Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.09 KB, 52 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ... 3 </b>
<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: ... 3 </b>
<b>1.3.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh ... 15 </b>
<b>1.3.2. Đối với phụ nữ độc thân ... 16 </b>
<b>1.4. Nguyên tắc việc thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ... 16 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa ... 16 </b>
<b>1.4.2. Nguyên tắc tự nguyện ... 18 </b>
<b>1.4.3. Nguyên tắc bảo mật thông tin ... 19 </b>
<b>1.4.4. Nguyên tắc vô danh ... 19 </b>
<b>1.4.5. Nguyên tắc tuân thủ quy trình kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn sức khỏe của Bộ Y tế.. ... 21 </b>
<b>1.5.Quy định của pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ... 22 </b>
<b>2.3. Trường hợp thụ tinh từ tinh trùng của người chồng đã mất sau thời hạn 300 ngày ... 32 </b>
<b>2.4. Trường hợp vợ chồng đã ly hôn, một người tự ý lấy phôi để thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ... 35 </b>
<b>2.5. Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra khi vợ chồng vi phạm điều cấm kết hôn của luật ... 39 </b>
<b>2.6. Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra khi thực hiện không đúng thủ tục về cho phép cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo kỹ thuật ... 43 </b>
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ... 46 </b>
<b>KẾT LUẬN CHUNG ... 47 </b>
<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 50 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI MỞ ĐẦU </b>
<b>1. Lý do chọn đề tài: </b>
Theo thống kê của Bộ Y tế nước ta cho thấy, mỗi năm có khoảng 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, tỉ lệ khoảng 7,7%. Trong đó, các cặp vợ chồng ở độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ 50%. Có thể thấy, tỉ lệ vô sinh ở nước ta khá cao và tuy vậy sự phát triển của y học ngày nay đã có thể giúp cho các cặp vợ chồng vơ sinh thực hiện được ước mơ có con của mình thực sự đã mang lại hạnh phúc lớn lao cho biết bao cặp vợ chồng. Theo đó, vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đang ngày càng phổ biến, song song đó, việc xác định cha, mẹ, con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng có những nét đặc trưng riêng. Hiện nay, vấn đề về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định khá chi tiết trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ, quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện, áp dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thấy rằng, quy định này vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Cụ thể:
Thứ nhất, Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khi người chồng đã mất vẫn chưa được xác định rõ ràng trong pháp luật Việt Nam. Thứ hai, việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và sinh ra khi vợ và chồng đã ly hôn. Nếu người vợ tự ý lấy tinh trùng của chồng cũ để thụ tinh nhân tạo thì việc xác định cha mẹ, con đứa con được sinh ra sẽ như thế nào vẫn chưa được dự liệu trong luật.
Thứ ba, những bất cập về thủ tục cho phép cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo kỹ thuật vẫn còn nhiều trong thực tế khiến cho việc xác định định cha mẹ cho con cũng thêm phần khó khăn.
Đã có một số cơng trình nghiên cứu về việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Với các lập luận nêu trên, việc lựa chọn nghiên cứu: Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu : </b>
Ngô Thị Anh Vân (Chủ biên), 2018 “Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Trong cơng trình, tác giả nghiên cứu trong pháp luật Việt nam về mối liên hệ, cũng như sự tác động qua lại giữa đời sống thực tiễn, trình độ phát triển của y học và quy định pháp luật trong việc xác định cha, mẹ - con thông qua sự kiện
<b>sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. </b>
Lê Thị Thìn, 2019 “Xác định cha, mẹ, con và quyền nhân thân trong trường hợp sinh con bằng hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt Nam” tạp chí khoa học và thực tiễn.
Phạm Thị Lan Anh, 2017 “Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng theo pháp luật Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ Luật học Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong bài luận văn này, tác giả phân tích các khia cạnh của vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, nhất là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng, nhìn dưới góc độ y học, pháp lý, ý nghĩa của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng; các yếu tố ảnh hưởng tới việc xây dựng pháp luật về nội dung này đồng thời nêu lên thực trạng của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng trong bối cảnh hiện nay.
Dương Viết Cường, 2020 “Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng
<b>kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ Luật học Đại học Luật Hà Nội Bài luận văn này, đưa vấn đề lý luận thực tiễn xác </b>
định cha, mẹ, trường hợp sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo Pháp luật Việt Nam Về mặt lý luận. Luận văn đề cập đến khái niệm, số điều kiện, nguyên tắc quan điểm lập pháp quy định cụ thể xác định cha, mẹ, trường hợp sinh kỹ thuật hỗ trợ sinh sản Về mặt thực tiễn, phân tích, đánh giá, nhận xét tình hình xác định cha, mẹ, trường hợp sinh kỹ thuật hỗ trợ sinh sản kết hợp với đưa số vụ việc điển hình, qua thấy thuận lợi, khó khăn, hạn chế thực pháp luật đưa kiến nghị giải pháp cụ thể đề giải vấn đề đáng quan tâm mà Pháp luật Việt Nam chưa dự liệu được, xây dựng hành lang pháp lý hoàn thiện đảm bảo việc pháp luật áp dụng thực tiễn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu </b>
Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để từ đó chỉ ra bất cập, hạn chế, tham khảo quy định pháp luật của một số quốc gia ở từng vấn đề cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
<b>luật Việt Nam về xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. </b>
<b>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b>
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: Phân tích, làm rõ quy định của pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Chỉ ra bất cập, vướng mắc của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: 4.1. Cách tiếp cận: </b>
Khi nghiên cứu về vấn đề xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản trong quan hệ hơn nhân gia đình thì có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dưới mỗi góc độ khác nhau thì vấn đề sẽ được hiểu theo các khía cạnh khác nhau như góc độ tâm lý, góc độ văn hóa, xã hội… Đối với đề tài nghiên cứu xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì nhóm nghiên cứu vấn đề dưới góc độ luật học.
<b>4.2. Phương pháp nghiên cứu: </b>
Phương pháp phân tích: Nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhằm làm rõ việc xác định cha, mẹ cho con trong từng trường
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">hợp Luật còn chưa quy định. Phương pháp này được sử dụng trong tồn bộ cơng trình, nhưng sử dụng nhiều nhất ở Chương 2, mục 2.1, mục 2,2 và mục 2,3.
