Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 82 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>
Trưởng nhóm: Lê Hương Trà
Lớp : CJL46 Khoá : 46 Khoa : Các Chương trình Đào tạo Chất lượng cao
<b>Mã số cơng trình :………. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH </b>
Trưởng nhóm: Lê Hương Trà
Lớp : CJL46 Khoá : 46 Khoa : Các Chương trình Đào tạo Chất lượng cao
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small> 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của xác minh tài sản, thu nhập của người có </small><b>chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ... 3 </b>
<small> 1.1.1. Khái niệm về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong </small><i>cơ quan hành chính nhà nước ... 3 </i>
<small> 1.1.2. Đặc điểm của việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn </small><i>trong cơ quan hành chính nhà nước... 6 </i>
<small> 1.1.3. Ý nghĩa của việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn </small><i>trong cơ quan hành chính nhà nước... 8 </i>
<small> 1.2. Lược sử pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền </small><b>hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ... 12 </b>
<small> 1.2.1. Giai đoạn phong kiến ... 12 </small>
<small> 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Pháp lệnh của Ủy ban Thường </small><i>vụ Quốc hội số 03-L/CTN ngày 26 tháng 02 năm 1998 về việc chống tham nhũng ... 13 </i>
<small> 1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Pháp lệnh số 03-L/CTN ngày 26/02/1998 đến </small><i>hiện nay ... 14 </i>
<small> 1.3. Nguyên tắc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong </small><b>cơ quan hành chính nhà nước ... 16 </b>
<small> 1.3.1. Tuân theo pháp luật ... 16 </small>
<small> 1.3.2. Bảo đảm tính đúng đắn, khách quan ... 16 </small>
<small> 1.3.3. Bảo đảm quyền của chủ thể được xác minh. ... 18 </small>
<small> 1.4. Xác minh tài sản thu nhập ở một số quốc gia trên thế giới và những giá trị tham </small><b>khảo cho Việt Nam ... 19 </b>
<small> 1.4.1. Xác minh tài sản thu nhập ở một số quốc gia trên thế giới ... 19 </small>
<small> 1.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam ... 21 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ XÁC MINH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ </b>
<small> 2.1.3. Thực hiện xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ </small><i>quan hành chính nhà nước ... 33 </i>
<small> 2.1.4. Xử lý vi phạm các quy định về xác minh tài sản thu nhập ... 40 </small>
<small> 2.2. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập của </small><b>người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ... 42 </b>
<small> 2.2.1. Những kết quả đạt được ... 42 </small>
<small> 2.2.2. Những hạn chế bất cập trong thực hiện quy định của pháp luật ... 45 </small>
<small> 2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc xác minh tài sản, thu nhập </small><b>trong cơ quan hành chính nhà nước ... 47 </b>
<small> 2.3.1. Nguyên nhân khách quan ... 47 </small>
<small> 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan ... 49 </small>
<b>CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC XÁC MINH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ... 53 </b>
<small> 3.1. Phương hướng các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc </small><b>xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ... 53 </b>
<small> 3.1.1. Bảo đảm tuân thủ theo chủ trương đường lối chính sách ... 53 </small>
<small> 3.1.2. Bảo đảm tôn trọng quyền con người, quyền công dân ... 54 </small>
<small> 3.1.3. Trên cơ sở của các hội nghị, hội thảo thực tế ... 57 </small>
<small> 3.1.4. Trên cơ sở tham khảo pháp luật nước ngoài ... 60 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small> 3.2. Một số giải pháp đề xuất nâng cao hiệu quả việc xác minh tài sản, thu nhập của </small>
<b>người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ... 63 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Ở Việt Nam hiện nay, phòng, chống tham nhũng là một trong những vấn đề tối quan trọng đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật, nghị định, nhằm hạn chế và ngăn chặn hành vi này, trong đó biện pháp xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn được quy định tại Chương II, Tiểu mục 3, Mục
<i>6 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định 130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đây </i>
là biện pháp được đánh giá là một giải pháp mang lại hiệu quả thực tiễn cao trong cơng cuộc phịng, chống tham nhũng. Tuy nhiên cho tới nay, việc xác minh tài sản, thu nhập vẫn cịn mang tính hình thức, chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe do các quy định còn nhiều kẽ hở và cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém, các thủ tục kê khai tài sản còn rườm rà, cơ chế thanh tra, kiểm tra tài sản, xác minh tài sản chưa hiệu quả và chưa chặt chẽ, dẫn đến việc nhiều đối tượng lợi dụng điểm sơ hở đó để thực hiện hành vi tham nhũng. Trong quá trình nghiên cứu ở thời điểm hiện tại, nhóm nhận thấy rằng các nguồn tài liệu tham khảo, các cơng trình nghiên cứu khoa học trong nước lẫn ngoài nước về đề tài vẫn cịn hạn chế, khơng được cụ thể hóa. Đa số các cơng trình nghiên cứu hiện nay tập trung về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nói chung, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước chỉ được đề cập tới như là một phần nhỏ của đề tài. Vì vậy nhóm tác giả cho rằng việc
<i>thực hiện đề tài “Xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước” là cấp thiết, cung cấp thêm một góc nhìn về việc phịng chống </i>
tham nhũng bằng biện pháp xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ và quyền hạn trong cơ quan hành chính, góp phần tổ chức triển khai tốt cơng tác phịng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước.
<b>2. Tình hình nghiên cứu đề tài </b>
Ở Việt Nam từ trước đến nay có rất nhiều cơng trình khoa học của nhiều tác giả nghiên cứu về các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, tiêu biểu trong đó là:
<i>Cơng khai, minh bạch tài sản, thu nhập trong phòng, chống tham nhũng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn: Khóa luận tốt nghiệp/ Ngô Thanh Xuân; Người hướng dẫn: ThS.Nguyễn Văn Trí; Pháp luật về phịng, chống tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam: Khoá luận tốt nghiệp/ Thái Minh Sơn; Người hướng dẫn: ThS. Trần Thị Ánh Minh; Xử lý cán bộ công chức trong đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp: Khóa luận tốt nghiệp/ Đồn Văn Năng; Người hướng </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><i>dẫn: ThS. Cao Vũ Minh; Công khai, minh bạch tài sản, thu thập của cán bộ, công chức quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Sóc Trăng/ Luận văn Thạc sĩ/ Võ Quang Diệu; Pháp luật quốc tế về phòng chống tham nhũng/ Luận văn Thạc sĩ/ Trần Thái Hà; Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn: Đề tài khoa học cấp bộ/ Cục chống tham nhũng – Thanh tra Chính phủ thực hiện năm 2012; Đấu tranh PCTN ở nước ta: Đề tài khoa học cấp Nhà nước/ Ban Nội chính Trung ương Đảng. </i>
Nhìn chung, các nguồn tài liệu tham khảo, các cơng trình nghiên cứu khoa học trong nước về đề tài vẫn còn hạn chế, khơng được cụ thể hóa. Đa số các cơng trình nghiên cứu hiện nay tập trung về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nói chung, xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước chỉ được đề cập tới như là một phần nhỏ của đề tài.
<b>3. Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong đề tài </b>
Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: đây là phương pháp chính, được sử dụng xuyên suốt đề tài. Áp dụng phương pháp này để tập trung phân tích các quy định của pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn, sau đó tổng hợp lại các phân tích để đánh giá về thực trạng quy định của pháp luật, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp chuyên gia: thu thập nhận định, đánh giá của các chuyên gia về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, sau đó tổng hợp lại và phân tích trên góc nhìn của chun gia để cung cấp thêm nhiều góc nhìn khách quan về vấn đề.
<b>4. Cơ cấu của đề tài </b>
<i>Đề tài “Xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính” được nhóm nghiên cứu triển khai trên 3 nội dung chính: (1) Những vấn đề lý </i>
luận và pháp lý cơ bản về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước; (2) Nghiên cứu những quy định pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính; (3) Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó, tổng kết được một số kết luận và đề xuất hoàn thiện, xây dựng pháp luật, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>Thứ nhất, theo từ điển tiếng Việt, hiện nay khơng có từ tiếng Việt nào định nghĩa cụ </i>
thể, chính xác về khái niệm xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước mà chỉ có thể xác định theo nghĩa của từ, cụm từ. Theo
<i>Từ điển Tiếng Việt, xác minh là “làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể”</i><small>1</small>; tài
<i>sản là “của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”</i><small>2</small><i>; thu nhập là “nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó”</i><small>3</small>, thu nhập chỉ tồn tại dưới hai hình thức là bằng tiền và tài sản có giá trị. Tiền có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ, tiền mặt, tiền séc,.., tài sản có giá có thể là bất cứ của cải, vật chất nào có giá trị hoặc các chứng chỉ
<small> </small>
<small>1 Từ điển Tiếng Việt, tr.1140. 2 Từ điển Tiếng Việt, tr.885. 3 Từ điển Tiếng Việt, tr.958. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>có giá khác; chức vụ là “nhiệm vụ tương ứng với chức”</i><small>4</small><i>; quyền hạn là “quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ”</i><small>5</small><i>; cơ quan là “đơn vị trong bộ máy nhà nước hoặc đoàn thể, thường làm nhiệm vụ về hành chính, sự nghiệp”</i><small>6</small><i>; hành chính là “thuộc phạm vi chỉ đạo, quản lí việc chấp hành luật pháp, chính sách của nhà nước”</i><small>7</small><i>; nhà nước là “tổ chức, đứng đầu là chính phủ, quản lí cơng việc chung của một nước”</i><small>8</small>. Từ những định nghĩa của những cụm từ trên, có thể rút ra khái niệm xác minh tài sản, thu nhập của cơ quan hành
<i>chính nhà nước như sau: Xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước là việc làm rõ những của cải vật chất, tiền bạc mà những người có nhiệm vụ tương ứng với chức vụ mà họ đang giữ, những người có quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ nhận được từ hoạt động làm việc cho đơn vị chỉ đạo, quản lý việc chấp hành luật pháp, chính sách của nhà nước qua thực tế và chứng cứ cụ thể. </i>
Theo những gì mà từ điển tiếng Việt định nghĩa thì khái niệm này chỉ là sản phẩm của ghép nối câu chữ và chưa làm rõ, chưa phản ánh chính xác được bản chất của vấn đề. Khái niệm trên đã nêu rõ cụ thể từng định nghĩa của từ, giúp hiểu được cơ bản xác minh là gì, tài sản thu nhập là gì, người có chức vụ quyền hạn là gì và cơ quan hành chính nhà nước là gì, tuy nhiên nó có nhược điểm rất lớn là khó hiểu, chính sự dài dịng khi lắp ghép các định nghĩa của mỗi từ đã gây ra sự phức tạp, tối nghĩa khi đọc khái niệm này, dẫn đến việc khơng thể hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu chính xác thế nào là xác minh tài sản, thu nhập của người có chức
<i>vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. </i>
<i>Thứ hai, chính vì những nhược điểm trên của khái niệm được tạo ra từ điển tiếng Việt, </i>
nhóm tác giả đã tiếp tục tiếp cận các cơng trình nghiên cứu, giáo trình, những bài báo khoa học để tìm câu trả lời chính xác nhất cho khái niệm xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Theo cơng trình nghiên cứu
<i>Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Nam Hải, tác giả có định nghĩa về kiểm sốt thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn như sau: “Kiểm sốt thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là tổng thể những biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để biết được biến động về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, qua đó phát hiện, ngăn chặn việc người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tham nhũng; áp dụng các biện pháp hình sự, hành chính, kỷ luật, dân sự để xử lý người có hành </i>
<small> </small>
<small>4 Từ điển Tiếng Việt, tr.191. 5 Từ điển Tiếng Việt, tr.815. 6 Từ điển Tiếng Việt, tr.215. 7 Từ điển Tiếng Việt, tr.422. 8 Từ điển Tiếng Việt, tr.701. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><i>vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng.”</i><small>9</small>, từ đó có thể rút ra khái niệm về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước như
<i>sau: “Xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước là việc làm rõ những biến động về tài sản, thu nhập của người người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước, qua đó phát hiện, ngăn chặn việc người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để tham nhũng; áp dụng các biện pháp hình sự, hành chính, kỷ luật, dân sự để xử lý người có hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng”. Thực tế nghiên cứu đã cho thấy, việc nghiên cứu về xác minh tài </i>
sản thu nhập và định nghĩa khái niệm này là rất hạn chế hoặc khơng có, nên việc dựa vào các cơng trình nghiên cứu khoa học để hoàn toàn đưa ra khái niệm xác minh tài sản thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước là thiếu cơ sở và thiếu khách quan.
