Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.62 KB, 101 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
<b><small>1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự .... 17</small></b>
<b><small>1.3. Mục đích và yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ... 27</small></b>
<b><small>1.4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với một số nguyên tắc khác trong tố tụng hành chính ... 34</small></b>
<i><small>1.4.1. Mối liên hệ với nguyên tắc đảm bảo sự vơ tư, khách quan trong tố tụng hành chính ... 35 </small></i>
<i><small>1.4.2. Mối liên hệ với nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính ... 37 </small></i>
<i><small>1.4.3. Mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử ... 39 </small></i>
<i><small>1.4.4. Mối liên hệ với nguyên tắc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính ... 41 </small></i>
<b><small>CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ... 44</small></b>
<b><small>2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự ... 44</small></b>
<i><small>2.1.1. Quy định về quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện theo quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ... 45 </small></i>
<i><small>2.1.2. Quy định của pháp luật về việc Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ ... 47 </small></i>
<i><small>2.1.3. Quy định bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý ... 54 </small></i>
<i><small>2.1.4. Quy định về việc xử lý các hành vi vi phạm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính ... 56 </small></i>
<b><small>2.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự ... 56</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><i><small>2.3.3. Giải pháp, kiến nghị đối với hậu quả pháp lý khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt ... 85 2.3.4. Giải pháp, kiến nghị đối với hoạt động trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý 86 </small></i>
<b><small>KẾT LUẬN ... 88DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 90</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: </b>
Trong báo cáo kết quả giám sát về chuyên đề “Việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo từ ngày 01/7/2016 đến ngày 01/7/2021”, Trưởng Ban Dân nguyện Dương Thanh Bình - Phó Trưởng Đồn thường trực Đoàn giám sát cho thấy xu hướng giải quyết các vụ án, vụ việc liên quan đến hành chính tại cơ quan tòa án gia tăng, trong thời gian qua các VAHC có xu hướng tăng về số lượng và tính chất phức tạp, đối tượng khởi kiện ngày càng đa dạng thuộc nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là trong lĩnh vực đất đai, xử lý vi phạm hành chính về xây dựng. Trong kỳ báo cáo, TAND các cấp đã thụ lý 37.011 vụ; đã giải quyết, xét xử được 30.903 vụ, đạt tỷ lệ 83,5%.
Trong thực tiễn hiện nay khi giải quyết VAHC vẫn còn tồn đọng rất nhiều vấn đề nan giải, gây khó khăn cho người khởi kiện, làm ảnh hưởng đến những quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Có thể thấy VAHC giải quyết cịn chậm, tỷ lệ giải quyết chưa cao, sửa án, hủy án đến từ phía chủ quan của Thẩm phán, việc tham gia tố tụng của người bị kiện chưa kịp thời, chưa đầy đủ, chậm thi hành quyết định, HVHC của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Chính vì những thực trạng đáng báo động trên, đã làm xấu đi bộ mặt của Tịa án Hành chính cũng như gây mất niềm tin của Nhân dân. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của công dân, người dân và đảm bảo trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong giải quyết VAHC, hoàn thiện cơ chế xét xử hành chính một cách khoa học, có tính hệ thống, tồn diện, nâng cao hiệu quả và phù hợp với tình hình phát triển Việt Nam hiện nay, chúng ta buộc phải đề xuất những chính sách cải tiến, các biện pháp đảm bảo và tăng cường chấp hành luật TTHC và thi hành án hành chính, yêu cầu người đứng đầu các cơ quan hành chính thực hiện nghiêm các quy định Luật TTHC, nhất là về trách nhiệm tham gia phiên tịa, đối thoại, giải trình, cung cấp kịp thời đầy đủ, kịp thời hồ sơ, tài liệu có liên quan đến QĐHC bị khởi kiện, thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Tòa án.