Phương pháp so sánh: Nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh giữa pháp luật Việt Nam hiện hành về việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với pháp luật Việt Nam các giai đoạn trước đây và với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, nhằm tìm ra điểm tiến bộ, có thể tham khảo trong việc hồn thiện pháp luật Việt Nam về việc xác định này. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu tại chương 2 mục 2,4 của cơng trình.
Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở phân tích, so sánh, nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để tổng kết lại kết quả nghiên cứu về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Phương pháp này cũng được nhóm tác giả sử dụng trong kết luận chương và kết luận chung của cơng trình nghiên cứu.
<b>4.3. Phạm vi nghiên cứu: </b>
Ngay từ khi y học Việt Nam phát triển, vơ sinh khơng cịn là một vấn đề nan giải đối với các cặp vợ chồng. Việc sử dụng các phương pháp hỗ trợ sinh sản đã giúp cho nhiều gia đình có được hạnh phúc từ việc thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm. Những đứa trẻ được sinh ra từ phương pháp hỗ trợ sinh sản đó cũng được xem như bao đứa trẻ sinh thường khác về quyền được sống, quyền được bình đẳng… Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp mà việc xác định cha, mẹ cho đứa trẻ lại nằm trong những trường hợp luật chưa quy định hay cịn nhiều bất cập. Vì vậy, nhóm tác giả sẽ nghiên cứu việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và dự liệu những trường hợp có thể xảy ra bất cập trong tương lai. Nhóm tác giả nghiên cứu vấn đề xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong phạm vi ở Việt Nam, đặc biệt là những đối tượng được luật cho phép áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tuy nhiên vẫn còn những bất cập trong việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra. Đồng thời cũng nghiên cứu đến luật pháp của một số quốc gia để so sánh với Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định tại Khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, theo đó: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
Hiện nay có hai phương pháp chính được áp dụng đó là: thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm. Thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống nghiệm đều nhờ sự can thiệp của kỹ thuật y học để giúp người phụ nữ mang thai. Ngoài các biện pháp hỗ trợ sinh sản nêu trên còn có biện pháp khác như “Mang thai hộ” cũng sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vậy “ mang thai hộ’ có được coi là biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hay không? “Mang thai hộ” cần phải có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản<small>1</small>. Có thể thấy, trong trường hợp khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ vẫn khơng thể có thể có thai được vì vậy mà phải áp dụng biện pháp mang thai hộ. “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” Là việc một người phụ nữ tự nguyện khơng vì mục đích thương mại giúp mang thai hộ cặp vợ chồng mà người vợ
<small> </small>
<small>1 Điểm a khoản 2 Điều 95 Luật hơn nhân và gia đình 2014. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ thai trong ống nghiệm, sau đó được cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai, để người này mang thai và sinh con<small>2</small>. Mặc dù có áp dụng kỹ thuật hỗ trợ trong quá trình mang thai hộ để sinh con nhưng vẫn không được xếp vào các phương pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bởi, mang thai hộ hay thụ tinh trong ống nghiệm đều được thực hiện bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và phải do người phụ nữ sử dụng biện pháp hỗ trợ đó tự mình sinh ra con. Cịn đối với trường hợp mang thai hộ thì ban đầu có sử dụng noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ thai trong ống nghiệm nhưng việc đẻ ra đứa trẻ là do người phụ nữ khác được nhờ để thực hiện. Việc sinh con bằng “mang thai hộ” đã được quy định riêng trong luật khác với sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng như việc xác định cha, mẹ cho con trong từng trường hợp.
<i>Trường hợp sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo: </i>
Ngày nay, thụ tinh nhân tạo đang là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm nhiều nhất xoay quanh lĩnh vực sức khỏe sinh sản. Thụ tinh nhân tạo được biết đến là một phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả được áp dụng phổ biến trong điều trị vô sinh hiếm muộn nhằm mang đến cơ hội làm cha, làm mẹ cho nhiều cặp vợ chồng. Phương pháp này sử dụng các kỹ thuật để tạo điều kiện cho quá trình thụ thai được diễn ra thuận lợi nhất tại các cơ sở y tế chuyên khoa.
Thụ tinh nhân tạo viết tắt của intrauterine insemination (IUI)<small>3</small> là thụ tinh bằng phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung - được tiến hành bằng cách chọn lọc tinh trùng khỏe nhất của người chồng, sau đó bơm vào buồng tử cung của người vợ ở thời điểm rụng trứng.
Kết quả là cho tinh trùng bơi vào ống dẫn trứng và thụ tinh với trứng của người vợ, từ đó dẫn đến thụ thai như bình thường. Tùy thuộc vào nguyên nhân dẫn đến vơ sinh, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo có thể được phối hợp với chu kỳ kinh nguyệt của người vợ hoặc sử dụng kết hợp với các loại thuốc hỗ trợ sinh sản.
<small> </small>
<small>2 khoản 22 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014. </small>
<small>3 Điều 10. Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Thơng tư 12/2012/TT-BYT Quy trình kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>Đối tượng áp dụng biện pháp thụ tinh nhân tạo: </i>
Khả năng thụ thai của mỗi cặp vợ chồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau,
<b>do đó, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thường được chỉ định cho những trường hợp như sau: </b>
Mẹ đơn thân. Đối với những phụ nữ khơng lập gia đình nhưng vẫn muốn có con, do đó họ cần sử dụng tinh trùng của người hiến tặng để mang thai, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo sẽ được chỉ định và hỗ trợ cho các bà mẹ đơn thân này. Mẫu tinh trùng của người hiến tặng được bảo quản đông lạnh và được lấy từ các phịng thí nghiệm đạt chứng nhận kiểm định, sau đó làm rã đơng trước khi làm thủ thuật thụ tinh nhân tạo.
Vô sinh không rõ nguyên nhân. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thường được thực hiện như là biện pháp điều trị đầu tiên cho các cặp vợ chồng vô sinh không rõ nguyên nhân và kỹ thuật này cần kết hợp với các thuốc kích thích gây rụng trứng.