Cuối cùng, nhóm tác giả sẽ tiếp theo sẽ tiếp cận từ những quy định của pháp luật hiện hành, vốn là những căn cứ, cơ sở vững chắc nhất. Hiện nay, tại Điều 3 Luật PCTN năm 2018, mục giải thích từ ngữ khơng có định nghĩa thế nào là xác minh tài sản thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước, tuy nhiên tại những luật khác có liên quan có quy định những nội dung sau đây điều chỉnh về vấn đề này. Nghị định
<i>78/2013/NĐ-CP về minh bạch tài sản thu nhập, tại khoản 4 Điều 3 đã quy định: “Xác minh tài sản, thu nhập là việc xem xét, đánh giá, kết luận của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về tính trung thực, chính xác của việc kê khai tài sản, thu nhập theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị định này”. Theo Điều 105, Bộ luật Dân sự năm 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Theo khoản 2 Điều 3 Luật PCTN năm 2018 thì người </i>
có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó, bao gồm: (i) Cán bộ, công chức, viên chức; (ii) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; (iii) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; (iv) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; (v) Những
<small> </small>
<small>9</small><i><small> Hoàng Nam Hải (2015), Pháp luật về kiểm sốt thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay, </small></i>
<small>Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.17. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó. Theo đó, có thể xác định cơ bản những người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước sẽ thuộc nhóm thứ nhất là cán bộ, công chức, viên chức (được quy định cụ thể tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Điều 2 Luật Viên
<i>chức năm 2010). Điều 352 BLHS năm 2015 cũng quy định “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”. </i>
Như vậy, trên cơ sở tiếp cận khái niệm này theo ba quan điểm, một là từ điển tiếng Việt, hai là từ các quan điểm của các tác giả nghiên cứu, cuối cùng là từ các quy định của
<i>pháp luật hiện hành có những nội dung đã được thống nhất làm rõ. Thứ nhất, xác minh tài </i>
sản, thu nhập là hoạt động của những người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
<i>nước. Thứ hai, việc xác minh tài sản, thu phải tuân theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy </i>
định, cụ thể là theo Luật PCTN năm 2018, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
<i>Thứ ba, hoạt động xác minh tài sản, thu nhập chỉ được tiến hành trong một số trường hợp nhất định. Thứ tư, đây là một trong những biện pháp kiểm soát tài sản, thu nhập của người </i>
có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó cũng có những nội dung chưa được thống nhất như chức vụ và quyền hạn có bao gồm, phụ thuộc nhau hay khơng, theo nhóm tác giả, những người có chức vụ sẽ có quyền hạn đi kèm với chức vụ của họ, nhưng những người có quyền hạn đơi khi khơng nhất thiết phải có chức vụ.
<i>Vậy, từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước là biện pháp, cách thức mà người có thẩm quyền sử dụng để xem xét, đánh giá, kết luận về tính trung thực, chính xác của việc kê khai tài sản, thu nhập của các cá nhân là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước theo trình tự, thủ tục được quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật có liên quan, qua đó phát hiện, ngăn ngừa, xử lý hành vi tham nhũng của những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. </i>
<i>1.1.2. Đặc điểm của việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </i>
Trên cơ sở khái niệm xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước đã được làm rõ, nhóm tác giả cho rằng, việc xác minh tài sản thu nhập có những đặc điểm sau đây:
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><i>Thứ nhất, xác minh tài sản thu nhập được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hoạt động xác minh tài sản, thu nhập sẽ được tiến hành bởi cơ quan kiểm soát </i>
tài sản thu nhập bao gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra Tỉnh; Bộ, cơ quan ngang bộ; cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác đại biểu kiểm soát tài sản, thu nhập của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách; Văn phòng Quốc hội; Tòa án nhân dân Tối cao; Viện kiểm sát nhân dân Tối cao; Kiểm tốn Nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
<i>Thứ hai, việc xác minh tài sản, thu nhập được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Xác minh tài sản, thu nhập là một khâu quan trọng trong q trình kiểm sốt </i>
tài sản, thu nhập. Để làm rõ được tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai và tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm thì Tổ xác minh sẽ phải tiến hành rất nhiều hoạt động nghiệp vụ như yêu cầu người được xác minh báo cáo, giải trình, cung cấp thơng tin, tài liệu; làm việc với người được xác minh, các cá nhân, tổ chức liên quan để thu thập tài liệu, bằng chứng và trên cơ sở đó phân tích, đánh giá, nhận định. Thậm chí, đối với những trường hợp phức tạp, có thể cịn phải xác minh trực tiếp tại những nơi có tài sản hoặc phải trưng cầu các cơ quan chức năng giám định, định giá, thẩm định giá đối với tài sản mới có thể kết luận được. Do đó, ngồi việc tn thủ các nguyên tắc, thẩm quyền và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định, Tổ xác minh cần xây dựng một quy trình nghiệp vụ tiến hành xác minh tài sản, thu nhập gồm:
Bước 1: Chuẩn bị xác minh tài sản, thu nhập, bao gồm: Ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập; Thành lập Tổ xác minh tài sản, thu nhập và lập kế hoạch tiến hành xác minh tài sản, thu nhập.
Bước 2: Tiến hành xác minh tài sản, thu nhập bao gồm: Công bố quyết định xác minh tài sản, thu nhập; Yêu cầu người được xác minh giải trình tài sản, thu nhập; Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ xác minh tài sản, thu nhập; Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập Bước 3: Kết thúc xác minh tài sản, thu nhập bao gồm: Kết luận xác minh tài sản, thu nhập; Gửi và công khai kết luận xác minh tài sản, thu nhập; Lập, bàn giao, quản lý, sử dụng hồ sơ xác minh tài sản, thu nhập
<i>Thứ ba, nội dung của việc xác minh tài sản thu nhập là làm rõ về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của việc kê khai tài sản, thu nhập. Hoạt động xác minh tài sản, thu nhập sẽ xác </i>
minh những gì mà người được xác minh khai trong bản kê khai có trung thực, có đầy đủ, có rõ ràng so với tài sản, thu nhập mà người được xác minh có được trong thực tế hay không. Nội dung của việc xác minh tài sản, thu nhập gắn liền với quyền và nghĩa vụ của
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">người được xác minh tài sản, thu nhập. Người được xác minh tài sản, thu nhập có quyền và nghĩa vụ như sau: Giải trình về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; Chấp hành quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về kiểm sốt tài sản, thu nhập; Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong xác minh tài sản, thu nhập; Thực hiện đầy đủ, kịp thời yêu cầu của Tổ xác minh tài sản, thu nhập, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình xác minh tài sản, thu nhập; Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong xác minh tài sản, thu nhập khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong xác minh tài sản, thu nhập. Một trong những quyền quan trọng là người được xác minh tài sản, thu nhập được phục hồi danh dự, khơi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của người xác minh tài sản, thu nhập gây ra theo quy định của pháp luật.
<i>Thứ tư, mục đích của việc xác minh tài sản, thu nhập là nhằm phát hiện, ngăn ngừa, xử lý hành vi tham nhũng của những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Bởi lẽ, yêu cầu kê khai tài sản nhưng không xác minh lại tính trung thực </i>
của bản kê khai thì dường như việc kê khai tài sản, thu nhập chỉ mang tính hình thức, dẫn đến việc bỏ sót các đối tượng có nghĩa vụ kê khai khơng trung thực, kê khai thiếu, kê khai cho có. Hiện nay ở Việt Nam việc xác minh tài sản, thu nhập chủ yếu được thực hiện trên giấy tờ, chưa được số hóa, vì vậy kê khai tài sản nhưng khơng xác minh tính trung thực thì sẽ mất rất nhiều thời gian và tài nguyên vì hiện tượng kê khai cho có để đúng với hình thức. Hoạt động xác minh tài sản, thu nhập nếu được thực hiện một cách thực chất, thực tế, hiệu quả thì sẽ phát hiện được những dấu hiệu, hành vi vi phạm pháp luật phịng chống tham nhũng, từ đó sớm đề ra những phương án, cách thức để xử lý, ngăn ngừa các hành vi vi phạm, đồng thời giải quyết hậu quả mà những hành vi đó gây ra, tạo ra một mơi trường chính trị lành mạnh, góp phần phịng, chống tham nhũng một cách hiệu quả.
<i>1.1.3. Ý nghĩa của việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </i>
<i>Thứ nhất, đối với người được xác minh</i>
Trên thực tế, việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng đối với người được xác minh, không phải tất cả những người có chức vụ, quyền hạn đều có hành vi vụ lợi, tham nhũng vì vậy việc xác minh tài sản, thu nhập sẽ giúp họ khẳng định được tư cách, uy tín của mình trong cơng tác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Một bộ phận trong số đó để mưu cầu lợi ích cho cá nhân đã làm ảnh hưởng đến đội ngũ cán bộ, công chức, ảnh hưởng đến uy tín của tập thể những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước, nên cơ chế xác minh được tạo ra nhằm giúp người có chức vụ, quyền hạn có thu nhập chính đáng minh bạch hóa thu nhập, chứng minh mình khơng vi phạm, khơng gian dối. Đồng thời, điều này cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc làm trong sạch bộ máy hành chính nhà nước, bảo vệ uy tín cho hoạt động cơng vụ và đội ngũ cán bộ, cơng chức, người có chức vụ, quyền hạn. Vì vậy việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn là vơ cùng cần thiết, việc người có chức vụ quyền hạn kê khai gian dối, thiếu trung thực sẽ giảm đi, những tài sản tăng thêm không rõ nguồn gốc, bất hợp pháp sẽ được phát hiện sớm, giúp kịp thời ngăn chặn, xử lý hậu quả, đồng thời phê bình, chỉnh đốn lại đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức, nâng cao chất lượng của đội ngũ này.
Việc xác minh tài sản, thu nhập không nhằm mục đích tìm ra những người giàu, nhiều tài sản để phê bình, xử lý. Mục đích của hoạt động này là kiểm tra tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng những tài sản thu nhập mà người được xác minh đã kê khai, nếu họ kê khai một cách trung thực, những tài sản ấy là hợp pháp thì việc họ giàu có khơng phải là vấn đề. Tuy nhiên, chính vì hoạt động này chưa thực sự hiệu quả, nên không thể công khai minh bạch tài sản, thu nhập của những người có chức vụ quyền hạn này là hợp pháp, dẫn đến tình trạng nhân dân không tin vào việc cán bộ giàu lên một cách hợp pháp mà quy là do tham
<i>nhũng, hoặc những cán bộ có hồn cảnh bình thường thì đang “lấp liếm” tài sản chứ thực </i>
ra rất giàu. Cũng chính những sự nghi kỵ, quy chụp ấy của người dân mà có thể dẫn đến tình trạng người được xác minh không kê khai đúng sự thật, sợ bị phê bình, quy chụp, ảnh hưởng đến cơng tác kiểm sốt tài sản, thu nhập của Nhà nước. Thực tế cho thấy rằng, khơng ít những người có chức vụ quyền hạn vừa hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị, vừa thực hiện tốt chức năng kinh tế, điều này nên được ủng hộ và khích lệ. Vì vậy, lần nữa khẳng định, việc xác minh tài sản, thu nhập đối với những đối tượng này là hết sức cần thiết, giúp người được xác minh minh bạch công khai với Nhà nước, với nhân dân rằng họ đang làm đúng, làm tốt vai trị nhiệm vụ của mình, tài sản, thu nhập mà họ có được là hợp pháp, chính đáng, không gian dối.