<b> 2. Tổng hợp tình hình nghiên cứu trong và ngồi trường </b>
<i>2.1. Tình hình nghiên cứu trong trường </i>
Hiện nay, các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu chi tiết: Nguyên tắc bảo đảm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC. Đây là một đề tài khá rộng, có tính mở, song cũng có nhiều bài viết,
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nhưng chỉ dừng lại một số quyền và nghĩa vụ cụ thể có trong quyền và nghĩa vụ của đương sự được luật quy định. Một số cơng trình nghiên cứu khoa học nổi bật trong Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề trên như: Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật niên khóa 2010 - 2014 về
<i>“Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện trong vụ án hành chính” của tác giả Trương Thị Minh Thùy; bài viết “Một số ý kiến về nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện trong vụ án tố tụng hành chính” của tác giả </i>
Lê Việt Sơn đăng tại Kỷ yếu tọa đàm khoa học pháp luật về giải quyết tranh chấp hành chính ở Việt Nam, Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật
<i>thành phố Hồ Chí Minh; Khóa luận tốt nghiệp cử nhân về “Thủ tục hỏi tại phiên tịa sơ thẩm vú án hành chính” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Duyên năm 2018; Khóa luận tốt nghiệp năm 2016 về “Phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính của tác giả” Dũng Thị Mỹ Thẩm; Khóa luận tốt nghiệp năm 2015 về “Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong vụ án hành chính” của tác giả Lê Thị Thu Nga; Khóa luận tốt nghiệp năm 2016 về “Tranh tụng trong tố tụng hành chính” của tác giả Vũ Thảo Linh;... </i>
<i>2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài trường</i>
Tương tự như đã đề cập ở trên, hiện nay vấn đề liên quan đến đề tài Nguyên tắc đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu nào trong và ngồi trường thực sự nghiên cứu chuyên sâu mà chỉ dừng lại nghiên cứu một số khía cạnh liên quan. Một số bài viết, cơng
<i>trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến vấn đề trên như: bài viết “Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong vụ án tố tụng hành chính” của tác giả Cấn Thùy </i>
Dung đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 4/2011; Khóa luận cử nhân của Trường Đại học
<i>luật Hà Nội niên khóa: 2008 - 2012 về “Đương sự trong vụ án hành chính” của tác giả Đinh Thị Ngọc Yến; bài viết “Phạm vi tranh tụng trong giải quyết vụ án hành chính” của tác giả Nguyễn Văn Chuyên - Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đăng trên Viện kiểm sát nhân tỉnh Bắc Giang; bài viết “Thủ tục hỏi tại phiên tịa sơ thẩm vụ án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015” của tác giả Lê Việt Sơn đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân tối cao; bài viết “Bàn về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục phúc thẩm vụ án hành chính” </i>
của tác giả Lê Thị Mơ, Trần Quốc Văn đăng trên Cổng thông tin điện tử Viện kiểm
<i>sát nhân dân tối cao; bài viết “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính theo </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><i>Luật Tố tụng hành chính năm 2015” của tác giả Lê Việt Sơn đăng trên Tạp chí Tịa </i>
án nhân dân tối cao;...
Như vậy, có thể thấy các cơng trình nghiên cứu ở trên chỉ dừng lại tại một phần của bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC.
<b>3. Mục tiêu của đề tài và phạm vi nghiên cứu</b>
Đề tài nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn nhằm đưa ra một số kiến nghị hữu ích nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận của TTHC nói riêng và pháp luật nói chung, góp phần nâng cao hiệu quả xét xử VAHC của nước ta hạn chế được những khó khăn cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc biệt là người khởi kiện trong VAHC.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một vấn đề lớn, có nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên, giới hạn trong nghiên cứu khoa học của sinh viên, đề tài xác định giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Nghiên cứu chủ yếu làm rõ những vấn đề mang tính lý luận, các nội dung cơ bản được quy định trong pháp luật TTHC Việt Nam về nguyên tắc quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự và thực tiễn nguyên tắc quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự ở Việt Nam. Những nội dung liên quan đến thực tiễn về nguyên tắc quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nghiên cứu sẽ giới hạn trong phạm vi là Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài sẽ đề cập đến những bất cập vẫn còn tồn đọng trong thực tiễn xét xử VAHC, từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị để hoàn thiện, bổ sung.
<b>4. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu</b>
Nghiên cứu được dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin. Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác nhau và liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin đã được phân tích tạo ra một hệ thống lý thuyết về đối tượng.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp các quy định pháp luật có liên quan cũng như các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn.
Phương pháp thu thập số liệu được sử dụng để tìm kiếm và tổng hợp thông tin, kiến thức, lý thuyết từ các nguồn đã có sẵn từ đó xây dựng lý luận và chứng minh và tổng hợp tạo thành các luận điểm. Tìm kiếm thơng tin trong sách liên quan, tìm kiếm
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">trên internet, tham khảo kết quả của các nghiên cứu khoa học khác, phỏng vấn trực tiếp,…
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh quan điểm về khái niệm của chủ đề với các nước và đánh giá các quy định của pháp luật về chủ đề qua các thời kỳ.