Vơ sinh liên quan đến lạc nội mạc tử cung. Đối với trường hợp vô sinh liên quan đến lạc nội mạc tử cung, người vợ cần sử dụng thuốc để hỗ trợ lấy được trứng chất lượng tốt cùng với thực hiện kỹ thuật thụ tinh nhân tạo thường là phương pháp điều trị đầu tiên.
Nam giới vô sinh. Phân tích tinh dịch của người chống là một trong những bước đầu tiên trong đánh giá y tế về tình trạng vô sinh của các cặp vợ chồng hiếm muộn, xét nghiệm này cho thấy nồng độ tinh trùng dưới mức trung bình, khả năng di chuyển của tinh trùng yếu hoặc bất thường về kích thước và hình dạng của tinh trùng. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo có thể khắc phục một số vấn đề trên do đó kỹ thuật viên sẽ tách tinh trùng có tính di động cao ra khỏi mẫu tinh trùng của người chồng có chất lượng tốt để sẵn sàng cho thụ tinh nhân tạo.
Đây là một trong những biện pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả cao hiện nay và trở thành lựa chọn của rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn.
<i>Trường hợp sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm: </i>
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì: “Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Theo y học Thụ tinh ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF)<small>4</small> là kỹ thuật điều trị vô sinh – hiếm muộn phổ biến nhất hiện nay, trong đó tinh trùng của người chồng và trứng của người vợ sẽ được thụ tinh trong phịng labo để tạo thành phơi. Sau khoảng thời gian ni cấy phơi bên ngồi (thơng thường khoảng 2 – 5 ngày), phôi sẽ được đưa trở lại buồng tử cung của người vợ để phát triển thành thai nhi.
Hay nói cách khác, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp mà trứng và tinh trùng được thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của người phụ nữ.
<i>Đối tượng cần áp dụng biện pháp thụ tinh ống nghiệm: </i>
Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) được biết đến là phương pháp điều trị hiệu quả cho những trường hợp người vợ bị tắc nghẽn ống dẫn trứng. Bên cạnh đó, phương pháp này còn được áp dụng điều trị cho các cặp vợ chồng hiếm muộn khơng thể có thai bằng các phương pháp hỗ trợ sinh sản thông thường, hoặc những cặp vợ chồng lớn tuổi, kèm theo các bệnh lý: lạc nội mạc tử cung, rối loạn phóng nỗn, bất thường ở tinh trùng và các yếu tố miễn dịch, hoặc vơ sinh chưa rõ ngun nhân…
Tóm lại, những đối tượng có thể xem xét đến phương pháp IVF gồm:
Vơ sinh do rối loạn phóng nỗn, tắc hoặc tổn thương vịi trứng, đã cắt bỏ vịi trứng…
Vơ sinh do các bệnh lý tại buồng tử cung như lạc nội mạc trong cơ tử cung, u xơ tử cung.
Vơ sinh do tinh trùng yếu, tinh trùng ít hoặc xuất tinh ngược, khơng có tinh trùng trong tinh dịch…
Cặp vợ chồng lớn tuổi, dự trữ buồng trứng ở người vợ suy giảm.
<small> </small>
<small>4 Điều 11. Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Thông tư 57/2015/TT-BYT sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Áp dụng phương pháp bơm tinh trùng nhiều lần nhưng thất bại. Vô sinh – hiếm muộn chưa rõ nguyên nhân.
Các cặp vợ chồng mang gen bệnh như Thalassemia, Hemophilia… cần sàng lọc tiền làm tổ để giảm thiểu nguy cơ sinh con mắc bệnh.
Đây cũng là biện pháp được nhiều cặp vợ chồng vơ sinh, phụ nữ độc thân tìm đến và mang lại hiệu quả tương đối cao. Ngày nay, với công nghệ tiên tiến, tỷ lệ mang thai của người được thụ tinh trong ống nghiệm đã được nâng lên đáng kể so với trước đây.
Điểm khác biệt giữa hai kỹ thuật này chính là, đối với bơm tinh trùng vào buồng tử cung, quá trình thụ tinh vẫn xảy ra trong cơ thể của người phụ nữ, trong khi với thụ tinh ống nghiệm, quá trình thụ tinh xảy ra ngồi cơ thể người phụ nữ, vì vậy kỹ thuật IVF yêu cầu nhiều bước điều trị hơn, từ kích thích buồng trứng, chọc hút trứng, đến thụ tinh trong phịng thí nghiệm và chuyển phơi ngược lại vào buồng tử cung người phụ nữ. Từ những phân tích nêu trên, theo nhóm tác giả: Xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc xác định ai là cha, mẹ của những người con được sinh ra thông qua việc sử dụng các biện pháp y học hiện đại để can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích giúp những vợ chồng hiếm muộn, vơ sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có được những đứa con như họ ước muốn.
<i><b>1.1.2. Đặc điểm của việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản </b></i>
Những đặc điểm của việc xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản dựa trên 3 đặc điểm: sự kiện sinh đẻ, quan hệ hôn nhân, huyết thống
Thứ nhất về sự kiện sinh con, ngày nay mỗi người phụ nữ trên thế giới này đều mong muốn có một đứa con máu mủ cho mình, đây là một sự kiện thiêng liêng đối với bất kì người phụ nữ hay gia đình nào. Sự kiện sinh con của người phụ nữ là một sự kiện thực tế, làm phát sinh mối quan hệ mẹ - con tự nhiên về huyết thống. Và với sự phát
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">triển của khoa học kĩ thuật, công nghệ sinh học và y học hiện nay, việc sinh con không chỉ được thực hiện bằng cách thụ thai tự nhiên qua quan hệ tình dục trực tiếp giữa hai bên nam, nữ mà còn được thực hiện bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Đối với những gia đình khơng thể có con bằng phương pháp tự nhiên nhiên thơng thường, họ tìm tới cơng nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại hỗ trợ việc sinh sản. Việc sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khơng cịn q xa lạ trên thế giới và ngay cả đối với Việt Nam, đã có rất nhiều trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và thành công tốt đẹp. Một trong những chức năng tự nhiên cơ bản của người phụ nữ là khả năng thụ thai, mang thai và sinh con trên cơ sở quan hệ sinh lí tự nhiên giữa người phụ nữ và người đàn ông.