<i>Thứ hai, đối với cơ quan quản lý cán bộ, công chức </i>
Như đã phân tích tại phần trên, mục đích ra đời của các biện pháp kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn là là để củng cố sức mạnh của bộ máy nhà nước, để nhân dân, đặc biệt là biện pháp xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, đặc biệt là trong cơ quan hành chính nhà nước. Để Nhà nước có cơ sở để tin tưởng rằng tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn là hợp pháp, chính đáng thì rất cần
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">có sự kê khai trung thực, đúng quy định pháp luật. Việc kê khai tài sản, thu nhập khơng trung thực của những người có chức vụ quyền hạn trước hết sẽ gây ra việc thất thoát khối lượng tài sản khổng lồ của Nhà nước, sau đó là gây mất niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cơ quan hành chính Nhà nước. Niềm tin của nhân dân đối với nhà nước là một yếu tố tối quan trọng, đây là mối liên kết mang tính chiến lược giữa nhà nước và nhân dân, là nền tảng của một quốc gia vững, mạnh, nền tảng để phát triển bền bỉ. Nếu một quốc gia mà nhà nước và nhân dân bất đồng, khơng tin tưởng lẫn nhau thì chẳng khác nào quốc gia đó bị mục ruỗng, đồn kết yếu, dễ bị sụp đổ từ bên trong. Để đảm bảo niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước thì nguồn gốc của tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước phải minh bạch, phải có căn cứ chứng minh rằng thu nhập và tài
<i>sản của những người cầm trịch quyền lực nhà nước là những tài sản, thu nhập “sạch”, khơng </i>
có dấu hiệu của tham nhũng, thu lợi bất chính. Ngồi ra, vẫn dựa trên nền tảng xây dựng niềm tin, thông qua việc xác minh tài sản thu nhập cũng là bằng chứng rõ nét cho việc có nên tin tưởng vào một người mà thực hiện nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập của bản thân mình để phục vụ lợi ích cơng mà lại kê khai gian dối hay khơng. Chính vì thế, để tạo niềm tin cho nhân dân và đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả, hoạt động xác minh tài sản, thu nhập đối với các đối tượng là người có chức vụ quyền hạn vốn là đội ngũ nòng cốt của Nhà nước càng quan trọng, cấp thiết hơn bao giờ hết. Thông qua xác minh tài sản, thu nhập, cơ quan quản lý nhà nước sẽ kiểm soát tốt nguồn tài sản, thu nhập của các đối tượng được xác minh, giúp nhanh chóng truy xuất, tìm hiểu những nguồn tài sản thu nhập khơng minh bạch của những đối tượng này, phát hiện sớm các dấu hiệu vi phạm pháp luật, từ đó ngăn chặn, xử lý những vi phạm về tham nhũng, giảm bớt tối đa hậu quả đối với bộ máy Nhà nước, và niềm tin đối với nhân dân. Từ đó, giúp các cơ quan quản lý nhà nước có những đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc quản lý của mình, là hồi chng cảnh tỉnh các cán bộ, công chức, viên chức để họ không dám, không thể kê khai không trung thực, gian dối trong công tác, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, sẽ tăng cường cơng tác phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng chức vụ quyền hạn để gia tăng thu nhập bằng các hành vi bất hợp pháp, từng bước khắc phục việc quản lý, kiểm soát tài sản thu nhập của cơ quan quản lý Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức.
<i>Thứ ba, đối với cơng tác phịng chống tham nhũng </i>
Xác minh tài sản, thu nhập được xác lập để xác minh cho sự trung thực, chính xác của bản kê khai tài sản, thu nhập nhằm phát hiện các hành vi làm giàu bất chính của cán bộ, công chức. Xác minh tài sản, thu nhập là cơng tác rất hữu hiệu trong việc phịng, chống tham nhũng. Đây được xem là khâu thiết yếu của công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">người có chức vụ quyền hạn, mang tính rà sốt lại tính trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, mang ý nghĩa quan trọng trong hoạt động phòng, chống tham nhũng đối với những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Khi việc xác minh tài sản, thu nhập của những người có chức vụ quyền hạn trong các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ thì tác dụng của biện pháp kiểm sốt tài sản, thu nhập này mới được phát huy đúng với vai trị của nó. Ý thức trách nhiệm và tính tự giác, tinh thần trung thực của cán bộ, công chức, viên chức đặc biệt là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị thuộc diện kê khai và xác minh tài sản, thu nhập được nâng lên thì sẽ góp phần quan trọng trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, tiêu cực của nước ta. Dựa vào quy định của pháp luật phòng chống tham nhũng hiện hành, người dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi thiếu trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, từ đó có căn cứ để tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của người kê khai. Những người tố cáo này sẽ được bảo vệ và khen thưởng theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện tinh thần nhân dân và Nhà nước đồng lòng, chung tay đẩy lùi tham nhũng. Xác minh tài sản, thu nhập được sinh ra là để thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận ý kiến của người tố cáo hành vi gian lận, thực thi quyền lực của nhà nước để rà soát lại những gì mà người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đã tự mình kê khai, thơng qua tố cáo để phát hiện ra và có chế tài xử lý các cá nhân khơng có sự minh bạch trong kê khai tài sản, thu nhập. Ngoài ra, thông qua thực trạng thực hiện xác minh tài sản, thu nhập qua những lần xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước từng năm, được thực hiện căn cứ trên pháp luật hiện hành mà các nhà làm luật có thể từ đó mà pháp hiện ra những tồn đọng, những yếu tố khách quan gây cản trở cho quá trình xác minh tài sản, thu nhập, chẳng hạn như là có một điều khoản nào đó vẫn chưa được quy định rõ ràng, dẫn tới gây khó hiểu trong q trình áp dụng luật để tiến hành xác minh tài sản, thu nhập. Từ đó, những nhà làm luật điều chỉnh luật pháp cho phù hợp với thực tiễn áp dụng hơn, khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành, hoàn thiện hành lang pháp lý cho cơng tác phịng chống tham nhũng.
Tuy vậy, như cũng đã trình bày ở trên, xác minh tài sản thu nhập cũng bảo vệ quyền lợi của người bị tố cáo, chứng minh được sự trong sạch của họ trong trường hợp bị tố cáo sai sự thật. Việc xác minh tài sản, thu nhập có thể ngăn ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời hành vi tham nhũng (nếu có) đối với người có nghĩa vụ kê khai, qua đó sẽ góp phần thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng, chống
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">tham nhũng; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của Luật PCTN năm 2018 cùng các văn bản pháp luật đã được ban hành để thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng.<small>10</small>
<b> 1.2. Lược sử pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </b>
<i>1.2.1. Giai đoạn phong kiến </i>
Tham nhũng khơng phải chỉ mới có trong thời hiện đại mà đã hiện hữu từ hàng ngàn năm về trước. Hành vi tham nhũng làm cho chất lượng đời sống của nhân dân thời bấy giờ vô cùng khốn khổ, đã nghèo khó lại thêm việc quan lại lạm dụng quyền lực đè nén, một cổ hai tròng. Vào thời Hậu Lê, đây là triều đại đã để lại nhiều thành tựu đáng kể trên lĩnh vực pháp luật và điển chế đã cho ra đời bộ Quốc Triều Hình Luật, hay được biết đến với tên Luật Hồng Đức, là một văn bản quy phạm pháp luật tiên tiến đương thời, với những điều lệ thức thời và tiến bộ đã nhận ra được sự bất cập trong công tác quản lý nhà nước của thành phần quan lại lộng quyền nên đã chú trọng trong công tác trừng trị những người có hành vi tham nhũng. Nghiên cứu qua Luật Hồng Đức, nhóm tác giả đã đúc kết ra được hơn 10 điều luật quy định về chế tài xử phạt những người có chức vụ quyền hạn mà lại có hành vi nhũng nhiễu, gây hỗn loạn cho đời sống an yên của nhân dân, tiêu biểu như: Điều 138: Quan lại ăn hối lộ; Điều 163: Quan phiên trấn sách nhiễu của dân; Điều 184: Quan lại trông coi phu dịch lại giấu số đinh, sách nhiễu tiền của; Điều 304: Quan lại cai quản dân đinh lại làm việc càn bậy; Điều 368: Khai trình số ruộng đất ao đầm để thu thuế không đúng sự thực; Điều 370: Chiếm đoạt đất đai của lương dân; Điều 372: Quan lại lạm dụng quyền chức chiếm đoạt ruộng đất của công, nuôi nô tỳ quá hạn định; Điều 639: Quan lại tự tiện lấy của dân để làm việc riêng; Điều 664: Cai ngục nhận của đút lót mà mách bảo lời cung khai; Điều 705: Thu cất tang vật làm của riêng; Điều 717: Đòi tiền chi phí bút mực dầu đèn quá mức qui định.<small>11</small>
Các điều khoản trên tập trung vào xử lý những hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của quan lại để tác động đến không chỉ tài sản của dân mà còn lạm dụng quyền hạn để thao túng các chính sách, chế độ của triều đình lúc bấy giờ. Qua đó những quy định trên đã phần nào cho thấy ông cha đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng chống tham nhũng, tầm quan trọng của một bộ máy quản lý liêm khiết, trong sạch từ rất sớm và nhận thấy được tác hại của việc quan chức lộng quyền. Tuy vậy, dù ý thức phòng chống tham nhũng đã
<small> </small>
<small>10</small><i><small> Bảo Anh (2020), “Xác minh tài sản, thu nhập nhằm ngăn ngừa, phát hiện tham nhũng”, </small></i>
<small>tham-nhung-534001, truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2023. </small>
<small> Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí (dịch thuật) (1995), Quốc triều Hình luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà </small></i>
<small>Nội. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">được hình thành từ rất sớm nhưng các quy định trong Luật Hồng Đức chỉ mới mang tính
<i>“chống”, có tội mới xử tội. Các biện pháp “phòng” tham nhũng vẫn chưa được quy định </i>
rõ ràng, hầu như là không hiện hữu trong xuyên suốt Bộ luật.
<i>1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 03-L/CTN ngày 26 tháng 02 năm 1998 về việc chống tham nhũng </i>
Nhìn chung, trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985, hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng của nước ta đã từng bước được hình thành và cụ thể hóa. Tuy nhiên việc ban hành một loạt các văn bản riêng rẽ có cùng nội dung phòng chống tham nhũng, tội phạm tham nhũng khiến cho các quy định cịn bất cập, khơng có tính thống nhất, thiếu sự đồng bộ, chồng chéo lẫn nhau.
Đến giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1998, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về phịng, chống tham nhũng nói riêng đã từng bước hồn thiện và thống nhất trên phạm vi toàn quốc nhờ sự ra đời của BLHS năm 1985 được Quốc hội ban hành vào ngày 27 tháng 6 năm 1985. Theo quy định của BLHS năm 1985, lần đầu tiên khái niệm tội phạm về chức
<i>vụ được định nghĩa “là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà </i>
<i>nước hoặc tổ chức xã hội do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi thi hành nhiệm vụ”. Cùng với BLHS năm 1985, các công tác phòng, chống tham nhũng cũng được </i>
củng cố bởi các văn bản dưới luật khác, ví dụ như: Quyết định số 240/HĐBT ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đấu tranh chống tham nhũng; Chỉ thị số 416/CT ngày 03/12/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về việc tăng cường các công tác thanh tra, điều tra, xử lý các việc tham nhũng và buôn lậu; Quyết định số 114/QĐ-TTg ngày 21/12/1992 của Thủ tướng Chính phủ về những biện pháp cấp bách ngăn chặn, bài trừ tệ nạn buôn lậu, tham nhũng; Nghị quyết Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 4, ngày 30/12/1993 về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tham nhũng, buôn lậu….