<b>5. Bố cục của đề tài nghiên cứu khoa học </b>
Cơng trình nghiên cứu được nhóm tác giả chia làm hai chương:
1. Chương 1: Khái quát chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
2. Chương 2: Thực trạng của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp
<b>pháp của đương sự và kiến nghị </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ </b>
<b>1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính </b>
<i>1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính </i>
Hoạt động hành chính mang tính chất quyền lực công được điều chỉnh bằng phương pháp quyền uy - phục tùng, trong đó, các chủ thể tham gia vào mối quan hệ này có một bên đại diện cho cơ quan nhà nước là cá nhân, tổ chức nhà nước có thẩm quyền ban hành QĐHC, HVHC, một bên chính là cá nhân, tổ chức chịu sự tác động của QĐHC, HVHC đó. Xuất phát tính chất đối lập của hai bên chủ thể, có thể nhận thấy rõ sự bất bình đẳng trong vị trí pháp lý của hai bên. Điều này cũng dẫn đến một hệ trạng tiêu cực cho hoạt động hành chính của nước ta đó là việc ban hành các QĐHC, HVHC xâm phạm đến quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Do đó, vai trị xét xử hành chính của Tịa án đóng vai trị vơ cùng quan trọng với mục đích vừa đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước phát huy chức năng một cách tốt nhất vừa đảm bảo quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức không bị xâm phạm. TTHC là quá trình thực hiện những hoạt động khác nhau của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng nhằm thụ lý và giải quyết VAHC một cách đúng đắn theo quy định của pháp luật. Nắm bắt được vị thế trọng yếu của cơ quan xét xử, các nhà lập pháp nước ta cũng hình thành nên những cơ chế, nguyên tắc cơ bản để điều chỉnh hoạt động TTHC được thực hiện một cách khách quan, thực hiện đúng mục tiêu bảo vệ công bằng, công lý cho xã hội…
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản, không thể thiếu trong lĩnh vực TTHC nói riêng và trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay. Dưới sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội hiện đại, nhu cầu được bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHC ngày càng được coi trọng và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Không chỉ riêng Việt Nam, pháp luật thực định của các nước trên thế giới cũng quy định nguyên tắc này như một cơ chế bắt buộc phải tuân theo để đảm bảo cho quyền và lợi ích của đương sự khơng bị xâm phạm, tối ưu hóa việc đương sự chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của để bảo vệ cho lợi ích chính đáng và hợp pháp của mình. Đây là ngun tắc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ba chủ thể sau đây:
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>Thứ nhất, đối với đương sự, cơ chế bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của </i>
đương sự một cách tốt nhất và mang tính thiết thực cao.
<i>Thứ hai, đối với xã hội, đây nguyên tắc là nâng cao tính công bằng dân chủ, </i>
thực hiện hoạt động tuân theo pháp luật và đồng thời cũng thể hiện tinh thần thượng tơn pháp luật.
<i>Thứ ba, đối với Tịa án: là nguyên tắc cơ bản, là hệ tư tưởng xuyên suốt và thống </i>
nhất trong quá trình giải quyết vụ án, giúp Tòa án đưa ra quyết định khách quan, linh hoạt khi xét xử, ban hành phán quyết công bằng nhất cho đương sự, tối ưu hóa hệ thống Tịa án hành chính Việt Nam.
Xuất phát từ tính thiết yếu cũng như vai trị quan trọng của nguyên tắc này, Nhà nước ta cùng dành sự quan tâm, coi trọng và bảo đảm thực hiện. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua các quy định được ban hành trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Bên cạnh đó, nguyên tắc này cũng được cụ thể hóa ngay trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các VAHC và Luật TTHC năm 2015. Mặc dù nguyên tắc này đóng vai trò chủ chốt trong hoạt động TTHC như vậy, tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu khai thác và làm rõ nội hàm cũng như bản chất để đề xuất đưa ra các giải pháp, kiến nghị, hoàn thiện nguyên tắc này một cách ưu việt nhất.
