nghị Cho Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 111 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH </b>

<b>CHO VIỆT NAM </b>

<b>THUỘC NHĨM NGÀNH: LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC </b>

Trưởng nhóm: Nguyễn Hồng Thiên Thanh

Lớp: 126 – TM46B Khoá: 46 Khoa: Luật Thương mại

<b>MÃ SỐ CƠNG TRÌNH: …... </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH </b>

<b>CHO VIỆT NAM </b>

<b>THUỘC NHĨM NGÀNH: LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC </b>

Trưởng nhóm: Nguyễn Hồng Thiên Thanh

Lớp: 126 – TM46B Khoá: 46 Khoa: Luật Thương mại

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>BẢNG GIẢI THÍCH TỪ VIẾT TẮT </b>

<b>VAD </b> Luật Trợ tử tự nguyện

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền an tử ... 10

1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử ... 17

1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến quyền an tử ... 17

1.2.2. Đặc điểm của quyền an tử ... 23

1.2.3. Ý nghĩa của quyền an tử ... 26

1.3. Một số quan điểm phản đối và ủng hộ quy phạm hóa quyền an tử ... 28

1.3.1. Những quan điểm phản đối quy phạm hóa quyền an tử ... 28

1.3.2. Những quan điểm ủng hộ quy phạm hóa quyền an tử ... 33

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG I ... 36</b>

<b>CHƯƠNG II. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VỀ QUYỀN AN TỬ ... 37</b>

2.1. Pháp luật Hoa Kỳ về quyền an tử ... 37

2.1.1. Các quy định liên quan đến quyền an tử ... 37

2.1.2. Ưu điểm và hạn chế của các quy định liên quan đến quyền an tử ... 41

2.1.3. Thực trạng áp dụng quyền an tử ... 45

2.2. Pháp luật Hà Lan về quyền an tử ... 47

2.1.1. Các quy định liên quan đến quyền an tử ... 47

2.1.2. Ưu điểm và hạn chế của các quy định liên quan đến quyền an tử ... 49

2.1.3. Thực trạng áp dụng quyền an tử ... 51

2.3. Pháp luật Thụy Sĩ về quyền an tử ... 53

2.3.1. Các quy định liên quan đến quyền an tử ... 53

2.3.2. Ưu điểm và hạn chế của các quy định liên quan đến quyền an tử ... 54

2.3.3. Thực trạng áp dụng quyền an tử ... 55

2.4. Pháp luật Australia về quyền an tử ... 56

2.4.1. Các quy định liên quan đến quyền an tử ... 56

2.4.2. Ưu điểm và hạn chế của các quy định liên quan đến quyền an tử ... 66

2.4.3. Thực trạng áp dụng quyền an tử ... 67

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG II ... 72</b>

<b>CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN AN TỬ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ... 73</b>

3.1. Quan điểm của Việt Nam về quyền an tử ... 73

3.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền an tử ... 75

3.2.1. Quyền an tử theo quy định pháp luật Việt Nam ... 75

3.2.2. Thực tiễn thực hiện quyền an tử tại Việt Nam ... 79

3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền an tử tại Việt Nam ... 81

3.3.1. Nguyên nhân kiến nghị hợp thức hóa quyền an tử tại Việt Nam ... 81

3.3.2. Kiến nghị trong giai đoạn chuẩn bị và hợp thức hóa quyền an tử... 86

3.3.3. Kiến nghị về nội dung của văn bản pháp luật về quyền an tử ... 89

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG III ... 96</b>

<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 97</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>

Trong phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật trong và ngoài nước, một trong những vấn đề luôn được đề cao và tôn trọng tuyệt đối chính là quyền con người. Đó là lý do tại sao quyền con người luôn được các nhà làm luật quan tâm và đặt lên hàng đầu. Một số quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng,... Trong đó quyền sống là quyền đặc biệt hơn cả. Một trong những nhà tư tưởng lớn đó là Jonh Locke (1632 - 1704) - nhà triết học, nhà hoạt động chính trị người Anh cũng đã từng nói

<i>rằng: “Quyền tự nhiên của con người là quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu”. Ngay </i>

cả trong Điều 3 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948

<i>cũng quy định “Mọi người đều có quyền sống, tự do và an toàn cá nhân”</i><small>1</small>. Trong Tuyên

<i>ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 có viết: Quyền con người, đó là “Các quyền sống, quyền </i>

<i>tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”</i><small>2</small> và Hiến pháp năm 1791 của Pháp có cũng có ghi:

<i>Quyền con người, đó là “Quyền tự do, sở hữu, được an toàn và chống lại áp bức”<small>3</small></i> .Và

<i>tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013 của nước ta cũng ghi nhận “Mọi người đều có quyền </i>

<i>sống”. Đến từ các châu lục khác nhau, lịch sử hình thành cũng như nền văn hóa khác </i>

nhau, nhưng các quốc gia đều tôn trọng quyền sống, quyền được tự do, an tồn của con người bằng hình thức ghi nhận vào văn bản có giá trị cao nhất của mỗi quốc gia – Hiến pháp. Điều này cho thấy, dù ở bất kỳ thời đại nào, dù là quốc gia đang phát triển hay phát triển thì quyền con người luôn được đề cao và tôn trọng.

Sống - chết là quy luật khách quan, quy luật tự nhiên khơng chỉ của lồi người mà của tồn nhân loại. Đáng tiếc thay, hiện nay pháp luật nước ta chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền sống mà không đề cập đến quyền được chết hay quyền an tử mặc dù vấn đề quyền an tử này đã được đặt ra từ thế kỷ V đến thế kỷ I TCN. Cũng trong Điều 19

<i>Hiến pháp nước ta quy định: “Tính mạng của con người được pháp luật bảo hộ. Khơng </i>

<i>ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”. Hay tại Điều 33 Bộ luật Dân sự năm 2015 của </i>

<i>nước ta cũng ghi nhận: “Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật”. Như vậy, hiện </i>

nay pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về quyền được chết, nhưng trong nội

<i>hàm Điều luật ta thấy pháp luật cho phép “tước đoạt” mạng sống của ai đó theo quy </i>

định của pháp luật. Vì thế, đặt ra vấn đề cấp thiết là cần một chế định quy định cụ thể về quyền an tử trong pháp luật nước ta.

<small>1</small><i><small> Article 3 of the United Nations Universal Declaration of Human Rights “Everyone has the right to life, liberty, </small></i>

<i><small>and security of person”. </small></i>

<small>2</small><i><small> American Declaration of Independence of 1776: Human rights. that is “The rights to life, liberty, and the pursuit </small></i>

<i><small>of happiness”. </small></i>

<small>3</small><i><small> French Constitution of 1791: Human rights, that is “the right to liberty, to property, to security and resistance to </small></i>

<i><small>oppression”. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Bên cạnh đó, việc quy định chưa thực sự rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay đã dẫn đến nhiều sự tranh cãi, luồng quan điểm khác nhau.

<i>Thứ nhất, quan điểm cho rằng nên hợp thức hóa quyền an tử. </i>

Các nhóm cá nhân, tổ chức đưa ra quan điểm này cho rằng đây là quyền mang tính nhân đạo, cứu người. Đây cũng là cách thức giúp con người giải phóng khỏi những nỗi đau cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần. Khi hợp thức hóa quyền an tử, con người có quyền tự do quyết định mạng sống của mình khi rơi vào tình trạng như trên theo quy định của pháp luật. Đồng thời, hợp thức hóa quyền an tử cũng đang dành nguồn lực y học để cứu chữa cho các bệnh nhân khác có cơ hội sống cao hơn hay bản thân họ có khao khát được sống. Ngồi ra, trong giới y khoa, nhiều y, bác sĩ cũng cho rằng nên hợp thức hóa quyền an tử bởi thay vì kéo dài sự sống của bệnh nhân trong đau đớn thì để người bệnh ra đi trong êm ái, nhẹ nhàng và nhanh chóng là cách thức hợp lý và nhân đạo. Bên cạnh đó, nhiều y, bác sĩ cũng cho rằng khi bệnh nhân cịn điều trị thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với người đó. Do đó nếu có quá nhiều người bệnh lâm vào tình cảnh bệnh tật khắc nghiệt thì trách nhiệm của họ càng lớn.

<i>Thứ hai, quan điểm cho rằng khơng nên hợp thức hóa quyền an tử. </i>

Nhóm quan điểm này cho rằng việc ghi nhận quyền an tử sẽ làm giảm đi chất lượng và giá trị cuộc sống của con người. Ngồi ra, cũng có lý giải cho rằng ghi nhận quyền an tử là đi ngược lại với phương châm cứu người chứ không tước bỏ mạng sống bệnh nhân của đội ngũ y bác sĩ. Hay có tác giả cho rằng việc ghi nhận quyền này là đang tiếp tay cho những hành vi trái pháp luật Và cũng có nhiều tác giả cho rằng việc hợp thức hóa quyền an tử là chưa phù hợp với tình hình xã hội cũng như văn hóa của nước ta. Thực tiễn cho thấy, ngay cả những đối tượng nghiên cứu về luật pháp cũng phản đối an tử cho bệnh nhân. Chẳng hạn như vụ án tháo ống dẫn thức ăn của bà Schiavo - sống thực vật từ năm 1990 - vào năm 2005. Khi chồng của bà Schiavo quyết định tháo ống thở của bà vào ngày 18/03/2005, quốc hội Hoa Kỳ gấp rút thông qua luật, trao cho cha mẹ của bà Schiavo quyền cá nhân để kiện lên tòa án liên bang để giữ cho bà được sống<small>4</small>. Nhìn chung, các quan điểm đưa ra đều có những lý lẽ và căn cứ hợp lý riêng. Nhưng ta cũng phải thừa nhận rằng khi đời sống xã hội ngày càng phát triển cùng với sự tiến bộ trong nhận thức của con người hiện nay, đã có những quốc gia ghi nhận quyền an tử dưới một chế định. Chẳng hạn như Điều 115 Bộ luật Hình sự của Thụy Sĩ; hay Đạo luật về cái chết nhân đạo của Bang Oregon - Hoa Kỳ mặc dù không cho phép an tử

<i>nhưng đã “nhen nhóm” cho phép trợ tử bằng cách dùng thuốc theo chỉ thị của bác sĩ. Và quốc gia được xem là “cái nôi”, quốc gia đầu tiên hợp thức hóa quyền an tử đó là Hà </i>

<small>4</small><i><small> BBC News, [ (truy cập 05/02/2023). </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Lan với Luật An tử đầu thế kỷ XXI - năm 2001. Ngoài ra Bỉ cũng thông qua Luật an tử năm 2002, Luật An tử của Hà Lan năm 2010, gần đây có Bang Victoria của Australia hợp thức hóa quyền an tử năm 2017,...

Như vậy, với sự chưa rõ ràng của pháp luật nước nhà dẫn đến những quan điểm trái chiều nhau, cùng với sự ghi nhận bằng cách hợp thức hóa quyền an tử ở một số quốc gia tiên tiến trên thế giới như Thụy Sĩ, Hoa Kỳ,...

Trên cơ sở tiếp thu, tham khảo các chế định trong nước, quốc tế cũng như phân tích, đối chiếu một số hệ thống pháp luật các nước trên thế giới về quyền an tử với tình hình xã hội nước ta hiện nay, nhóm tác giả nhận thấy rằng, mặc dù vẫn tồn tại những quan điểm khơng ủng hộ hợp thức hóa quyền an tử và vẫn có những quốc gia chưa hợp thức hóa quyền này, nhưng phải thừa nhận rằng an tử mang lại những tích cực đáng kể. Sự xuất hiện của quyền an tử không đơn thuần là một nhu cầu bộc phát tức thời mà nó đã là một trong những nhu cầu thực tế và cần thiết cho mỗi người. Bởi lẽ, mỗi con người sinh ra đều có quyền được hưởng sự tự do về thể chất lẫn tinh thần trong khuôn khổ pháp luật cho phép và chúng ta nên tôn trọng họ.

Với sự quy định không rõ ràng của pháp luật nước ta, xuất hiện nhiều luồng quan điểm khác nhau, thực tế xét xử khi chưa hợp thức hóa quyền an tử, đồng thời đã có một

<i><b>số hợp thức hóa quyền này, từ đó, nhóm nghiên cứu cho rằng đề tài “Quyền an tử theo </b></i>

<i><b>pháp luật một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị cho Việt Nam” là cần thiết, thiết </b></i>

thực và tác giả đã chọn để thực hiện cơng trình nghiên cứu lần này. Nhóm nghiên cứu tin rằng, cơng trình nghiên cứu sẽ mang lại nguồn thơng tin, cơ sở khoa học khách quan, từ đó định hướng, kiến nghị cho pháp luật Việt Nam hợp thức hóa quyền an tử.

<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>

An tử dù đã được đặt vấn đề từ giai đoạn khá sớm - thế kỷ V TCN, tuy nhiên cho đến hiện nay vấn đề này vẫn luôn gặp nhiều vướng mắc, là vấn đề tương đối mới mẻ trong giới học thuật cũng như đời sống xã hội. Do đó mà ngày càng có nhiều cơng trình nghiên cứu về quyền an tử hay những vấn đề liên quan cả trong lẫn ngồi nước.

<i>Tình hình nghiên cứu trong trường, gần đây, phải kể đến “Quyền an tử trong </i>

<i>pháp luật nước ngoài từ lý luận đến thực tiễn - kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả </i>

Cao Thị Thảo Nguyên thuộc nhóm ngành Công pháp quốc tế. Tác giả đã sử dụng các quy định pháp luật trong Hiến chương về quyền tự do và Bộ luật Hình sự Canada cũng như quan điểm và quy định trong pháp luật của Thái Lan liên quan đến quyền an tử; từ đó đưa ra những kiến nghị khoa học cho Việt Nam.

<i>Ngồi ra cịn có các cơng trình nghiên cứu “Quyền được chết: lý luận, thực tiễn </i>

<i>và phương hướng luật định” của nhóm tác giả Phạm Giang Phượng Thư, Trần Ngọc </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Quỳnh Trang và Lê Nguyễn Nhật Minh Và “Quyền được chết không đau đớn, một số </i>

<i>rào cản và kiến nghị ban hành luật an tử” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc, Lê </i>

Thị Tú và Lê Hải Vân. Hai cơng trình này đưa ra cái nhìn khái quát về quyền an tử từ lý luận đến thực tiễn; một số rào cản của quyền này, từ đó định hướng, kiến nghị việc ban hành luật an tử cho Việt Nam.

<i>Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của tác giả Hồ Minh Quang với tựa đề “Nghiên </i>

<i>cứu so sánh pháp luật về quyền an tử tại Bỉ và Hà Lan – Một số kinh nghiệm cho Việt Nam” đã cho thấy cái nhìn khái quát về pháp luật an tử của hai quốc gia tiêu biểu là Bỉ </i>

và Hà Lan; những sự so sánh cho thấy sự tiến bộ và thiếu sót của mỗi hệ thống pháp luật. Từ đó, tác giả đút rút ra những bài học kinh nghiệm cho tiến trình ghi nhận và hợp thức hóa quyền an tử tại Việt Nam.

