Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.75 KB, 55 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ... 3 </b>
<b>PHẦN MỞ ĐẦU ... 4 </b>
1. Tính cấp thiết của đề tài ... 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ... 6
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ... 6
2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài... 8
3. Mục tiêu nghiên cứu ... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ... 10
<b>CHƯƠNG 1 ... 12 </b>
<b>CHỦ THỂ NHỜ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO ... 12 </b>
1.1. Điều kiện đối với chủ thể nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ... 12
<i>1.1.1. Về xác nhận của tổ chức y tế ... 13 </i>
1.1.2. Về tình trạng đang khơng có con chung ... 17
<i>1.1.3. Về việc được tư vấn y tế, tâm lý ... 20 </i>
1.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ... 21
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ... 31 </b>
<b>CHƯƠNG 2 ... 32 </b>
<b>CHỦ THỂ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO ... 32 </b>
2.1. Điều kiện đối với chủ thể mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ... 32
<i>2.1.1. Về điều kiện là người thân thích cùng hàng ... 32 </i>
<i>2.1.2. Về điều kiện đã từng sinh con và chỉ mang thai hộ một lần ... 37 </i>
2.1.3. Về độ tuổi được mang thai hộ ... 39
2.1.4. Về sự đồng ý của người chồng trong trường hợp đã có chồng ... 41
<i>2.1.5. Về việc được tư vấn y tế, tâm lý ... 43 </i>
2.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ... 44
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 51 </b>
<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 52 </b>
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 553
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT </b>
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 Luật BHXH 2014 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 Luật HN&GĐ 2014 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015
của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo MTHVMĐNĐ Mang thai hộ vì mục đích thương mại MTHVMĐTM
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Trong thực tế cuộc sống, các trường hợp vô sinh, hiếm muộn xảy ra ngày càng nhiều và có nguy cơ tăng cao tại nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì Việt Nam đang là một trong những quốc gia tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có tỷ lệ sinh thấp nhất nhưng tỷ lệ vơ sinh thì lại cao nhất. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dự báo: Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy hiểm thứ ba, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam<small>1</small>. Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện
<i>mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì: “Vơ sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 – 3 lần/tuần, khơng sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn khơng có thai”. Vơ sinh có thể ngun phát từ người vợ </i>
hoặc người chồng hoặc cả hai. Theo nghiên cứu do Trường Đại học Y Hà Nội phối hợp với Bệnh viện Phụ sản Trung ương thực hiện ở 8 tỉnh thành, trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ cho thấy: Tỉ lệ vô sinh hiếm muộn tại Việt Nam ngày càng tăng cao, lên đến 7,7%. Trong đó vơ sinh ngun phát là 3,9% và thứ phát là 3,8%. Đặc biệt, 50% trong số đó là các cặp vợ chồng có tuổi đời dưới 30. Cũng trong nghiên cứu này, tỷ lệ vô sinh ở nam giới ngày càng tăng cao<small>2</small>. Ngay tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản (Bệnh viện Phụ sản trung ương), nếu như khoảng 10 năm trước, mỗi tuần tại đây tiếp nhận từ 2 đến 3 cặp vợ chồng đến điều trị các vấn đề về vơ sinh hoặc hiếm muộn thì đến thời điểm hiện tại, con số này đã tăng lên từ 40 đến 60 cặp vợ chồng (gấp 20 lần)<small>3</small>. Tình trạng vơ sinh, hiếm muộn dẫn đến nhiều hậu quả nặng nề cho các gia đình và xã hội. Bên cạnh gánh nặng về chi phí theo đuổi việc chữa trị mà còn dẫn đến những rạn nứt về mặt tình cảm vợ chồng, đè nặng tâm lý cho các thành viên gia đình và là một trong những nguyên nhân dẫn đến hôn nhân tan vỡ.
Tuy nhiên, khơng phải gia đình nào cũng có khả năng có con và thực tế cho thấy rằng có khơng ít cặp vợ chồng hiếm muộn khơng có khả năng thụ thai vì rất nhiều lý do; hiện nay khơng thiếu những trường hợp mặc dù người vợ và người chồng đều có sức khỏe tốt, khơng phát hiện những bệnh lý dẫn đến khó thụ thai nhưng việc có thai lại rất
<small>1</small><i><small> Ngô Đồng (2019), “Vô sinh và hiếm muộn, bệnh nguy hiểm ở thế kỷ 21”, Báo công an TP.HCM, </small></i>
<small> truy cập ngày 20/05/2023. </small>
<small>2</small><i><small> ĐCSVN (2015), “Tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam đang gia tăng”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, </small></i>
<small> truy cập ngày 10/03/2023. </small>
<small>3 Bệnh viện Phụ sản Trung ương, , truy cập ngày 08/05/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">khó khăn. Ở đây, hồn tồn khơng đề cập đến việc do ý chí cá nhân của chính những người trong gia đình khơng muốn mang thai. Theo nghiên cứu khoa học, không thể liệt kê hết tất cả những nguyên nhân dẫn đến việc vợ chồng không thể thụ thai, nhưng có thể kể đến những nguyên nhân khá phổ biến như: Vô sinh tự nhiên do môi trường sống; điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm; lối sống cá nhân thiếu lành mạnh như nghiện bia rượu, nghiện ma tuý, mắc bệnh lây nhiễm qua đường tình dục do quan hệ tình dục khơng an tồn, biến chứng do nạo phá thai... Không chỉ vậy, hiện nay vấn đề vô sinh đang là một trong những gánh nặng của ngành y tế Việt Nam, một trong những nỗi âu lo dai dẳng của rất nhiều gia đình. Vơ sinh vốn không phải là mối lo ngại, vấn đề bận tâm của cá nhân gia đình nào mà đó là câu chuyện của cả một quốc gia, cả một xã hội bởi lẽ nó ảnh hưởng tới độ tuổi dân số ở nước ta cũng như sự phát triển lâu dài về mặt kinh tế, nhân lực... Có thể thấy, sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã giúp đỡ khơng ít gia đình bằng các phương pháp như thụ tinh trong ống nghiệm, hỗ trợ sinh sản; nhưng khó có thể giúp đỡ tồn bộ những người khó sinh con hay những trường hợp khơng thể sinh con dù đã áp dụng những biện pháp đó. Pháp luật hiện hành về việc mang thai hộ chỉ cho phép những người thuộc nhóm trường hợp trên nhờ người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo<small>4</small>; cụ thể là nhóm những người phụ nữ khơng có tử cung nhưng vẫn có một hoặc cả hai buồng nỗn hoạt động bình thường, phụ nữ đã bị cắt bỏ tử cung nhưng vẫn giữ lại buồng nỗn vì bất cứ lý do gì, những người phụ nữ có tử cung khơng bình thường nhưng bị dị dạng, bị bệnh lý, bị bệnh về nội mạc, cuối cùng là nhóm những người phụ nữ có tử cung bình thường nhưng sức khoẻ khơng được đảm bảo có thể vượt qua giai đoạn chăm sóc ni dưỡng con trong bụng mẹ. Qua đó thấy rằng, vấn đề mang thai hộ đang ngày càng phổ biến và được quan tâm nhiều hơn; đang dần trở thành một việc khơng cịn xa lạ đối với đời sống. Thế nhưng, những quy định về vấn đề này tại Việt Nam còn tồn đọng những bất cập, khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn ở các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ. Tiêu biểu như việc quy định điều kiện cho bên nhờ mang thai hộ ở nhóm đối tượng người phụ nữ phải chứng minh được mình khơng có khả năng thụ thai sau khi đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Thế nhưng, pháp luật hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể về việc để đáp ứng điều kiện này, bên nhờ mang thai hộ cần thiết phải thử mọi biện pháp hỗ trợ sinh sản và thất bại hay không, hay họ chỉ cần thử một số lượng nhất định các biện pháp hỗ trợ sinh sản, hoặc chỉ cần dùng các phương pháp xác nhận thông qua kiểm tra sức khỏe để đưa ra kết luận là được. Việc quy định chưa được rõ ràng như vậy dẫn đến nhiều khúc mắc, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào thực tế.
<small>4 Khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ 2014. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Đó là một trong những bất cập của chế định đối với các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tại Việt Nam. Bên cạnh đó còn tồn tại những bất cập khác đòi hỏi việc cần xem xét lại các yêu cầu, điều kiện cụ thể đối với bên nhờ mang thai hộ, bên được nhờ mang thai hộ. Từ đó có thể đề xuất những giải pháp xây dựng nhằm hoàn thiện chế định này và phát huy hết ý nghĩa nhân văn của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam. Do đó, nhóm tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Chủ thể trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam”. Mặc dù đề tài này còn khá nhạy cảm nhưng lại mang tính nhân văn cao, việc nghiên cứu đề tài góp phần tháo gỡ những khúc mắc còn đang tồn tại xoay quanh chế định mang thai hộ và chủ thể trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Từ đó, giải quyết phần nào những khó khăn mà các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ gặp phải, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Quan trọng hơn hết, là giúp cho các cặp vợ chồng mong muốn có con bằng biện pháp mang thai hộ đến gần hơn với ước mơ có được một đứa con của mình.
<b>2. Tổng quan tình hình nghiên cứu </b>
Trong quá trình tổng hợp và nghiên cứu về chủ thể mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, nhóm tác giả nhận thấy có một số cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước về vấn đề này.