Sự kiện sinh con trong trường hợp sinh sản bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có những phần khác so với sinh sản thơng thường. Có con cách thơng thường vợ chồng thực hiện quan hệ tình dục vào thời điểm trứng rụng để tinh trùng và trứng có thể gặp nhau và tạo thành hợp tử từ đó ni dưỡng thành bào thai. Khi sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ có khá nhiều phương pháp, cần phải sử dụng khoa học, kỹ thuật để có thể giúp người phụ nữ mang thai. Ngày nay Việt Nam đã hiện đại hơn và có rất nhiều phương pháp được bác sĩ áp dụng. Ví dụ như
<i>Thứ hai về huyết thống. Thông thường, người phụ nữ mang thai một đứa con thì </i>
hiển nhiên đứa con sẽ là đứa con máu mủ, ruột thịt, cùng huyết thống với người mẹ và mang một phần gen di truyền của người mẹ. Giữa người mẹ và đứa con đã phát sinh quan hệ mẹ - con. Đó là mối quan hệ huyết thống tự nhiên tuân theo những quy luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">sinh học trong q trình duy trì nịi giống. Cho dù xưa lập quan hệ hôn nhân giữa người nam và nữ thì thuận theo quy luật tự nhiên, vẫn sẽ phát sinh mối quan hệ mẹ - con, cha con. Nhưng theo mặt pháp lý, sự kiện sinh con và chưa xác lập quan hệ hơn nhân thì chưa đủ để phát sinh mối quan hệ giữa cha, mẹ, con. Để làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con về mặt pháp lí, bên cạnh sự kiện sinh con, cần phải thực hiện những hành vi pháp lí khác theo quy định của pháp luật, mà trước hết là đăng kí khai sinh cho con. Bằng các thủ tục pháp lí, việc xác định quan hệ cha - con, mẹ - con trên cơ sở sự kiện sinh đẻ được xác thực về mặt pháp lí, là cơ sở phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha, mẹ và con, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp về việc xác định quan hệ cha - con, quan hệ mẹ - con.
Đối với trường hợp sinh con bằng phương pháp thơng thường – quan hệ tình dục giữa người nam và người nữ, thì việc xác định cha mẹ cho đứa con khá đơn giản. Nhưng phải xác định được việc sinh con đấy diễ ra trong giai đoạn nào của hơn nhân. Từ góc độ pháp lí, việc xác định cha, mẹ, con được điều chỉnh trong hai trường hợp: con mà cha mẹ là vợ chồng trước pháp luật (có hơn nhân hợp pháp - con trong giá thú) và con mà cha mẹ không phải là vợ chồng trước pháp luật (khơng có hơn nhân hợp pháp - con ngoài giá thú). Tuy nhiên nếu sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ cho con sẽ khó khăn hơn vì hiện nay có rất nhiều trường hợp, lý do để tìm đến và sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Việc xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp sinh con bằng phương pháp hỗ trợ kỹ thuật sinh sản được quy định trong luật. Trong điều 93 Luật hơn nhân gia đình 2014 có chỉ ra việc xác định cha mẹ cho con trong các trường hợp: (1) Trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, (2) Trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra, (3) Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho nỗn, cho phơi với người con được sinh ra, (4) Việc xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
<i>Thứ ba về quan hệ hôn nhân, trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản </i>
thì tuỳ vào lý do áp dụng để xác định có phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai người hay không. Một, trường hợp người chồng có số lượng tinh trùng ít, gửi vào ngân hàng tinh trùng để trữ, sau đó người phụ nữ thụ tinh bằng tinh trùng của người chồng mình gửi
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">vào ngân hàng thì giữa hai người vẫn xác lập quan hệ hôn nhân. Ở đây hai người trên thực tế đã xác lập quan hệ vợ chồng nên việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ là phương pháp hỗ trợ sinh sản, tinh trùng vẫn là của người chồng, nhưng bằng cách thụ tinh ống nghiệm. Nên giữa hai người vẫn xác lập quan hệ hôn nhân. Hai, trường hợp vợ chồng vơ sinh muốn có con và sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì cũng tương tự trường hợp trên, vốn dĩ giữa hai vợ chồng đã xác lập quan hệ hôn nhân, sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thụ tinh trong ống nghiệm thì giữa hai người vẫn có quan hệ hơn nhân. Ba, trường hợp người phụ nữ độc thân muốn có con, sử tinh trùng trong ngân hàng tinh trùng thì sẽ không xác lập quan hệ hôn nhân giữa người mẹ và người cho tinh trùng. Người hiến tinh trùng và người phụ nữ không đương nhiên phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai người trong trường hợp này.
Đối với vợ chồng sinh con bằng phương pháp thơng thường, tự nhiên từ góc độ pháp lí, việc xác định cha, mẹ, con được điều chỉnh trong hai trường hợp: con mà cha mẹ là vợ chồng trước pháp luật (có hơn nhân hợp pháp - con trong giá thú) và con mà cha mẹ không phải là vợ chồng trước pháp luật (khơng có hơn nhân hợp pháp - con ngoài giá thú).