<i>Tình hình ngồi trường phải kể đến cơng trình nghiên cứu “Quyền được chết” - </i>

<i>Điều kiện và phương pháp tiến hành tại Việt Nam<small>5</small> và Cần bổ sung “quyền được chết” </i>

<i>vào trong Bộ luật dân sự 2015<small>6</small></i> của tác giả Nguyễn Vinh Hưng. Hai cơng trình này tác giả tập trung phân tích những khó khăn, thuận lợi khi nước ta hợp thức hóa quyền an tử; đưa ra các điều kiện cụ thể cùng các phương pháp đa dạng nhằm tiến hành quyền an tử một cách tối ưu nhất. Đồng thời việc tác giả viện dẫn những lý do cũng như kiến nghị đưa quyền an tử vào Bộ luật dân sự của nước ta chứ không phải Bộ luật nào khác đã

<i>đóng góp đáng kể các luận cứ xác đáng cho kho tàng nghiên cứu quyền an tử hay “quyền </i>

<i>được chết” ở nước ta. </i>

Ngoài ra ở nước ta, tác giả Vũ Công Giao cũng đã có cơng trình nghiên cứu về

<i>“Quyền an tử theo pháp luật nhân quyền quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và gợi </i>

<i>mở cho Việt Nam”</i><sup>7</sup>. Từ những kinh nghiệm về quyền an tử theo luật nhân quyền quốc tế cùng với việc so sánh, đối chiếu pháp luật một số quốc gia trên thế giới, tác giả đã đưa ra cái nhìn tổng quan về vấn đề hợp thức hóa quyền an tử trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay và thực trạng áp dụng quyền an tử vào thực tiễn đời sống xã hội của một số quốc gia trên thế giới; từ đó phân tích, gợi mở cũng như đưa ra những kiến nghị cho Việt Nam.

<i>Cơng trình “Căn cứ pháp lý của quyền được chết trong pháp luật quốc tế và </i>

<i>hướng đi của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Đức đã cho thấy cái nhìn khá tồn </i>

<small>7 Vũ Cơng Giao và Nguyễn Minh Tâm, “Quyền an tử theo luật nhân quyền quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia </small>

<i><small>và gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4(308), </small></i>

<small>[ (truy cập 02/02/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

diện các quy định về quyền an tử trong pháp luật quốc tế, từ đó có những đối chiếu, so sánh cũng như đưa ra những quan điểm dưới góc độ hàn lâm để gợi mở hướng đi cho Việt Nam.

Vấn đề an tử đang càng được quan tâm không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới, bao gồm những quốc gia đã và chưa hợp thức hóa quyền an tử.

<i>Đầu tiên phải kể đến “Public Support for the Right to Euthanasia: Impact of </i>

<i>Traditional Religiosity and Autonomy Values Across 37 Nations”. Cơng trình này nhóm </i>

nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu các tác động của quyền an tử đến mỗi cá nhân, mỗi quốc gia ở lĩnh vực tôn giáo và các giá trị của quyền tự chủ thông qua khảo sát 37 quốc gia.

<i>Ấn phẩm “Which “M” is it? Mercy or murder” của Zakyah Basri đề cập tổng </i>

quan đến lịch sử và các lập luận xoay quanh về vấn đề có nên hợp thức hóa quyền an tử hay khơng; từ đó trả lời câu hỏi liệu an tử là nhân từ hay giết người?

Ở Hà Lan, tuy đã hợp thức hóa quyền an tử từ đầu thế kỷ 21 nhưng vẫn có rất

<i>nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, chẳng hạn như “Developments in euthanasia </i>

<i>practice in the Netherlands: Balancing professional responsibility and the patient’s autonomy”</i><sup>8</sup>. Cơng trình này nghiên cứu tổng quan về những phát triển trong quá trình thực hiện trợ tử ở Hà Lan. Trong đó tập trung vào nghiên cứu sự cân bằng giữa trách nhiệm nghề nghiệp và quyền tự chủ của bệnh nhân.

Ngồi các cơng trình trên, nhiều bài nghiên cứu cũng cho thấy nhận thức của con

<i>người về vấn đề an tử ngày càng cao. Cụ thể như “Euthanasia:Understanding the Facts” của Kimberly Holland, “The right on euthanasia: The experience of the world's </i>

<i>developed countries and the prospects of its implementation in Ukraine” của tác giả </i>

<i>Kateryna Horbachova và các cộng sự; “The International Covenant on Civil and </i>

<i>Political Rights and Euthanasia” của George Zdenkowski; “The right to assisted suicide and euthanasia” của Neil M.Gorsuch; “Euthanasia and The right to die A comparative view” của Jennifer M.Scherer và Rita J.Simon;... Không chỉ dừng lại ở các cơng trình </i>

nghiên cứu mà quyền an tử cịn được các học giả quan tâm, nghiên cứu và cho ra đời

<i>các ấn phẩm như cuốn “Euthanasia: Putting the Culture to Death? (Snowflake </i>

<i>Chronicles)” của Peter Kurti xuất bản năm 2018 hay “Contemporary Constitutionalism and the “Right to Die”” của Benedetta Barbisan năm 2020; “The Inevitable: Dispatches on the Right to Die” của Katie Engelhart xuất bản tháng 3 năm 2021,.... </i>

<small>8 Pauline S.C. Kouwenhoven, Ghislaine J. M. W. van Theil, Agnes van der Heide et al, “Developments in </small>

<i><small>euthanasia practice in the Netherlands: Balancing professional responsibility and the patient’s autonomy”, PubMed </small></i>

<i><small>Central (PMC), [Developments in euthanasia practice in the Netherlands: Balancing professional responsibility </small></i>

<small>and the patient’s autonomy - PMC (nih.gov)] (truy cập 02/02/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Ngồi các cơng trình nêu trên, các bài nghiên cứu, cuộc khảo sát cũng đang không ngừng tăng lên. Mặc dù các ấn phẩm này chỉ trình bày một khía cạnh rất nhỏ về vấn đề an tử, có những quan điểm đồng tình lẫn khơng đồng tình hợp thức hóa quyền này nhưng nhìn chung, nguồn thơng tin khổng lồ mà các cơng trình này mang lại chắc chắn sẽ là nguồn hỗ trợ to lớn vào nghiên cứu chuyên sâu, cũng như tạo cơ sở pháp lý nhất định cho công cuộc đánh giá sau này.

Hiện nay, ở Việt Nam mặc dù quyền an tử đang ngày càng được quan tâm nhưng các cơng trình nghiên cứu vẫn cịn khá ít cũng như hướng tiếp cận khác với hướng đi của nhóm nghiên cứu. Do đó, nhóm nghiên cứu tin rằng, cơng trình sẽ đóng góp vào kho tàng nghiên cứu quyền an tử; từ đó định hướng, kiến nghị cho pháp luật Việt Nam hợp thức hóa quyền an tử.

<b>3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i>Mục đích nghiên cứu: An tử dù đã xuất hiện trước công nguyên nhưng đến nay, </i>

đây vẫn là vấn đề được mọi người quan tâm. Với công trình nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu muốn đưa ra cái nhìn khách quan về vai trị, tầm quan trọng và tính khả thi khi hợp thức hóa quyền an tử. Từ đó, đúc kết và định hướng cho pháp luật Việt Nam hợp thức hóa quyền an tử.

<i>Đối tượng nghiên cứu: nhóm nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các chế định </i>

quốc, các văn bản pháp luật của các nước có liên quan đến quyền an tử. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng khai thác quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề này; cũng như các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trong lẫn ngoài nước.

<i>Phạm vi nghiên cứu: nhóm nghiên cứu tập trung phân tích các chế định về quyền </i>

an tử ở một số quốc gia trên thế giới, các vấn đề liên quan như quyền trợ tử; đối chiếu với tình hình nước ta hiện nay từ đó đưa ra kiến nghị cho Việt Nam.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu </b>

Cơ sở lý luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật biện

<b>chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã cân </b>

nhắc và lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu để có thể vận dụng hiệu quả, khai thác tối đa nguồn tài liệu, đồng thời đưa ra những góc nhìn khách quan nhất để nghiên

<b>cứu đề tài. Cụ thể như sau: </b>

Phương pháp phân tích và tổng hợp được vận dụng để đi sâu vào từng vấn đề, tìm ra được những nội dung cốt lõi để từ đó liên kết các nội dung tìm được, đưa ra những quan điểm, những kết luận của nhóm tác giả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Phương pháp logic được dùng để nghiên cứu lịch sử nội dung đề tài qua nhiều giai đoạn nhằm phân tích, so sánh, tổng hợp,…tìm được bản chất của nó.

Phương pháp so sánh được nhóm tác giả áp dụng để đối chiếu, chỉ ra được sự khác biệt về Quyền an tử ở một số quốc gia trên thế giới và liên hệ với Việt Nam. Từ đó chọn lọc được những nội dung hợp lý nhằm bổ sung, củng cố những quy định về vấn đề Quyền an tử trong pháp luật Việt Nam.

Phương pháp lịch sử được lựa chọn để tìm ra được nguồn gốc ra đời, sự thay đổi và phát triển của Quyền an tử, chỉ ra rõ được sự khác biệt qua từng thời kỳ.

Phương pháp liệt kê được áp dụng nhằm nêu các nội dung lý luận, đưa ra những nghiên cứu về tình hình Quyền an tử ở một số quốc gia.

Từ những phương pháp trên, nhóm nghiên cứu sẽ đánh giá được tổng quan đề tài, nghiên cứu chuyên sâu và nổi bật đề tài được nghiên cứu.

<b>5. Ý nghĩa đề tài </b>

Thông qua việc nghiên cứu một số vấn đề cốt lõi của quyền an tử từ thời điểm ra đời và sự phát triển dần theo thời gian của quyền này đến thời điểm hiện tại, đề tài này sẽ cho thấy được một cái nhìn mới mẻ, tổng quát nhất về quyền an tử, về những ưu và nhược điểm của quyền an tử đang được công nhận và thực thi tại một số quốc gia trên thế giới. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra được những đánh giá khách quan nhất về việc nên hay khơng nên cơng nhận quyền an tử, tính khả thi của quyền an tử tại Việt Nam và những kiến nghị hợp lý đối với vấn đề an tử tại Việt Nam.

<b>6. Bố cục đề tài nghiên cứu </b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của cơng trình nghiên cứu gồm ba chương như sau:

<i>Chương I: Một số vấn đề lý luận về quyền an tử: Trong chương này, nhóm tác </i>

giả sẽ tiến hành nghiên cứu về những cơ sở pháp lý, cơ sở chuyên môn y khoa về vấn đề quyền an tử. Lịch sử hình thành và phát triển của vấn đề này cũng như thực trạng chung việc áp dụng quyền an tử tại Việt Nam và trên thế giới.

<i>Chương II: Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về quyền an tử: Tại </i>

chương II, nhóm tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu các quy định, các văn bản pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề này. Chỉ ra được những ưu và nhược điểm trong từng hệ thống pháp luật được lựa chọn phân tích.

<i>Chương III: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền an tử và một số kiến nghị hoàn thiện: Đối với chương III nhóm tác giả sẽ tiến hành so sánh những ưu điểm, bất </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

cập của những quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia khác. Từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển và hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN AN TỬ 1.1. Cơ sở hình thành quyền an tử </b>

<i><b>1.1.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử </b></i>

Quyền con người là một trong những nhóm quyền ln ln được các nhà làm luật đặt lên hàng đầu và tập trung khai thác. Con người là nền tảng của xã hội, là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển không ngừng nghỉ của thế giới. Các quyền của con người đã được quốc tế nói chung cũng như các quốc gia nói riêng ghi nhận và hợp pháp hoá. Quyền an tử – một trong số những quyền con người đã xuất hiện từ rất sớm, có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài, tuy nhiên vẫn là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi với nhiều luồng quan điểm khác nhau.

Sự hình thành của quyền an tử đã nhen nhóm từ những năm TCN, khi con người bắt đầu nhận thức và đưa ra những quan điểm, những đề xuất để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Những ngun tắc để quyền an tử được hình thành bao gồm:

<i>Thứ nhất, bệnh tật khiến con người phải gánh chịu những nỗi đau vô cùng nặng nề </i>

về cả thể xác lẫn tinh thần.

Có thể nói đây là nguyên tắc hàng đầu cho sự ra đời của nhận thức con người về an tử. Sinh – lão – bệnh – tử là một vịng tuần hồn tự nhiên cho sự tồn tại của con người. Một cá nhân được sinh ra, lớn lên, dần trưởng thành, sau đó trở nên già yếu và qua đời vì bệnh tật. Nhưng có phải tất cả mọi người đều trải qua giai đoạn bệnh – tử một cách nhẹ nhàng và đơn giản hay không? – Câu trả lời là khơng. Có những căn bệnh đến với con người nhưng tác động của chúng không quá mạnh mẽ hay gây ra những nỗi đau quá lớn mà nó sẽ “ăn mòn” sức khỏe qua từng giờ, từng ngày, từ đó con người ta sẽ rời khỏi cuộc đời một cách khơng q đau đớn. Bên cạnh đó, sẽ có những căn bệnh đến với con người ta và gây ra những nỗi đau quá lớn về cả thể xác lẫn tinh thần, dày vò con người qua từng giờ, từng phút, từng giây. Ở những giai đoạn lịch sử xa xưa, y tế và khoa học chưa phát triển, nơi mà những người thầy thuốc không đủ khả năng để cứu chữa hay giảm bớt nỗi đau cho những người đang mắc bệnh ở những giai đoạn cuối. Chính điều này đã thơi thúc nhận thức của con người, là nguồn gốc sâu xa nhất cho sự hình thành và ra đời của an tử.

<i>Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng quyền tự chủ. </i>

Với những nỗi đau về thể xác và tinh thần lớn đến mức không thể nào chịu đựng được lâu dài, đồng thời chính những người được gọi là thầy thuốc, là bác sĩ hồn tồn khơng có khả năng cứu chữa được, con người lúc bấy giờ đã nghĩ đến kết cuộc cuối cùng của cuộc đời mình – chết. Họ cho rằng nếu chết đi ngay tại thời điểm đó, nỗi đau

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

sẽ không thể tiếp tục dày vị họ, họ sẽ khơng cần phải sống trong lo âu, thấp thỏm chỉ để chờ đợi cái chết đến bên cạnh mình. Tuy nhiên, tình trạng sức khoẻ khiến chính họ khơng thể tự tay tìm đến cái chết, từ đó nảy sinh mong muốn nhận được những loại thuốc độc từ bác sĩ để có thể chết đi thay vì đối diện với nỗi đau bệnh tật kéo dài.

<i>Thứ ba, ngun tắc vì lợi ích của bệnh nhân. </i>

Đây là nguyên tắc mang rõ giá trị đạo đức của an tử. Việc an tử một người nhằm hướng đến lợi ích của chính họ, giúp người bệnh khơng phải chịu đựng nỗi đau quá lớn

<i>trong một thời gian q dài. Vaughn đã từng nói: “Tính đúng đắn của hành động được </i>

<i>xác định không chỉ thông qua kết quả mà một phần hoặc toàn bộ được xác định bằng bản chất bên trong của hành động đó”.</i><sup>9</sup> Kết quả của an tử là sự chấm dứt tồn tại của một sinh mạng con người, tuy nhiên bản chất của hành động này không hướng đến những mục đích như vật chất, lợi ích của người khác mà hồn tồn vì lợi ích của người được an tử, loại bỏ được sự đau khổ khủng khiếp mà họ đang gánh chịu.