<b>2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước </b>
<i><b>2.1.1. Luận án, luận văn </b></i>
<i><b>Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Lê Huyền (2020) về “Chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội: Nội dung </b></i>
trọng tâm của luận án nghiên cứu tổng thể về chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam bao gồm các quy định của pháp luật xoay quanh chế định này, những vấn đề đặc thù về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền và nghĩa vụ giữa các bên cũng như các bất cập, hạn chế của chế định. Tác giả đã đánh giá, phân tích từ thực trạng của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay với các quy định của pháp luật, từ đó chỉ rõ những điểm khác biệt, chưa tương thích giữa luật và thực tiễn áp dụng. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá những khó khăn trong q trình thực hiện chế định trên thực tế, đề xuất các giải pháp gợi mở thông qua sự liên hệ với pháp luật các nước trên thế giới.
<i><b>Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Thị Hương Giang (2015) về “Mang thai hộ trong Luật Hơn nhân và Gia đình 2014”, Trường Đại học Luật, Đại học quốc gia </b></i>
Hà Nội: Luận văn nghiên cứu chế định mang thai hộ được quy định trong Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014. Trong đó, tác giả làm rõ cơ sở lý luận cho việc ra đời và hình thành các quy định của chế định này cũng như phân loại các hình thức mang thai
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">hộ được đề cập trong Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 gồm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tiếp đến, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu các vấn đề về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam, phân tích các thuật ngữ, nội hàm các khái niệm. Bên cạnh đó, tác giả cũng có sự liên hệ, so sánh giữa pháp luật các quốc gia trên thế giới với chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam để làm rõ những điểm khác biệt và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.
<i><b>2.1.2. Bài viết trên tạp chí </b></i>
<i><b>Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Cừ (2016) “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, (06), tr. 11 - tr. 22: Trong bài </b></i>
viết, tác giả đã nêu và phân tích các thuật ngữ, khái niệm, cơ sở của các quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Tác giả đã tập trung nêu rõ những vấn đề còn tồn đọng ở các quy định, dẫn đến các cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất và khó áp dụng trên thực tế. Cụ thể ở quy định về điều kiện thân thích cùng hàng, quan điểm của tác giả chỉ ra sự chưa thống nhất về mặt giải thích thuật ngữ giữa hai văn bản là Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bên cạnh đó, ở vấn đề về tình trạng đang khơng có con chung, tác giả đề cập đến trường hợp đã từng có con nhưng con khơng cịn hoặc mắc các bệnh lý suy giảm thể chất, trí tuệ thì có thuộc trường hợp xem xét được nhờ mang thai hộ hay khơng. Từ đó, tác giả bày tỏ quan điểm nên tạo điều kiện để cặp vợ chồng được nhờ mang thai hộ trong trường hợp này để phát huy tính nhân văn của chế định.
<i><b>Bài viết của tác giả Nguyễn Huy Cường (2016), “Một số bất cập trong các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (09), tr. 38 - tr. 40, tr. 49: Trong bài viết, tác giả </b></i>
tập trung phân tích các bất cập ở từng điều kiện của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam. Cụ thể, tác giả chỉ rõ những vấn đề phát sinh khi quy định chưa có sự thống nhất, cịn tồn tại nhiều quan điểm cách hiểu. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá có những điều kiện hiện nay cần xem xét điều chỉnh để tạo cơ hội nhiều hơn cho các cặp vợ chồng khơng có con nhưng gặp khó khăn trong việc tìm người theo điều kiện thân thích cùng hàng vì gia đình ít người, ít anh chị em. Mặt khác, tác giả cũng nêu quan điểm về việc hiện nay có những quy định vẫn chưa xác định cụ thể các vấn đề phát sinh liên quan sẽ được xử lý theo trình tự, thủ tục như thế nào. Chẳng hạn như việc xác nhận điều kiện thân thích cùng hàng sẽ do Ủy ban nhân dân tại nơi nào xác định thì hiện nay Luật chưa quy định cụ thể và theo tác giả sẽ phát sinh những khó khăn khi áp
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">dụng thực tế. Từ những bất cập trình bày trong bài viết, tác giả cũng đưa ra những kiến nghị, đề xuất mang tính gợi mở, xây dựng cho chế định.
<i><b>Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lê Huyền (2017), “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, Tạp chí Pháp luật </b></i>
và Thực tiễn, (03), tr. 49 - tr. 56: Bài viết nghiên cứu chuyên sâu về các quy định xoay quanh vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả trình bày các ý kiến để hoàn thiện chế định. Theo quan điểm tác giả, có những quy định vẫn chưa có sự rõ ràng về nội hàm và văn bản hướng dẫn cụ thể. Do đó, tác giả đề xuất kiến nghị cần bổ sung thêm các hướng dẫn chi tiết để việc thi hành diễn ra thuận tiện hơn. Cụ thể về độ tuổi để mang thai hộ, tác giả có sự so sánh với pháp luật nước ngồi và chỉ rõ giữa các quốc gia có sự quy định về độ tuổi để thực hiện việc mang thai hộ; bên cạnh đó, tác giả cũng liên hệ với các khuyến cáo từ y khoa Việt Nam cho thấy độ tuổi sinh sản tốt nằm trong khoảng từ 20 đến 35 tuổi. Tác giả cũng bày tỏ quan điểm về quy định tình trạng đang khơng có con chung đối với trường hợp đã từng có con nhưng con mất, theo tác giả, trường hợp này là lý do chính đáng để xem xét trao cơ
<b>hội cho cặp vợ chồng có thêm con và bù đắp những mất mát. </b>
<i><b>Bài viết của tác giả Phan Minh Chiến (2021), “Một số vướng mắc, bất cập về việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ”, Tạp chí Tịa án nhân dân </b></i>
điện tử: Bài viết tập trung phân tích những bất cập và trường hợp hiện nay luật chưa có quy định cụ thể nên dẫn đến bối rối, chưa có cách giải quyết. Cụ thể, tác giả dẫn chứng các trường hợp nếu những phụ nữ khơng có tử cung và dự trữ buồng trứng của họ cũng khơng có trứng (nỗn). Với những trường hợp này, để thực hiện mang thai hộ họ phải đi xin trứng của người khác thế nhưng Luật chưa có quy định. Ngồi ra đối với những trường hợp người vợ hoặc người chồng, thậm chí là cả hai vợ chồng bị bất thường di truyền về chuyển đoạn gen khiến người vợ thường bị sảy thai hoặc khơng có thai được thì sẽ phải xin nỗn, hoặc đi xin phơi của người khác mới có thể nhờ người mang thai hộ được. Như vậy, việc quy định về vấn đề này vơ tình tước đi quyền làm cha mẹ của những người thuộc trường hợp nêu trên. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã quy định áp dụng mang thai hộ tại Việt Nam cho cả người Việt Nam và người nước ngồi, nhưng tại khoản 2 Điều 5 thì người cho noãn chỉ áp dụng với người Việt Nam và Việt kiều. Còn những trường hợp xin tinh trùng lại khơng đề cập tới.
<b>2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngồi </b>
<i><b>Bài viết có tiêu đề “Surrogacy Agreements in French Law” của tác giả Eva </b></i>
<b>Steiner, Tạp chí The International and Comparative Law Quarterly, Vol.41, No.4, </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">pp.866 – 875: Bài viết tập trung phân tích các khía cạnh pháp lý của pháp luật Cộng hòa Pháp trong việc nghiêm cấm các hành vi thực hiện mang thai hộ. Thực tế cho thấy rằng ở Pháp đã từng tồn tại việc môi giới cho hoạt động mang thai hộ cũng như xuất hiện tình trạng các cặp vợ chồng vô sinh yêu cầu nhận con sau khi thực hiện việc mang thai hộ. Điều này dẫn đến nguy cơ thương mại hóa hành vi mang thai hộ là hiện hữu và khó kiểm sốt. Xuất phát từ những nhận định đó, kết quả cuối cùng là tất cả hoạt động mang thai hộ dù tự nguyện hay thương mại đều bị cấm tại Pháp.
<i><b>Bài viết có tiêu đề “Surrogacy: A Global Legal Perspective with an Emphasis on Changing Regulations in India” của tác giả Sharma, Rhythm, Vol. 5 Issue 2, pp. </b></i>
1 - 16: Bài viết tập trung phân tích các quy định của Đạo luật mang thai hộ của Ấn Độ năm 2021 và so sánh với quy định của các nước khác trên thế giới. Trong bài viết, tác giả làm rõ các quy định của pháp luật Ấn Độ về mang thai hộ, những điểm mới của Đạo luật này. Bên cạnh đó, tác giả có sự liên kết, tham khảo và đối chiếu với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như Anh, Mỹ, Trung Quốc... Từ đó rút ra những kết luận về quy định hiện nay của chế định này.
Nhìn chung, chế định mang thai hộ, đặc biệt là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay vẫn là một chế định cịn mang tính nhạy cảm khá cao. Trong chế định này vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập, vướng mắc và những khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Do đó, đã có rất nhiều tác giả, bao gồm cả trong nước và nước ngoài, tiến hành nghiên cứu về chế định này. Các cơng trình nghiên cứu hiện nay, ngồi việc bình luận về các quy định của pháp luật về mang thai hộ, còn đưa ra các bất cập, những điểm thiếu thống nhất giữa quy định của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chế định và những điểm vướng mắc giữa quy định với việc áp dụng pháp luật trong thực tế. Ngoài ra, các tác giả trên cũng đã đưa ra những gợi mở mang tính thiết thực để điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất định, các cơng trình vẫn cịn một số điểm chưa được hoàn thiện, chưa giải quyết được triệt để các vấn đề đã đưa ra. Một số cơng trình chỉ dừng lại ở việc bình luận các bất cập, thực trạng mà chưa đề xuất kiến nghị cụ thể.