<b>1.2. Ý nghĩa của quy định về xác định cha mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. </b>
Ngày nay, thực tế cho thấy nhu cầu sinh con ngày càng tăng cao, đặc biệt các cặp vợ chồng vơ sinh chưa thể mang thai vì các lý do về bệnh lý, thể lý,...Nhu cầu ấy được hình thành một cách chính đáng vì nó xuất phát từ các ý hướng khác nhau như: duy trì nịi giống, nối dõi tông đường như là một việc giữ nét đẹp về thuần phong mỹ tục Việt Nam ta từ xưa; có người chăm sóc, phụng dưỡng lúc tuổi già,...Hơn hết, nhu cầu này phát sinh từ mong muốn thiết thực là quyền làm mẹ, đây không chỉ là quyền cơ bản của người phụ nữ mà nó cịn nói lên giá trị cao đẹp về thiên chức làm mẹ của phần lớn người vợ trong gia đình và người phụ nữ độc thân trong xã hội. Hiện nay, nguy cơ tan rã hạnh phúc gia đình đáng báo động và để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực về sau nên việc có một đứa trẻ trong gia đình cũng là sợi dây vơ hình gắn kết hạnh phúc gia đình. Song đó, xã hội ngày càng hiện đại, quyền bình đẳng giới ngày càng được nâng cao và khả năng tự chủ tài chính ở những người thành cơng trẻ cũng ngày càng phát triển nên đã hình thành hiện tượng mẹ/ bố đơn đơn thân, đây là một bước tiến trong việc có con
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">cho riêng mình mà khơng phụ thuộc người vợ/chồng cịn lại và chịu sự ràng buộc của mặt pháp lý hôn nhân và giá trị đạo đức giữa vợ chồng trong mối quan hệ gia đình. Đồng thời, nhu cầu cịn mang tính nhân văn khi nó thể hiện được quyền cơ bản của quyền con người, quyền công dân. Mặc dù, người con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không phải được sinh ra bằng một cách tự nhiên nhưng về bản chất đó vẫn là một con người, một cơng dân, q trình mang thai có thể sử dụng các kỹ thuật sinh học nhưng kết quả vẫn là một con người có tất cả các năng lực hành vi. Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang một ý nghĩa rất lớn về mặt pháp luật cũng như nhân đạo. Đảm bảo được quyền con người, quyền công dân và tất cả các quyền khác của đứa trẻ được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và quốc tế. Quyền của Trẻ em được quy định tại các điều từ Điều 12 đến Điều 36 của Luật Trẻ em năm 2016. Khi xác định được cha, mẹ cho đứa trẻ thì việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng được pháp luật bảo vệ. Điển hình là quyền được sống, quyền được chăm sóc ni dưỡng, quyền khai sinh và có quốc tịch... Khi q trình được sinh ra khơng giống như bao đứa trẻ khác nhưng khi xác định được cha, mẹ sẽ tránh được những trường hợp tranh chấp nhau xem ai là cha, mẹ của đứa trẻ hay những trường hợp trốn tránh trách nhiệm không muốn nhận đứa trẻ làm con nữa. Đối với người cha, người mẹ, việc được xác định là cha, mẹ của đứa trẻ cũng có ý nghĩa rất lớn về mặt pháp luật cũng như nhân đạo nhằm xác định thân phận và quan hệ huyết thống giữa các chủ thể, góp phần ổn định các mối quan hệ trong gia đình và ngồi xã hội. Đồng thời việc xác định cha, mẹ, con còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các yêu cầu cấp dưỡng hay tài sản thừa kế do người chết để lại. Và hơn hết, có được con là một việc vô cùng thiêng liêng đối với bậc làm cha, mẹ. Đặc biệt là trong trường hợp hiếm muốn. Việc xác định cha, mẹ cho con như là một niềm hạnh phúc đối với những người mong muốn có con. Đồng thời, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với bậc cha mẹ cũng được pháp luật bảo vệ.
<b>1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản </b>
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa“. Như vậy, pháp luật cho phép áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp: Đối với cặp vợ chồng vô
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">sinh (Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP) và đối với người phụ nữ độc thân (Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).<i><b><small> </small></b></i>
<i><b>1.3.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh </b></i>
<i>Khái niệm “vơ sinh” được hiểu là “tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống </i>
<i>có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, khơng sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn khơng có thai”. (Khoản 2, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP). Các </i>
ngun nhân dẫn đến vơ sinh có thể xuất phát từ người đàn ơng và cũng có thể xuất phát từ người phụ nữ. Vơ sinh có thể là ngun phát, tức là từ trước đến giờ người phụ nữ hay người đàn ơng chưa bao giờ có con, có thể do bệnh lý hoặc các tai nạn khác. Vô sinh cũng có thể là thứ phát, tức là đã từng có con, nhưng sau đó mất khả năng này. Hiện nay, tỉ lệ vô sinh trên thế giới trung bình từ 6%-12%.Theo thống kê của Bộ Y tế nước ta cho thấy, mỗi năm có khoảng 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, tỉ lệ khoảng 7,7%. Trong đó, các cặp vợ chồng ở độ tuổi dưới 30 chiếm tỉ lệ 50% Đây là một vấn đề lớn không chỉ riêng cho ngành y tế mà là chung cho toàn xã hội. Nghị định mới của Chính phủ về vấn đề Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời không chỉ mang lại niềm vui cho những người bị vơ sinh mà cịn là hành lang pháp lý quan trọng cho giới chuyên môn và cho những người muốn điều trị vô sinh bởi con cái là điều thiêng liêng để gia đình được hạnh phúc. Từ đó, gia đình chính là cội người xây nên xã hội tốt đẹp. Có thể thấy, Pháp luật có sự thắt chặt về đối tượng được thực hiện thủ tục sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đối tượng bắt buộc phải là vợ chồng có đăng ký kết hơn, khơng quy định trường hợp sống chung như vợ chồng mà áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhằm tránh tình trạng lạm dụng sự hỗ trợ của khoa học trong việc sinh sản và thắt chặt việc quản lý về gen, không phải ai cũng được luật cho phép sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Đồng thời, có thể khuyến khích các cặp đơi sống chung đăng ký kết hơn khi muốn có con tránh tình trạng chung sống như vợ chồng.Khi đã đăng ký kết hôn, việc xác định cha mẹ con cho đứa bé cũng dễ dàng hơn và các thủ tục liên quan đến hộ tịch được rõ ràng. Hơn nữa, khi cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn thể hiện sự minh bạch, tránh tình trạng lạm dụng sinh con bằng kỹ thuật hơn trợ sinh sản vào mục đích khơng chân chính khác. Ngoài ra, giữa cặp vợ chồng khi đăng ký kết hôn mà áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ tránh được tình trạng gia tăng nguy cơ hôn
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">nhân cận huyết do các phương pháp hỗ trợ sinh sản được lấy tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng, trong khi đó có nhiều trường hơp bán tinh trình, nỗn để kiếm tiền.