Ngoài ba nguyên tắc cơ bản trên, các học giả cũng đã đưa ra những nguyên tắc

<i>khác để áp dụng an tử. Trong đó gồm ngun tắc vì lợi ích chung và nguyên tắc “hiệu </i>

<i>ứng kép”. Đối với hai nguyên tắc này, an tử vừa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp </i>

pháp của con người, vừa đảm bảo sự phát triển chung của xã hội. Việc ban hành hay hợp pháp một quyền bất kỳ của con người cũng cần phải xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, của toàn xã hội.

Từ những nguyên tắc trên, quyền an tử đã bắt đầu được đề cập, ra đời, tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay. Tuy vẫn là một chủ đề gây ra nhiều tranh cãi, song khơng thể phủ nhận rằng tính thiết thực và giá trị nhân đạo mà an tử mang lại đã đóng góp khơng ít cho cơng cuộc xây dựng và củng cố quyền con người của các quốc gia nói riêng và thế giới nói chung.

<i><b>1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền an tử </b></i>

An tử là một thuật ngữ có lịch sử ra đời từ rất sớm, bắt đầu xuất hiện từ những năm thuộc Thế kỷ V TCN đến Thế kỷ I TCN. Tuy nhiên tại thời điểm này, an tử vẫn chưa được khái quát thành một khái niệm cụ thể mà chỉ được thể hiện thông qua những mong muốn sơ khai nhất về việc tiến hành các biện pháp hỗ trợ kết thúc sự sống của con người. Xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển, an tử đã được thực hiện, được chấp nhận, bị ghét bỏ, bị phản đối và vẫn luôn là vấn đề nhận được đặt ra rất nhiều câu hỏi và mối quan tâm.

<small>9</small><i><small> Vaughn, Lewis (2013), Bioethics: Principles, Issues, and Cases, Oxford University Press. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i>Giai đoạn 1, từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ XVI. </i>

Trong giai đoạn này, ở Hy Lạp và La Mã cổ đại có xu hướng chấp nhận và ủng

<i>hộ an tử. Thuật ngữ “Euthanasia” cũng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, mang nghĩa như </i>

<i>“cái chết êm dịu”. Một số triết gia Hy Lạp và La Mã cổ đại xem tự tử là một cái chết </i>

êm ái.<small>10</small> Các hành vi tự sát, hỗ trợ tự sát hay thực hiện cái chết êm ái được tiến hành khá rộng rãi và không gặp quá nhiều trở ngại. Trước thực tiễn lúc bấy giờ, con người gần như có xu hướng ủng hộ, đồng thuận an tử. Vì phần lớn người Hy Lạp và La Mã cổ đại khơng có niềm tin chặt chẽ vào giá trị cuộc sống vốn có của cá nhân mỗi con người, đồng thời các bác sĩ ngoại giáo đã thực hiện nạo phá thai cũng như cái chết nhân đạo tự nguyện và không tự nguyện.<sup>11</sup> Pliny the Elder - một triết gia La Mã sống tại thế kỷ thứ I – cho rằng tự tử là món quà lớn nhất mà Chúa ban cho con người. Theo đó, ơng cho rằng tự tử là sự chiến thắng số phận và thể hiện được quyền tự chủ của con người<small>12</small> – con người được quyền định đoạt mạng sống của chính mình.

Tại thời điểm này, người ta được quyền yêu cầu các bác sĩ cung cấp những

<i>phương tiện hỗ trợ tự tử hoặc thúc đẩy nhanh quá trình “chết” của họ thông qua can </i>

thiệp về mặt y tế bằng cách đưa cho họ thuốc độc<small>13</small>, thay vì đối diện với nỗi đau bệnh tật kéo dài. Với điều kiện y khoa sơ khai lúc bấy giờ, kèm theo trình độ chun mơn của y bác sĩ khơng đảm bảo cứu chữa được các tình trạng bệnh nguy hiểm đến tính mạng,

<i>việc đưa ra các hình thức hỗ trợ và chấp thuận cho con người “được chết” theo đúng </i>

mong muốn của họ là điều hoàn toàn dễ hiểu.

<i>Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm ủng hộ nhu cầu “được chết” của con người, phần </i>

lớn cư dân còn lại cho rằng việc thực hiện và hỗ trợ thực hiện các hành động trên là đi ngược lại với đạo đức, quy chuẩn, là vô nhân đạo. Hơn thế nữa, việc ủng hộ hành động trên đã khiến các y bác sĩ đi ngược lại với lời thề Hippocrates. Lời thề Hippocrates là văn bản y học Hy Lạp được biết một cách rộng rãi, đòi hỏi một bác sĩ phải thề trước các vị thần rằng họ sẽ tuân thủ một số tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp. Theo đó, với cương vị là một thầy thuốc, sẽ không bao giờ cung cấp một loại thuốc gây chết người cho bất kỳ ai nếu được yêu cầu và cũng sẽ không đề xuất một kế hoạch nào tương tự; Đồng thời sẽ không cung cấp dụng cụ cho phụ nữ phá thai.<small>14</small> Chính những quy chuẩn

<small>10</small><i><small> Ian R. Dowbiggin (2007), A Concise History of Euthanasia (Lanham: Rowman & Littlefield Publishers, 1952). </small></i>

<small>11</small><i><small> Ian R. Dowbiggin (2003), A Merciful End: The Euthanasia Movement in Modern America, Oxford University </small></i>

<small>Press. </small>

<small>12</small><i><small> Aaron Scherer (2017), “A Brief History Of Euthanasia”, Odyssey, </small></i>

<small>[ (truy cập ngày 31/01/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

đạo đức và nguyên tắc nghề nghiệp y học trên đã dấy lên làn sóng tranh luận vô cùng mạnh mẽ về việc nên hay không nên chấp thuận các hoạt động trợ tử. Dù thế, các hình thức hỗ trợ y tế để kết thúc sự sống vẫn được các thầy thuốc Hy Lạp và La Mã cổ đại áp dụng rộng rãi và sự ủng hộ đối với hành động này vẫn không ngừng lan rộng – bỏ tính nhân đạo và đạo đức nghề nghiệp lại phía sau. Song, làn sóng này đã vấp phải sự phản đối kịch liệt, gay gắt của người Do Thái và Cơ Đốc giáo.

Giai đoạn từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVI – thời kỳ ra đời và phát triển vô cùng mạnh mẽ của Cơ Đốc giáo cùng với một số tôn giáo khác như Phật giáo, Hồi giáo… đã

<i>lên án mạnh mẽ “cái chết êm dịu”. Theo Cơ Đốc giáo, sự sống của con người và Chúa </i>

có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cuộc sống con người là sự tin tưởng từ Chúa, là do Chúa ban cho, vô cùng thiêng liêng. Mọi hành vi tự kết liễu mạng sống và hỗ trợ người khác kết thúc sự sống là hoàn toàn sai trái. Quan niệm này ngày càng được tuyên truyền và lan rộng, con người dần nâng cao nhận thức về giá trị cuộc sống của cá nhân, từ đó cái chết êm ái càng ngày càng bị phản đối, củng cố quan điểm của trường phái Hippocrates – ngăn cấm hành vi an tử.<small>15</small> Vào thế kỷ XIII, Thomas Aquinas – một nhà thần học và triết học, cho rằng tự tử là hành vi sai trái vì nó trái với nghĩa vụ của một người đối với chính bản thân họ và khuynh hướng tự nhiên của sự tồn tại. Hơn thế nữa, nó làm ảnh hưởng đến lợi ích của người khác và lợi ích của nhóm cộng đồng mà người tự tử thuộc về. Đặc biệt, hành vi này vi phạm nghiêm trọng quyền của Đức Chúa Trời đối với sự sống – món quà mà Đức Chúa Trời ban cho con người.<small>16</small> Mạng sống của nhân loại là do Chúa ban cho, chỉ có Chúa mới có thể quyết định sự khởi nguồn và chấm dứt sự sống đó. Bên cạnh đó, các tơn giáo khác trên thế giới chẳng hạn như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo cho rằng việc một người kết liễu cuộc sống của mình hoặc người khác để giảm bớt đau khổ là việc làm sai trái.<small>17</small>

Có thể nói, ở giai đoạn này, nhận thức về quyền an tử đã nhen nhóm xuất hiện và hình thành trong suy nghĩ của con người. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của tôn giáo và bối cảnh xã hội đã kìm hãm mối quan tâm và sự phát triển của quyền này, khiến nó chưa được đào sâu và nghiên cứu.

<i>Giai đoạn 2, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. </i>

Đến giai đoạn thế kỷ thứ XVII, việc cấm tự tử và trợ tử được quy định trong hệ thống pháp luật Common Law (Thông luật), lan ra khắp cả các thuộc địa của Mỹ. Một vụ kiện diễn ra vào năm 1997 giữa Washington và Glucksberg đã khẳng định rằng:

<small>15</small><i><small> Michael Manning (1998), Euthanasia and Physician-Assisted Suicide: Killing or Caring?, Paulist Press. </small></i>

<small>16</small><i><small> The New York State Task Force on Life and the Law, When Death is Sought: Assisted Suicide and Euthanasia </small></i>

<i><small>in the Medical Context, 1994. </small></i>

<small>17 Dowbiggin (2007), tldd (1). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Trong hơn 700 năm, truyền thống Thông luật chung của Anh Mỹ đã trừng phạt hoặc không chấp nhận các hành vi tự tử và hỗ trợ tự tử.<small>18</small>

Khơng có bất kỳ thảo luận nghiêm túc nào diễn ra mãi cho đến Thời kỳ khai sáng của thế kỷ XVIII, khi các nhà văn đứng lên chống đối giáo lý tơn giáo về mọi vấn đề, trong đó có tự tử và trợ tử. Họ cho rằng những giáo lý của tôn giáo về mặt đạo đức, không có mối quan tâm sâu sắc đến vấn đề an tử.<small>19</small> Vào cuối thế kỷ XVIII, một cuộc phản công mang tính tơn giáo đã dấy lên và phát triển mạnh mẽ bởi những người theo đạo Tin Lành, ủng hộ nhu cầu được giải thoát của con người mà khơng bị xem là tội lỗi, nhất trí đồng tình cho việc lấy đi mạng sống của người khác.<small>20</small> Sau Chiến tranh Cách mạng, nhiều quốc gia đã phi hình sự hoá tự tử, tuy nhiên lập trường phản đối tự tử và trợ tử vẫn được một số quốc gia giữ vững, trong đó có Mỹ. Phần lớn người Mỹ khơng chấp nhận hình phạt thơng thường đối với hành vi tự sát, tồn tại một sự đồng thuận vững chắc về việc chống lại hành vi tự tử và trợ tử.<small>21</small> Năm 1828, Đạo luật đầu tiên của Hoa Kỳ về cấm trợ tử đã được ban hành tại New York. Sau đó, nhiều Bang và lãnh thổ khác

<i>cũng đã ban hành các đạo luật cấm “an tử”. Vào thời điểm Tu chính án thứ 14 của Hoa </i>

Kỳ được phê chuẩn, ở hầu hết các Bang, hành vi hỗ trợ tự tử được xem là một tội ác. Bước sang thế kỷ XIX, các nhà khoa học đã đưa y khoa lên một bước tiến mới khi chiết xuất thành công morphin – được dùng làm thuốc giảm đau trên diện rộng. Khi morphin đã được dùng để hỗ trợ giảm đau được một thời gian và mang lại sự ổn định, Samuel Williams bắt đầu việc đưa ra những quan điểm của cá nhân ông về trợ tử, theo đó công dụng của morphin khơng những là giảm đau mà cịn có thể được dùng để đẩy nhanh quá trình kết thúc sự sống của con người. Đề xuất trợ tử này của Williams đã nhận được sự quan tâm từ các tạp chí y khoa và các cuộc họp mang tính khoa học. 1885, Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã có bài viết cơng kích đề xuất trợ tử của Williams. Các bác sĩ vẫn giữ nguyên quan điểm rằng thuốc giảm đau có thể được dùng để giảm bớt cơn đau, tuy nhiên không thể dùng để đẩy nhanh quá trình chết của bệnh nhân, càng không thể giúp bệnh nhân chết không đau đớn. Đề xuất này của Williams

<i>được đánh giá là cổ súy cho việc khiến “bác sĩ mặc áo choàng của một đao phủ”.</i><small>22</small>

Đến giai đoạn thế kỷ XX, khi khoa học và y tế đã đạt được những bước tiến nhất định, vấn đề về an tử tiếp tục trở thành đề tài tranh luận. Vào những năm đầu của thế kỷ

<small>18 Washington v. Glucksberg, 521 U.S. 702 (1997), Justia US Supreme Court </small>

<small> [ (truy cập ngày 31/01/2023) </small>

<small>19 Michael Manning (1998), tldd (6). </small>

<small>20</small><i><small> Cao Thị Thảo Nguyên (2022), Quyền an tử trong luật quốc tế và pháp luật nước ngoài từ lý luận đến thực tiễn </small></i>

<i><small>– Kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. </small></i>

<small>21 Dowbiggin (2003), tldd, (2). </small>

<small>22</small><i><small> Ezekiel J. Emanuel (1994), “The History of Euthanasia Debates in the United States and Britain”, Annals of </small></i>

<i><small>Internal Medicine. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

này, các bác sĩ đã áp dụng thành công những phương pháp khoa học hiện đại cùng với những nguyên tắc dược lý phát triển và củng cố được sự ảnh hưởng của họ đối với việc đào tạo tại các trường đại học và trường y khoa, những cuộc tranh luận về trợ tử được đưa lên báo chí và các diễn đàn chính trị. Năm 1906, một đề xuất được đưa ra về việc hợp pháp hóa cái chết êm ái không những chỉ cho những người trưởng thành đang mắc bệnh ở giai đoạn cuối mà cũng nên được áp dụng đối với những đứa trẻ mắc dị tật hoặc thiểu năng. Đề xuất này bị bác bỏ và bị cho là không cần thiết. Sau năm 1906, mối quan tâm của công chúng đối với an tử đã dần khơng cịn q sâu sắc.

Trong thời gian từ năm 1915 đến 1919, một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Chicago – Harry Haiselden – đã gây chấn động cả nước thông qua việc chấp nhận hoặc đẩy nhanh cái chết của ít nhất sáu trẻ sơ sinh được ơng chẩn đốn là đa dị tật.<small>23</small> Haidelsen đã thực hiện và hoàn thành điều mà những người ủng hộ và bảo vệ an tử trước đó khơng làm được: khơng cứu chữa, để những đứa trẻ trên ra đi theo quy luật của tự nhiên hoặc áp dụng những phương pháp đẩy nhanh sự ra đi đó. Hành động trên của Haiselden đã gây ra một luồng tranh cãi không hề nhỏ xung quanh vấn đề trợ tử.<small>24</small> Ông ấy nhận được sự ủng hộ và tán thành từ nhiều nhân vật nổi tiếng, truyền cảm hứng cho nhiều người ủng hộ trợ tử dám nêu lên tiếng nói của mình, họ cho rằng việc để những đứa trẻ bị dị tật chết là không có gì sai trái, vừa giúp chúng sớm kết thúc cuộc đời với một tương lai tăm tối phía trước, vừa vì lợi ích của xã hội. Đến năm 1917, một bộ phim với tựa đề

<i>“The Black Stork” lấy cảm hứng từ chính câu chuyện của bác sĩ Haiselden do ơng đảm </i>

nhận vai chính được ra mắt. Trong thời gian phim được công chiếu từ lúc phát hành đến muộn nhất là năm 1942, rất nhiều người Mỹ nổi tiếng đã tập hợp lại để ủng hộ Haiselden, các tờ báo cũng như tạp chí đã đăng phản hồi của hàng trăm người từ nhiều nơi khác nhau đối với chiến dịch của Haiselden và hơn một nửa là tán thành hành động của ông. Những người ủng hộ đến từ mọi tầng lớp xã hội, có cả một số giáo sĩ Công giáo.