<b>3. Mục tiêu nghiên cứu </b>
Mục tiêu nghiên cứu được đặt ra là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề xoay quanh chế định mang thai hộ, mà cụ thể hơn là các quy định về chủ thể trong quan hệ mang thai hộ gồm bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ. Từ đó, có thể xem xét, điều chỉnh các quy định để khắc phục những bất cập, khó khăn trong q trình thực thi chế định này trong thực tiễn. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài này giúp tìm ra các phương hướng, giải pháp để có thể mở ra một lối đi và phát huy một cách tối ưu hơn mục đích, ý nghĩa thật sự của việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Nhưng đồng thời vẫn tạo dựng được
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">một hành lang pháp lý để kiểm soát nghiêm ngặt vấn đề này. Bên cạnh đó, nếu đề tài được nghiên cứu thành công sẽ giúp cho chế định này hoàn thiện hơn, chặt chẽ hơn về mặt pháp luật nhưng cũng phù hợp với các xu thế chung từ việc so sánh, học tập kinh nghiệm về việc quy định chế định mang thai hộ của một số quốc gia trên thế giới, mở ra cơ hội cho nhiều cặp vợ chồng được thực hiện thiên chức làm cha mẹ hơn nữa cũng như tinh thần nhân văn của chế định này.
<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề cơ bản về chủ thể mang thai hộ; quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về các chủ thể trong mối quan hệ về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 và một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; pháp luật của một số nước trên thế giới về các chủ thể trong chế định mang thai hộ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào chủ thể mang thai hộ, cụ thể là quy định của pháp luật về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ cho phép thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, do đó trong phạm vi nghiên cứu, đặc biệt là về thực trạng pháp luật, luận án chủ yếu tập trung làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bài nghiên cứu khoa học tập trung luận giải những quy định của pháp luật Việt Nam về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014; Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Hình sự năm 2015; Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; Luật Nuôi con nuôi năm 2010... và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành, trong đó trọng tâm là những quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Bên cạnh đó, nhóm tác giả nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài như Đạo luật mang thai hộ Australia năm 2010, pháp luật Bồ Đào Nha, pháp luật Ấn Độ, Luật về sức khỏe y tế của Liên bang Nga… và thực tiễn áp dụng luật có liên quan đến chủ thể mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>
Nhóm tác giả dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Nhờ phương pháp luận trên, nhóm đã tiến hành q trình nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, kiến nghị để đảm bảo chế định thực hiện có hiệu quả trên thực tế, đáp ứng giá trị về mặt xã hội, đồng thời tuân theo các nguyên tắc, đường lối chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, nhóm cịn áp dụng các phương pháp khoa học khác như: so sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp… Nhóm đã so sánh, đối chiếu và tham khảo pháp luật nước ngoài để rút ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">những kinh nghiệm vận dụng cho pháp luật Việt Nam. Thông qua các phân tích, tổng hợp, nhóm đã thu thập thơng tin về tình hình thực trạng áp dụng chế định hiện nay, những quan điểm, đánh giá mang tính trao đổi, nghiên cứu từ các nguồn tư liệu, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra về các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>CHƯƠNG 1 </b>
<b>CHỦ THỂ NHỜ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO </b>
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được định nghĩa tại khoản 22 Điều 3 Luật
<i>HN&GĐ 2014 như sau: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Hiện nay, ngồi hình thức MTHVMĐNĐ, pháp luật còn ghi nhận sự tồn </i>
tại của một hình thức mang thai hộ khác, đó là mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật Việt Nam nghiêm cấm MTHVMĐTM và chỉ cho phép MTHVMĐNĐ. Bởi bản chất của MTHVMĐNĐ là vô cùng nhân văn, hướng tới việc đáp ứng nhu cầu được làm cha, mẹ của các đối tượng khơng thể có con, từ đó đảm bảo nhu cầu duy trì nịi giống, gắn kết và gìn giữ hạnh phúc gia đình, và việc củng cố các
<i>“tế bào của xã hội” này sẽ góp phần hướng đến một xã hội tốt đẹp và phồn vinh. Để có </i>
thể nhờ MTHVMĐNĐ thì bên nhờ mang thai hộ phải đáp ứng một số điều kiện nhất
<i>định. Cụ thể, khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ khơng thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; b) Vợ chồng đang khơng có con chung; c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý”. Có thể thấy, quy định của pháp luật hiện nay về điều kiện để cặp vợ </i>
chồng có thể nhờ mang thai hộ là tương đối đầy đủ, đảm bảo giới hạn phạm vi đối tượng có quyền nhờ mang thai hộ. Bởi đây là một chế định tương đối đặc thù, do đó, đòi hỏi các chủ thể phải đáp ứng được các điều kiện luật định. Bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một trong các chủ thể của quan hệ này, vì vậy, phải đáp ứng được các điều kiện để nhờ mang thai hộ. Bên cạnh đó, họ cũng được hưởng một số quyền, và phải tuân thủ một số nghĩa vụ nhất định khi tham gia vào quan hệ này.
<b>1.1. Điều kiện đối với chủ thể nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo </b>
Như đã đề cập trước đó, do mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một chế định đặc thù, cần phải có các quy định về điều kiện nhờ mang thai hộ để giới hạn các đối tượng có thể nhờ mang thai hộ. Các quy định hiện nay là tương đối hợp lý, chọn lọc được các đối tượng thật sự cần sử dụng biện pháp này để có con. Tuy nhiên, một số quy định vẫn cịn q khắt khe, hạn chế quyền có con của một số đối tượng thật sự cần thiết tìm đến biện pháp mang thai hộ. Ngồi ra, vẫn cịn nhiều khó khăn khi áp dụng pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">luật vào thực tiễn bởi còn tồn tại các quy định chưa được rõ ràng và không thống nhất với các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.
<i><b>1.1.1. Về xác nhận của tổ chức y tế </b></i>
Theo quy định tại Luật HN&GĐ 2014 đã nêu trên thì một trong các điều kiện mà chủ thể nhờ MTHVMĐNĐ phải đáp ứng là có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Điều này đồng nghĩa rằng việc mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ và cả thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên theo quy định tại Điều
<i>3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì bên nhờ mang thai hộ là “cặp vợ chồng vô sinh”. Cũng theo khoản 2 Điều 2 của Nghị định này thì: “Vơ sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, khơng sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn khơng có thai”. </i>
Như vậy, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và Luật HN&GĐ 2014 chưa có sự thống nhất trong việc quy định về chủ thể có quyền nhờ mang thai hộ. Bởi lẽ khái niệm vô
<i>sinh được đề cập tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP là “tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục 2- 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn khơng có thai”. Song, đối với chủ thể nhờ mang thai hộ thì có thể họ khơng rơi vào tình trạng “vơ sinh” nhưng vẫn khơng thể có con do </i>
người vợ bị bệnh tim hoặc các bệnh khác mà bác sĩ chỉ định không thể mang thai. Về
<i><b>điều kiện “có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang </b></i>
<i>thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”, quy định này mang tính khái quát, chưa được giải thích cụ thể rõ ràng trong cả Nghị định số 10/2015/NĐ-CP </i>
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện
<b>MTHVMĐNĐ, dẫn đến có những bối rối, lúng túng và nhiều cách hiểu. Cụ thể: </b>
Quan điểm thứ nhất cho rằng, người vợ sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp hỗ trợ sinh sản nhưng khơng thể mang thai, sinh con thì mới được tổ chức y tế cấp giấy xác nhận để thực hiện mang thai hộ.
Như vậy, sau khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản mà người vợ vẫn khơng thể mang thai, sinh con thì sẽ được tổ chức y tế cấp giấy xác nhận và đủ điều kiện để thực hiện mang thai hộ. Quy định này sẽ giúp giám sát chặt chẽ các trường hợp mang thai hộ, tránh những tiêu cực, gian dối. Tuy nhiên cũng sẽ tạo ra rất nhiều khó khăn trên thực tế cho cả cơ quan chuyên môn về lĩnh vực y khoa lẫn cặp vợ chồng mong muốn được mang thai hộ. Bởi lẽ, họ chỉ đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ nếu trước đó đã thực hiện và thất bại các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác. Chi phí để thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác là con số không nhỏ. Những cặp vợ chồng này cần bỏ ra một số tiền
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">để thực hiện các kỹ thuật trên mà vẫn thất bại họ lại tiếp tục tốn một khoản chi phí
<i>“khơng hề rẻ hơn” để thực hiện phương pháp mang thai hộ. Chi phí của một ca mang </i>
thai hộ hiện nay là 60 đến 70 triệu đồng trong trường hợp ca khó; ca bình thường thì chi phí 40 đến 45 triệu đồng<small>5</small>. Đây có thể là gánh nặng kinh tế tài chính đối với rất nhiều gia
<i>đình. Với mục đích và ý nghĩa của chế định “MTHVMĐNĐ tại Việt Nam” thì việc này đã ảnh hưởng, hạn chế “tính nhân đạo” của chế định. Bởi lẽ, điều này vơ tình để yếu tố </i>
kinh tế trở nên ảnh hưởng rất quan trọng thậm chí có thể khiến một cặp vợ chồng không thể nhờ mang thai hộ nếu như điều kiện kinh tế tài chính của họ khơng thể đáp ứng được.