<i><b>1.3.2. Đối với phụ nữ độc thân </b></i>
<i> Khoản 6, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Phụ nữ độc thân là phụ </i>
<i>nữ không có quan hệ hơn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Tức là, tại thời </i>
điểm đó, người phụ nữ đang khơng có quan hệ hơn nhân với bất kỳ ai. Mặc dù không muốn bị ràng buộc bởi hơn nhân nhưng họ vẫn muốn có một đứa con để yêu thương, chăm sóc, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến người phụ nữ lựa chọn phương pháp này, cụ thể theo số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ người độc thân tại Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh, từ 6,23% năm 2004 lên 10,1% vào năm 2019, trong đó chủ yếu là nữ giới chiếm tỷ lệ 87,6%.<small>5</small> Cuộc sống công nghiệp hiện đại cùng nhịp sống hối hả không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và thường nằm ở đối tượng phụ nữ thành đạt. Phụ nữ vì nhiều lý do khơng chọn kết hơn, nhưng trong họ ln có khát khao duy trì thiên chức làm mẹ. Điều này vừa thể hiện tính nhân đạo vừa duy trì được mức sinh hợp lý để kéo dài thời kỳ dân số cho đất nước.
<b>1.4. Nguyên tắc việc thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản </b>
<i><b>1.4.1. Nguyên tắc cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa </b></i>
Được làm cha, làm mẹ là mong mỏi bình dị, thiêng liêng của mọi cặp vợ chồng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn ở Việt Nam đang gia tăng và có xu hướng trẻ hóa.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ vơ sinh cao trên thế giới, trong đó 50% số ca mắc bệnh nằm ở độ tuổi dưới 30. Thống kê của Bộ Y tế nước ta cho thấy, mỗi năm có khoảng 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, tỉ lệ khoảng 7,7%. Trong đó, các cặp vợ chồng ở độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ lệ 50%. Đặc biệt, tỷ lệ vơ sinh thứ phát (vơ sinh sau một lần có thai) đang gia tăng đến 15 - 20% sau mỗi năm và chiếm hơn 50% các cặp vợ chồng vô sinh.
<small> </small>
<small>5 Từ Thắng, “Người trẻ Việt ngày càng ít mặn mà với hôn nhân”, Báo Thanh niên. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Tỷ lệ vô sinh do nam giới chiếm 40%, do nữ giới chiếm 40%, 10% do cả hai vợ chồng và 10% không rõ nguyên nhân.<small>6</small>
Không chỉ là nỗi lo của các cặp vợ chồng, vấn đề vô sinh, hiếm muộn còn đang trở thành một gánh nặng của ngành y tế. Quá trình điều trị tại nhiều cơ sở y tế cho thấy, khơng ít cặp vợ chồng phải mất 5-7 năm để điều trị vơ sinh. Thậm chí, có những trường hợp kém may mắn dù điều trị nhiều năm cũng không thể thực hiện được thiên chức làm cha, làm mẹ.
<i>Đối với cặp vợ chồng vô sinh: </i>
Khái niệm “vô sinh” được hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số
<i>10/2015/NĐ-CP, là “tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục </i>
<i>trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn khơng có thai”. Các ngun nhân dẫn đến vơ sinh có thể xuất phát từ người đàn ơng và cũng </i>
có thể xuất phát từ người phụ nữ. Vơ sinh có thể là nguyên phát, tức là từ trước đến giờ người phụ nữ hay người đàn ông chưa bao giờ có con, cũng có thể là thứ phát, tức là đã từng có con, nhưng sau đó mất khả năng này.
<i> Đối với phụ nữ độc thân: </i>
<i>Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, quy định: “Phụ nữ độc thân là </i>
<i>phụ nữ không có quan hệ hơn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Nghĩa là, </i>
tại thời điểm đó, người phụ nữ khơng có quan hệ hơn nhân với bất kỳ ai. Mặc dù không muốn bị ràng buộc bởi hơn nhân nhưng họ vẫn muốn có một đứa con để yêu thương, chăm sóc, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến người phụ nữ lựa chọn phương pháp này. Cuộc sống công nghiệp hiện đại không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa“. Như vậy, pháp luật cho phép áp dụng biện pháp
<small> </small>
<small>6 Quang Ánh, “Tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam đang ngày càng trẻ hóa”, Báo phụ nữ Thủ Đô, </small>
<small>[ (truy cập ngày 23/2/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp: Đối với cặp vợ chồng vô sinh (Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP) và đối với người phụ nữ độc thân (Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).
<i><b>1.4.2. Nguyên tắc tự nguyện </b></i>
Trong bất cứ giao dịch dân sự nào hay trong bất cứ quan hệ pháp luật nào, các chủ thể phải thực hiện các quan hệ đó một cách tự nguyện với nhau dù có thoả thuận hay khơng, trong đó quan hệ giữa cha, mẹ và con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng không ngoại lệ. Việc tự nguyện sinh con khi tiến hành phương pháp khoa học được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, sở dĩ các cặp vợ chồng hiếm muộn vô sinh hoặc những người phụ nữ độc thân khi áp dụng biện pháp này là vì họ khơng có khả năng mang thai và sinh con bằng phương pháp thơng thường trên thực tế. Do đó, việc thực hiện phương pháp khoa học trên cũng đã thể hiện sự thống nhất về ý chí khi bàn bạc với nhau và dựa trên tinh thần tự nguyện của cả vợ chồng khi hiện thực hóa ước mơ sinh con của mình.