Cho đến sự ra đời của Pháp lệnh số 03-L/CTN ngày 26/02/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc chống tham nhũng, đây được xem là văn bản có hệ thống đầu tiên quy định một cách thống nhất về các vấn đề có liên quan đến phòng, chống tham nhũng, mang ý nghĩa đặt nền tảng cho các chế định riêng trong công tác bước đầu phịng chống tham nhũng mang tính thống nhất và hồn thiện, có một hành lang pháp lý riêng biệt để quản lý
<i>chặt chẽ. Theo đó, tham nhũng được định nghĩa là “hành vi của người có chức vụ, quyền </i>
<i>hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ơ, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”. Pháp lệnh cũng đã xác định nội dung, biện pháp </i>
phòng ngừa, phát hiện tham nhũng, được quy định tại Chương II của Pháp lệnh. Tại Chương
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">II các quy định tập trung vào sự tự giác của các cá nhân có chức vụ quyền hạn, chưa thể hiện rõ quyền lực của Nhà nước trong việc tham gia vào xác minh và phát hiện hành vi vi phạm. Vì vậy mà vẫn còn những bất cập và hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phịng chống tham nhũng vào thời điểm đó.<small>12</small>
Trong những văn bản quy phạm pháp luật được liệt kê ở trên thì chưa có một văn bản nào quy định về biện pháp xác minh tài sản thu nhập. Thời điểm này việc phòng, chống tham nhũng chưa được cụ thể, chưa có một hành lang pháp lý rõ ràng, hoặc có hàng lang pháp lý như Pháp lệnh số 03-L/CTN ngày 26/02/1998 nhưng vẫn cịn mang tính sơ khai, chưa tập trung nên là các biện pháp phòng chống tham nhũng cũng chỉ được kêu gọi và quy định chung chung. Đa số trong các văn bản nghị quyết, quyết định hay chỉ thị đều thể hiện tinh thần quyết liệt của các cơ quan Nhà nước trong công cuộc phòng, chống tham nhũng lúc bấy giờ, chỉ ra được những điểm còn yếu kém của bộ máy quản lý, kêu gọi tăng cường công tác kiểm tra và thanh tra cán bộ. Tuy nhiên các biện pháp phòng, chống tham nhũng cụ thể chưa được xác định và quy định rõ ràng như pháp luật hiện nay, chủ yếu là đề cao tinh thần tự giác trong phòng chống tham nhũng.
<i>1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Pháp lệnh số 03-L/CTN ngày 26/02/1998 đến hiện nay </i>
Qua một khoảng thời gian dài, hành lang pháp lý về việc phòng, chống tham nhũng đã đạt được một số thành tựu nhất định. Theo đó phải kể đến sự ra đời của Luật PCTN năm 2005, đây là lần đầu tiên việc phòng, chống tham nhũng được quy định trong một văn bản Luật do Quốc hội ban hành một cách hệ thống hóa, khắc phục những hạn chế và bất cập
<i>của Pháp lệnh số 03-L/CTN ngày 26/02/1998 về việc phòng, chống tham nhũng. Luật </i>
PCTN năm 2005 mang lại nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng quản lý trong bộ máy nhà nước.
Tiếp đến, Luật PCTN năm 2018 ra đời, khắc phục những hạn chế, bất cập được bộc lộ trong 12 năm thi hành Luật PCTN năm 2005. Trong Tờ trình Về dự án Luật PCTN (sửa đổi) của Chính phủ có những bất cập được đề ra như sau: Quy định về cơng khai, minh bạch cịn chưa mang tính bao qt và thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện; Quy định về trách nhiệm giải trình chưa phù hợp, cịn hẹp (chỉ áp dụng đối với quyết định, hành vi có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức) dẫn đến khó thực hiện trên thực tế; Chưa quy định một cách đầy đủ, tồn diện về các biện pháp kiểm sốt xung đột lợi ích đối với cán bộ, cơng chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ
<small> </small>
<small>12</small><i><small> Hàn Anh Tuấn (2022), “Quá trình phát triển của pháp luật về phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam từ 1945 </small></i>
<i><small>đến nay”, </small></i> <small>nhung-o-nuoc-ta-tu-nam-1945-den-nay-200598.html, truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">giảm hiệu quả phòng ngừa và phát hiện tham nhũng; Các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình cịn chưa cụ thể, khơng khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng; Các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát được biến động về tài sản, thu nhập; Việc xử lý người kê khai khơng trung thực hoặc khơng giải trình được một cách hợp lý về biến động tài sản, thu nhập còn chưa hiệu quả; Các quy định về cơ chế phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán nhà nước, thanh tra nhà nước và giám sát chưa phù hợp, chưa phát huy được vai trò, chức năng của mỗi cơ quan; Các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo còn chưa đầy đủ, chưa phát huy được sự tham gia của người dân trong việc phát hiện hành vi tham nhũng; Chưa xác định rõ vị trí, vai trị và mối quan hệ giữa Luật PCTN và các văn bản pháp luật khác dẫn đến cách hiểu và vận dụng chưa thống nhất, thiếu biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật PCTN<small>13</small>. Với những điểm mới trong việc kiểm soát tài sản và thu nhập của cán bộ, công chức giúp cho thực tiễn phòng, chống tham nhũng được thuận lợi hơn. Đặc biệt, việc dành một chương riêng cho biện pháp Xác minh tài sản, thu nhập trong Luật PCTN năm 2018 so với chỉ quy định một vài điều về biện pháp này trong Luật PCTN năm 2005 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của biện pháp này, cho thấy các nhà làm luật tin tưởng vào hiệu quả mà biện pháp kiểm soát này mang lại. Cùng với Luật PCTN năm 2018, một số văn bản khác có quy định các vấn đề có liên quan như: Luật Tố cáo năm 2018; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019; Luật An ninh mạng năm 2018 và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã dần hoàn thiện hành lang pháp lý về phòng, chống tham nhũng. Những quy định này đã thể hiện mức độ tuân thủ cao Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng của Việt Nam.
Qua một quá trình dài hình thành và khơng ngừng phát triển, việc phịng, chống tham nhũng tại Việt Nam ngày càng tiến bộ và hoàn thiện hơn về mặt pháp lý. Từ những bước đầu hình thành với những quy định riêng rẽ và rời rạc, nay hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã được thống nhất và phát triển đồng điệu cùng với nhau, góp phần to lớn cho cơng tác quản lý và kiểm soát tham nhũng tại Việt Nam.
<small> </small>
<small>13 Chính phủ (2018), Tờ trình số 429/TTr-CP ngày 04 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ Về dự án Luật Phòng, chống tham nhũng. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><b>1.3. Nguyên tắc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </b>
<i>1.3.1. Tuân theo pháp luật </i>
Xác minh tài sản, thu nhập là biện pháp quan trọng nhằm thực hiện việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy, các nhà làm luật, Quốc hội đã tạo ra những khung pháp lý nhằm phục vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập được thực hiện một cách có hiệu quả, đạt được mục đích mà xác minh tài sản, thu nhập đề ra. Việc xác minh phải tuân theo pháp luật, tuân theo những gì đã được quy định chặt chẽ, khách quan sẽ có tác động rất lớn đến hiệu quả của hoạt động này. Quá trình xác minh cần tuân theo trình tự thủ tục đã được quy định trong luật tránh bỏ sót, lược bỏ quy trình, thủ tục bởi có thể dẫn đến việc khơng minh bạch rõ ràng tài sản, thu nhập cần xác minh dẫn đến việc kết luận sai lệch và hệ quả là bỏ qua vi phạm hoặc sai kết quả ảnh hưởng đến uy tín của người được xác minh. Hoạt động xác minh phải diễn ra đúng thời hạn như đã được xây dựng trong kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập, tránh tình trạng kéo dài, hoặc rút ngắn thời gian cần thiết cho việc xác minh. Cuối cùng, xác minh phải đúng thẩm quyền, tức là phải do người có thẩm quyền đã được quy định trong luật thực hiện, tránh việc chồng chéo nhập nhằng trong thẩm quyền xác minh, sai thẩm quyền có thể cho ra kết quả xác minh không trung thực, hoặc việc xác minh chỉ phục vụ theo ý chí của người thực hiện xác minh, từ đó dẫn đến kết quả xác minh khơng có giá trị pháp lý, ảnh hưởng đến các khâu sau đó trong hoạt động kiểm sốt tài sản thu nhập.Thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cũng được quy định rất cụ thể trong luật, bảo đảm cho việc tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh được hiệu quả. Nếu công chức không tự giác kê khai tài sản sẽ rất dễ bị phát hiện, xử lý. Thêm vào đó, việc xác minh khơng tn theo pháp luật sẽ hồn tồn khơng minh bạch, thiếu sự liêm chính, ảnh hưởng đến việc kiểm tra lại sau này, gây khó khăn cho Nhà nước trong việc kiểm sốt, quản lý hoạt động xác minh tài sản, thu nhập.
<i>1.3.2. Bảo đảm tính đúng đắn, khách quan </i>
Theo từ điển tiếng Việt, đúng đắn là sự phù hợp với thực tế, quy luật, lẽ phải, đạo lý, khơng có gì sai<sup>14</sup>, và khách quan là cái tồn tại bên ngoài, khơng phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người, trong quan hệ đối lập với chủ quan, có tính chất xuất phát từ thực tế, biểu hiện thực tế một cách trung thực, không thiên lệch<small>15</small>. Việc thực hiện xác minh tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đòi hỏi phải có sự đúng đắn, khách
<small> </small>
<small>14 Từ điển tiếng Việt, tr. 353. 15 Từ điển tiếng Việt, tr. 489. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">quan đến từ hai phía. Đầu tiên, chính người kê khai, giải trình tài sản thu nhập phải có sự đúng đắn trong kê khai tài sản, kê khai đúng và đủ với những nguồn thu nhập và tài sản mình có được trên thực tế, tn thủ những ngun tắc và tiêu chí kê khai mà pháp luật đã hướng dẫn. Hành vi che giấu, kê khai không trung thực hoặc giải trình khơng trung thực là hành vi thiếu đúng đắn. Tiếp theo là đòi hỏi sự đúng đắn lẫn khách quan trong công tác xác minh tài sản thu nhập của những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Họ là những người nắm giữ giá trị cốt lõi của xác minh tài sản, thu nhập, kết quả của xác minh phụ thuộc rất lớn vào những người này. Do đó, họ ln phải xác minh tài sản, thu nhập một cách khách quan nhất, không bị tác động bởi yếu tố bên ngồi, khơng được nhận hối lộ để tác động kết quả xác minh sai lệch đi. Đúng đắn, khách quan là một nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động xác minh tài sản, thu nhập, tránh hoạt động này mang tính chất nội bộ, áp đặt ý chí. Việc xác minh tài sản thu nhập được xác lập để xác minh sự trung thực, chính xác của bản kê khai nhằm phát hiện các hành vi làm giàu bất chính của cán bộ, cơng chức<small>16</small>. Vì vậy, đầu tiên, trong khi thực hiện xác minh, các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền cần thực hiện xác minh một cách khách quan dựa trên chun mơn, nghiệp vụ của mình cùng với sự đảm bảo việc tuân thủ quy định của pháp luật. Việc thực hiện quá trình xác minh một cách khách quan sẽ cho ra kết luận xác minh khách quan, hợp lệ, có giá trị pháp lý sử dụng cho việc
<i>kiểm soát tài sản, thu nhập của người được xác minh, tránh việc người có thẩm quyền “bao che” hoặc làm giả kết quả xác minh cho người được xác minh nhằm che đậy hành vi vi </i>
phạm. Thứ hai, vì mục đích của xác minh là kiểm tra tính trung thực, chính xác của bản kê khai tài sản, thu nhập nên kết quả xác minh cần phải đúng đắn, tức là trong khi thực hiện việc xác minh, phải đảm bảo tính đúng đắn, rằng việc này phải phù hợp với quy định pháp luật.