<i>Hơn nữa, về việc “có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” thì cả </i>
Luật HN&GĐ và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng không quy định và giải thích là tổ chức y tế có thẩm quyền trong trường hợp này là tổ chức y tế nào. Là các bệnh viện thông thường, hay chỉ có các bệnh viện đặc thù được quyền áp dụng thực hiện kỹ thuật mang thai hộ mới có thẩm quyền xác nhận. Bởi lẽ, trong quy định của pháp luật Việt Nam, hiện nay chỉ có một số bệnh viện được cấp thẩm quyền thực hiện kỹ thuật mang thai hộ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là một trong các cơ
<i>sở khám chữa bệnh sau đây: Một, cơ sở phụ sản, sản - nhi của Nhà nước từ tuyến tỉnh trở lên. Hai, bệnh viện đa khoa tư nhân có khoa sản, khoa sản - nhi. Ba, bệnh viện chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa sản - nhi tư nhân. Bốn, bệnh viện chuyên khoa nam học và </i>
hiếm muộn. Và theo khoản 2 Điều 13 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì hiện nay, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có đủ điều kiện thực hiện ngay kỹ thuật MTHVMĐNĐ bao gồm: Bệnh viện Phụ sản trung ương; Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế; Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu như bệnh nhân thăm khám và điều trị vô sinh cũng như xác nhận không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở bệnh viện khác, rồi đến các bệnh viện trong danh mục được pháp luật quy định để thực hiện kỹ thuật mang thai hộ thì liệu có sự mâu thuẫn hay khơng thống nhất trong kết quả xác nhận giữa hai bệnh viện hay không? Và trong trường hợp này, xác nhận của bệnh viện trước đó có được cơng nhận là hợp pháp hay khơng? Theo đó, cần quy định và giải thích rõ hơn về cơ quan xác nhận trong trường hợp này để tạo
<i>sự thống nhất, tránh chồng chéo thẩm quyền cũng như phát sinh “kẽ hở”, “trục lợi”. </i>
Quan điểm thứ hai cho rằng, người vợ chỉ cần thông qua các thủ tục kiểm tra, xét nghiệm cho thấy người vợ khơng có khả năng mang thai, sinh con cho dù có tiến hành
<small>5</small><i><small> Lê Nga (2016), “60 triệu đồng chi phí cho một ca mang thai hộ”, VnExpress, </small></i><small>dong-chi-phi-cho-mot-ca-mang-thai-ho-3347033.html, truy cập ngày 31/3/2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">biện pháp hỗ trợ sinh sản thì sẽ được cấp giấy xác nhận để thực hiện mang thai hộ mà không cần trải qua quá trình thực hiện các biện pháp hỗ trợ sinh sản điều trị vô sinh<small>6</small>. Theo quan điểm này thì cặp vợ chồng hiếm muộn có thể thông qua các xác nhận, kết luận từ chuyên gia trong lĩnh vực để biết được rằng họ không thể mang thai được kể cả khi có áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thông qua kết luận này từ phía chuyên khoa sẽ giúp các cặp vợ chồng mang thai hộ hạn chế được việc phải bỏ ra một khoản chi phí quá lớn để thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trước rồi thất bại và lại tiếp tục thực hiện mang thai hộ. Nếu như kết quả đánh giá và xác nhận được từ chuyên gia cho rằng họ sẽ không thể mang thai dù có thực hiện hỗ trợ sinh sản thì họ sẽ chuyển sang hình thức mang thai hộ thay vì thực hiện hỗ trợ sinh sản vừa tốn chi phí lớn vừa khơng có kết quả. Tuy nhiên, đối với cách hiểu thứ hai, cần có sự trao đổi, tham khảo và tham vấn từ phía các chuyên gia trong cả hai lĩnh vực y khoa và pháp luật. Bởi lẽ, trên thực tế liệu có những phương pháp, cách thức hay kỹ thuật nào giúp kiểm tra và thông qua thông số kiểm tra đánh giá được khả năng không thể mang thai kể cả áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hay khơng? Đó là những kỹ thuật nào, và nếu có cần có quy định giải thích để áp dụng hiệu quả. Đối với cách hiểu thứ hai, cần phải có một hành lang pháp lý quy định
<i>cho cơ quan xác nhận chặt chẽ hơn vì sẽ rất dễ tạo ra “kẽ hở”, “phát sinh tiêu cực, trục lợi” giữa bên nhờ mang thai hộ với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực hiện </i>
kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Cũng như dễ phát sinh việc gian dối để thực hiện MTHVMĐTM.
Ngồi ra, ở quy định về việc có xác nhận của tổ chức y tế về việc không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản hiện nay có những trường hợp mà luật chưa có sự dự liệu trước. Theo quy định tại khoản 22 Điều 3 của Luật
<i>HN&GĐ thì:“Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, khơng vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. </i>
Như vậy, luật đã không dự liệu được trường hợp có những phụ nữ khơng có tử cung và dự trữ buồng trứng của họ cũng khơng có trứng (noãn). Với những trường hợp này, để thực hiện mang thai hộ họ phải đi xin trứng của người khác thế nhưng Luật lại chưa có quy định. Khoản 4 Điều 5 của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về việc
<small>6</small><i><small> Nguyễn Thị Mỹ Duyên (2022), Điều kiện mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, </small></i>
<small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 102. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">người nhận tinh trùng, nhận nỗn, nhận phơi phải là người khơng bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau. Thấy rằng, trong thực tế có nhiều trường hợp người vợ hoặc người chồng, thậm chí là cả hai vợ chồng bị bất thường di truyền về chuyển đoạn gen khiến người vợ thường bị sảy thai hoặc khơng có thai được thì sẽ phải xin nỗn, hoặc đi xin phơi của người khác mới có thể nhờ người mang thai hộ được. Như vậy, việc quy định về vấn đề này vô tình tước đi quyền làm cha mẹ của những người thuộc trường hợp nêu trên.
Theo quy định pháp luật của Bồ Đào Nha, mang thai hộ được dùng như cơ hội trong các trường hợp nữ giới không thể mang thai và sinh con bởi vì những hồn cảnh chống chỉ định nghiêm trọng về thai kỳ an toàn (sự thiếu tử cung là 1 căn bệnh nghiêm trọng ngăn cản việc mang thai và sinh sản) ở Bồ Đào Nha. Bên cạnh đó, pháp luật Liên bang Nga cũng cho phép bên nhờ mang thai hộ khi mắc các hội chứng, bệnh, khiếm khuyết được phép xin giao tử từ người hiến tặng. Cụ thể, người hiến giao tử cho cặp vợ chồng điều trị vô sinh khơng có bất kì mối quan hệ, cam kết nghĩa vụ làm cha mẹ đối với đứa trẻ<small>7</small>. Ngoài ra, theo pháp luật Úc, tế bào trứng của người hiến tặng có thể được sử dụng bởi các cặp vợ chồng mà suy buồng trứng hoặc suy giảm chức năng buồng trứng là nguyên nhân gây vô sinh, chất lượng trứng kém đã được xác định trong các chu kỳ điều trị ARV trước đó hoặc người phụ nữ trong cặp vợ chồng này mang gen bệnh nghiêm trọng<small>8</small>. Tại hầu hết các bang ở Úc, việc sử dụng trứng, tinh trùng được hiến tặng và mang thai hộ để sinh con là hợp pháp và được xã hội chấp nhận rộng rãi. Bang Victoria, với tư cách là khu vực tài phán đầu tiên trên thế giới, đã tiên phong trong việc ban hành luật về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART)<small>9</small> và mở đường cho các bang khác hiện có luật liên quan đến việc cung cấp dịch vụ ART, bao gồm thủ tục hiến tặng và mang thai hộ<small>10</small>. Trong năm 2007, khoảng 52.000 chu kỳ điều trị bằng ART đã được thực hiện tại các phòng khám hỗ trợ sinh sản ở Úc và kết quả là hơn 10.000 trẻ em đã được sinh ra, chiếm 3,1% tổng số ca sinh ở Úc trong năm đó<small>11</small>. Như vậy, khác với quy định của pháp luật Việt Nam hiện tại, ở Úc, mang thai hộ được định nghĩa là việc một người phụ nữ đồng ý mang thai, sinh con cho một người hoặc một cặp đôi khác và đứa trẻ sẽ được
<small>7</small><i><small> Ekaterina Mouliarova (2019), “The Legal Regulation of Surrogacy in Russia”, Italian Journal of Public Law, </small></i>
<small>(11), tr. 409. </small>
<small>8</small><i><small> Sauer MV, Paulson RJ (1995), “Oocyte and embryo donation”, Curr Opin Obstet Gynecol, 7(3), tr. 193 - tr. </small></i>
<small>198. </small>
<small>9 Assisted reproductive technologies (ART). </small>
<small>10 Karin Hammarberg, Louise Johnson, Tracey Petrillo (2011), “Gamete and Embryo Donation and Surrogacy in Australia: The Social Context and Regulatory Framework”, </small>
<small> truy cập ngày 09/8/2023. </small>
<small>11 Wang Y, Chambers G, Dieng M, Sullivan E (2007), “Assisted reproductive technology in Australia and New </small>
<i><small>Zealand”, Assisted reproduction technology series, (13), tr. 47. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">nuôi bởi người hoặc cặp đôi nhờ mang thai này. Noãn và/hoặc tinh trùng được dùng để tạo phơi trong chu trình mang thai hộ có thể là từ bên nhờ mang thai hộ hoặc từ một người hiến tặng<small>12</small>.