Sau sự kiện được xem là cột mốc mở đầu cho công cuộc đấu tranh vì quyền an tử vào những năm đầu thế kỷ XX, thế giới đã có những chuyển biến lớn, nhận thức của con người về an tử, trợ tử ngày càng được nâng cao. Một trong những bước đi đầu tiên trong cơng cuộc hợp thức hóa trợ tử là sự ra đời của Hiệp hội pháp lý trợ tử tự nguyện (VELS) đầu tiên trên thế giới được thành lập tại London, Anh bởi C. Killick Millard.<small>25</small>

<small>23 Martin Pernick, “Black Stork”, </small>

<small>[ (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

<small>24 “The Black Stork: Movie Ads”, </small>

<small> [ (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

<small>25</small><i><small> Ezekiel J. Emanuel, “The History of Euthanasia Debates in the United States and Britain”, Annals of Internal </small></i>

<i><small>Medicine, [ (truy cập ngày </small></i>

<small>01/02/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Ba năm sau, 1938, Charles Francis Potter tuyên bố thành lập Hiệp hội Hợp pháp hóa Quốc gia về Hợp pháp hóa An tử (NSLE), sau được đổi tên thành Hiệp hội An tử Hoa Kỳ (ESA). Một trong những nguyên nhân khác khiến an tử dần được ủng hộ đông đảo, là sự gia tăng của hàng ngàn cái chết vì dịch bệnh sau Nội chiến Hoa Kỳ, mặc cho những đột phá y tế và công nghệ mới liên tục ra đời song rất ít phương pháp chữa bệnh được áp dụng thành công. Các bác sĩ lúc bấy giờ trở thành người an ủi động viên những người sắp chết thay vì chữa bệnh. Có thể thấy rõ một thực tế rằng, y học tại thời điểm đó chỉ có thể ngăn ngừa, khơng thể chữa khỏi bệnh cho con người. Sự vơ ích trong việc kéo dài cuộc sống của bệnh nhân ngày càng rõ ràng đối với cộng đồng y tế, dẫn đến việc dần chấp nhận trợ tử và an tử.

Sự ủng hộ trợ tử và an tử đông đảo là thế, nhưng vẫn tồn tại song song sự phản

<i>đối và lên án những hành động trên. Năm 1950, Hiệp hội Y khoa Thế giới lên án “cái </i>

<i>chết êm ái”. Họ đưa ra tuyên bố rằng phần lớn các bác sĩ không tin và không ủng hộ </i>

hành động gây tranh cãi này. Một cuộc khảo sát được thực hiện và cho thấy rằng sự ủng hộ đối với trợ tử đã càng ngày càng giảm, khi chỉ 36% người Mỹ chấp thuận hợp pháp hoá an tử, giảm hơn 10% so với những năm 1930.<small>26</small>

Đến năm 1952, các Hiệp hội An tử của Anh và Mỹ đã đệ trình một bản kiến nghị lên Uỷ ban Nhân quyền của Liên Hợp Quốc về việc sửa đổi Tuyên bố Nhân quyền của

<i>Liên Hợp Quốc, trong đó bao gồm “quyền của những người mắc bệnh nan y được trợ </i>

<i>tử hoặc chết một cách êm ái”.</i><small>27</small> Đề nghị này đã một lần nữa khẳng định mối quan tâm, nhận thức sâu sắc của các học giả lúc bấy giờ đối với vấn đề an tử. Những cuộc tranh luận, những làn sóng ủng hộ lẫn phản đối an tử vẫn diễn ra không ngừng nghỉ trong những năm gần cuối thế kỷ XX, cho thấy được tầm quan trọng của quyền an tử cũng như mong muốn đấu tranh vì lợi ích của con người. Năm 1974, Hiệp hội vì Quyền được chết được thành lập với tiền thân là Hiệp hội Quyền an tử Hoa Kỳ, đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong công cuộc theo đuổi và hợp thức hố hành vi trợ tử tích cực, là một tín hiệu tốt để mở rộng và phát triển các đạo luật về an tử. Đến những năm cuối thế kỷ XX, Mỹ là một trong những quốc gia có sự ủng hộ sơi nổi nhất đối với quyền an tử. Năm 1977, tám Bang của Mỹ bao gồm California, New Mexico, Arkansas, Nevada, Idaho, Oregon, North Carolina, và Texas đã thông qua quy định về quyền được chết. Đến 1988, Hiệp hội các giáo đoàn theo chủ nghĩa tồn cầu nhất thể đã thơng qua Nghị quyết ủng hộ trợ tử cho người bệnh nan y, trở thành cơ quan tôn giáo đầu tiên ủng hộ và

<small>26 Dowbiggin (2003), tldd, (2). </small>

<small>27</small><i><small> Marjorie B. Zucker (1999), “The Right to Die Debate: A Documentary History”, Greenwood. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

khẳng định quyền được chết.<small>28</small> Khơng lâu sau đó, ngày 5/11/1990, Quốc hội của Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật về quyền tự quyết của bệnh nhân, trong đó bệnh nhân có quyền yêu cầu hoặc từ chối điều trị.<sup>29</sup> Tháng 11/1994, Bang Oregon của Hoa Kỳ thông qua Đạo luật “Death of Dignity”, trở thành đạo luật đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ hợp pháp hóa trợ tử bằng các phương pháp y khoa. Mặc dù vướng khơng ít sự phẫn nộ và phản đối về mặt đạo đức, tuy nhiên có thể xem đây là sự mở đường hồn hảo cho quyền an tử, cho phép con người được quyền định đoạt sự sống của chính mình.

<i>Giai đoạn 3, từ đầu thế kỷ XXI đến nay. </i>

Bước sang đầu thế kỷ XXI, sau một giai đoạn lịch sử lâu dài diễn ra các cuộc đấu tranh về quyền an tử, những nỗ lực về việc hợp pháp hoá an tử đã có những bước tiến rõ rệt. Hà Lan là quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hố an tử thơng qua việc ban hành Đạo luật chấm dứt cuộc sống theo yêu cầu và trợ tử (Termination of Life on Request and Assisted Suicide Act) vào năm 2001. Đạo luật này được đưa ra nhằm hợp pháp hóa trợ tử cũng như an tử, nhưng chỉ trong những trường hợp đặc biệt và được quy định vô cùng chặt chẽ. Đến 2006, Đạo luật này đã được mở rộng, cho phép trợ tử và an tử đối với bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi nếu có sự chấp thuận của cha mẹ. Tính đến 2013, theo số liệu được thống kê, số trường hợp thực hiện an tử ở nước này đã tăng 2,5 lần và có dấu hiệu tiếp tục tăng.<small>30</small> Điều này cho thấy rằng, việc hợp thức hoá an tử và trợ tử đã giúp khơng ít người có thể được hưởng quyền tự do định đoạt mạng sống của bản thân khi họ không muốn tiếp tục cuộc sống và đáp ứng đủ những điều kiện được đặt ra, là một đánh dấu mới mẻ cho việc thực thi quyền con người.

Không lâu sau đó, Bỉ là quốc gia tiếp theo nối gót Hà Lan, hợp pháp hố an tử. Đạo luật về an tử của Bỉ (The Belgian Act on Euthanasia) được thông qua vào năm 2002, tuy nhiên tại thời điểm này Bỉ vẫn chưa có quy định về an tử đối với trẻ em như Hà Lan. Mãi đến năm 2014, Bỉ tiếp tục thể hiện sự đồng thuận khơng ngừng nghỉ của mình đối với quyền an tử thông qua việc dỡ bỏ mọi hạn chế về độ tuổi đối với trợ tử. Ta có thể thấy được tư duy mở của các nhà lãnh đạo cũng như tính nhân đạo của việc cho phép trợ tử đối với trẻ em mắc bệnh nan y. Sau 10 năm Đạo luật có hiệu lực, các trường hợp thực hiện an tử ở Bỉ có xu hướng tăng nhanh, cụ thể vào năm 2013 con số đã lên

<small>28 Derek Humphry, “Chronology of Right-to-Die Events During the 20th Century and into the Millenium”, </small>

<i><small>Euthanasia Research and Guidance Organization, </small></i> <small>die_events.html] (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

<small>[ Patient Self-Determination Act 1995. </small>

<small>30 Netherlands Deaths By Euthanasia (2006 through 2013), [ (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

đến 1.816 trường hợp.<small>31</small> Tiếp nối những thành công kể trên, ngày 19/2/2008, Luxembourg là quốc gia tiếp theo hợp pháp hoá tự sát cũng như trợ tử, được áp dụng cho những bệnh nhân mắc bệnh nan y và khơng có biện pháp chữa trị. Cũng tại thời điểm này, bang Washington của Hoa Kỳ trở thành tiểu bang thứ hai hợp pháp hóa trợ tử, trợ tử được áp dụng đối với người trưởng thành đang mắc bệnh nan y và họ có quyền yêu cầu được cung cấp các loại thuốc trợ tử từ bác sĩ.<small>32</small> Tháng 2/2015, Tòa án tối cao

<i>Canada bãi bỏ lệnh cấm trợ tử có sự hỗ trợ từ bác sĩ. Tịa cho rằng “việc cấm tước đi </i>

<i>mạng sống của một số cá nhân trong một số trường hợp khiến họ phải tự kết liễu đời mình, vì họ sợ rằng sẽ không thể làm như vậy khi họ đạt đến một mức độ đau đớn nhất định”.</i><small>33</small> Vào năm 2020, quốc gia đầu tiên hợp pháp hoá an tử - Hà Lan - đã cho phép trợ tử cho trẻ em mắc bệnh nan y từ 1 đến 12 tuổi. Bộ y tế cho biết việc thay đổi quy tắc

<i>sẽ ngăn một số trẻ em “chịu đựng đau khổ một cách vô vọng và không thể chịu đựng </i>

<i>được”.</i><small>34</small> Gần đây nhất, vào năm 2021, Colombia là quốc gia đầu tiên ở khu vực Latinh cho phép thực hiện cái chết nhân đạo thông qua y học đối với bệnh nhân mắc bệnh nan y.

Mỹ-Từ những thông tin trên, ta có thể thấy rằng trong thế kỷ XXI, khơng ít quốc gia và khu vực đã nỗ lực thơng qua quyền an tử nói chung cũng như trợ tử nói riêng. Tính nhân đạo cũng như giá trị đạo đức mà an tử mang lại đang dần được chứng minh và lan rộng.

<b>1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử </b>

<i><b>1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến quyền an tử </b></i>

<i>Thứ nhất, khái niệm “An tử” (Euthanasia). </i>

Khái niệm an tử xuất hiện rất sớm tại Hy Lạp từ thế kỉ V đến thế kỷ I TCN nhưng

<i>được khái quát thành khái niệm vào thế kỷ 17. Về mặt khái niệm, thuật ngữ “an tử” (trong tiếng Trung) hay “euthanasia” (trong tiếng Anh) hay “euthanasie” (trong tiếng Pháp). An tử có nguồn gốc từ thuật ngữ Hi Lạp cổ với tên gọi là “euthanatos” trong đó “eu” là “tốt” và “thanatos” là “chết”</i><small>35</small>. Với cách giải nghĩa này tạm dịch “an tử” là cái chết mang tính nhẹ nhàng và dễ chịu. Dễ nhận thấy, cách hiểu này có nét tương đồng

<small>31 Simon Caldwell, “Five people killed EVERY DAY by assis/ted suicide in Belgium as euthanasia cases soar by </small>

<i><small>25 per cent in last year alone”, Mail Online, </small></i>

<small>[ (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

<small>32 Washington Death With Dignity Act, 2008. </small>

<small>33</small><i><small> “Canadians Have A Right To Assisted Suicide, High Court Says”, NPR, </small></i>

<small>[ (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

<small>34 “The countries where euthanasia is legal”, The Week, euthanasia-is-legal] (truy cập ngày 01/02/2023). </small>

<small>[ “Euthanasia”, [ </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>với thuật ngữ “mercy killing” (cái chết nhân đạo). Theo từ điển Merriam-Webster, an tử là “hành động hoặc thực hành giết chết hoặc cho phép cái chết của những cá nhân (như </i>

<i>con người hoặc động vật nuôi) bị ốm hoặc chấn thương không cịn hy vọng (cứu chữa) theo cách ít đau đớn nhất vì lý do nhân từ/nhân đạo”.</i><small>36</small> Theo từ điển Oxford Dictionary an tử là: “hành vi giết người hoặc động vật đang mắc bệnh không thể chữa khỏi mà không gây đau đớn.”<small>37</small> The British House of Lords Select Committee on Medical Ethics (Ủy ban đặc biệt của Thượng Nghị viện Anh về Đạo đức y học) định nghĩa về an tử là

<i>“một sự can thiệp cố ý được thực hiện với ý định rõ ràng về sự kết thúc một cuộc sống, để xoa dịu sự đau đớn khó chữa”</i><small>38</small>. Trong Tuyên bố về an tử của Bộ giáo lý đức tin

<i>(1980) ghi nhận: “An tử được hiểu là một hành động hoặc một sự sơ xuất là chính hành </i>

<i>vi này tự bản thân nó, hoặc do chủ ý dẫn đến cái chết, để xóa bỏ mọi đau khổ.” </i>

<i>Từ những cách hiểu trên, nhóm nghiên cứu khái quát khái niệm “an tử” tức là </i>

những hành vi nhằm chấm dứt sự sống của một người, mà thường là những bệnh nhân khơng cịn khả năng cứu chữa một cách nhẹ nhàng êm ái bằng những biện pháp y học bởi đội ngũ y bác sĩ chuyên nghiệp với mục đích cao thượng vì những lợi ích của người đó.

Theo nhiều tài liệu mà nhóm tác giả nghiên cứu, an tử sẽ bao gồm những nội dung sau:

<i>Một là, tính chủ ý chấm dứt cuộc sống </i>

Đây được xem là yếu tố quan trọng nhất trong an tử. Việc thực hiện an tử phải hoàn toàn xuất phát từ ý chỉ chủ quan của đối tượng, là mong muốn thực sự của họ mà không bị ép buộc hoặc tác động bởi bất kỳ chủ thể nào khác. Nếu việc an tử khơng xuất phát từ ý chí chủ quan của bệnh nhân sẽ khơng được xem là an tử. Vì antử trực tiếp mâu thuẫn với quyền cố hữu của con người - quyền sống, và vì vậy, nếu như an tử khơng xuất phát từ chủ ý của chính bệnh nhân thì đó sẽ trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người và sẽ là hành vi giết người.