Ngồi việc khách quan trong quy trình xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ra thì căn cứ để lựa chọn người để xác minh tài sản cũng cần phải khách quan không kém. Trong các căn cứ để xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước thì có một căn cứ rất khách quan được dùng để lựa chọn người được xác minh tài sản, thu nhập, được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 41 Luật PCTN năm 2018. Tại quy định này nêu rằng trong trường hợp xác minh tài sản, thu nhập theo kế hoạch hàng năm nếu người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập được lựa chọn một cách ngẫu nhiên để xác minh, tài sản thu
<small> </small>
<small>16</small><i><small> Ngô Thu Trang (2020), “Một số nguyên nhân dẫn đến sự không hiệu quả của hệ thống kiểm soát tài sản, thu </small></i>
<i><small>nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam”, </small></i><small>hieu-qua-cua-he-thong-kiem-soat-tai-san-thu-nhap-cua-nguoi-co-chuc-vu-quyen-han-o-viet </small>
<small> , truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">nhập thì phải thực hiện xác minh. Theo quy định thì hàng năm cán bộ, công chức thuộc diện phải kê khai tài sản, thu nhập đều phải thực hiện và nộp Bản kê khai tài sản thu nhập cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập. Nhưng việc xác minh tài sản, thu nhập chỉ diễn ra khi có vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc phát hiện hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức. Do việc kiểm tra, xác minh tài sản, thu nhập không được thực hiện thường xuyên nên thiếu cơ sở để đánh giá việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, cơng chức có trung thực hay khơng, dẫn đến hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng thơng qua việc kiểm sốt tài sản, thu nhập chưa cao. Nói đây là một căn cứ khách quan là vì việc lựa chọn người xác minh tài sản, thu nhập một cách ngẫu nhiên, tránh được trường hợp đùn đẩy nhau không muốn xác minh. Việc quy định lựa chọn người được xác minh một cách ngẫu nhiên vừa giúp cho việc thực hiện xác minh tài sản, thu nhập một cách thường xuyên, lại còn đảm bảo được việc đánh giá lại tính trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ tại cơ quan, đơn vị. Từ đó có cơ sở vững chắc để đánh giá tính trung thực việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.<small>17</small>
<i>1.3.3. Bảo đảm quyền của chủ thể được xác minh. </i>
Khi xác minh tài sản thu nhập, cần đảm bảo quyền và danh dự của người được xác minh. Việc giải trình của người được xác minh được đặt ra nhằm để các chủ thể này thực hiện việc cung cấp thông tin liên quan đến tài sản thu nhập mà họ đã kê khai, đây cũng là nghĩa vụ bắt buộc nhằm đánh giá tính trung thực chính xác về việc kê khai của họ, nếu cung cấp thơng tin chính xác sẽ giúp ích cho q trình xác minh. Khi người được xác minh đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ giải trình, các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền sẽ có được các nguồn thơng tin cụ thể, chính xác về tài sản thu nhập cần xác minh, từ đó đảm bảo cho q trình xác minh được thực hiện nhanh chóng, cũng như tăng thêm sự chính xác cho kết quả xác minh. Những chủ thể tuân thủ pháp luật, tài sản và thu nhập mà họ có được là trong sạch thì càng mong được bảo vệ về uy tín và danh dự, nên việc được đảm bảo quyền giải trình sẽ giúp họ được đảm bảo về quyền lợi của mình sau khi kết luận xác minh được cơng
<i>bố. Bên cạnh đó, sẽ có khó khăn khi gặp những chủ thể được xác minh không hợp tác, làm </i>
ảnh hưởng đến công tác xác minh thì việc áp dụng các biện pháp pháp luật là hợp lý, tuy nhiên cần bảo đảm quyền con người, quyền công dân của người được xác minh, và cần tuân thủ pháp luật.
<small> </small>
<small>17</small><i><small> Đỗ Văn Nhân (2022), “Phải đảm bảo tính khách quan, minh bạch khi xác minh tài sản, thu nhập thông qua bốc </small></i>
<i><small>thăm”, </small></i> <small>tham1663385012.html, truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b> Xác minh tài sản thu nhập ở một số quốc gia trên thế giới vànhững giá trị tham khảo cho Việt Nam </b>
<i>1.4.1. Xác minh tài sản thu nhập ở một số quốc gia trên thế giới </i>
Ở Trung Quốc, nhằm mục đích ngăn chặn tham nhũng từ gốc mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra bốn sách lược phòng, chống tham nhũng trong cơ quan hành chính
<i>nhà nước, một trong những sách lược đó gọi là làm cho “không thể tham nhũng”. Để thực </i>
hiện sách lược này, Trung Quốc đã thực hiện chế độ kê khai tài sản của các lãnh đạo. Bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ không được công khai rộng rãi nhưng đều được tổ chức kiểm tra, giám sát, nhất là trước khi bổ nhiệm cán bộ, để đảm bảo việc kê khai tài sản, thu nhập là trung thực. Như vậy ở Trung Quốc, trước khi bổ nhiệm một ai đó lên một chức vụ quan trọng trong cơ quan hành chính nhà nước thì tất cả những người dự kiến được bổ nhiệm đều phải xác minh tài, sản thu nhập, và việc xác minh tính trung thực trong kê khai tài sản được thực hiện với mọi cán bộ trước khi bổ nhiệm và cả ở thời điểm trước khi ra khỏi đơn vị. Vấn đề này được quy định rất chi tiết, ví dụ trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu thiếu trung thực thì người đó trong vịng nửa năm sẽ không được bổ nhiệm, nếu phát hiện đúng là kê khai khơng trung thực thì trong vịng 24 tháng sẽ không được bổ nhiệm.
Đây là một quy định rất hay, việc xác minh tính trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ trước khi ra khỏi đơn vị nhằm đảm bảo khơng có vi phạm về việc kê khai thiếu trung thực hay giải trình khơng hợp lý về tài sản, thu nhập khi hết nhiệm kỳ nhằm kiểm tra sự trong sạch của cán bộ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ. Như vậy xác minh tài sản thực hiện vừa thực hiện chức năng rà soát sự liêm chính của cán bộ ở đầu vào và kiểm tra sự liêm chính của cán bộ ở đầu ra. Dù việc kê khai và xác minh tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ cũng gặp phải nhiều khó khăn như tài sản, thu nhập của cá nhân ngày cà đa dạng, phức tạp khiến cho việc xác minh bản kê khai cịn khó khăn, hay mặc dù pháp luật quy định người nhà cán bộ, công chức cũng phải kê khai tài sản nhưng không việc phối hợp của người nhà không phải lúc nào cũng tốt, dẫn đến việc kê khai không đầy đủ. Nhưng trên thực tế, chính sách kiểm sốt tài sản này cũng mang lại những hiệu quả nhất định. Cụ thể, kiểm soát tài sản, thu nhập đã chặn hầu hết con đường
<i>“hợp pháp hóa”, “tẩy rửa”, “tẩu tán” tài sản của quan tham, khiến cho tiền của mà quan </i>
tham có được do con đường bất chính khơng thể sử dụng vào việc gì khác ngồi việc cất giấu một cách thủ cơng, vì nếu sử dụng nhiều quá mức hợp lý so với thu nhập của một cán bộ sẽ làm dấy lên sự nghi ngờ của quần chúng nhân dân. Điều đó chứng minh rằng, dù có thể có khả năng khơng phát hiện kịp thời được hành vi tham nhũng, nhưng chính biện pháp xác minh tài sản, thu nhập mạnh tay của Chính phủ Trung Quốc đối với người có chức vụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước mà các quan tham khơng thể tự do làm bất cứ điều gì mình muốn đối với tài sản có được nhờ hành vi bất chính.<small>18</small>
Để cơ chế kê khai tài sản, thu nhập hoạt động hiệu quả như một công cụ để hạn chế tham nhũng và ngăn ngừa xung đột lợi ích, việc kê khai tài sản, thu nhập phải có một phương tiện thật tiện dụng để kiểm tra những nội dung mà người có nghĩa vụ đã kê khai, phát hiện nhanh chóng những bất thường hoặc thay đổi tài sản theo thời gian và xác minh tính chính xác của kê khai. Tuy nhiên, việc xác minh các bản kê khai tài sản đã được chứng minh là một khía cạnh khó khăn và thách thức của việc kê khai tài sản, thu nhập. Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới vẫn còn thiếu các quy trình xác minh đạt hiệu quả cao, do đó phải đặt ra câu hỏi về tính hợp lý và có hiệu quả của việc kê khai tài sản, thu nhập. Nếu giao cho một cơ quan thực hiện xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ và quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước mà cơ quan đó khơng đủ năng lực hoặc không được trao quyền hợp pháp để bắt đầu và hồn thành quy trình xác minh thì việc kê khai tài sản, thu nhập sẽ kém hiệu quả hơn trong cơng cuộc phịng, chống tham nhũng.<small>19</small>
Ở Argentina, hệ thống kê khai tài sản, thu nhập <small>20</small> được thiết kế để cho phép xác minh một cách có hệ thống các kê khai của 5% công chức cấp cao nhất và chỉ định thanh tra 95% cơng chức cịn lại trên cơ sở các loại rủi ro. Do năng lực thể chế tương đối mạnh của cơ quan và hệ thống khai thác dữ liệu và hồ sơ điện tử của cơ quan này mà trong quy trình xác minh có thể tìm kiếm một lượng lớn dữ liệu cho các bản kê khai tài sản có dấu hiệu bất thường hoặc cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn. Các bản kê khai được đánh dấu cần phải xác minh trong quy trình này sau đó sẽ được kiểm tra chặt chẽ. Mặc dù số hóa hệ thống đóng một vai trò quan trọng nhất định, nhưng chất lượng của quy trình xác minh cũng phụ thuộc vào việc xác minh thủ cơng của một nhóm nhỏ gồm 3 hoặc 4 kế toán viên và luật sư (những người kiểm tra chéo nội dung kê khai với cơ quan đăng ký tài sản hoặc ô tô...). Việc xác minh dữ liệu phi số<small>21</small> (chẳng hạn như mẫu ô tô) phụ thuộc rất nhiều vào các quy trình xem xét thủ cơng hay việc xem xét các xung đột lợi ích tiềm ẩn cũng là một nhiệm vụ thủ công. Khác với Argentina, Cơ quan độc lập ở Mông Cổ (IAAC) chịu trách nhiệm xác minh tính chính xác của các bản kê khai tài sản. Cơ quan này được trao thẩm quyền xác minh bản kê khai theo quyết định của mình, nhưng đặc biệt được u cầu phân tích các bản kê
<small> </small>
<small>18</small><i><small> Cầm Thị Lai (2019), “Kinh nghiệm từ sách lược phòng, chống tham nhũng của Trung Quốc”, </small></i>
<small> truy </small>
<i><small>cập ngày 15 tháng 5 năm 2023. </small></i>
<small>19</small><i><small> Ruxandra Burdescu, Gary J. Reid, Stuart Gilman, Stephanie Trapnell (2009), Stolen Asset Recovery, Income </small></i>
<i><small>and Asset declarations: Tools and trade-offs, tr.74-75. </small></i>
<small>20 AD system (Asset declaration). 21 Non-numerical data. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">khai có lỗi văn thư và phân tích bản kê khai của cán bộ có đơn tố cáo, cho thấy việc xác minh lại những bản kê khai tài sản, thu nhập tại quốc gia này hồn tồn được làm thủ cơng. Tuy nhiên, số lượng người nộp hồ sơ ở Mông Cổ hàng năm rất lớn, bao gồm cả đơn tố cáo và bản kê khai tài sản (khoảng 52.800), cùng với quy trình nộp giấy tờ phi tập trung và số lượng cán bộ có đủ trình độ chun mơn quản lý hệ thống cịn ít, do đó việc xác minh tài sản, thu nhập ở nơi đây rất hạn chế trong thực tế. Việc xem xét bản kê khai tài sản để phát hiện xung đột lợi ích là một nhiệm vụ chun biệt địi hỏi nhân sự có trình độ phù hợp và quy trình phù hợp để hỗ trợ các quan chức tránh xung đột tiềm ẩn quan tâm và để phát hiện khi việc xung đột lợi ích có hoặc có thể xảy ra. Tuy nhiên việc phụ thuộc hoàn toàn vào con người là một yếu điểm cực kỳ lớn, khiến cho việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn ít được quan tâm tới, dẫn đến tình trạng khó mà kiểm soát được tham nhũng.
<i>1.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam</i>
Thông qua việc nghiên cứu pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước của một số quốc gia trên thế giới nêu trên, ta có thể rút ra các kinh nghiệm như sau.
<i>Thứ nhất, việc xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ </i>
quan hành chính nhà nước sau khi ra khỏi cơ quan, đơn vị cũng có tầm quan trọng tương tự như xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ trước khi được tham gia vào quản lý bộ máy nhà nước. Việc xác minh hai lần này mang ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đảm bảo sự trong sạch và liêm chính của cán bộ trước và sau khi đảm đương những chức vụ quan trọng, kịp thời phát hiện và ngăn chặn hành vi tham nhũng. Ngồi ra cũng cịn hai yếu tố quan trọng khác để thực hiện xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn một cách có hiệu quả, là phải có một nguồn cơ sở dữ liệu đáng tin cậy, thực hiện số hóa trong việc kê khai tài sản, thu nhập để dễ dàng thực hiện xác minh tài sản, thu nhập, không quá phụ thuộc vào những dữ liệu vật lý để tiết kiệm thời gian, tiền bạc và công sức.