<i>Theo quan điểm của nhóm tác giả, xét đến “tính nhân đạo” mà chế định hướng đến, nên áp dụng theo cách hiểu thứ hai. Bởi lẽ, khi xây dựng chế định “MTHVMĐNĐ theo pháp luật Việt Nam” mang ý nghĩa rất nhân văn và sâu sắc, mở ra cơ hội cho những </i>
cặp vợ chồng kém may mắn được làm cha mẹ - một thiên chức rất thiêng liêng. Do đó, khi hướng đến mục tiêu nhân đạo và chủ thể chính trong quan hệ mang thai hộ này chính là cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ thì pháp luật nên xem xét, tháo gỡ những bất cập để tạo điều kiện tốt nhất cũng như đảm bảo tính chặt chẽ, an tồn cho thực hiện quy định trên thực tế.
<i><b>1.1.2. Về tình trạng đang khơng có con chung </b></i>
Bên cạnh điều kiện về sự xác nhận của tổ chức y tế thì pháp luật Hơn nhân và Gia đình cịn địi hỏi người nhờ mang thai hộ phải đáp ứng được điều kiện về tình trạng
<i>“đang khơng có con chung”. Hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về tình </i>
trạng này, dẫn đến những khó khăn nhất định trong việc hiểu thuật ngữ luật quy định và áp dụng vào thực tế gây những bất cập, nhiều cách hiểu.
Thực tế hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng đã từng có con chung, nhưng đứa con mắc các bệnh lý về sức khỏe như tâm thần, suy giảm trí tuệ, các bệnh về đột biến gen, bệnh down... Nếu trường hợp vợ chồng đã từng có con nhưng con sinh ra bị mắc các chứng bệnh chẳng hạn như các bệnh vừa nêu trên thì cặp vợ chồng không đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ, bởi họ đã có con chung. Mặt khác, cũng có những trường hợp, cặp vợ chồng đã có con chung, nhưng vì các lý do như bệnh tật, tai nạn, đứa con đã qua đời, mà cặp vợ chồng này không cịn khả năng có con được nữa thì họ có thuộc vào nhóm
<i>“đang khơng có con chung” khơng? Bởi lẽ, nếu xét về bản chất, họ vốn “đã từng có con chung”, nhưng ở hiện tại “đang khơng có con chung” nữa. Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất và làm rõ thuật ngữ “đang khơng có con chung”. Theo quy định tại Điều 95 </i>
Luật HN&GĐ 2014 về điều kiện để được nhờ mang thai hộ đó là cặp vợ chồng phải đang khơng có con chung. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP về hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật MTHVMĐNĐ thì một trong những giấy tờ bắt buộc là bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận. Như vậy, NĐ 10/2015 đã ghi nhận trường hợp “chưa có con chung” là điều kiện cần xác nhận để
<small>12 Yueping Alex Wang, Elizabeth A. Sullivan, Georgina Chambers, “Assisted reproductive technology in </small>
<i><small>Australia and New Zealand 2008”, Assisted reproduction technology series, (14), tr. 39. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">thực hiện mang thai hộ. Có thể thấy, giữa Luật HN&GĐ 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP khơng có sự thống nhất với nhau. Bởi Luật HN&GĐ 2014 quy định
<i>một trong những điều kiện để cặp vợ chồng được nhờ mang thai hộ là phải “đang khơng có con chung”. Trong khi đó, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP hướng dẫn điều kiện </i>
MTHVMĐNĐ lại yêu cầu trong hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có
<i>văn bản xác nhận tình trạng “chưa có con chung”. Sự thiếu thống nhất này đã dẫn tới rất nhiều khó khăn bất cập. Hai khái niệm “đang khơng có con chung” và “chưa có con chung” khơng đồng nhất với nhau. Vậy khi những vấn đề phát sinh cụ thể trong các </i>
trường hợp trên thì sẽ dẫn chiếu quy định của Luật HN&GĐ 2014 hay Nghị định số 10/2015/NĐ-CP? Xét cụ thể trong trường hợp vợ chồng đã từng có con chung nhưng
<i>con mất, theo Luật HN&GĐ 2014 thì họ thỏa mãn điều kiện hiện “đang khơng có con chung” nên vẫn được quyền nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, nếu theo quy định của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì dù đứa con hiện khơng cịn nhưng họ vẫn “đã từng có con chung” nên vẫn khơng thể nhờ mang thai hộ. </i>
Bên cạnh đó, nếu cặp vợ chồng đã nhận ni con ni thì họ có thuộc vào tình
<i>trạng “đang có con chung” khơng? Điều này phụ thuộc vào việc giải thích thuật ngữ “đang có con chung” của các nhà làm luật. Khái niệm “con chung” trong các quy định </i>
về MTHVMĐNĐ theo pháp luật Việt Nam chưa được làm rõ, con chung nên được hiểu như thế nào? Là con do chính cặp vợ chồng sinh ra? Có bao gồm con được nhận nuôi
<i>hay không? Tham khảo pháp luật Ấn Độ, quy định ở nước này định nghĩa việc “đang khơng có con chung” được hiểu là khơng có đứa con nào đang sống tại thời điểm nhờ </i>
mang thai hộ, gồm con nuôi, con đẻ, con được sinh ra nhờ mang thai hộ trước đó<small>13</small>. Nếu những cặp vợ chồng đã từng có nhưng con mất nên khơng được phép mang
<i>thai hộ bởi vi phạm điều kiện ràng buộc “chưa có con chung” trong Nghị định số </i>
10/2015/NĐ-CP thì điều này sẽ cản trở và ảnh hưởng rất nhiều đến tính nhân đạo của quy định MTHVMĐNĐ theo pháp luật Việt Nam. Bởi lẽ, nỗi đau mất đi con cái là những mất mát hết sức to lớn về mặt tinh thần của bậc cha mẹ, hơn nữa nếu sau đứa con mất đi đó, cặp vợ chồng này khơng cịn khả năng sinh thêm con thì sẽ càng đau buồn và thiếu vắng trong cuộc sống. Mục đích của chế định MTHVMĐNĐ theo pháp luật Việt Nam là để lan tỏa những giá trị nhân văn, tạo cơ hội cho các cặp vợ chồng được thực hiện thiên chức làm cha mẹ của họ, vốn dĩ là một quyền hết sức thiêng liêng và chính đáng. Do đó, nếu như đứa con mất đi, nhưng cặp vợ chồng này không thể sinh con muốn nhờ người MTHVMĐNĐ để một lần nữa được làm cha mẹ thì đây là những trường hợp hết sức cần thiết, pháp luật nên xem xét điều chỉnh để cho họ được thực hiện những
<small>13 Điểm c khoản 3 Mục 4 Đạo luật Mang thai hộ của Ấn Độ năm 2021. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">quyền lợi của mình. Có thể thấy, khi một gia đình giờ đây có thêm con cái thì khơng chỉ có thêm niềm vui mà cặp vợ chồng ấy về già cũng có người thân, con cái chăm sóc, khơng phải neo đơn, cơ độc, ảnh hưởng rất tích cực đối với các vấn đề an sinh xã hội khi mà hiện nay, rất nhiều người già khơng có con cái, sống cô độc và nhờ vào sự bảo trợ của nhà nước. Có thể thấy, việc điều chỉnh và tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng được nhờ MTHVMĐNĐ trong trường hợp này không hề trái với các giá trị đạo đức cốt lõi hay vi phạm pháp luật, mà cịn tạo cơ hội để họ có thể có những đứa con khỏe mạnh, lành lặn về thể chất và tinh thần. Từ đó, phát huy hơn nữa ý nghĩa tốt đẹp của quy định về MTHVMĐNĐ theo pháp luật Việt Nam.
Từ những bất cập trên, theo quan điểm của nhóm tác giả, cần điều chỉnh quy định
<i>về “đang khơng có con chung” thành “đang khơng có con chung, hoặc có con chung nhưng con bị khuyết tật” trong điều kiện của chủ thể nhờ mang thai hộ để tạo điều kiện </i>
cho những cặp vợ chồng hiện đang khơng có con chung, những cặp vợ chồng đã từng có nhưng hiện con đã mất, hoặc những cặp vợ chồng đang có con chung nhưng con bị khuyết tật có cơ hội một lần nữa làm cha mẹ, có những đứa con khỏe mạnh, lành lặn về thể chất và trí tuệ. Vì theo quy luật, đến một lúc nào đó, cặp vợ chồng nói trên và đứa con tật nguyền của họ cũng cần đến sự chăm sóc của những người khỏe mạnh. Khi đó, tình cảm, sự chăm sóc của những người thân trong gia đình, trong đó có những đứa trẻ được sinh ra từ việc MTHVMĐNĐ sẽ vơ cùng có ý nghĩa<small>14</small>. Xét thấy, điều này không chỉ xuất phát từ quyền làm cha mẹ chính đáng thiêng liêng của các cặp vợ chồng, mà còn là giá trị nhân văn, mối liên hệ thiết thực giữa pháp luật với các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống, bù đắp những nỗi đau về tinh thần cho những cặp vợ chồng như vậy. Hơn nữa, khi về già, cặp vợ chồng này sẽ có con cái khỏe mạnh chăm sóc, điều này cũng góp phần vào việc xây dựng các chính sách an sinh, xã hội. Bởi, hằng năm, số lượng người già neo đơn khơng có người thân chăm sóc phải sống lang thang, số còn lại ở trong các viện dưỡng lão và sống nhờ vào nguồn trợ cấp từ nhà nước. Do đó, nếu tạo cơ hội để những cặp vợ chồng có con khuyết tật được có thêm con khỏe mạnh, lành lặn cũng phần nào giảm bớt những gánh nặng, áp lực đến nền kinh tế và nguồn ngân sách của nhà nước.