<i>Hai là, đối tượng là những bệnh nhân khơng cịn khả năng cứu chữa </i>

Đối tượng được thực hiện an tử phải là bệnh nhân khơng cịn khả năng cứu chữa theo kết luận y học. Đây là một điều kiện quan trọng để có thể xác nhận được hành vi này là an tử hay tự tử, là hỗ trợ an tử hay xúi giục tự sát.<small>39</small> Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về việc thế nào là tình trạng khơng cịn khả năng cứu chữa. Theo tác giả

<small>36 </small>

<small>37 </small>

<small>38 Harris, NM. (Oct 2001), "The euthanasia debate". J R Army Med Corps 147 (3): 367–70. PMID </small>

<small>39</small><i><small> Hoàng Thu Hà (2019), Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc </small></i>

<small>gia Hà Nội </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i>Trương Hồng Quang trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về quyền được chết trong bối </i>

<i>cảnh hiện nay”, thì giới y học hầu hết thống nhất có hai dạng bệnh nhân: </i>

<i>(1) Những trường hợp chết não: “tình trạng toàn não bộ bị tổn thương nặng, </i>

<i>chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được”. </i>

Bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như hơ hấp, tuần hồn và ni dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống chấm dứt.

<i>(2) Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và khơng có khả năng hồi phục. </i>

Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình (bản thân họ khơng cịn biết khổ hay sướng). Đơi lúc người bệnh biểu lộ được ý chí của mình và hồn tồn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất ý thức thường xuyên.<small>40</small>

<i>Ba là, phương pháp thực hiện an tử là phương pháp không gây đau đớn </i>

Đúng như tên gọi của nó, việc an tử thường được thực hiện bằng các phương pháp y học khơng gây đau đớn hoặc ít gây đau đớn nhất cho người bệnh giúp học có thể ra đi một cách thanh thản nhẹ nhàng. Mặc dù hiện nay vẫn chưa có bất kì tài liệu nào cơng khai các phương thức an tử, tuy nhiên có hai phương thức lớn nhất từng được biết đến là: an tử thông qua thuốc ngừng tim và an tử thông qua việc ngừng cung cấp hỗ trợ sự sống. Với hai phương thức trên, thường thì sẽ gây ra cái chết cho bệnh nhân bằng việc chấm dứt nhịp tim của bệnh nhân mà khơng gây ra bất kì đau đớn nào.

<i>Bốn là, tất cả vì lợi ích của người bệnh </i>

Đây là yếu tố thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của việc an tử. Việc an tử hoàn toàn phải được thực hiện với nền tảng là lợi ích của người bệnh nhằm chấm dứt sự đau đớn bệnh tật và giúp họ ra đi thanh thản. Việc an tử khơng thể được thực hiện vì bất kỳ lợi ích kinh tế hay nguyên nhân từ chủ thể nào khác (gia đình, xã hội).

Như vậy, có 4 yếu tố trong việc an tử: (i) Tính chủ ý chấm dứt cuộc sống, (ii) Đối tượng là những bệnh nhân khơng cịn khả năng cứu chữa, (iii) Phương pháp thực hiện an tử là phương pháp không gây đau đớn, (iv) Tất cả vì lợi ích của người bệnh. Trong đó, yếu tố đầu tiên là quan trọng nhất, quyết định hành vi đó là an tử hay giết người.

Bàn về khái niệm này, có nhiều quan điểm cho rằng dựa vào việc đối tượng liệu có đưa ra sự chấp thuận (Informed consent) hay khơng, an tử có thể được phân thành ba

<i>loại: an tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia), an tử phi tự nguyện (Non – Voluntary </i>

<small>40</small><i><small> Hoàng Thu Hà (2019), Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc </small></i>

<small>gia Hà Nội </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i>Euthanasia) và an tử trái nguyện vọng (Involuntary Euthanasia)</i><small>4142</small>. Mỗi loại trên còn

<i>được chia thành hai dạng là an tử chủ động (Active euthanasia/euthanasia by action) và an tử thụ động (Passive euthanasia/euthanasia by omission), cụ thể: </i>

<i>An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia): Người bệnh hồn tồn có nhận thức và </i>

làm chủ suy nghĩ, quyết định của mình cũng như bày tỏ mong muốn được kết thúc sự sống bằng những biện pháp y học.

<i>An tử phi tự nguyện (Non - Voluntary Euthanasia): Trường hợp này xảy ra khi </i>

người bệnh đã khơng cịn nhận thức, hoặc khơng có khả năng nhận thức để đưa ra quyết định. Quyết định an tử của họ sẽ do người nhà quyết định dựa trên những kết luận y học về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Ví dụ như người tâm thần, người thiểu năng trí não, người thực vật …

<i>An tử trái nguyện vọng (Involuntary Euthanasia): Bệnh nhân không hề đồng ý, </i>

khơng có nguyện vọng thực hiện an tử và cũng khơng có bằng chứng chứng minh sức khỏe của họ đạt tới tình trạng cần phải chấm dứt sự sống. Trong trường hợp này, khác

<i>với “an tử phi tự nguyện”, bệnh nhân hoàn toàn đủ khả năng nhận thức và đưa ra quyết </i>

định.

<i>An tử tự nguyện thụ động (Passive Voluntary Euthanasia): Khi việc điều trị y tế </i>

bị rút lại hoặc tạm ngừng đối với bệnh nhân, theo yêu cầu của bệnh nhân, nhằm chấm dứt cuộc sống của bệnh nhân; Các ví dụ có thể kể đến như việc không hồi sức cho một người bị ngừng tim, tắt máy hỗ trợ sự sống hoặc giữ lại hoặc rút lại các dịch vụ chăm sóc y tế khác có thể kéo dài sự sống.<small>43</small>

<i>An tử tự nguyện chủ động (Active Voluntary Euthanasia): Khi sự can thiệp y tế </i>

diễn ra, theo yêu cầu của bệnh nhân, nhằm chấm dứt cuộc sống của bệnh nhân; Điều này có thể bao gồm việc sử dụng thuốc giảm đau liều cao để đẩy nhanh cái chết hoặc cung cấp và/hoặc tiêm một chất hoặc liều lượng gây chết người để kết thúc cuộc sống.

<i>An tử không tự nguyện thụ động (Passive Non-Voluntary/Involuntary </i>

<i>Euthanasia): Khi việc điều trị y tế bị rút lại hoặc chấm dứt đối với bệnh nhân, không </i>

theo yêu cầu của bệnh nhân, nhằm chấm dứt cuộc sống của bệnh nhân;

<small>41 Perrett RW (tháng 10 năm 1996). “Buddhism, euthanasia and the sanctity of life”. J Med Ethics. 22 (5): 309–13. </small>

<small>42 LaFollette, Hugh (2002). Ethics in practice: an anthology. Oxford: Blackwell. tr. 25–26. ISBN 0-631-22834-9. </small>

<small>43 See, e.g. Queensland Government: Queensland Health, Implementation Guidelines: End-of-life care: making for withholding and withdrawing life-sustaining measures from adult patients, part 2. At: </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i>Decision-An tử không tự nguyện chủ động (Active Non-Voluntary/Involuntary </i>

<i>Euthanasia): Khi can thiệp y tế diễn ra, không phải theo yêu cầu của bệnh nhân, nhằm </i>

kết thúc cuộc sống của bệnh nhân.<sup>44</sup>

Như vậy, điểm khác biệt giữa những loại hình an tử trên nằm ở tính chủ ý và cách thức an tử. Thực chất, việc phân chia an tử thành các loại khác nhau chỉ mang tính tương đối. Hầu hết các quốc gia đều chưa chấp nhận hình thức an tử không tự nguyện/ phi tự nguyện và sẽ khép 2 hành vi này vào tội giết người.

<i>Thứ hai, khái niệm “Trợ tử” (Assisted suicide) </i>

Bên cạnh khái niệm an tử, ở nhiều quốc gia còn sử dụng thuật ngữ trợ tử (Physician-assisted suicide: tự tử với sự trợ giúp của bác sĩ). Trong khi an tử là hành động đẩy nhanh cái chết của người khác khác để giảm bớt sự đau đớn nặng nề thì trợ tử là một hành vi mà trong đó một người giúp đỡ về mặt vật chất cho một cá nhân tự tử, chẳng hạn như cung cấp công cụ hoặc thiết bị, mà ở đây thường là bác sĩ, vai trò của

<i>bác sĩ trong trợ tử là “cung cấp cho một người kiến thức hoặc phương tiện hoặc cả hai </i>

<i>cần thiết để thực hiện tự tử, bao gồm tư vấn về liều lượng gây chết người của thuốc, kê đơn liều lượng gây chết người đó hoặc cung cấp thuốc” </i><small>45</small>. Như vậy, điểm khác lớn giữa

<i>trợ tử và an tử nằm ở chủ thể thực hiện hành vi, nếu “an tử” sẽ do bác sĩ trực tiếp thực </i>

hiện thì với trợ tử, bác sĩ chỉ đóng vai trò cung cấp phương tiện, còn bệnh nhân sẽ là người trực tiếp thực hiện. Khác với an tử, hiện nay trợ tử vẫn chưa được phân loại rõ ràng, tuy có một vài quan điểm cho rằng, trợ tử nên được phân làm hai loại là trợ tử với sự trợ giúp của bác sĩ (Physician- assisted suicide) và trợ tử (Assisted suicide)<small>46</small>, song quan điểm này không được chấp nhận rộng rãi vì nhiều quốc gia cho rằng việc trợ tử khơng có sự trợ giúp của bác sĩ hay các cơ quan y tế thì sẽ tương đương với việc xúi giục tự tử. Ở những quốc gia và khu vực chỉ mới công nhận quyền trợ tử thì hành vi an tử vẫn được xem là phạm pháp và ngược lại, những quốc gia chỉ mới cơng nhận quyền an tử thì việc trợ tử vẫn được xem là phạm pháp. Đan Mạch là một quốc gia đã hợp pháp hóa vấn đề an tử cụ thể là an tử thụ động (Passive euthanasia) nhưng ở quốc gia này, trợ tử vẫn là hành vi phạm pháp.<small>47</small> Do những tranh cãi gay gắt về đạo đức và lo ngại những hệ lụy xấu do việc trợ tử gây ra, tính đến năm 2015, trong tổng số 221 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chỉ có 3 nước cho phép trợ tử bệnh nhân là Bỉ, Luxembourg, Hà

<small>44 Natasha Cica, Euthanasia – the Australian Law in an International Context Part 1: Passive Voluntary Euthanasia, Parliamentary Library Research Paper No 3 (1996-7). </small>

<small>45 “Euthanasia And Assisted Suicide” Canadian Medical Association. 2007. </small>

<small>46 Michael Manning (1998), Euthanasia and Physician-assisted Suicide: Killing Or Caring?, Paulist Press New York, tr.3. </small>

<small>47 Nielsen, Morten Ebbe Juul; Andersen, Martin Marchman (27 May 2014). "Bioethics in Denmark". Cambridge Quarterly of Healthcare Ethics. 23 (3): 326–333 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Lan.<small>48</small> Tính đến năm 2021, con số này đã tăng lên với 9 quốc gia gồm: Áo, Bỉ, Canada, Đức, Luxembourg, Hà Lan, New Zealand, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ<small>49</small><i>,. Có sự khác biệt </i>

như vậy nhưng nếu xét cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trị của bác sĩ chưa được mở rộng.<sup>50</sup>

<i>Thứ ba, khái niệm “Quyền an tử” (Right to die) </i>

Quyền an tử (Right to die) là một khái niệm xuất phát từ quan điểm cho rằng con người có quyền kết thúc cuộc đời mình hoặc được chết êm dịu một cách tự nguyện.<small>51</small>

<i>Theo từ điểm Merriam Webster định nghĩa quyền an tử là: một “luật hợp pháp hóa </i>

<i>quyền tự quyết địnhcủa một người bị bệnh nan y về thuốc kết liễu cuộc đời do bác sĩ kê đơn”<small>52</small>. Khác với Merriam Webster, Cambride Dictionary lại định nghĩa quyền an tử </i>

<i>như sau: “niềm tin rằng một người nên được phép chết một cách tự nhiên hơn là được </i>

<i>giữ sống bằng các phương pháp y tế khi họ đau khổ và khó có thể khỏe lại”. Quyền này </i>

cho phép một người mắc bệnh nan y, đau đớn vô phương cứu chữa, hoặc khơng có ý chí tiếp tục sống, được phép chấm dứt sự sống bằng cách sử dụng phương pháp trợ tử hoặc từ chối điều trị kéo dài sự sống và phải tuân theo quy định chặt chẽ của pháp luật. Tuy nhiên, việc định nghĩa cụ thể quyền an tử cịn gặp nhiều tranh cãi vì quyền này chỉ phát sinh khi quốc gia hợp pháp hóa vấn đề an tử chứ đây không phải là một quyền nhân thân có sẵn. Và quyền này được áp dụng thế nào, cho đối tượng nào còn tùy thuộc vào quốc gia hợp pháp hóa khía cạnh nào của quyền an tử. Ví dụ như tại Pháp, luật cho phép bác sĩ được gây mê cho bệnh nhân đến khi họ chết nhưng không được hỗ trợ chết trực tiếp; tại Hà Lan cả chết không đau đớn và hỗ trợ tự tử đều là hợp pháp, trong trường hợp một người đang đau đớn quá sức chịu đựng và không có cơ hội để cải thiện tình hình. Luật Hà Lan không yêu cầu người này phải bị bệnh nan y và không đặt ra thời hạn chờ đợi bắt buộc<sup>53</sup>.

Hiện nay trên thế giới, việc phân chia các dạng của quyền an tử chủ yếu tập trung các quan điểm chính như sau:

Quan điểm đầu tiên phân chia quyền an tử thành 4 quyền nhỏ sau: quyền an tử tự nguyện chủ động (Voluntary active euthanasia); quyền an tử không tự nguyện chủ động (Involuntary active euthanasia); quyền an tử thụ động (Passive euthanasia) và quyền hỗ

<small>48 “Minsalud deja en firme la resolución con protocolo de eutanasia” </small>

<small>49 “Assisted Suicicde” - Wikipedia </small>

<small>50</small><i><small> Hoàng Thu Hà (2019), Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

trợ tự tử hay trợ tử (Physician-assisted suicide).<small>54</small> Theo đó, quyền an tử tự nguyện chủ động là khi bệnh nhân yêu cầu bác sĩ chấm dứt các liệu trình điều trị hoặc các biện pháp y tế khác nhằm kéo dài sự sống. Tiếp đến, quyền an tử không tự nguyện chủ động là khi bác sĩ tự chấm dứt việc điều trị của bệnh nhân nhằm kéo dài sự sống trong trường hợp bệnh nhân đã hồn tồn khơng cịn nhận thức, hơn mê hoặc thường xuyên mất nhận thức. Trong khi đó, quyền an tử thụ động trường hợp bên thứ ba yêu cầu để bệnh nhân ra đi bằng cách không can thiệp bất kỳ phương pháp điều trị nào hoặc ngừng điều trị khi bệnh trạng được chẩn đốn là khơng thể cứu chữa<small>55</small>; và cuối cùng là quyền trợ tử là khi bệnh nhân đưa ra yêu cầu với các bác sĩ về việc tư vấn cho họ các phương pháp, đơn thuốc để chấm dứt sự sống. Nhìn chung, cách chia này được thực hiện dựa trên đối tượng đóng vai trị quyết định và thực hiện quyền an tử.