Thứ hai, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải nằm trong khuôn khổ
<i>pháp luật, cụ thể tại khoản 3 Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP: “Việc thụ tinh trong </i>
<i>ống nghiệm, cho và nhận nỗn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phơi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện” nghĩa là bên hiến </i>
tặng phải thể hiện sự tự nguyện của bản thân khi cho tặng tinh trùng, nỗn, phơi mà khơng có bất cứ sự cưỡng ép, lừa dối nào từ những người xung quanh. Trước hết, có thể thấy việc người nào đó hiến tặng tinh trùng, nỗn, phơi đã thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn đối với các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn, đồng thời việc hiến tặng còn tạo niềm hy vọng cho các cặp vợ chồng có thêm cơ hội được sống hạnh phúc trọn vẹn với con cái. Do vậy, để giữ ngun bản chất nhân văn cao đẹp đó thì việc trao tặng thành phần sinh học (gồm tinh trùng, nỗn, phơi) trên phải hồn tồn dựa vào vào ý chí tự do, tự nguyện của người cho chứ khơng được thực hiện trái với ý muốn của họ. Mặt khác, nguyên tắc tự nguyện cũng là cơ sở giúp người hiến tặng có sự cân nhắc kỹ lưỡng khi hiến tặng tinh trùng, nỗn, phơi vì có thể việc trao tặng tinh trùng, nỗn hoặc phơi cũng sẽ có thể xảy ra một số rủi ro hay các ảnh hưởng tiềm tàng đến sức khỏe, đặc biệt ở nữ giới khi ở giai đoạn cao tuổi nên nguyên tắc tự nguyện này đã tạo ra hành
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">lang pháp lý giúp người trao tặng có quyền lựa chọn hiến tặng cho người khác hay không để tránh nguy hiểm sau này.
<i><b>1.4.3. Nguyên tắc bảo mật thông tin </b></i>
Tại khoản 2 Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 quy định:
<i>“Tôn trọng quyền của người bệnh; giữ bí mật thơng tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 11 và khoản 4 Điều 59 của Luật này.” </i>
Theo Điều 8 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009 cũng quy định về quyền được tôn trọng bí mật riêng tư như sau:
<i>“1. Được giữ bí mật thơng tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án. </i>
<i>2. Thông tin quy định tại khoản 1 Điều này chỉ được phép công bố khi người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn đốn, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được pháp luật quy định." </i>
Như vậy, về nguyên tắc thì người bệnh sẽ được giữ bí mật thơng tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án. Các thông tin này chỉ được phép công bố khi người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn đốn, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được pháp luật quy
<b>định. </b>
<i><b>1.4.4. Nguyên tắc vô danh </b></i>
Để tránh trường hợp đánh tráo khái niệm tình cảm về quan hệ cha, mẹ đối với trẻ được sinh ra bằng phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và nhằm hạn chế trường hợp lợi dụng quan hệ sinh đẻ mà người được cấy phôi để mang thai từ noãn và tinh trùng mà trục lợi về sau hay gây áp lực tinh thần cho đứa trẻ sau này lớn lên nên pháp luật còn quy định thêm về nguyên tắc vô danh cho việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để mang thai này. Vì lẽ đó, theo khoản 2 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy
<i>định: “Vợ chồng nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ, trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><i>được bảo đảm an tồn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và được pháp luật tơn trọng, bảo vệ.” đã tác động hài hoà đến ba chủ thể trong quan hệ sinh </i>
con hằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản:
Thứ nhất, đối với các cặp vợ chồng có nhu cầu sinh con bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phải được bảo đảm tuyệt đối về thông tin cá nhân nhằm hạn chế những tác động tiêu cực từ những dư luận, họ hàng nên pháp luật đặt ra quy định này để người cha, mẹ dù không phải trực tiếp sinh ra đứa trẻ nhưng vẫn yên tâm nuôi dưỡng đứa trẻ một cách tốt nhất.
Thứ hai, đối với những người hiến tinh trùng, nỗn hay phơi cũng cần được bảo mật thông tin nhằm tránh trường hợp người cho muốn nhận lại đứa con mang dịng máu mình sinh ra xuất phát từ bản chất tình cảm tự nhiên của con người. Đồng thời, quy định này được đặt ra trong hoàn cảnh thực tế ngày nay, chẳng hạn một đứa trẻ được sinh ra từ biện pháp thụ tinh trong ống nghiệm khi lớn lên có điều kiện và hồn cảnh sống tốt hơn thì người hiến tặng quay trở lại gây áp lực lên đứa trẻ ấy, thậm chí có những địi hỏi phi lý về vật chất hay tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu cá nhân.
Cuối cùng, quy định này rất ý nghĩa khi dành sự quan tâm đặc biệt đến đứa trẻ được sinh ra. Bằng điều luật trên thì đã xem đứa trẻ là một cá thể mới trong xã hội, một chủ thể trong quan hệ pháp luật để từ đó đứa trẻ từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành có đủ quyền cũng như nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội như những đứa trẻ được sinh ra theo phương pháp sinh đẻ tự nhiên. Đặc biệt hơn nữa, nguyên tắc vô danh tạo tiền đề cho những đứa trẻ được sinh ra từ phương pháp thủ công này sẽ có mơi trường học tập, sinh hoạt được tự nhiên, tồn diện hơn mà khơng bị đối xử, đánh giá tiêu cực từ những người xung quanh.
Ngoài ra, việc bảo mật thơng tin cũng cần có sự cộng tác từ đội ngũ nhân viên y tế bằng việc không được phép tiết lộ các thông tin liên quan đến “người cho tinh trùng”<small>7</small> và “người nhân tinh trùng, nhận phơi”<small>8</small> để q trình thực hiện phương pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">nuôi cấy phôi thai diễn ra khách quan hơn để các chủ thể cho, nhận không bị ảnh hưởng đến cuộc sống riêng tư của họ.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nguyên tắc vô danh cũng phải được mở rộng trong việc người cho phải cơng khai danh tính, thơng tin về lý lịch như họ tên, tuổi,
<i>tình trạng sức khoẻ của người cho tinh trùng, nỗn, phơi phải được mã hố vì “Việc </i>
<i>cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phơi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc” (khoản 4 Điều 3 Nghị Định số 10/2015/NĐ – CP). Theo tinh thần của quy định, </i>
cơ quan y tế phải ghi rõ đặc điểm yếu tố về chủng tộc, gen của người cho nhằm tránh trường hợp các con sau này của người cho được sinh kết hôn cùng huyết thống, thậm chí hạn chế các vấn đề quan hệ cận huyết làm xáo trộn trật tự xã hội. Hơn hết, người nhận sẽ có những phương pháp chữa trị kịp thời cho đứa trẻ ấy khi người hiến tặng tinh trùng, nỗn, phơi mắc các bệnh lý nguy hiểm, khiếm khuyết về di truyền học.