<i><b>1.1.3. Về việc được tư vấn y tế, tâm lý </b></i>
Việc được tư vấn y tế là điều vô cùng cần thiết đối với bên nhờ mang thai hộ. Bởi vì mang thai hộ là một biện pháp phức tạp về mọi mặt nên bên nhờ mang thai hộ cần chuẩn bị đầy đủ những thông tin, kiến thức liên quan đến vấn đề này. Tại khoản 1 Điều
<small>14 Nguyễn Thị Lê Huyền (2017), “Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về mang thai hộ vì mục </small>
<i><small>đích nhân đạo”, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, (03), tr. 49 - tr. 56. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">15 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng đã quy định cụ thể những nội dung tư vấn về y tế cho bên nhờ mang thai hộ gồm: (i) các phương án khác ngoài việc mang thai hộ hoặc xin con ni, (ii) q trình thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ, (iii) các khó khăn khi thực hiện mang thai hộ, (iv) tỷ lệ thành cơng của kỹ thuật có thể rất thấp nếu dự trữ buồng trứng của người vợ thấp hoặc người vợ trên 35 tuổi, (v) chi phí điều trị cao, (vi) khả năng đa thai, (vii) khả năng em bé bị dị tật và có thể phải
<b>bỏ thai, (viii) các nội dung khác có liên quan. </b>
mang thai hộ là một phương pháp điều trị mang lại hy vọng cho nhiều cặp vợ chồng không thể sinh con, nhưng tỉ lệ thành công không cao, bởi kỹ thuật mang thai hộ rất khó khăn, nguy cơ thất bại cao và đơi khi cịn phải đối mặt với những tai biến nguy hiểm. Do đó, việc tư vấn về những rủi ro về y tế là rất quan trọng để bên nhờ mang thai hộ có thể dự liệu được các tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Ngồi tư vấn y tế thì tư vấn tâm lý cũng là việc làm cần thiết đối với bên nhờ
<i>mang thai hộ. Bởi vì mang thai hộ là biện pháp sinh con bằng một cách “khác biệt”, </i>
không giống với quy luật tự nhiên. Mối liên kết giữa mẹ và con sẽ được hình thành từ khi đứa trẻ cịn chưa có hình hài, trong quá trình mang thai 9 tháng 10 ngày thì đứa con chính là một phần cơ thể của người mẹ, đó chính là giai đoạn thiêng liêng, cao cả nhất. Tuy nhiên, người nhờ mang thai hộ sẽ không được trải qua q trình đó, họ khơng được cảm nhận từng nhịp tim, từng cử động của đứa bé ở trong bụng mình, dịng máu để ni đứa bé cũng không phải của họ. Do vậy, bên nhờ mang thai hộ phải chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận đứa con của mình được sinh ra từ cơ thể của người phụ nữ khác. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng đã đưa ra một số nội dung tâm lý mà bên nhờ mang thai hộ cần được tư vấn, quy định tại khoản 1 Điều 17 như sau: (i) các vấn đề về tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ mang thai hộ, người thân và bản thân đứa trẻ sau này, (ii) người mang thai hộ có thể có ý định muốn giữ đứa bé sau sinh, (iii) hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của đứa trẻ, (iv) tâm lý, tình cảm khi nhờ người mang thai và sinh con, (v) thất bại và tốn kém với các đợt điều trị mang
<i>thai hộ có thể gây tâm lý căng thẳng, mệt mỏi, (vi) các nội dung khác có liên quan. </i>
Có thể thấy rằng luật đã quy định rất cụ thể những vấn đề về tâm lý mà bên nhờ mang thai hộ sẽ phải đối mặt trước, trong, sau quá trình nhờ mang thai hộ. Các quy định này rất cần thiết bởi mang thai hộ là một kỹ thuật y khoa phức tạp và có thể chứa nhiều rủi ro, đơi khi có thể liên quan đến cả tính mạng con người. Mặt khác, các hoạt động thực hiện trong việc MTHVMĐNĐ liên quan mật thiết đến tâm sinh lý nên dẫn tới khả năng rất cao sẽ nảy sinh tranh chấp. Do đó, các bên liên quan đều cần có nhận thức về các trường hợp có thể xảy ra, từ đó chuẩn bị kỹ lưỡng các phương án giải quyết. Điều đó cũng giúp bên nhờ mang thai hộ và cả bên mang thai hộ có sự an tâm nhất định khi
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">thực hiện kỹ thuật này. Đồng thời, bản thân họ khi đã được trang bị những kiến thức pháp lý cũng có trách nhiệm và ý thức hơn trong việc tuân thủ thực hiện các quyền và nghĩa vụ, tự bảo vệ quyền lợi của mình và tránh những tranh chấp khơng đáng có.
Tham khảo quy định của nước ngoài, tiểu bang Tây Úc, Úc có quy định rằng bên nhờ mang thai hộ phải ký vào một thỏa thuận tự nguyện về mang thai hộ có tính ràng buộc về mặt pháp lý với cả hai bên. Một trong số các điều kiện tiên quyết cần cam kết rõ trong thỏa thuận là bên nhờ mang thai hộ phải chứng minh rằng họ đã được cố vấn có chun mơn tư vấn về quá trình mang thai hộ và được tư vấn pháp lý từ luật sư ít nhất ba tháng trước khi ký thỏa thuận<small>15</small>.
<b>1.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo </b>
Nhằm bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về MTHVMĐNĐ, pháp luật hiện hành đã có các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật này. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của bên nhờ MTHVMĐNĐ được quy định tại Điều 98 Luật HN&GĐ 2014 với các nội dung như sau:
<i><b>Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế. Mặc dù hiện nay, </b></i>
<i>pháp luật Việt Nam chỉ cho phép việc MTHVMĐNĐ, tuy nhiên, mục đích “nhân đạo” </i>
của việc mang thai hộ này không loại trừ việc phát sinh các chi phí thực tế và cần thiết, phát sinh từ việc mang thai và sinh con. Trong giai đoạn mang thai và sinh con, thai phụ cần được chăm sóc sức khỏe sinh sản để bảo đảm cho sự an toàn của cả người mẹ và đứa bé. Việc này sẽ làm phát sinh các chi phí chẳng hạn như chi phí khám thai thường xuyên, chi phí tiêm phịng, các chi phí về chế độ ăn uống, dinh dưỡng<small>16</small>. Theo đó, Điều 3 Thơng tư số 32/2016/TT – BYT của Bộ Y tế quy định các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người MTHVMĐNĐ. Khoản 1 Điều này quy định về các chi phí mà bên nhờ mang thai hộ bắt buộc chi trả gồm: chi phí đi lại tới cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; chi phí liên quan đến y tế; chi phí dinh dưỡng và chi phí các vật dụng chăm sóc vệ sinh cá nhân trước, trong và sau sinh cho người mang thai hộ theo thỏa thuận giữa các bên. Các khoản chi phí này được xác định và chi trả dựa trên các hóa đơn, chứng từ tuân thủ việc quy định giá của các cấp có thẩm quyền, đối với các dịch vụ chưa được cấp có thẩm quyền quy định giá thì thanh tốn theo hóa đơn, chứng từ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh căn cứ chi phí thực tế thực hiện dịch vụ. Đối với chi
<small>15 “About surrogacy in Western Australia”, surrogacy-in-Western-Australia, truy cập ngày 28/7/2023. </small>
<small> Phạm Thị Hương Giang (2015), Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luận văn tiến sĩ </small></i>
<small>Luật học, Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 63. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">phí dinh dưỡng và chi phí các vật dụng chăm sóc vệ sinh cá nhân theo thỏa thuận giữa các bên thì xác định theo hóa đơn (nếu có) hoặc giấy biên nhận. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều này cịn cho phép hai bên gồm bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ tự thỏa thuận về các chi phí khác ngồi các chi phí đã được quy định tại Thơng tư này. Việc xác định chi phí dựa theo văn bản thỏa thuận giữa hai bên.
Như vậy, nhìn chung, quy định trên là tương đối hợp lý bởi cần thiết có sự chi trả để bảo đảm quyền lợi cho bên mang thai hộ và pháp luật đã có sự giới hạn và hướng dẫn các chi phí nào có thể được xem là chi phí thực tế mà bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa quy định về cơ chế để kiểm soát, quản lý việc chi trả các chi phí thực tế này. Việc cho phép các bên tự thỏa thuận về các chi phí mà bên nhờ mang thai hộ sẽ chi trả mà khơng có bất kỳ sự giới hạn nào về định mức mà bên nhờ mang thai hộ được phép chi trả cho các khoản chi tự thỏa thuận này cũng như các khoản chi bắt buộc được quy định tại Thông tư 32/2016 có thể tạo cơ hội cho các bên
<i>trục lợi, làm cho việc phân định giữa mang thai hộ vì mục đích “thương mại” và “nhân đạo” trở nên vơ cùng phức tạp. Các chủ thể hồn tồn có thể lợi dụng những kẽ hở này để tiến hành MTHVMĐTM bên trong lớp vỏ bọc “nhân đạo”. Việc này cũng khiến cho </i>
cơng tác kiểm sốt, quản lý, phịng chống MTHVMĐTM trở nên khó khăn hơn.