<i>Ngược lại với quan điểm trên, trong quyển “The Oxford Textbook of Palliative </i>

<i>Medicine” các học giả lại chia quyền này thành quyền an tử và quyền trợ tử, trong đó, </i>

quyền trợ tử lại được chia thành hai dạng là trợ tử có sự hỗ trợ của bác sĩ assisted dying) và trợ tử có sự hỗ trợ của những đối tượng khác khơng phải là bác sĩ (Assisted suicide).<small>56</small> Theo đó cách chia này xuất phát từ sự tự nguyện của bệnh nhân và sự tham gia của đội ngũ chuyên môn.

(Physician-Tuy hiện nay vẫn chưa có định nghĩa cụ thể về quyền an tử, tuy nhiên theo phân tích các quan điểm, đạo luật của các quốc gia đã hợp pháp quyền an tử thì nhóm nghiên

<i>cứu tổng hợp và đưa ra định nghĩa về quyền an tử như sau: Quyền an tử là quyền nhân </i>

<i>thân của một cá nhân đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh nan y không thể cứu chữa, theo đó cá nhân này được quyền chủ động hoặc thụ động yêu cầu chấm dứt sự sống của mình bằng các phương pháp y học hoặc trợ tử theo quy định của pháp luật. </i>

<i><b>1.2.2. Đặc điểm của quyền an tử </b></i>

Thông qua những phân tích về khái niệm an tử và quyền an tử, có thể nhận thấy rằng quyền an tử cũng là một trong những quyền nhân thân đặc biệt của con người, mang tính nhân đạo sâu sắc khi trao cho con người quyền được tự do quyết định cuộc sống. Thông qua đạo luật của những quốc gia đã hợp pháp hóa quyền an tử, quan điểm và đánh giá của các học giả, nhà lập pháp và nhà nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, nhóm nghiên cứu rút ra được những đặc điểm sau của quyền an tử:

<small>56</small><i><small> Cao Thị Thảo Nguyên (2022), Quyền an tử trong luật quốc tế và pháp luật nước ngoài từ lý luận đến thực tiễn </small></i>

<i><small>– kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<i>Một là, quyền an tử là một quyền nhân thân gắn liền với một cá nhân, không thể chuyển giao. Quyền an tử mang các đặc điểm của quyền nhân thân, đồng thời không thể </i>

chuyển giao cho đối tượng khác, cũng không ai được quyền đại diện thay cho chủ thể. Hơn nữa, quyền an tử cũng mang tính chất phi tài sản. Quyền an tử khơng thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp…

<i>Hai là, quyền nhân thân là một đặc quyền, có tính hạn chế và chỉ dành cho những đối tượng nhất định. Khác với quyền sống và các quyền cố hữu khác của con người, </i>

quyền an tử không mặc nhiên xuất hiện khi con người sinh ra và không phải ai cũng đủ điều kiện để phát sinh quyền này. Tùy vào pháp luật của các quốc gia sẽ quy định riêng về đối tượng được thụ hưởng quyền an tử, song điểm chung là các đối tượng được yêu cầu an tử thường ở trong những trường hợp đặc biệt như mắc bệnh nan y, bệnh hiểm nghèo hiếm gặp đã được điều trị trong thời gian dài nhưng không có tiến triển tốt, bệnh nhân đặc biệt phải chịu nỗi đau về thể chất hoặc tinh thần liên tục kéo dài hoặc bị tai nạn đến mức không thể cứu chữa được. Một ví dụ điển hình là trường hợp người bệnh rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê (Semi-consciousness), bệnh nhân gặp phải căn bệnh sa sút trí tuệ (Dementia) và nếu tình trạng này kéo dài thì người bệnh sẽ rơi vào trạng

<i>thái mất ý thức, khơng thể điều khiển hành vi, trường hợp “tích tụ các vấn đề về sức </i>

<i>khỏe” của người già hay các căn bệnh khác dẫn đến thối hóa, suy giảm thị lực, loãng </i>

xương, rối loạn cân bằng<small>57</small>. Đặc điểm này giúp phân biệt được giữa an tử và các tiếp cận sai lầm khác như tự tử hoặc xúi giục tự tử. Đặc điểm này cũng phù hợp với quan điểm của nhiều quốc gia đã thực thi quyền an tử vì quả thật, khơng phải bệnh nhân nào lâm vào tình trạng khơng thể cứu chữa được cũng có nhu cầu được an tử hoặc đủ điều kiện để thực hiện cái chết êm ái. Vì thế, quyền an tử là một quyền tùy nghi, đặc thù cho một nhóm đối tượng đặc biệt trong xã hội

<i>Ba là, quyền an tử là quyền được phát sinh dựa trên những mong muốn thực tế (quyền thực tế). Chính vì quyền an tử được đánh giá như một đặc quyền, một quyền hạn </i>

chế chỉ dành cho một nhóm đối tượng đặc biệt, vì thế nhóm nghiên cứu đánh giá sự ra đời của quyền an tử đánh dấu sự thay đổi nhận thức về quyền sống (right to live) và những nhu cầu cơ bản của cuộc sống (Human needs). Trước đây, quyền sống được hiểu theo nghĩa là quyền được tồn tại nhưng đi theo sự phát triển của xã hội, quyền sống dần được định nghĩa theo hướng rộng hơn là quyền được sống hạnh phúc và có đủ điều kiện

<i>để sống. Và đối với nhu cầu cơ bản của cuộc sống (Human needs), được hiểu là “những </i>

<i>điều cần thiết cho con người có được cuộc sống thoải mái, mạnh khỏe. Nhu cầu này có </i>

<small>57 Kirsten Evenblij, H. Roeline W. Pasman, Agnes van der Heide, Trynke Hoekstra và Bregje D. Onwuteaka Philipsen, “Factors associated with requesting and receiving euthanasia: a nationwide mortality follow-back study with a focus on patients with psychiatric disorders, dementia, or an accumulation of health problems related to old age” (2019), BMC Medicine, (39), tr.2. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<i>thể là vật chất, mang tính khách quan (như nhu cầu về lương thực, nước uống, nơi ở ...) hoặc tinh thần, mang tính chủ quan (như nhu cầu được tôn trọng, được quý mến...)”</i><small>58</small>. Như vậy, nếu hiểu quyền sống (Right to life) và nhu cầu cơ bản (human needs) theo nghĩa như trên, nhóm nghiên cứu kết luận được quyền an tử cũng là một nhu cầu thực tế xuất phát từ quyền sống và nhu cầu cơ bản. Khi một người lâm vào tình trạng đau đớn cao độ kéo dài, hoặc mắc những căn bệnh nan y hiểm nghèo, hoặc gặp một tai nạn khơng

<i>thể cứu chữa được, thì tức là họ đã mất đi những điều kiện để có một “cuộc sống thoải </i>

<i>mái” và hơn hết lúc này họ sẽ phát sinh nhu cầu được thốt khỏi tình trạng đau khổ hiện </i>

<i>tại, và đó chính là khi quyền an tử xuất hiện. Tuy định nghĩa về “cuộc sống thoải mái” </i>

hiện vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng dựa trên mặt ngữ nghĩa, nhóm nghiên cứu cho rằng

<i>“cuộc sống thoải mái” tức là trạng thái khỏe mạnh, no đủ, hạnh phúc, không phải chịu </i>

đựng đau đớn hay những mệt mỏi khác của bệnh tật, thương tích. Và khi tiếp cận quyền an tử dưới đặc điểm là một nhu cầu thực tế, chúng ta sẽ nhận ra quyền an tử cũng tương

<i>đương với “quyền tự do” được ghi nhận trong Điều 3 Tuyên ngôn Thế giới về nhân </i>

quyền (UDHR) năm 1948<small>59</small>.

<i>Bốn là, tính chủ ý (intentional) là đặc điểm quan trọng của quyền an tử. Quyền </i>

an tử có xuất phát từ an tử (euthanasia) vì thế nên quyền an tử có một đặc trưng giống an tử chính là tính chủ ý (intentional). Tức là quyền an tử có phát sinh hay khơng sẽ tùy thuộc vào ý chí chủ quan và mong muốn xuất phát từ chính chủ thể đó. Khơng ai có quyền quyết định thay hay ép buộc chủ thể đó thực hiện quyền an tử. Đặc điểm này nhằm phân biệt an tử với các hành vi phạm pháp khác như giết người và xúi giục tự tử. Tuy hiện nay trong một số trường hợp nhất định, an tử vẫn được thực hiện đối với bệnh nhân nếu như bác sĩ nhận thấy rằng an tử là một giải pháp phù hợp nhất cho bệnh nhân xuất phát từ nguyên tắc vì lợi ích của họ (an tử không tự nguyện chủ động),song việc giao quyền quyết định cho bác sĩ hay người giám hộ, người đại diện hợp pháp của cá nhân vẫn còn nhiều tranh cãi và nếu thực sự xảy ra trường hợp này thì đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền và phải trải qua nhiều thẩm định chuyên môn trước khi ra quyết định cuối cùng.

<i>Năm là, quyền an tử phải được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên môn và được quy định cụ thể trong pháp luật. Suy cho cùng, an tử là hành vi gián tiếp chấm dứt sự </i>

sống của một người vì thế nên việc này bắt buộc phải được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên môn nhằm đảm bảo sự an toàn tuyệt đối mà thường là đội ngũ y bác sĩ. Ngay cả

<small>58 Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB.Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.80. </small>

<small>59</small><i><small> “Everyone has the right to life, liberty and security of person.” (“Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và </small></i>

<small>an toàn cá nhân”) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

đội ngũ y bác sĩ trực tiếp thực hiện quyền an tử cũng phải đảm bảo được những điều kiện được quy định trong pháp luật. Ngay cả trong trợ tử bằng y học (physician assisted suicide) - hình thức mà vai trị của bác sĩ hạn chế, chỉ dừng lại ở việc tư vấn phương pháp và kê các đơn thuốc thì trong quá trình thực hiện trợ tử vẫn phải có sự giám sát của cơ quan chuyên môn. Việc quy định cụ thể về quyền an tử trong pháp luật là một điều vô cùng quan trọng nhằm tránh được những rủi ro về việc lợi dụng quyền này thực hiện các hành vi phi pháp cũng như điều chỉnh phù hợp với trình độ văn hóa, kinh tế và lập pháp của từng quốc gia. Việc quy định này cũng giúp tránh được nhầm lẫn giữa an tử, giết người và tự tử cũng như xúi giục tự tử.

Qua đó nhận thấy quyền an tử có đầy đủ đặc trưng của một quyền nhân thân và đồng thời mang tính đặc quyền, bị hạn chế và chỉ phát sinh trong một nhóm đối tượng đặc thù. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền an tử khơng thể hồn tồn tự do và mặc nhiên như các quyền nhân thân khác mà địi hỏi sự kiểm sốt chặt chẽ từ các cơ quan có thẩm quyền và được quy định trong pháp luật.

<i><b>1.2.3. Ý nghĩa của quyền an tử </b></i>

Sỡ dĩ những cuộc tranh luận về vấn đề có nên hợp pháp hóa quyền an tử ln khơng bao giờ có điểm dừng là vì những ý nghĩa và giá trị cốt lõi mà nó mang lại. Suy cho cùng, quyền an tử đang liên quan mật thiết đến quyền quan trọng nhất của con người - quyền sống, và việc hợp pháp hóa quyền an tử, ở một khía cạnh nào đó cũng đang ảnh hưởng đến quyền sống. Vì thế, để quyền an tử được hợp pháp, phải chứng minh được ý nghĩa quan trọng của nó trong các khía cạnh y học, nhân đạo và pháp lý.

<i>Một là, ý nghĩa y học. Từ trước đến nay, các bác sĩ luôn lấy việc chữa trị và cứu </i>

sống bệnh nhân làm sứ mệnh hàng đầu, xuất phát từ lương tri, các quy chuẩn đạo đức và việc tuân theo lời thề Hippocrates<sup>60</sup>, các bác sĩ từ trước đến nay luôn ra sức cứu chữa cho các bệnh nhân, tuy nhiên nếu xem xét kỹ các điều kiện lịch sử và y tế, điều này đã

<i>khơng cịn q phù hợp, theo Khuyến nghị 799 (1976) cũng đã ghi nhận: “Bản thân việc </i>

<i>kéo dài tuổi thọ không được coi là mục đích duy nhất của hành nghề y tế, mà phải được quan tâm như nhau đến việc giảm đau khổ”,</i><small>61</small>. Trong nhiều trường hợp, tình trạng bệnh tật và thương tích của bệnh nhân nằm ngồi hiểu biết y học đương thời, thuộc tình trạng chưa từng gặp trong lịch sử y học và khơng cịn khả năng cứu chữa thì dường như con đường duy nhất của bác sĩ trong trường hợp này chính là từ bỏ việc cứu bệnh nhân hoặc nỗ lực cứu chữa trong vô vọng khi chỉ có thể kéo dài sự sống một cách vơ ích. Nếu khơng hợp pháp hóa quyền an tử, thì hành vi từ bỏ việc cứu chữa bệnh nhân hoặc hỗ trợ

<small>60 Ở Việt Nam lời thề Hippocrates được khái quát, sửa đổi bằng “12 quy định về Y Đức” được ban hành kèm theo quyết định số: 20881/BYT-QĐ ngày 06 tháng 11 nǎm 1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế </small>

<small>61 Xem thêm tại [ </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

an tử cho bệnh nhân có thể bị khép vào tội giết người. Trường hợp này đã diễn ra trong thực tế, bác sĩ Jack Kevorkian, một bác sĩ ở bang Michigan, Hoa Kỳ đã từng bị kết tội giết người 4 lần, bị giam giữ suốt 8 năm trong tù với lời buộc tội Giết người có chủ ý chỉ vì vượt qua giới hạn mong manh giữa hỗ trợ tự sát với an tử chủ động bằng cách tự tay thực hiện thay vì chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho bệnh nhân phương tiện chết.<small>6263</small>. Như vậy, việc có một quy định về quyền an tử khơng phải là lời thối thác cho sự vơ trách nhiệm trong việc chữa bệnh mà là đang mở ra một hướng chữa trị mới cho người bệnh. Thay vì kéo dài nỗi đau của bệnh nhân trong vô vọng, cả bác sĩ và bệnh nhân đều có thêm một sự lựa chọn về “cái chết êm ái” chấm dứt nỗi đau về cả thể xác và tinh thần của bệnh nhân. Đồng thời, đội ngũ y bác sĩ có thể xác định được ranh giới giữa an tử và trợ tử, giết người và hỗ trợ tự tử tránh được những hiểu lầm, sự lợi dụng khơng đáng có.