<i>Thứ hai, việc quy định thẩm quyền xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ </i>
quyền hạn hợp lý sẽ giúp làm giảm bớt gánh nặng lên một cơ quan cụ thể. Ngồi ra, vì có
<i>những cơng việc mang tính chất “thủ cơng”, khơng thể thay thế được bằng cơng nghệ thì </i>
rất cần phải có một nguồn nhân lực đủ chất lượng và trình độ chun mơn để thực hiện xác minh tài sản thu nhập. Vì vậy, cần tập trung đào tạo nhân lực chuyên sâu về chun mơn kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức quyền hạn, đặc biệt là xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Đây là những chủ thể nắm giữ trong tay quyền lực to lớn, có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế, chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">trị của một đất nước, nếu để người đó tiếp tục sử dụng quyền lực của mình để thao túng nhằm mục đích tư lợi trong một khoản thời gian dài mà khơng có cơ chế kiểm tra, xác minh tài sản, thu nhập để phát hiện ra hành vi tham nhũng thì thiệt hại không chỉ ảnh hưởng tiêu cực tới một nền kinh tế, một thể chế chính trị mà cịn phải đánh đổi bằng cả một quốc gia.
<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>
Từ những gì đã được trình bày tại chương 1 của cơng trình, những vấn đề lý luận cơ bản nhất đã được làm rõ thông qua việc đưa ra khái niệm cũng như phân tích đặc điểm và rút ra ý nghĩa của việc xác minh tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng đã tìm hiểu về nguồn gốc, lược sử pháp luật trong lĩnh vực xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam, đồng thời tham khảo lĩnh vực này ở một số quốc gia trên thế giới và đề xuất một số giá trị mang tính tham khảo cho Việt Nam. Cuối cùng, những nguyên tắc cần có khi tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước cũng đã được phân tích, là căn bản để tiến hành những nội dung tiếp theo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><b>CHƯƠNG 2 </b>
<b>THỰC TRẠNG VỀ XÁC MINH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập cho người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </b>
Quy định của pháp luật về xác minh tài sản, thu nhập cho người có chức vụ quyền hạn nói chung và trong cơ quan hành chính nhà nước được cụ thể hóa tại Tiểu mục 3 trong Luật PCTN năm 2018 từ Điều 41 đến Điều 51, được quy định riêng cho biện pháp xác minh tài sản, thu nhập: Điều 41 là về căn cứ xác minh tài sản, thu nhập; Điều 42 là về thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản, thu nhập; Điều 44 là về trình tự xác minh tài sản thu nhập, hay Điều 51 là về xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực. Căn cứ vào các quy định trên có thể nhận thấy các nội dung cơ bản về xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước được Luật PCTN năm 2018 ghi nhận bao gồm: Căn cứ xác minh tài sản, thu nhập, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập, Cơ quan xác minh tài sản, thu nhập; Trình tự xác minh tài sản thu nhập; Các chế tài xử lý các hành vi không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm.
<i>2.1.1. Căn cứ xác minh tài sản, thu nhập và thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. </i>
Trên thực tế, hiện nay nước ta chưa có một chế định cụ thể để quy định việc xác minh tài sản thu nhập cho người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước, do đó việc xác minh được thực hiện thơng qua một chế định chung về xác minh tài sản, thu nhập cho những người có chức vụ quyền hạn, được quy định tại Tiểu mục 3 Luật PCTN năm 2018. Nhóm tác giả sẽ phân tích về căn cứ xác minh tài sản, thu nhập được quy định tại Điều 41 Luật PCTN và thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản thu nhập được
<i><b>quy định tại Điều 42 Luật PCTN. </b></i>
<i><b>Thứ nhất, về căn cứ xác minh tài sản, thu nhập. </b></i>
Khi có một trong sáu căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật PCTN năm 2018 thì cơ quan kiểm sốt tài sản được quyền thực hiện việc xác minh tài sản, thu nhập:
<i> “a) Có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực; </i>
<i> b) Có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300.000.000 đồng trở lên so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trước đó mà người có nghĩa vụ kê khai giải trình khơng hợp lý về nguồn gốc; </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><i> c) Có tố cáo về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực và đủ điều kiện thụ lý theo quy định của Luật Tố cáo; </i>
<i> d) Thuộc trường hợp xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai được lựa chọn ngẫu nhiên; </i>
<i> đ) Có yêu cầu hoặc kiến nghị của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy định tại Điều 42 của Luật này. </i>
<i> 2. Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai được xác minh và việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập quy định tại điểm d khoản 1 Điều này.” </i>
Tiêu chí lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai được xác minh cũng được quy định cụ thể tại Điều 16 Nghị định 130/2020/NĐ-CP về kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Theo đó, người được lựa chọn xác minh tài sản, thu nhập trước hết phải là đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm; chưa được xác minh về tài sản, thu nhập trong thời gian 04 năm liền kề trước đó và khơng thuộc một trong các trường hợp như: đang bị điều tra truy tố, xét xử. đang điều trị bệnh hiểm nghèo được cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận hoặc đang học tập, cơng tác ở
<i>nước ngồi từ 12 tháng trở lên. </i>
Xét về các căn cứ để tiến hành xác minh tài sản, thu nhập. Căn cứ đầu tiên được quy
<i>định tại điểm a khoản 1 Điều 41: “Có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực”. Cần phải xác định “có dấu hiệu rõ ràng về sự khơng trung thực” là như </i>
thế nào. Hiện nay trong các văn bản dưới luật chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về thế
<i>nào là “có dấu hiệu rõ ràng về sự khơng trung thực”. Do đó, muốn áp dụng điều khoản này </i>
đa số phải dựa vào thực tế để xác định, ví dụ như cán bộ đi xe hơi đắt tiền, ở biệt thự nhưng trong bản kê khai khơng có hoặc kê khai thiếu, khơng đầy đủ, kê khai với giá trị thấp hơn giá trị đã được biết trên thực tế. Để làm được điều này thì Tổ xác minh cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan như tổ chức tín dụng, cơ quan cơng an, cơ quan quản lý về đất đai, đăng ký tài sản hay bất cứ cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác có liên quan để làm rõ thơng tin cần xác thực tính trung thực.
Tiếp đến, tại căn cứ thứ hai quy định tại điểm b nêu rằng nếu có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300.000.000 đồng trở lên so với tài sản thu nhập đã kê khai lần liền trước đó mà người có nghĩa vụ kê khai giải trình khơng hợp lý về nguồn gốc. Theo lý giải của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, căn cứ theo mức biến động về tài sản, thu nhập từ 300.000.000 đồng phải kê khai hoặc phải giải trình đã được Chính phủ tính tốn trên cơ sở cân nhắc quy định về mức tăng, giảm bất thường so với tài sản, thu nhập kê khai lần liền trước đó và thu
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">nhập bình qn hàng năm. Mức này cũng có so sánh với mức giao dịch có giá trị lớn, giao dịch đáng ngờ trong phòng, chống rửa tiền và tham khảo kinh nghiệm quốc tế.<small>22</small> Tuy nhiên theo quy định tại Mục 1 về các tội phạm tham nhũng của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người nào lợi dụng, lạm dụng chức vụ quyền hạn để thực hiện hành vi tham nhũng với mức tiền tham nhũng thấp nhất để xử lý theo các tội phạm tham nhũng đã là từ 2.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham nhũng mà cịn vi phạm thì đã được xét xử theo các tội phạm tham nhũng. Và trên thực tế, những vụ nhận hối lộ, tham nhũng dưới 300.000.000 đồng là khơng ít, vẫn có vụ nhận vài chục triệu, như vậy đặt ra câu hỏi liệu chỉ thực hiện xác minh kê khai tài sản khi biến động tài sản 300.000.000 đồng là có q ít, có bỏ sót những vụ việc tham nhũng nhỏ lẻ hay không? Luật PCTN cho phép tố cáo về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực và đủ điều kiện thụ lý theo quy định của Luật Tố cáo. Căn cứ này cho thấy Nhà nước luôn kêu gọi người dân cùng chung tay đẩy lùi nạn tham nhũng. Tố cáo là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi nhận tại khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm
<i>2013: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Đây cũng là nguồn đặc </i>
biệt quan trọng giúp cơ quan Nhà nước tiếp cận thơng tin, nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật nói chung và ngăn chặn, xử lý hành vi không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nói riêng. Việc ghi nhận, luật hóa và đảm bảo thực hiện quyền tố cáo của công dân thể hiện chế độ dân chủ của Nhà nước Việt Nam, thực hiện xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính vì tầm quan trọng của việc người dân có quyền tố cáo nên Nhà nước cũng phải có những cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng, để họ có thể yên tâm khi thực hiện quyền tố cáo của mình mà không phải e ngại việc bị người bị tố cáo trả thù hay dùng những thủ đoạn đe dọa. Tuy nhiên phải tố cáo đúng người, đúng việc, trong trường hợp người nào lạm dụng quyền tố cáo của mình để gây bất lợi cho người khác thì sẽ phải bồi thường thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho người bị tố cáo sai.<small>23</small>
Ngoài trường hợp những người được chọn xác minh trực tiếp do có các căn cứ tại điểm a, b, c ra thì người có nghĩa vụ kê khai còn được lựa chọn một cách ngẫu nhiên theo
<small> </small>
<small>22</small><i><small> PV (2018), “Cán bộ, công chức thu nhập từ 300 triệu đồng phải kê khai hoặc phải giải trình”, </small></i>
<small> truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2023. </small></i>
<small>23</small><i><small> Nguyễn Thị Lê Thu (2017), “Các quy định về bảo vệ người tố cáo tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”, </small></i>
<small> truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2023. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">như quy định tại điểm d thì hàng năm các cơ quan có thẩm quyền sẽ triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý, kiểm soát của mình, đưa ra định hướng và kế hoạch thực hiện xác minh tài sản, thu nhập năm đó của các cá nhân làm việc tại cơ quan, đơn vị, chẳng hạn như các cơ quan cấp cao có thẩm quyền sẽ chỉ định các đơn vị sẽ thực hiện xác minh tài sản thu nhập và chỉ định mỗi đơn vị sẽ phải tiến hành xác minh tài sản dựa trên bản kê khai tài sản là bao nhiêu người, mỗi đơn vị sẽ có số người được tiến hành xác minh tài sản khác nhau. Các cơ quan cấp cao chỉ định đơn vị phải thực hiện xác minh dựa trên các lĩnh vực, các khâu, các công việc nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực của năm đó. Trong năm 2022, dịch bệnh Covid-19 vẫn cịn hồnh hành tại Việt Nam, đây là một tình huống khá mới, chỉ mới có một tiền lệ tương tự là đại dịch SARS năm 2003, tuy nhiên quy mô của đại dịch này nhỏ hơn đại dịch Covid-19 rất nhiều. Chính vì vậy mà việc tổ chức hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính vẫn cịn mới mẻ, dễ có sai phạm và xảy ra tình trạng nhũng nhiễu do chưa có nhiều cơ chế để xử lý, pháp luật chưa điều chỉnh kịp thời để thích ứng với hồn cảnh. Như vậy, trong kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn năm 2022 các cơ quan cấp cao có thẩm quyền sẽ chọn lọc các cơ quan hành chính có nguy cơ xảy ra tham nhũng trong hồn cảnh này cao nhất. Ví dụ như trong kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập năm 2022 của Tổng cục Thuế (Ban hành kèm theo Quyết định số 1388/QĐ-TCT ngày 22 tháng 8 năm 2022 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế) tiến hành xác minh tài sản thu nhập đối với các đơn vị thuộc quyền