<i><b>Thứ hai, quyền, nghĩa vụ của bên nhờ MTHVMĐNĐ đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật HN&GĐ 2014 </b></i>
<i>còn quy định như sau: “Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi”. </i>
Quy định tại khoản 2 Điều 98 như trên là hợp lý, đảm bảo tính nhân văn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, vợ chồng nhờ mang thai hộ đều xác định là cha mẹ của đứa trẻ. Trên thực tế người mang thai và sinh con là bên mang thai hộ, nên trong khoảng thời gian đang nhờ mang thai hộ, người vợ không được xác định là người đang mang thai và sinh con. Đứa trẻ chỉ được công nhận là con chung của vợ chồng và phát sinh quan hệ cha, mẹ, con từ thời điểm được sinh ra. Xét ở góc độ nhân văn, quy định này đảm bảo quyền quyết định việc tiếp tục mang thai và sinh con hay không thuộc về bên mang thai hộ.
Quy định này sẽ đảm bảo tốt về sức khỏe cho những đứa trẻ vừa được sinh ra, tránh những trường hợp bên nhờ mang thai hộ khơng quan tâm chăm sóc vì cho rằng đứa bé đó khơng phải là con đẻ của mình, dẫn đến những hậu quả khơng tốt cho đứa trẻ. Hoặc ngược lại, bên nhờ mang thai hộ ngăn cản việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ từ phía người được nhờ mang thai dù người này có đủ các điều kiện tốt nhất để chăm sóc cho trẻ sơ sinh như nguồn sữa mẹ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Điều này cũng được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 35 Luật BHXH 2014 quy định về chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ:
<i>“Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi”. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhờ mang </i>
thai hộ. Chế độ thai sản trong trường hợp MTHVMĐNĐ được thực hiện theo nguyên tắc, chỉ một người tham gia đóng BHXH nhưng hai người phụ nữ cùng được hưởng chế độ thai sản. Người nhờ mang thai hộ sẽ được hưởng chế độ thai sản của người mang
<i>thai hộ chuyển sang khi đứa trẻ được giao về cho “mẹ ruột”. </i>
Mức hưởng chế độ thai sản của người mẹ nhờ mang thai hộ được thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Luật BHXH và được tính trên cơ sở mức bình qn tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của người mẹ nhờ mang thai hộ. Chính sách thai sản đối với người lao động nhờ mang thai hộ được ghi nhận tại Điều 4 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc.
Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật HN&GĐ 2014 như trên là chưa hợp lý. Bởi lẽ, chỉ cần có các quy định về việc xác định chủ thể nào sẽ là cha, mẹ của đứa trẻ và thời điểm là cha mẹ được xác định từ lúc nào là đủ. Khi đã làm rõ được hai vấn đề này thì những người được xác định là cha, mẹ của đứa trẻ sẽ có các quyền, nghĩa vụ của người làm cha, mẹ như bất kỳ một người làm cha, làm mẹ nào khác theo quy định của Luật HN&GĐ 2014 và các quy định khác có liên quan, trong đó bao gồm cả Luật BHXH 2014. Từ đó, kể từ thời điểm người vợ trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ được xác định là mẹ của đứa trẻ thì người này sẽ được hưởng các chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và BHXH. Vì vậy, việc quy định về chế độ thai sản cho người mẹ nhờ mang thai hộ trong Luật HN&GĐ 2014 là khơng đảm bảo tính đồng bộ và không cần thiết<small>17</small>.
Về vấn đề này, Luật mang thai hộ của Úc quy định rằng bên nhờ mang thai hộ là cha mẹ hợp pháp của đứa trẻ kể từ thời điểm Tịa án ra quyết định cơng nhận mối quan hệ cha mẹ - con giữa cặp vợ chồng này với đứa trẻ, đồng thời, quan hệ cha mẹ - con giữa bên mang thai hộ và đứa trẻ sẽ chấm dứt.
<i><b>Thứ ba, bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về ni dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang </b></i>
<small>17</small><i><small> Nguyễn Thị Lê Huyền (2020), Chế định mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, </small></i>
<small>Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 126. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><i><b>thai hộ thì phải bồi thường. Pháp luật các quốc gia khác, chẳng hạn như Ấn Độ, cũng </b></i>
có quy định tương tự. Theo đó, Điều 7 Đạo luật mang thai hộ 2021 của Ấn Độ quy định việc nghiêm cấm bỏ rơi đứa bé được sinh ra thông qua mang thai hộ với bất kỳ lý do gì, cho dù việc mang thai hộ đó là ở trong hay ngồi Ấn Độ. Cho dù đứa trẻ sinh ra có khiếm khuyết di truyền, dị tật bẩm sinh hay giới tính của đứa trẻ khơng phải là giới tính mà bên nhờ mang thai hộ mong muốn, bên nhờ mang thai hộ cũng không được từ chối đứa bé<small>18</small>.
Quy định trên là một quy định mang tinh thần nhân văn sâu sắc, đảm bảo quyền được ni dưỡng, chăm sóc của đứa bé được sinh ra từ việc mang thai hộ. Cho dù đứa trẻ sinh ra bị bệnh, tật nguyền hay bất kỳ một khiếm khuyết nào về thể chất hay trí não, thì bên nhờ mang thai hộ cũng khơng được từ chối nhận con. Việc mang thai luôn tồn tại phần nào rủi ro rằng đứa trẻ sinh ra sẽ không được lành lặn, cho dù đó là sinh sản tự nhiên hay sinh sản có sự can thiệp, hỗ trợ của khoa học – kỹ thuật. Nếu xảy ra tình trạng này, đứa trẻ có khả năng rất cao bị bên nhờ mang thai hộ, và cả bên mang thai hộ từ chối nhận. Do đó, quy định trên nhằm ràng buộc nghĩa vụ đối với bên mang thai hộ để họ phải nhận đứa trẻ, đảm bảo rằng đứa trẻ này được ni dưỡng, chăm sóc. Ngồi ra, theo nhóm tác giả, đây cũng là trách nhiệm của bên nhờ mang thai hộ. Bởi cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đã quyết định có con bằng phương pháp này, nghĩa là họ muốn có một đứa con, do đó, khi việc mang thai hộ này thành cơng và đứa trẻ ấy chào đời, đứa bé sẽ trở thành con của họ và họ có nghĩa vụ phải ni dưỡng và chăm sóc con của mình. Việc đứa trẻ này ra đời xuất phát từ mong muốn của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, vì thế, họ phải có trách nhiệm trong việc ni nấng và chăm sóc đứa trẻ, cho dù đứa bé sinh ra có bất kỳ khiếm khuyết nào đi chăng nữa.
<i>Tuy nhiên, quy định “bên mang thai hộ không được từ chối nhận con” có nghĩa là nghĩa vụ nhận con đối với bên nhờ mang thai hộ là “bất di bất dịch”. Vậy, liệu việc </i>
quy định như vậy có thật sự là thỏa đáng trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không muốn nhận con nhưng bên mang thai hộ sẵn sàng nuôi đứa trẻ? Bên nhờ mang thai hộ, có thể vì một số lý do khách quan như ly hôn hoặc một bên vợ/chồng chết... nên không muốn nhận con. Nhưng giữa họ với bên mang thai hộ có mong muốn được thỏa thuận với nhau về việc để bên mang thai hộ trở thành cha, mẹ của đứa trẻ. Tuy nhiên, việc này không thể thực hiện được vì sự bất di bất dịch của quy định trên. Trong khi đó, việc để đứa trẻ trở thành con của bên mang thai hộ, trong trường hợp này, sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích của đứa bé hơn. Bởi bên nhờ mang thai hộ lúc này đã có suy nghĩ khơng muốn nhận con nên họ sẽ có thể khơng mang đến được cho đứa trẻ sự quan tâm, chăm
<small>18 Điều 7 Đạo luật mang thai hộ Ấn Độ năm 2021. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">sóc tốt nhất có thể. Quan trọng hơn, họ cũng khơng thể dành cho đứa bé tình yêu thương hết mực nhất bởi họ đã quyết định không muốn đứa bé này nữa. Trong khi đó, bên mang thai hộ, trong q trình mang thai, sinh nở, đã nảy sinh tình cảm và mối liên kết với đứa bé. Họ có điều kiện để cho đứa bé tình yêu thương và sự quan tâm, chăm sóc tốt nhất. Do đó, khi họ mong muốn được trở thành cha, mẹ của đứa bé, hoàn tồn có cơ sở để cho rằng khi ở cùng với họ, đứa bé sẽ được quan tâm, chăm sóc trong một điều kiện tốt hơn so với khi ở cùng bên nhờ mang thai hộ – người đã có ý muốn từ chối nhận đứa bé này. Tính nhân đạo trong chế định MTHVMĐNĐ không chỉ nằm ở việc trao cơ hội làm cha, mẹ cho những người có khát khao mà còn nằm ở việc bảo đảm quyền lợi cho cả bên mang thai hộ và đứa trẻ được sinh ra. Quyền lợi của trẻ em cần được ưu tiên hàng đầu. Do đó, trong mọi hoàn cảnh, phải đảm bảo rằng đứa bé sẽ nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc tốt nhất<small>19</small>.