Song theo các chuyên gia y tế, đối với việc cho – nhận tinh trùng thì ngun tắc vơ danh là khả thi vì thao tác lấy tinh trùng khá đơn giản. Tuy nhiên, tìm được người cho nỗn lại là một việc rất khó vì chọc hút nỗn là một kỹ thuật phức tạp. Thông thường, người cho thường chỉ đồng ý làm việc này vì một đối tượng có quan hệ nhất định với họ.<small>9</small>[3] Do đó, ngun tắc vơ danh chỉ được thực hiện trong phạm vi giữa bên cho và bên nhận khơng có quan hệ gần gũi (họ hàng, bạn bè với nhau,…) nên nhóm tác giả nghĩ rằng pháp luật cần có cơ chế phù hợp cho nguyên tắc vô danh này.
<i><b>1.4.5. Nguyên tắc tuân thủ quy trình kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn sức khỏe của Bộ Y tế </b></i>
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật, giải quyết được tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam giới do ảnh hưởng của nhiều yếu tố đem lại hạnh phúc và hy vọng cho khơng ít các gia đình Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung. Kỹ thuật hỗ trợ sinh con không phải sử dụng như thế nào cũng được mà cần phải được sử dụng theo nguyên tắc của pháp luật. Bởi
<small> </small>
<small>9 “Nguyên tắc vô danh trong cho nhận nỗn liệu có khả thi”, Báo điện tử VNExpress, </small>
<small>[ (truy cập ngày 27/02/2023) </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">lẽ, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không phải đơn giản là việc áp dụng kỹ thuật mà quan trọng là tạo ra con người và còn liên quan đến pháp lý. Vì vậy, Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được thực hiện nghiêm ngặt từ việc xác định cá nhân có quyền được sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và đặc biệt là phải tuân thủ theo quy trình kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn sức khỏe của Bộ y tế.<b><small>10</small> Khi áp dụng kỹ thuật </b>
này trong điều trị vô sinh hoặc hỗ trợ sinh con cho các cặp đơi, tn thủ quy trình kỹ thuật của bộ y tế sẽ giúp đảm bảo rủi ro và nguy cơ khơng mong muốn được kiểm sốt thấp nhất. Đảm bảo chất lượng quá trình điều trị: Quy trình kỹ thuật của Bộ Y tế bao gồm các tiêu chuẩn và yêu cầu chặt chẽ đối với các thành phần của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bao gồm cả quy trình chuẩn bị và giám sát quá trình điều trị.Quy trình này bao gồm những quy định, hướng dẫn về các bước thực hiện, thuốc được sử dụng và các biện pháp ngăn ngừa và xử lý tác dụng phụ có thể xảy ra. Khi tn thủ quy trình này, bác sĩ và nhân viên y tế sẽ đảm bảo được các tiêu chuẩn về vệ sinh, phòng ngừa lây nhiễm và hạn chế các tác động phụ có thể xảy ra đối với sức khỏe của người sử dụng kỹ thuật.
<b>1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản </b>
Quyết định 4146/QĐ-BYT năm 2009 công nhận cơ sở đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
Nghị định 10/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Văn bản hợp nhất 02/VBHN-BYT năm 2019 hợp nhất Nghị định quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo do Bộ Y tế ban hành.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Ngày nay, vơ sinh khơng còn là một vấn đề đau đầu với các cặp vợ chồng vì y học Việt Nam phát triển cùng với thiết bị, cơ sở vật chất hiện đại. Theo đó, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đang là một giải pháp tốt nhất để mang thai con. Vậy sinh con
<small> </small>
<small>10 Khoản 5 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định như thế nào trong luật? Căn cứ khoản 21 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 quy định về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Có thể hiểu, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao gồm hai kỹ thuật là thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm, tùy vào từng đối tượng sẽ sử dụng phương pháp cho phù hợp. Có hai đối tượng được sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vào việc sinh con là: Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân. Hai đối tượng này là những người mong muốn được sinh con những không đáp ứng đủ về mặt thể chất hoặc muốn sinh con nhưng vẫn muốn ở tình trạng độc thân.Để đáp ứng các điều kiện để trở thành đối tượng được áp dụng, pháp luật quy định như sau: Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về vơ sinh như sau: “Vơ sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn khơng có thai.” Theo khoản 6 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về phụ nữ độc thân như sau: ‘Phụ nữ độc thân là phụ nữ khơng có quan hệ hơn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Pháp luật quy định cụ thể về tình trạng của đối tượng để tránh trường hợp tranh tranh chấp khi có những ý kiến trái chiều nhau về khái niệm vô sinh và phụ nữ độc thân. Như vậy, khi đáp ứng điều kiện là cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân thì được áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngồi ra, kỹ thuật hỗ trợ sinh con khơng phải sử dụng như thế nào cũng được mà cần phải được sử dụng theo nguyên tắc của pháp luật. Điển hình là năm nguyên tắc: Nguyên tắc tự nguyện, nguyên tắc bảo mật thông tin, nguyên tắc cặp vợ chồng vơ sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, nguyên tắc vô danh.Nguyên tắc tuân thủ quy trình kỹ thuật, quy định tiêu chuẩn sức khỏe của Bộ y tế. Quan trọng hơn, việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được pháp luật quy định cụ thể trong Luật. Con được sinh ra bằng hỗ trợ sinh sản từ cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân thì sẽ xác định cha, mẹ theo từng trường hợp khác nhau. Căn cứ khoản 1 Điều 93 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 quy định về xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.”, dẫn chiếu đến Điều 8 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 : “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hơn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.” Như vậy, khi con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thuộc trường hợp được pháp luật cho phép. Khi này, con sẽ được xác định là con chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, vẫn còn những trường hợp pháp luật dự liệu chứ đủ và có những bất cập và nhóm tác giả có những kiến nghị trong cơng trình này.
</div>