<i>quản lý và kiểm soát của Bộ Tài chính được định hướng như sau: “Tại Quyết định số 1485/QĐ-BTC ngày 2/7/2022 của Bộ Tài chính ban hành Kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập đã định hướng xác minh tài sản, thu nhập năm 2022, như sau: Xác minh đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập hằng năm công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc quyền quản lý và kiểm soát của Bộ Tài chính. Trọng tâm là các lĩnh vực, các khâu, các công việc nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực, như: đầu tư xây dựng, đấu thầu, tài chính ngân sách, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, công tác tổ chức cán bộ, cấp phép, quản lý, sử dụng nguồn lực phòng, chống dịch bệnh Covid-19.”</i><sup>24</sup>
Ta có thể thấy, ngồi các lĩnh vực khác như đầu tư xây dựng, đấu thầu, tài chính ngân sách, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, Tổng cục còn lấy trọng tâm xác minh là các đơn vị thực hiện công tác tổ chức cán bộ, cấp phép, quản lý sử dụng nguồn lực phòng,
<small> </small>
<small>24</small><i><small> Kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập năm 2022 của Tổng cục thuế (Ban hành kèm theo Quyết định số </small></i>
<i><small>1388/QĐ-TCT ngày 22 tháng 8 năm 2022 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế). </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">chống dịch bệnh Covid-19. Thơng qua ví dụ trên có thể nhận thấy, kế hoạch xác minh tài sản hàng năm sẽ được lập ra dựa trên tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của năm đó, sau đó các cơ quan, đơn vị cấp dưới sẽ căn cứ vào đó để thực hiện chọn ra người để thực hiện xác minh tài sản, thu nhập dựa trên bản kê khai tài sản, thu nhập trước đó. Theo như tình hình của năm 2022 như trên, Tổng cục Thuế sẽ theo định hướng của Bộ Tài chính, chỉ định đơn vị có thẩm quyền trực tiếp trong cơng tác tổ chức cán bộ, cấp phép, quản lý, sử dụng nguồn lực phòng chống dịch bệnh Covid-19 để thực hiện xác minh tài sản, thu nhập cũng như ra chỉ tiêu số người trong đơn vị phải thực hiện xác minh. Các đơn vị được Tổng cục Thuế chỉ định thực hiện xác minh tài sản sẽ tiến hành chọn người được xác minh theo chỉ tiêu mà Tổng cục đề ra, tiêu chí lựa chọn người được xác minh theo kế hoạch sẽ dựa trên quy định tại điểm 1 Điều 10 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP (quy định về những người có nghĩa vụ kê khai) và Điều 16 của Nghị định số 130/2020/NĐ-CP (quy định về tiêu chí lựa chọn người được xác minh theo kế hoạch). Việc lựa chọn ngẫu nhiên người có nghĩa vụ kê khai để xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hàng năm là một quy định mới được bổ sung trong Luật PCTN năm 2018 so với Luật PCTN năm 2005 với mục đích tăng cường ý thức tuân thủ nguyên tắc trung thực trong kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai. Vì trước đó việc kê khai chỉ phụ thuộc phần lớn vào ý thức của người có nghĩa vụ kê khai, thiếu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức. Pháp luật về phòng chống tham nhũng trước kia khơng có những quy định cụ thể những trường hợp có thể bị xác minh mà khơng cần phải có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hay đơn tố cáo. Với quy định mới này trong Luật PCTN năm 2018, bất cứ cá nhân nào cũng có khả năng sẽ được xác minh tài sản, thu nhập đã kê khai bất cứ lúc nào, từ đó thực hiện đúng với mục tiêu ban đầu là tăng cường sự tự giác kê khai tài sản, thu nhập một cách trung thực. Lý do phải thực hiện lựa chọn ngẫu nhiên là vì khơng thể thực hiện việc xác minh tài sản, thu nhập toàn bộ cơ quan, đơn vị vì sẽ rất tốn thời gian, nếu xác minh ra sai phạm thì việc xác minh được xem là có hiệu quả, nhưng nếu khơng có gì thay đổi thì tốn rất nhiều tài nguyên cũng như khơng có đủ nhân lực thực hiện. Các đối tượng được xác minh theo kế hoạch mỗi năm mỗi khác, cơ quan nào cũng có thể nằm trong kế hoạch xác minh bất cứ lúc nào, tùy vào tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước. Nếu như trong năm mà lĩnh vực công việc của cơ quan nào nằm trong tình trạng nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng thì sẽ được đưa vào danh sách những cơ quan cần phải thực hiện xác minh kê khai tài sản, thu nhập do các cơ quan cấp cao có thẩm quyền hoạch định, từ đó thực hiện xác minh theo đúng như kế hoạch đã đề ra. Như vậy rút ra được rằng, để thực hiện xác minh tài sản của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính theo kế hoạch cần phải có sự mềm dẻo và linh hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><i>của các cơ quan cấp cao có thẩm quyền. Ngồi ra các cơ quan cấp cao cịn phải có sự “nhạy cảm” đối với những sự kiện xảy ra đối với tình hình đất nước, đánh giá đúng mức độ ảnh </i>
hưởng của sự kiện và từ đó hoạch định ra kế hoạch xác minh tài sản hiệu quả.<small>25</small>
Đối với trường hợp được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 41. Theo đó, Cơ quan kiểm sốt tài sản thu nhập có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm sốt tài sản thu nhập khi có u cầu hoặc kiến nghị của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy định tại Điều 42. Nhìn chung, đối tượng được yêu cầu, kiến nghị xác minh ở đây là những người đang trong diện được xem xét, bầu cử vào những vị trí quan trọng trong bộ máy hành chính. Bất cứ cá nhân nào cũng có thể được chỉ định xác minh tài sản bất cứ lúc nào, không trong khuôn khổ của kế hoạch hàng năm, đa số những người thực hiện xác minh tài sản thu nhập do căn cứ này là những người sắp đảm nhiệm chức vụ, quyền hạn lớn. Những chủ thể có thẩm quyền được quy định tại Điều 42 Luật PCTN sẽ có yêu cầu xác minh lại bản kê khai tài sản của người sắp được đề bạt để đảm bảo sự liêm chính, là một cơ chế để ngăn chặn những cá nhân đã có tiền lệ kê khai tài sản thiếu trung thực vì lợi ích riêng ngay từ ban đầu, đảm bảo sự trong sạch trong quản lý của bộ máy hành chính nhà nước. Các chủ thể có thẩm quyền tại Điều 42 hồn tồn có quyền hạn để ra quyết định yêu cầu xác minh đối với đối tượng cần được xác minh mà không cần dựa trên kế hoạch hàng năm.
Thứ ba, quy định tại khoản 2 Điều 41 việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm là một trong những chế định rất mới và rất quan trọng của Luật, PCTN trong việc xác minh tài sản thu nhập, bởi đây được xem là bước đầu tiên của việc xác minh tài sản thu nhập, chính vì vậy có thể sẽ gây ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả xác minh tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai nếu việc xây dựng kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hàng năm không được thực hiện tốt. Theo đó, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 10 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ về kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị đã có quy định chi tiết về việc xây dựng
<i>kế hoạch xác minh tài, thu nhập hàng năm tại Chương V “Xây dựng, phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập”. Cụ thể, các nội dung cần được xem xét bao gồm: (1) Căn cứ </i>
xây dựng kế hoạch xác minh; (2) Thẩm quyền xây dựng kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập; (3) Tiêu chí lựa chọn người được xác minh theo kế hoạch; (4) Nội dung kế hoạch xác minh và phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập:
(1) Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2020, có 04 căn cứ để xây dựng phương án xác minh thu nhập, tài sản hàng năm. Cụ thể, việc xây dựng kế hoạch kiểm toán được xác định căn cứ vào (a) Tình hình tham nhũng và
<small> </small>
<small>25</small><i><small> Bảo Anh (2020), Tlđd (10). </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">công tác phòng, chống tham nhũng trong ngành, lĩnh vực, địa phương, tức là tùy theo tình hình tham nhũng và cơng tác phòng, chống tham nhũng ở địa phương, ngành, lĩnh vực, địa phương xây dựng kế hoạch xác minh. Tuy nhiên, cơ sở này vẫn cịn chung chung và có thể dẫn đến cách hiểu mơ hồ, không thống nhất, vậy có thể hiểu rằng nếu mức độ tham nhũng ở địa phương thấp và cơng tác phịng chống tham nhũng ở địa phương tốt thì địa phương khơng cần tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của người kê khai nữa hay không? Căn cứ này cần được áp dụng đồng thời với các căn cứ khác như (b) các yêu cầu, hướng dẫn của cơ quan, tổ chức có liên quan trong cơng tác phịng, chống tham nhũng. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng cũng rất đa dạng nhưng lại không được đề cập cụ thể. Căn cứ thứ ba là (c) khi có định hướng xây dựng kế hoạch xác minh do Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước ngày 31 tháng 10 hàng năm. Dựa trên cơ sở này, cơ quan có thẩm quyền có thể lập kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập sau ngày 31 tháng 10 hàng năm. Căn cứ cuối cùng là (d) năng lực và điều kiện để thực hiện các mục tiêu xác minh quy định tại Điều 15 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP. Tức là, phương án xác minh tài sản, nguồn thu chỉ được xây dựng khi xét thấy năng lực, điều kiện để đạt được mục tiêu xác minh ít nhất bằng 20% số lượng cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền kiểm sốt của ít nhất 10 % đối với Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính. Về cơ bản, nền tảng này được thiết kế để cung cấp sự linh hoạt trong việc phát triển các kế hoạch xác minh thu nhập và tài sản. Tuy nhiên, quy định này có thể tạo ra sự chậm trễ và kém hiệu quả trong việc kiểm sốt tài sản, thu nhập nói chung.
<i> (2) Khoản 2 Điều 14 Nghị định 130/2020/NĐ-CP có quy định “Căn cứ vào khoản 1 Điều này, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ chỉ đạo cơ quan thanh tra xây dựng kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hàng năm; nơi khơng có cơ quan thanh tra thì chỉ đạo đơn vị phụ trách cơng tác tổ chức cán bộ thực hiện”. Quy định này được hiểu là quy định về thẩm quyền lập kế hoạch xác minh hằng </i>
năm. Có hai cơ quan thực hiện nhiệm vụ này là cơ quan thanh tra hoặc đơn vị phụ trách công tác tổ chức cán bộ thực hiện. Tuy nhiên, cách diễn đạt của điều khoản này còn hạn chế, dẫn đến bỏ sót trường hợp: đối với Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, cơ quan, bộ phận nào có trách nhiệm xây dựng Kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập. Ngoài ra, đối với những nơi chưa có cơ quan kiểm tra thì việc xây dựng phương án xác minh tài sản được
<i>giao cho “đơn vị làm công tác tổ chức cán bộ” thực hiện. Thực tế cho thấy, nhiều đơn vị </i>
làm công tác tổ chức cán bộ lúng túng khi triển khai thực hiện kế hoạch, vấn đề được đặt ra là liệu đơn vị phụ trách cơng tác cán bộ có đủ năng lực và trình độ để xây dựng phương
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><i>án xác minh tài sản hay không? Khoản 2, điều 15 của Nghị định này quy định: “Kế hoạch xác minh hàng năm của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập phải đảm bảo số lượng cơ quan, tổ chức,…” là cịn mơ hồ, vì vậy cần xác định rõ ràng, đầy đủ hơn cơ quan có thẩm </i>
quyền lập kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hàng năm.
(3) Về tiêu chí lựa chọn người được xác minh theo kế hoạch. Điều 16 Nghị định 130/2020/NĐ-CP có quy định cụ thể về tiêu chí lựa chọn người được xác minh theo kế hoạch. Theo đó, có 03 nhóm đối tượng sau đây:
Người có nghĩa vụ kê khai là đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm. Tức là những người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên và người làm công tác cán bộ tổ chức cán bộ, quản lý tài chính cơng, tài sản cơng, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức đơn vị theo quy định của chính phủ.
Người có nghĩa vụ kê khai chưa được xác minh về tài sản, thu nhập trong giời gian 04 năm liền trước đó, có thể hiểu đây là nhóm đối tượng người có nghĩa vụ kê khai tài sản,
<i>thu nhập tại Điều 34 Luật PCTN năm 2018 bao gồm “Cán bộ, công chức; sĩ quan công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; người giữ chức vụ từ Phó trưởng phịng và tương đương trở lên cơng tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước; người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Tức là bao gồm cả những người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính </i>
nhà nước.
Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc một trong các trường hợp sau: (a) Người đang bị điều tra, truy tố, xét xử; (b) Người đang điều trị bệnh hiểm nghèo được cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận; (c) Người đang học tập, cơng tác ở nước ngồi 12 tháng trở lên. Như vậy, ngoài những đối tượng được đề cập này thì tất cả các đối tượng khác đều nằm trong đối tượng được xác minh theo kế hoạch.
Như vậy, có thể thấy rằng, tiêu chí lựa chọn người được xác minh theo kế hoạch là phù hợp với căn cứ xác minh tài sản, thu nhập được đề cập trong Luật PCTN năm 2018. Tiêu chí này được xác định là cần thiết để phân biệt và tránh trùng lặp với xác minh đối với các bản kê khai lần đầu hoặc kê khai phục vụ công tác cán bộ. Tuy nhiên, việc quy định như vậy đang đặt ra vấn đề số lượng người thuộc diện phải xác minh hàng năm có thể sẽ rất lớn, từ đó gây quá tải cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập trong bối cảnh hạn hẹp về tổ chức, biên chế, nguồn lực đồng thời vẫn phải đảm nhiệm đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ khác. Thêm vào đó sẽ làm cho việc xác minh bị kéo dài hoặc trở nên hình thức, kém hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu của công tác kiểm soát tài sản, thu nhập.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">(4) Về nội dung kế hoạch xác minh và phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập. Khoản 3 Điều 14 Nghị định 130/NĐ-CP quy định Kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hàng năm bắt buộc phải có 04 nội dung sau: (a) Mục đích, u cầu của kế hoạch xác minh; (b) Số lượng và tên cơ quan, đơn vị được xác minh; (c) Tổng số người được xác minh, số lượng người được xác minh phân bổ theo cơ quan, tổ chức, đơn vị trực thuộc; (d) Việc tổ chức thực hiện kế hoạch xác minh, người được phân công chỉ đạo việc thực hiện, đơn vị được phân công tiến hành xác minh, nguồn lực để thực hiện xác minh. Theo đó, kế hoạch xác minh cần phải chính xác, dễ theo dõi để đảm bảo việc xác minh tài sản, thu nhập diễn ra chính xác và đúng tiến độ, nên có mẫu văn bản kế hoạch xác minh cụ thể để các đơn vị có thẩm quyền xây dựng theo. Điều 15 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP có quy định về việc phê duyệt kế hoạch xác minh. Theo đó, trước ngày 31/01 hàng năm, người đứng đầu cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập phê duyệt nội dung và ban hành kế hoạch xác minh tài sản thu nhập hàng năm. Cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập cũng phải hết sức lưu ý về việc đảm bảo số lượng cơ quan, đơn vị, tổ chức được tiến hành xác minh tối thiểu là 20% số cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền kiểm soát của mình hàng năm, đây là việc lựa chọn xác minh ngẫu nhiên bằng hình thức bốc thăm hoặc qua phần mềm máy tính. Có thể thấy, quy định về nội dung phương án xác minh tài sản là tương đối dễ hiểu và có thể thực hiện được trên thực tế. Nội dung của kế hoạch xác minh có ý nghĩa quan trọng để thực hiện các bước tiếp theo trong q trình kiểm sốt tài sản nguồn thu của cơ quan. Tuy nhiên, những điều này cần được hướng dẫn chi tiết hơn thông qua tài liệu hướng dẫn và xác định cách trình bày chung để thuận tiện cho quá trình lưu trữ và nhập liệu sau này.
<i>Thứ hai, thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản, thu nhập </i>
Công tác cán bộ là công việc của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý cán bộ bằng việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá cán bộ, quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,... nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán bộ theo hướng bố trí số lượng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chun môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu hoạt động của Hệ thống chính trị trong tình hình mới. Do đó mà việc sàng lọc, kiểm tra sự liêm chính trong thu nhập của những người sắp được bổ nhiệm, bầu cử vào cơ quan hành chính nhà nước là rất quan trọng, các chủ thể trong cơ quan có quyền đặt nghi vấn đối với tài sản của những người sắp và đang được đề cử và có quyền yêu cầu xác minh đối với tài sản, thu nhập của người đó, vì suy cho cùng họ vẫn đang là những người của cơ quan, để giao cơ quan lại cho người đứng đầu khác thì cần phải có sự tin tưởng của toàn thể cơ quan đối với người sắp được đề bạt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">So với Luật PCTN năm 2005 thì quy định về thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản thu nhập tại Luật PCTN năm 2018 là một quy định hoàn toàn mới. Tại Điều 42 Luật PCTN năm 2018 quy định chi tiết về các chủ thể có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị tiến hành xác minh đối với những người mà họ cho rằng cần thiết phải xác minh tài sản, thu nhập. Một điểm chung là những chủ thể có thẩm quyền yêu cầu này có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu xác minh tài sản, thu nhập đối với những người đang được dự kiến được bầu hoặc dự kiến được bổ nhiệm một chức vụ quan trọng của cơ quan, bộ máy điều hành của mình, mà những chức vụ này có ảnh hưởng lớn đối với việc quản lý nhà nước, những chức vụ quản lý có quyền hạn lớn như Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bầu, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm, người dự kiến được bổ nhiệm Phó Tổng Kiểm tốn Nhà nước, hay Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tịa án nhân dân các cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1,v.v... Việc quy định về các chủ thể và tính chất của trường hợp yêu cầu xác minh cụ thể dưới dạng liệt kê cho thấy luật quy định đầy đủ các trường hợp có thể xảy ra trên thực tế, giúp cho các công tác xác định chủ thể có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị được tiến hành nhanh chóng. Nhờ đó mà việc xác minh tài sản, thu nhập phục vụ cho công tác cán bộ được diễn ra thuận lợi, đạt được mục đích.
<i>2.1.2. Nội dung xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </i>
Nội dung của xác minh tài sản, thu nhập cũng được quy định rõ tại Điều 43 của Luật, PCTN năm 2018 như sau:
<small>“</small><i>1. Tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai. </i>
<i> 2. Tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm.” </i>
Xác minh tài sản, thu nhập là việc kiểm tra, làm rõ nội dung kê khai và xem xét, đánh giá, kết luận của cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai và tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm. Do đó mà nội dung xác minh là phần để liệt kê những gì cơ quan kiểm sốt thấy cần phải xác minh lại về nguồn gốc của tài sản đã kê khai trước đó. Các tài sản cũng như nguồn thu nhập có được phải được đảm bảo với tính minh bạch nguồn gốc, những tài sản nào khơng chứng minh được nguồn gốc hay giải trình khơng hợp lý thì xem như tính trung thực
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">trong việc kê khai, giải thích là khơng có. Phần này địi hỏi tính trung thực rất cao cũng như yêu cầu đạo đức nghề nghiệp từ người được xác minh, xác minh lại tính trung thực của lần kê khai liền trước.
Trong quá trình xác minh tài sản, thu nhập, nếu như phát hiện những nghi vấn trong quá trình kê khai tài sản, cơ quan xác minh tài sản, thu nhập có quyền yêu cầu người kê khai phải giải trình. Tổ xác minh cần nghiên cứu kỹ các tài liệu đã có nhằm xác định cụ thể các nội dung cần giải trình. Nội dung yêu cầu giải trình cần tập trung vào các nội dung về quá trình kê khai, quá trình biến động của tài sản và hình thành tài sản tăng thêm để chứng minh về tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm trong thời kỳ xác minh. Để đánh giá được tính trung thực của nội dung cần xác minh, ngoài việc yêu cầu người được xác minh giải trình, Tổ xác minh cũng cần có sự phối hợp của các cơ quan chức năng có liên quan như tổ chức tín dụng, ngân hàng, cơ quan công an, cơ quan quản lý thuế, cơ quan hải quan, cơ quan quản lý về đất đai, đăng ký tài sản hay bất cứ cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác có liên quan để làm rõ thông tin về tài sản, thu nhập của người được xác minh trong từng lĩnh vực cụ thể (tiền gửi ngân hàng, cổ phiếu, trái phiếu, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu như đất đai, xe cộ,...)
<i>2.1.3. Thực hiện xác minh tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước </i>
Việc xác minh tài sản, thu nhập là một bước quan trọng trong q trình kiểm sốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Thơng qua việc xác minh kết nối thông tin từ cơ quan quản lý tài sản nhà nước, sự giám sát của xã hội để đánh giá, kết luận về việc tuân thủ pháp luật, về quá trình hình thành, sử dụng việc sử dụng, chuyển giao tài sản của cá nhân, về tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước. Để làm rõ tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của lời khai và tính xác thực của việc giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc, thẩm quyền và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định, việc thực hiện xác minh tài sản thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước cần được thực hiện một cách đúng trình tự và thủ tục của pháp luật được quy định tại Điều 44 Luật PCTN năm 2018, bao gồm: Ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập và thành lập Tổ xác minh tài sản, thu nhập; Yêu cầu người được xác minh giải trình về tài sản, thu nhập của mình, tiến hành xác minh tài sản, thu nhập; Báo cáo kết quả xác minh tài sản, thu nhập, kết luận xác minh tài sản, thu nhập; Gửi và công khai Kết luận xác minh tài sản, thu nhập.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><i>Thứ nhất, ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập và thành lập Tổ xác minh tài sản, thu nhập.</i>
Điều 45 Luật PCTN năm 2018 đã quy định về quyết định xác minh tài sản thu nhập.
<i>Khoản 1 Điều 45 quy định: “Người đứng đầu Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày có căn cứ xác minh quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 41 của Luật này hoặc 15 ngày kể từ ngày có căn cứ xác minh quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 41 của Luật này.”. Theo đó, trong </i>
thời gian 05 đến 15 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ cho rằng người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước cần thực hiện việc xác minh tài sản, thu nhập, theo những căn cứ xác minh quy định tại Điều 41 thì người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền sẽ phải ra quyết định xác minh tài sản, thu nhập. Việc quy định rõ ràng về thời gian ra quyết định sẽ đảm bảo được quy trình thực hiện việc xác minh, tranh sự chồng chéo, kéo dài thời hạn xác minh đồng thời đảm bảo được sự phối hợp với các công tác trước và sau xác minh như kiểm sốt tài sản, cơng tác thanh tra, kiểm tốn, điều tra, phòng chống tội phạm…
Khoản 2 Điều 45 Luật PCTN năm 2018 đã quy định cụ thể về nội dung có trong Quyết định xác minh tài sản, thu nhập. Theo đó, Quyết định xác minh tài sản thu nhập bao gồm những nội dung sau: a) Căn cứ ban hành quyết định xác minh; b) Họ, tên, chức vụ, nơi công tác của người được xác minh tài sản, thu nhập; c) Họ, tên, chức vụ, nơi công tác của Tổ trưởng và thành viên Tổ xác minh tài sản, thu nhập; d) Nội dung xác minh; đ) Thời hạn xác minh; e) Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ trưởng và thành viên Tổ xác minh tài sản, thu nhập; g) Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phối hợp (nếu có). Những nội dung được quy định trong Quyết định là căn cứ, cơ sở cần thiết cho các giai đoạn thực hiện việc xác minh sau này, đảm bảo quá trình xác minh diễn ra minh bạch, rõ ràng. Trong đó, việc quy định thành lập Tổ xác minh tài sản là rất quan trọng. Tổ Xác minh tài sản, thu nhập được Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập thành lập nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kiểm tra, làm rõ nội dung kê khai, xem xét, đánh giá kết luận tính trung thực, đầy đủ, rõ ràng của bản kê khai tài sản, thu nhập và tính trung thực trong việc giải trình về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo trình tự, thủ tục quy định. Tổ Xác minh tài sản, thu nhập gồm Tổ trưởng và các thành viên. Tổ trưởng Tổ Xác minh tài sản, thu nhập là người đứng đầu Tổ xác minh, giữ vai trò then chốt thực hiện nhiệm vụ xác minh tài sản, thu nhập của cơ quan kiểm sốt tài sản, thu nhập. Theo đó, các yêu cầu về nhiệm vụ và quyền hạn cũng như công việc của Tổ xác minh được quy định cụ thể tại Điều 46 Luật, PCTN năm 2018. Tổ xác minh tài sản, thu nhập gồm có Tổ trưởng và các thành viên. Trường hợp nội dung xác minh có tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị thì người đứng đầu
</div>