Bên cạnh đó, xét trong mối tương quan với quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, quy định về nghĩa vụ nhận con của bên nhờ mang thai hộ chính là cơ sở vững chắc để đảm bảo quyền được đăng ký khai sinh của trẻ em. Quyền được đăng ký khai sinh và có họ tên, quốc tịch là một quyền cơ bản của trẻ em, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Việt Nam và trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Cụ thể, vào năm 1990, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989<small>20</small>. Công ước này ghi nhận rằng trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời. Quy định tương tự cũng được ghi nhận tại Điều 24 Công ước Quốc tế về những Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966<small>21</small>. Ngồi ra, theo Điều 15 Luật Hộ tịch 2014
<i>về trách nhiệm đăng ký khai sinh thì: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ơng hoặc bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang ni dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em”. Như vậy, trong </i>
thời hạn 60 ngày, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ – cha mẹ hợp pháp của đứa trẻ hoặc người thân thích của họ có trách nhiệm phải đăng ký khai sinh cho đứa trẻ. Tuy nhiên, nếu các bên không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình, dẫn đến việc giao nhận con khơng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, chẳng hạn như bên nhờ mang thai hộ khơng nhận con, thì lúc này, việc đăng ký khai sinh cho đứa trẻ sẽ gặp trở ngại. Bởi theo Điều 94 Luật HN&GĐ 2014 thì đứa trẻ được sinh ra từ việc MTHVMĐNĐ là con chung của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm đứa bé
<small>19 Nguyễn Thị Lê Huyền, tlđd 19, tr. 126 - tr. 127. </small>
<small>20 Khoản 1 Điều 7 Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989. </small>
<small>21 Khoản 2 Điều 24 Công ước Quốc tế về những Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">này được sinh ra. Do đó, bên mang thai hộ khơng phải là cha, mẹ hợp pháp của đứa trẻ, không có quyền đăng ký khai sinh cho trẻ. Hiện nay, pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về việc người mang thai hộ có quyền yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không nhận trẻ hay không. Điều 16 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch có
<i>quy định về việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ như sau: “Người yêu cầu đăng ký khai sinh nộp giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật Hộ tịch và văn bản xác nhận của cơ sở y tế đã thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cho việc mang thai hộ. Phần khai về cha, mẹ của trẻ được xác định theo cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ”. Tuy nhiên, các quy định trên vẫn chưa thật sự rõ ràng, cụ thể để có thể bảo vệ </i>
quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em trong các trường hợp vừa nêu<small>22</small>.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 98 Luật HN&GĐ 2014 còn quy định rằng trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì con sinh ra trong trường hợp MTHVMĐNĐ là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra. Về nguyên tắc, theo quy định về thừa kế theo pháp luật, khi cha hoặc mẹ chết thì con ruột sẽ được hưởng thừa kế. Con ruột này phải được xác lập theo quy định của pháp luật và phải được pháp luật thừa nhận. Bởi vậy, con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ sẽ được hưởng thừa kế từ bên nhờ mang thai hộ theo hàng thừa kế thứ nhất (bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết) theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015. Tuy nhiên, theo đó, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết trước khi đứa trẻ mang thai hộ được sinh ra, đứa trẻ đó sẽ khơng được thừa hưởng di sản, vì thời điểm phát sinh
<i>quan hệ cha mẹ - con là “kể từ thời điểm con được sinh ra”. Điều này là trái với nguyên </i>
tắc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật ln xếp những người có quan hệ huyết thống gần nhất vào hàng thứ nhất. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ<small>23</small>.
<i><b>Thứ tư, giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan. Đây là một quy định nhằm đảm bảo sự bình </b></i>
đẳng, tránh phân biệt đối xử giữa đứa trẻ sinh ra thông qua mang thai hộ với các thành viên khác trong gia đình. Các quyền và nghĩa vụ này được quy định tại Chương VI Luật HN&GĐ 2014. Theo đó, các thành viên gia đình có quyền, nghĩa vụ quan tâm, chăm
<small>22 Nguyễn Thị Lê Huyền, tlđd 19, tr. 127 - tr. 128. </small>
<small>23</small><i><small> Bùi Minh Nam (2021), Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 44 - tr. 45. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">sóc, giúp đỡ, tơn trọng nhau. Các quyền và nghĩa vụ này được thừa nhận ngay cả khi không chung sống với nhau. Trong trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia cơng việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp cơng sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình<small>24</small>.
Quy định trên là hoàn toàn hợp lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đứa bé được sinh ra từ việc mang thai hộ. Bởi cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ được xác định là cha, mẹ của đứa trẻ này kể từ thời điểm đứa trẻ được sinh ra. Từ đó, các mối quan hệ giữa đứa bé và những thành viên khác trong gia đình của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ cũng được hình thành. Chẳng hạn như quan hệ giữa ơng, bà, cơ, dì, chú, bác... với cháu. Vì vậy, giữa đứa trẻ và các thành viên khác trong gia đình bên nhờ mang thai hộ sẽ có các quyền và nghĩa vụ của những người trong cùng gia đình với nhau theo quy định của pháp luật, cụ thể là Luật HN&GĐ, BLDS và các luật khác có liên quan.
<i><b>Thứ năm, trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con. </b></i>
Tuy nhiên, ở đây Luật HN&GĐ 2014 chưa quy định cụ thể, dự liệu nếu bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con nhưng bên mang thai hộ mong muốn nhận ni đứa trẻ thì có được hay khơng? Và trong trường hợp nếu được, thì đứa trẻ này sẽ được nhận nuôi theo Luật con nuôi hay sẽ xem là con ruột của người mang thai hộ sinh ra? Và khi bên mang thai hộ từ chối nhận con và bên mang thai hộ nhận nuôi thì có đồng nghĩa với việc bên mang thai hộ khơng cịn là ba mẹ ruột hợp pháp của đứa trẻ khơng? Theo quan điểm nhóm tác giả, cần có những hướng dẫn, quy định cụ thể trong trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ. Trong trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ, pháp luật nên ghi nhận quyền được nhận nuôi con của bên mang thai hộ trong trường hợp này nếu họ đáp ứng được các điều kiện nhận nuôi con nuôi theo pháp luật hiện hành.
<i><b>Thứ sáu, vấn đề về quyền yêu cầu ly hôn trong thời gian nhờ mang thai hộ. </b></i>
Mặc dù pháp luật hiện hành chưa có quy định nào về hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong trường hợp MTHVMĐNĐ. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 51 Luật
<i>HN&GĐ 2014 có quy định: “Chồng khơng có quyền u cầu ly hơn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang ni con dưới 12 tháng tuổi”. Luật HN&GĐ 2014 </i>
cũng quy định quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ đối với con chỉ phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra<small>25</small>. Theo những quy định trên, có thể hiểu rằng chỉ từ thời
<small>24 Điều 103 Luật HN&GĐ 2014. </small>
<small>25 Khoản 2 Điều 98 Luật HN&GĐ 2014. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">điểm đứa trẻ được sinh ra thì đứa trẻ đó mới được xác định là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Vì trên thực tế người mang thai và sinh con là bên mang thai hộ, nên trong khoảng thời gian đang nhờ mang thai hộ, người vợ không được xác định là người đang mang thai và sinh con. Do vậy, có thể hiểu rằng trước khi đứa trẻ được sinh ra, người chồng hồn tồn có quyền đơn phương yêu cầu tòa án giải quyết ly hơn với người vợ của mình. Nếu người chồng hoặc người vợ hoặc cả hai vợ chồng vô sinh nhờ mang
<i>thai hộ thuận tình ly hơn khi người đồng ý mang thai hộ “đang mang thai, sinh con” có </i>
thể dẫn đến việc hôn nhân của họ chấm dứt trước khi đứa trẻ chào đời, cũng như việc giải quyết ly hôn sẽ không thể đồng thời giải quyết được vấn đề nuôi con, nếu sau này đứa trẻ được sinh ra và cịn sống. Khi đó, việc giải quyết vấn đề ai là người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng đối với bên không trực tiếp nuôi con vẫn phải được giải quyết tương tự trường hợp cha mẹ ly hơn bình thường. Trong trường hợp này, pháp luật không đặt ra vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng để bảo đảm bình đẳng về mặt pháp lý giữa hai vợ chồng, vì lúc này người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh không đang trong trường hợp thực hiện chức năng làm mẹ. Nếu bên nhờ MTHVMĐNĐ nhận con, sau đó người chồng có u cầu ly hơn hoặc bên nhờ mang thai hộ thuận tình ly hơn khi đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng sẽ đương nhiên được áp dụng.
Như vậy, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ chỉ được xác định là cha mẹ của đứa trẻ kể từ thời điểm đứa trẻ được sinh ra nên trong thời gian bên mang thai hộ mang thai, người chồng bên nhờ mang thai hộ vẫn có quyền ly hơn. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng, quan hệ hôn nhân giữa cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ trong giai đoạn này đang có nhiều yếu tố đặc thù cần được xem xét để đảm bảo dung hịa lợi ích giữa các chủ thể. Đối với trường hợp mang thai thông thường, việc pháp luật hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong giai đoạn người vợ đang mang thai nhằm giúp người mẹ giữ một tâm lý ổn định, không ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi. Đối với trường hợp mang thai hộ, mặc dù người trực tiếp mang thai không phải là người vợ trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, việc ly hôn giữa hai vợ chồng vẫn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của người phụ nữ mang thai hộ, trong một vài trường hợp sẽ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thai nhi. Chẳng hạn như người phụ nữ mang thai hộ sẽ có thể rơi vào trạng thái hoang mang lo sợ và có những suy nghĩ tiêu cực như: liệu đứa trẻ sinh ra sẽ như thế nào, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có chối bỏ trách nhiệm nhận con và ni dưỡng con khơng... Do đó, sức khỏe của thai nhi trong bụng người phụ nữ mang thai hộ cũng có khả năng cao sẽ bị ảnh hưởng theo. Có thể thấy, ảnh hưởng tiêu cực đối với người phụ nữ mang thai hộ không chỉ đến từ việc ly hơn của chính người đó với chồng của mình,
</div>