<i>Hai là, ý nghĩa nhân đạo. Về mặt nhân đạo, quyền an tử là sự giải thoát cuối cùng </i>

của những con người đang bị dày vò bởi đau đớn kéo dài. Quyền an tử cho phép con

<i>người được lựa chọn “cái chết với phẩm giá” (death with dignity). “Cái chết với phẩm </i>

<i>giá” là một khái niệm đạo đức đề cập đến quá trình cuối đời để tránh đau khổ và cho </i>

phép con người duy trì sự kiểm sốt và tự chủ.<small>64</small> Và nhân phẩm, lịng tự tôn của con người vẫn luôn được pháp luật bảo vệ ngang với quyền sống. Trong lời nói đầu Hiến

<i>chương LHQ ghi nhận: “(...) sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá </i>

<i>trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ”, tại Điều 1 Tun ngơn tồn thế </i>

<i>giới về nhân quyền năm 1948 cũng đã quy định: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng </i>

<i>về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.” Trong cả hai Công ước ICCPR và ICESCR cũng đã nhấn mạnh rằng nhân phẩm là </i>

những giá trị vốn có của con người.<sup>65</sup> Như vậy, sự lựa chọn quyền an tử là sự lựa chọn cho phép người bệnh bảo vệ nhân phẩm cuối cùng của mình. Thay vì chờ đợi một cái chết mà không biết khi nào sẽ đến, người bệnh có thể chuẩn bị tâm lý từ trước, thanh thản nói lời dặn dị, từ biệt với người thân và gia đình của mình. Khơng phải bệnh nhân nào cũng có thể chịu được nỗi đau thể xác kéo dài, theo nhiều nghiên cứu, con người có khả năng chịu đựng nỗi đau lên đến 45db, vậy nếu nỗi đau vượt lên ngưỡng đó thì sao? Và khi mắc phải những căn bệnh hiểm nghèo, gặp phải những tai nạn nặng nề, bên cạnh nỗi đau về thể xác, người bệnh còn phải chịu nỗi đau về tinh thần khi cảm thấy xấu hổ, mặc cảm khi cuộc sống của họ phải phụ thuộc vào người khác. Theo nhóm nghiên cứu, việc cho phép con người lựa chọn phương pháp điều trị cho chính mình vào những ngày

<small>62 VN Express, Thúy Ngọc, “Bác sĩ hỗ trợ 130 bệnh nhân chấm dứt sự sống” (số báo ngày 23/4/2015) </small>

<small>63</small><i><small> David Carr (2010), Portraying the Man Known as Dr. Death. </small></i>

<small>64 “El derecho en los finales de la vida y el concepto de muerte digna”. Apuntes de Bioética (2016) </small>

<small>65</small><i><small>Cao Thị Thảo Nguyên (2022), Quyền an tử trong luật quốc tế và pháp luật nước ngoài từ lý luận đến thực tiễn </small></i>

<i><small>– kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

cuối đời là sự tôn trọng nhân phẩm và quyền tự do của mỗi người. Con người có quyền được sống, vậy thì họ cũng có quyền được chết. Mạng sống q giá thật, sự sống quý giá thật, nhưng trong những hoàn cảnh nhất định, vào một thời điểm nhất định, đối với một con người nhất định, nó mất đi sự quý giá, và trở thành nguồn gốc cho những đau khổ mà họ phải gánh chịu. Chủ sở hữu của cái cuộc đời đang mang cái sự sống ấy phải có quyền được lựa chọn, cái gì là tốt nhất cho họ.<small>66</small><i> </i>

<i>Ba là, ý nghĩa pháp lý. Việc ban hành quyền an tử chính thức sẽ giải quyết được </i>

những vấn đề gây tranh cãi về quyền an tử trong thực tế. Đồng thời sẽ đưa ra được hướng thực thi quyền an tử phù hợp với trình độ phát triển của từng quốc gia, đưa ra được những chế tài giải quyết các trường hợp sai phạm và tránh được những hiểu lầm, lợi dụng khơng đáng có. Mặc dù hiên nay pháp luật Việt Nam không thừa nhận tính hợp pháp của quyền an tử, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng nhu cầu an tử trên thực tế vẫn ln tồn tại (ví dụ phần này sẽ được nêu rõ hơn ở chương II), và từ những nhu cầu đó sẽ dẫn đến những hành vi hỗ trợ tự tử trái pháp luật, ẩn chứa nhiều đe dọa đến trật tự, an ninh xã hội. Việc công nhận quyền này sẽ hỗ trợ trong việc quản lý hoạt động an tử công khai, rõ ràng hơn, nắm bắt được các trường hợp an tử trên thực tế và giải quyết đc các trường hợp an tử vào mục đích vơ nhân đạo. Việc đưa ra quy định về quyền an tử thể hiện sự tôn trọng quyền tự do tối cao của con người, thể hiện được tầm tư tưởng của nhà lập pháp đối với một vấn đề còn nhiều tranh cãi, đặc biệt là khi đây là một quyền vốn không nằm trong hiến pháp. Đây là một bước tiến của khoa học pháp lý, thể hiện sự tiếp thu, đổi mới không ngừng trong luật pháp, sự nghiêm túc trong việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật.

Như vậy, quyền an tử không chỉ đơn giản là một sự lựa chọn mà còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc đối với con người, là phương tiện để mở ra hướng phát triển mới cho y học và thể hiện sự tiến bộ của pháp luật, sự đổi mới trong tư duy nhận thức về khái niệm quyền sống (Right to live) và nhu cầu thực tế (Human needs) để phù hợp với sự phát triển của thế giới.

<b>1.3. Một số quan điểm phản đối và ủng hộ quy phạm hóa quyền an tử </b>

<i><b>1.3.1. Những quan điểm phản đối quy phạm hóa quyền an tử </b></i>

Từ khi xuất hiện cho đến nay, quyền an tử đã gây ra nhiều cuộc tranh luận liên quan đến các khía cạnh như pháp lý, đạo đức, nhân quyền, sức khỏe, tôn giáo, kinh tế, tinh thần, xã hội và văn hóa của xã hội văn minh. Càng ngày càng có nhiều những quan điểm ủng hộ quyền an tử và song song với đó là những quan điểm phản đối.

<small>66 BS. Võ Xuân Sơn (2015), “Quyền được chết, sự giải thoát cho nỗi tuyệt vọng của người bệnh”, Báo Sức khỏe và đời sống - Cơ quan ngôn luận của Bộ Y Tế. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>Trước hết là về những quan điểm phản đối. Hippocrates Asclepiades - người </i>

được coi là bác sĩ đầu tiên của nền y học hiện đại, trong lời tuyên thệ Hippocrates cũng

<i>đã đưa ra lời răn dạy rằng: “Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ u </i>

<i>cầu và cũng khơng tự mình gợi ý cho họ”<sup>67</sup></i>. Lời thề này đại ý rằng người bác sĩ phải có lương tâm và trách nhiệm cao, hết lịng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức của một người thầy thuốc, trong đó phải tận tình cứu giúp người chứ khơng

<i>phải chấm dứt sự sống của bệnh nhân bằng cách “trao thuốc độc”. Peter Kavanagh - </i>

chính trị gia người Australia và cựu thành viên của Hội đồng Lập pháp Victoria cũng đã

<i>đưa ra quan điểm của mình: “Hợp pháp hóa cái chết êm dịu sẽ có nhiều tác động bất </i>

<i>lợi sâu sắc. Nó sẽ làm giảm sự bảo vệ được cung cấp cho cuộc sống của tất cả mọi người. Nó sẽ cho phép giết những người khơng thực sự tình nguyện bị giết, và bất kỳ biện pháp bảo vệ nào, mặc dù ban đầu được tuân thủ, chắc chắn sẽ yếu đi theo thời gian. Sẽ có những hậu quả lâu dài khác của việc hợp pháp hóa cái chết êm dịu mà chúng ta chưa thể hình dung được. Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng những hậu quả này sẽ rất nguy hiểm, bởi vì chúng bắt nguồn từ một sáng kiến, mặc dù có động cơ cao cả, nhưng lại sai về nguyên tắc – cố gắng giải quyết các vấn đề của con người bằng cách giết chết họ.”<sup>68</sup></i>

Những người có quan điểm phản đối cho rằng nếu hợp pháp quyền an tử thì đây là hành động chối bỏ quyền sống của con người. Theo quan điểm của Paul Tully, Tổng

<i>thư ký Hiệp hội Bảo vệ Thai nhi Anh Quốc “việc tạo ra quyền được chết sẽ xói mịn </i>

<i>quyền cơ bản được sống, thơng qua việc hình thành danh sách những người coi cuộc sống không đáng giá”<small>69</small>. Chúng ta đều biết, quyền sống là một quyền căn bản mà luật </i>

pháp của bất cứ nước nào cũng quy định. Đó là quyền thiêng liêng nhất, có giá trị to lớn nhất, cần được tơn trọng và bảo vệ. Nó đối lập với quan điểm của quyền an tử khi con người được có quyền được chết nếu tiếp tục sống trong sự vô nghĩa. Nếu quyền an tử được chấp nhận thì chẳng khác nào nó đang làm trái với quy định của pháp luật, làm trái với quyền thiêng liêng và cao quý nhất của con người là quyền sống. Một con người ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ đã có quyền được sống, khơng ai có thể xâm phạm đến

<i>quyền thiêng liêng ấy. Cựu thượng sĩ Hoa Kỳ Tom Coburn có quan điểm: “Chúng ta có </i>

<i>muốn các bác sĩ quyết định ai sống và ai chết không? Không, chúng tôi không muốn điều đó. Đây là một con dốc, một con dốc thực sự nơi chúng ta sẽ trở thành Thượng đế. Chúng tôi khơng có sức mạnh đó. Tun ngơn Độc lập nói rằng chúng ta phải có quyền </i>

<small>67 Hippocrates Asclepiades , “Lời thề Hippocrates” </small>

<small>[ (truy cập ngày 29/01/2023) </small>

<small>68 New Weekly, “Opinion: Why We Should Not Legalize Euthanasia” </small>

<small>[ (truy cập ngày 29/01/2023) </small>

<small>69 Mai Chi, “Toà án Anh thụ lý đơn kiện vụ hỗ trợ “chết êm ả”” </small>

<small>[ (truy cập ngày 29/01/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<i>mưu cầu cuộc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Không có gì trong đó nói rằng chúng ta có quyền theo đuổi cái chết, khơng có gì cả.”<small>70</small></i>

Khi một người bị ốm yếu, bệnh tật khơng cịn khả năng cứu chữa, không thể tham gia sinh hoạt cuộc sống một cách bình thường hay sự duy trì sự sống đấy của họ chỉ là sự vô vọng, khiến cho nỗi đau thể xác và tinh thần của họ ngày càng đau đớn thì vẫn là một con người, họ vẫn được hưởng quyền sống, đôi khi sự tồn tại của họ có ý nghĩa

<i>quan trọng đối với những người thân của họ. Chẳng hạn, như một người có người thân là mẹ đang sống thực vật và không lựa chọn quyền an tử. Bởi lẽ dù người mẹ đó khơng </i>

nhận thức được những gì đang diễn ra xung quanh nhưng đối với người con, mỗi chiều đi làm về, nhìn thấy mẹ nằm trên giường, người con vẫn thấy ấm lịng vì biết rằng mình vẫn cịn mẹ.<small>71</small>

Với trường hợp thứ hai là những người mắc bệnh nan y, ung thư, HIV AIDS,... mà khoa học bây giờ vẫn chưa có phương pháp điều trị tối ưu nhất thì ngồi quyền được lựa chọn quyền an tử thì họ cịn có thể lựa chọn quyền được chăm sóc. Thực tiễn cũng cho thấy, nếu như bệnh nhân được tận tình chăm sóc với những liệu trình tiên tiến và tốt nhất, bệnh nhân cảm nhận được sự quan tâm, chăm sóc của các y bác sĩ cũng như người thân, thì dù khơng thể chịu đựng được, không thể thuyên giảm được nỗi đau thể xác nhưng cũng phần nào làm giảm đi nỗi đau về tinh thần. Và đây có thể được xem là phương pháp tối ưu hơn so với việc yêu cầu đề nghị bác sĩ cho mình “quyền được chết”, bởi lẽ thiên chức của một người bác sĩ là chấm dứt sự đau đớn cho bệnh nhân chứ không phải chấm dứt sự sống của bệnh nhân. Giáo sư triết học Stefan Bernard Baumrind cũng

<i>có quan điểm rằng: “Khơng có gì, hoàn toàn khơng có gì, địi hỏi các bác sĩ phải là công </i>

<i>cụ hỗ trợ tự tử… Nhiệm vụ của bác sĩ là nói cho bệnh nhân biết có gì khơng ổn, và với khả năng tốt nhất của bác sĩ, điều gì sẽ xảy ra. Công việc của người thầy thuốc là chữa lành bệnh tật, ngăn chặn cái chết và cố gắng hết sức có thể để nói về tương lai của từng bệnh nhân cụ thể. Người thầy thuốc trở thành người hướng dẫn y tế cho người bất lực vì người đó được tin tưởng để nắm giữ điều tốt đẹp nhất của bệnh nhân, và điều tốt đẹp của bệnh nhân khơng bao gồm cái chết.”<small>72</small></i>

Ngồi ra, việc bệnh nhân đồng ý hay đề nghị bác sĩ trợ giúp để được chết cũng cần được xem xét lại. Trong cơn đau đớn, bệnh nhân thường rơi vào tình trạng không tỉnh táo, không đủ minh mẫn, không làm chủ được suy nghĩ của mình nên khơng thể xem quyết định của họ là một quyết định sáng suốt. Các trường hợp bệnh nhân như trên

<small>70 Consideration of House Resolution 2260, Pain Relief Promotion Act of 1999, gpo.gov Oct. 27, 1999 </small>

<small>71 Hoàng Khang, “Tôi phản đối cái chết nhân đạo” </small>

<small>[ (truy cập ngày 29/01/2023) </small>

<small>72 Margaret P. Battin, Rosamond Rhodes, Anita Silvers (1998),” Physician Assisted Suicide: Expanding the Debate”, tr.173. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

có thể họ đang rơi vào trạng thái tuyệt vọng, họ bị trầm cảm, xúc động quá mạnh dẫn tới tâm thần phân liệt, thậm chí là rối loạn ám ảnh cưỡng chế,... Ý định yêu cầu quyền được chết lúc này được coi là một trường hợp khẩn cấp về tâm thần và nó được coi là một lời kêu cứu tuyệt vọng để được giúp đỡ hoặc hỗ trợ.<sup>73</sup> Vì vậy, rất khó để xác định đó có phải là tâm nguyện thực sự của bệnh nhân không. Theo bác sĩ tâm thần Mark

<i>Komrad: “Một điều cấm kỵ (chứ không phải kỳ thị) đối với tự sát là một phần quan </i>

<i>trọng trong việc ngăn ngừa tự tử. Do đó, thay vì thúc đẩy bất kỳ hình thức tự sát nào, các chính phủ nên tập trung vào việc ngăn ngừa tự tử, chăm sóc sức khỏe hiệu quả và chăm sóc xoa dịu từ bi.”</i><small>74</small>

Những người phản đối quyền an tử cũng đưa ra quan điểm rằng có những căn bệnh ở thời điểm hiện tại vẫn chưa tìm ra được phương pháp cứu chữa, có những người chỉ cịn thời gian sống là 3 đến 5 năm. Nhưng nếu quyết định trao quyền an tử cho một bệnh nhân đang đau đớn vì bệnh tật, đang tuyệt vọng thì đây liệu có phải là phương pháp tối ưu nhất không khi mà xã hội ngày càng phát triển, khoa học y học tiến bộ và ngày càng nhiều phát minh sáng chế hiện đại đang được đưa vào ứng dụng. Họ có thể trông chờ, hy vọng vào một tương lai, hay nói cách khác quyền an tử sẽ khơng cịn chắc chắn trong tương lai.

Trong thời đại suy giảm đạo đức và cơng lý, có khả năng các thành viên trong gia đình hoặc người thân lạm dụng quyền an tử để thừa kế tài sản của bệnh nhân. Và nếu như hợp pháp hóa quyền an tử, điều này sẽ dẫn tới các hệ quả khả năng tận tình cứu chữa bệnh nhân sẽ khơng cịn được tận tình, nhiệt huyết như xưa, nỗ lực cải thiện các phương pháp điều trị bệnh tật sẽ bị giảm sút. Hợp pháp hóa quyền an tử là xung đột với quy tắc cứu người chứ không phải tước bỏ tính mạng con người của bác sĩ và nhân viên y tế, điều này đã làm giảm sút đi lòng tin của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân vào y khoa, y đức.

<i>Có thể xảy ra hệ quả/xu hướng “trượt dốc” (“slippery slope”). Có những ví dụ khác cho thấy thực sự tồn tại hiện tượng “trượt dốc xã hội”. Ở Thụy Sĩ, bệnh viện đại </i>

học ở Geneva đã giảm số lượng nhân viên chăm sóc giảm nhẹ vốn đã hạn chế (xuống còn 1,5 từ 2 bác sĩ toàn thời gian) sau khi bệnh viện quyết định cho phép tự tử được hỗ trợ; dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ dựa vào cộng đồng cũng đã bị đóng cửa (JP. Dữ liệu chưa được cơng bố). Trong số các bác sĩ ở Hà Lan, 15% bày tỏ lo ngại rằng áp lực kinh

<small>73 J Affect Disord, “Suicide in patients treated for obsessive-compulsive disorder: a prospective follow-up study” [ (truy cập ngày 29/01/2023) </small>

<small>74 Mark S. Komrad, “Medical Aid in Dying: A Slippery Slope,” </small>

<small>[ (truy cập ngày 30/01/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

tế có thể khiến họ cân nhắc việc trợ tử cho một số bệnh nhân của mình; một trường hợp đã được trích dẫn về một bệnh nhân sắp chết được cho chết để giải phóng giường bệnh<small>75</small>.

Đối với những người theo tôn giáo, trong đó phải kể đến các tơn giáo lớn như đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Hindu, đạo Tin lành, đạo Hồi, đạo Do Thái,... đều đưa ra những quan điểm phản đối hợp pháp hóa quyền an tử. Họ cho rằng con người do đấng tối cao tạo ra và chỉ có đấng tối cao mới có quyền sát sinh họ. Theo Thiên chúa giáo: sự sống con người là thánh thiêng, do Thiên Chúa ban tặng, cần phải được nuôi dưỡng và bảo vệ. Định đoạt về mạng sống không phải là quyền của con người nhưng là quyền của Thiên Chúa.<small>76</small> Đối với giáo pháp Phật giáo, tự sát cũng là một loại ác nghiệp, mạng sống con người là vô cùng quý giá, thế nên đã là con người thì ai cũng có thể trải qua những phút giây buồn, vui. Và một chân lý hiển nhiên, ai cũng biết, đời người, cuối cùng rồi cũng phải kết thúc, nhưng nếu được kết thúc theo quy luật tự nhiên hoặc trong tình thế vì mục đích lợi tha hướng thượng sẽ mang ý nghĩa cao đẹp vơ cùng. Được làm người đã khó, làm bị thương hay hủy diệt thân ấy là một sai lầm lớn. Tự sát đó là việc đáng trách và tội lỗi vô cùng.<small>77</small> Hồng y Javier Lozano Barragan, người đứng đầu ủy Ban y tế Vatican từng tuyên bố hành động gỡ bỏ ống truyền đạm tương đương với hành động

<i>giết người trong vụ T.Schiavo (Mỹ): “Cuộc sống con người không phụ thuộc vào cá </i>

<i>nhân, mà phụ thuộc Đấng Sáng tạo. Vì thế, chúng ta có điều răn thứ năm không cho phép giết người. Việc khiến người mắc bệnh chết nhẹ nhàng chính là hành động giết người”.<small>78</small></i>

Tại Việt Nam, do quyền an tử không được pháp luật quy định nên đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm ủng hộ và bên cạnh đó là những quan

<i>điểm phản đối. PGS. TS. Phùng Trung Tập cho rằng: “Pháp luật không nên quy định </i>

<i>cho cá nhân một loại quyền được chết hay quyền được lựa chọn cách chết hay phương thức chết! Theo tôi, mọi cái chết chứa đựng tính cưỡng bức hay có chủ tâm đều là những cái chết khơng bình thường và bất thường. Vì hệ quả của những cái chết như vậy thường kéo theo nhiều vấn đề mang tính khơng tích cực và còn ảnh hưởng đến tâm lý của những người khác. Con người là thực thể của tự nhiên, cho nên sự sống và cái chết hãy để chúng diễn ra một cách tự nhiên (vấn đề phòng bệnh, chữa bệnh luôn luôn được coi trọng).”<small>79</small></i>

<small>75 George RJD, Finlay IG, Jeffrey D, “ Legalised euthanasia will violate the rights of vulnerable patients” [ (truy cập ngày 31/01/2023) </small>

<small>76 Xem Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2258, 2270, 2280. </small>

<small>77 Tuệ An, “Quan điểm của Phật giáo về việc tự tử” </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<i><b>[ Những quan điểm ủng hộ quy phạm hóa quyền an tử </b></i>

<i>Thứ nhất, những người ủng hộ quyền an tử lập luận rằng quyền an tử khơng làm </i>

xói mịn quyền được sống, họ giải thích rằng một người nên được phép lựa chọn thời điểm họ muốn chết vì đó là cuộc sống của họ, cuộc sống thuộc về một cá nhân, nên họ nên được phép kết thúc cuộc sống của mình hay khơng. Quyền được chết khơng làm xói mịn quyền cơ bản là quyền sống. Quyền được chết không chỉ liên quan đến bệnh nhân đó mà cịn cả gia đình và xã hội. Người ở giai đoạn cuối của bệnh chịu nhiều đau đớn nếu có sống cũng chỉ thêm khổ, thậm chí nhiều người khơng biết mình sướng hay khổ. Nếu họ không muốn gây thêm tốn kém không cần thiết cho gia đình, xã hội, nên tơn trọng họ. Hơn nữa, mục đích của quyền được chết là làm cho họ khơng phải sống đau đớn kéo dài, đó là mục đích nhân đạo. Họ khơng chối bỏ quyền được sống, họ chỉ khơng cịn đủ điều kiện đảm bảo sự sống. Điều này khác hẳn với người có điều kiện để sống, bị bệnh có thể cứu chữa được nhưng lại muốn chết, đó mới là trường hợp nên lên án.<small>80</small>

Và quyền an tử nên là một sự lựa chọn cá nhân chứ không phải là sự lựa chọn của người khác. Lập luận này dường như ủng hộ quyền an tử tự nguyện khi bệnh nhân đồng ý. Marcia Angell - Giảng viên cao cấp về Y học Xã hội, Trường Y Harvard lập

<i>luận rằng: “Đối với tôi, dường như với sự phản đối dựa trên việc bác sĩ có “tích cực” </i>

<i>hay khơng, lập luận cho rằng bác sĩ chỉ nên là 'người chữa bệnh' tập trung quá nhiều vào bác sĩ chứ không đủ vào bệnh nhân. Khi việc chữa trị khơng cịn có thể thực hiện được nữa, khi cái chết cận kề và bệnh nhân cảm thấy đau khổ không thể chịu đựng nổi, thì vai trị của người thầy thuốc nên chuyển từ chữa bệnh sang làm giảm bớt đau khổ phù hợp với mong muốn của bệnh nhân. Tuy nhiên, không bác sĩ nào phải tuân theo yêu cầu hỗ trợ một bệnh nhân mắc bệnh nan y sắp chết, cũng như không bệnh nhân nào bị ép buộc đưa ra yêu cầu như vậy. Nó phải là một sự lựa chọn cho cả bệnh nhân và bác sĩ.”<small>81</small> </i>

<i>Thứ hai, những người ủng hộ quyền an tử còn lập luận rằng nếu như thực hiện “quyền được chết” sẽ giảm bớt gánh nặng của người chăm sóc, người thân trong gia </i>

đình và bạn bè. Bởi lẽ, gánh nặng của người chăm sóc là rất lớn và trải dài trên nhiều lĩnh vực khác nhau như thời gian, tài chính, sức khỏe, tinh thần,... Trong nhiều trường hợp, an tử được thực hiện để giảm bớt nỗi đau đớn và đảm bảo rằng bệnh nhân chết ít

<i>đau đớn nhất, được ra đi một cách “thanh thản”. </i>

<small>80 Trương Hồng Quang, “Nên xem xét công nhận quyền được chết”, </small>

<small>[ (truy cập ngày 05/02/2023) </small>

<small>81 Marcia Angell, “May Doctors Help You to Die?” </small>

<small>[ (truy cập ngày 10/02/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<i>Thứ ba, những người ủng hộ còn lập luận rằng quyền an tử sẽ góp phần vào việc </i>

kéo dài tuổi thọ tự nhiên. Họ cho rằng con người không nên kéo dài sự sống khi rõ ràng là cuộc đời của một người sắp kết thúc. Họ lập luận rằng việc sử dụng các thiết bị hỗ trợ duy trì sự sống, thuốc men chỉ gây thêm đau đớn cho người sắp chết. Trong những trường hợp như vậy, người đó nên được phép chết một cách tự nhiên mà không cần sự can thiệp của bất kỳ ai.<small>82</small>

<i>Thứ tư, những người ủng hộ quyền an tử cho rằng ngoài việc chấm dứt sự đau </i>

khổ cho bệnh nhân, an tử còn chấm dứt sự đau khổ của người thân, bạn bè khi chứng kiến người thân của họ chết dần chết mịn và đau đớn<small>83</small> . Khơng có nỗi đau nào bằng nỗi đau khi chứng kiến người thân, bệnh nhân của mình phải chịu đựng nỗi đau dai dẳng, quằn quại, kéo dài mà khơng có cách nào giúp đỡ, cứu chữa. Khi một người chứng kiến người thân của mình chết một cách đau đớn và từ từ, họ bị chấn thương tâm lý và có thể ảnh hưởng xấu đến họ, có thể dẫn đến rối loạn tâm thần. Do đó, quyền an tử được coi là cách chấm dứt đau khổ cho bạn bè và người thân của những người sắp chết. GS.TS Đỗ Kim Sơn, nguyên giám đốc Bệnh Viện Việt Đức từng chia sẻ rằng trong nhiều năm qua, ông đã từng phải chứng kiến rất nhiều bệnh nhân mắc các chứng bệnh nan y ở giai đoạn mà sự sống chỉ còn là vô vọng, hay những bệnh nhân chết não do tai nạn giao thông không thể nào vớt vát nổi, chính bệnh nhân hoặc gia đình bệnh nhân đã đề đạt với bác sỹ nguyện vọng được chết nhưng không thầy thuốc nào dám làm. Theo GS Sơn, nếu đưa quyền được chết vào Luật phải có tiêu chí xác định rõ ràng đâu là trường hợp khơng cịn hy vọng sống về mặt khoa học thì mới cho phép, cịn khơng, dù với bất cứ lý do nào cũng không được phép mà phải ngăn cản, giúp đỡ họ. Do đó, Luật phải quy định thật cẩn thận, chặt chẽ nếu không sẽ vi phạm đạo đức nghề nghiệp.<sup>84</sup>

Nếu như những người phản đối quyền an tử lo ngại rằng việc bệnh nhân đồng ý hay đề nghị bác sĩ trợ giúp để được chết cũng cần được xem xét lại, trong một số trường hợp bệnh nhân không làm chủ được ý thức của mình, bệnh nhân rơi vào các trường hợp như mắc bệnh tâm thần, trầm cảm,... thì những người ủng hộ quyền an tử lập luận rằng quyền an tử chỉ được áp dụng cho những bệnh nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có đủ năng lực nhận thức và tỉnh táo sáng suốt để đưa ra quyết định. Vì vậy, việc việc tâm thần có ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, khả năng đưa ra quyết định hay không khơng cịn là trở ngại. Việc xác định bệnh nhân có dấu hiệu tâm thần hay khơng ngày

<small>82 All Answers ltd, “Arguments for and Against Euthanasia with relation to Switzerland”, </small>

<small>essay.php?vref=1] (truy cập ngày 10/02/2023). </small>

<small>[ Gail Tulloch (2005), Euthanasia - Choice and Death. </small>

<small>84 Nhóm PV bạn đọc, “Quyền được chết - Nên hay không?” </small>

<small>[ (truy cập 01/02/2023) </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

nay khá dễ dàng có thể xác định được và từ đó ta có thể xác định rõ tâm nguyện của bệnh nhân.

Và trở ngại tôn giáo cũng khơng có đủ cơ sở để chứng minh được rằng không nên áp dụng quyền an tử. Bởi lẽ, tôn giáo cịn mang khuynh hướng tín ngưỡng, khơng có cơ sở khoa học, mang tính chất siêu hình, tâm linh. Nhiều tục lệ cịn tơn giáo cịn ảnh hưởng rất nhiều đến pháp luật và chủ yếu mang tính thái q, thậm chí là đối lập với

<i>pháp luật. Vì vậy để nói rằng “con người do đấng tối cao tạo ra và chỉ có đấng tối cao </i>

<i>mới có quyền sát sinh họ” là khơng có căn cứ, khơng đủ cơ sở để phản đối quyền an tử. </i>

Ngoài ra, quyền an tử cũng có mặt tích cực của nó trong việc khuyến khích cấy ghép nội tạng ở những bệnh nhân mắc bệnh nan y, khi những người bị mắc bệnh nan y khơng cịn nhiều thời gian, họ có tâm nguyện hiến tặng nội tạng của mình cho người đang thực sự cần. Điều này sẽ giúp ích cho rất nhiều bệnh nhân suy tạng đang chờ ghép

<i>tạng. Quyền an tử không chỉ mang lại “quyền được chết” cho người bệnh nan y được ra đi một cách thanh thản, mà còn mang lại “quyền sống” cho những bệnh nhân cần nội </i>

tạng. Và điều này mang ý nghĩa tích cực, mang tính chất nhân đạo.

Nhìn chung, mỗi luồng quan điểm phản đối hay ủng hộ việc hợp pháp quyền an tử nêu trên đều có những yếu tố hợp lý. Và việc quyết định khơng hợp pháp hay hợp pháp hóa quyền an tử là một quá trình cần nhiều thời gian và chịu tác động của nhiều yếu tố như trình độ nhận thức, kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, truyền thống văn hóa của từng nước,... Tuy nhiên, xu hướng thừa nhận hợp pháp quyền an tử đang ngày càng được nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận hơn.

Sau khi phân tích các lập luận ủng hộ cũng như phản đối quyền an tử, nhóm nghiên cứu cho rằng nên cho phép hợp pháp quyền an tử. Nhóm nghiên cứu ủng hộ quan điểm này vì nhiều lý do. Đầu tiên là con người phải có quyền quyết định mình có muốn chết hay không. Và nếu như họ quyết định quyền được chết thì ta nên tơn trọng quyết định đó của họ. Ngoài ra, đối với các bệnh nhân mắc bệnh nan y ta nên để họ được chết một cách đàng hồng (nếu như có sự đồng ý hợp pháp của họ). Nó cũng sẽ giúp cho gia đình của những bệnh nhân giảm bớt đau khổ, gánh nặng và tiếp tục cuộc sống bình thường của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tránh các trường hợp bệnh nhân bị giết mà khơng có sự đồng ý của họ hoặc các trường hợp quyền an tử được thực hiện để cắt giảm chi phí cho bệnh nhân hay vì các động cơ cá nhân khác.

</div>

×