Để làm rõ ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC, chúng ta cần xuất phát từ nguồn gốc ngữ nghĩa của từ trong tiếng Việt. Theo Từ điển tiếng việt của Viện Ngơn ngữ học do tác giả Hồng
<b>Phê chủ biên, cụm từ “nguyên tắc” được hiểu là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải </b>
tuân theo trong một loạt việc làm”<small>1</small>, hay có thể nói cách khác “nguyên tắc” là những
<b>điều mà chúng ta cần phải cần phải tuân theo, không được làm trái. “Bảo đảm” là làm </b>
cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết<small>2</small>. Bảo đảm mang hàm ý tạo sự chắc chắn cao. “Quyền” là “điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận cho được hướng, được làm, được địi hỏi.”<small>3</small> Để giải thích mang tính khoa học và hàn lâm hơn, từ điển Luật học giải thích như sau: quyền là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với các nhân, tổ chức để theo dó cá nhân được hưởng, được làm, được địi hỏi mà
<small>1</small><i><small> Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, tr. 649. </small></i>
<small>2</small><i><small> Viện Ngôn ngữ học (2006), Tlđd (01), tr. 38. </small></i>
<small>3</small><i><small> Viện Ngôn ngữ học (2006), Tlđd (01), tr. 815. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">khơng ai ngăn cản, được hạn chế.<small>4</small> Bên cạnh đó, cụm từ “Bảo vệ lợi ích hợp pháp” được hiểu một cách cơ bản là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ gìn những điều có lợi phù hợp với quy định của pháp luật luôn được nguyên vẹn.<small>5</small>
Dựa theo nghĩa của từ điển Tiếng Việt, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC được hiểu cơ bản là những điều mà mà chúng ta cần phải tuân thủ để giữ gìn và bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia vào VAHC không bị xâm phạm. Như vậy, khái niệm nguyên tắc đó nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã làm ngữ nghĩa của từng cụm từ trong câu, tuy nhiên dưới sự gán ghép của của câu chữ thông thường, chỉ mang ý nghĩa khái quát chung, đã không làm sáng tỏ nội hàm của nguyên tắc này trong lĩnh vực TTHC, bên cạnh đó, cũng chưa giúp người đọc có thể hiểu rõ và hình dung bản chất của nguyên tắc này.
Qua tình hình khảo sát nghiên cứu hiện nay, chưa có các cơng trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu bao quát về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong lĩnh vực TTHC mà chỉ dừng lại một hoặc một vài khía cạnh của nguyên tắc này. Dù không trực tiếp đề cập trực tiếp đến nguyên tắc nhưng thơng qua những khía cạnh mà các tác giả nghiên cứu, ta có thể nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ của nguyên tắc thể hiện dưới nhiều cách thức, góc độ khác nhau được thể hiện qua các quy định của pháp luật.
Tiếp cận dưới góc nhìn của một trong các chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đương sự, tác giả Lê Quốc Việt cho rằng: “Trong quá trình giải quyết VAHC người đại diện của đương sự có thể tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cịn có một chủ thể khác cũng tham gia tố tụng với tư cách này là đó là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHC.”<small>6</small> Dù không đề cập đến khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương, tuy nhiên khi xét dưới khía cạnh nghiên cứu về đề tài người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tác giả cũng phần nào cho chúng tiếp xúc được một trong các quyền của đương sự có mối quan hệ liên kết mật thiết đối với nguyên tắc này, là cơ để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
<small>4</small><i><small> Đặng Xn Sơn (2014), Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính, Khóa luận tốt nghiệp, </small></i>
<small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.5. </small>
<small>5</small><i><small> Viện Ngơn ngữ học (2006), Tlđd (01), tr.40. </small></i>
<small>6</small><i><small> Lê Quốc Việt (2014), Người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án </small></i>
<i><small>hành chính, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.7. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Ngồi ra, tác giả Đặng Xuân Sơn cũng giúp ta hiểu thêm bản chất nguyên tắc dưới khía cạnh của quyền và nghĩa vụ của đương sự. Cụ thể, tác giả trình bày quan điểm của mình như sau: “Theo chúng tơi, có thể đưa ra khái niệm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC như sau: quyền và nghĩa vụ của đương sự trong VAHC là những quy định cho phép đương sự được hưởng, được thực hiện và bắt buộc phải thực hiện khi tham gia vào quan hệ pháp luật.”<small>7</small>
Theo đó, khi tiếp cận một quyền cơ bản của đương sự trong VAHC đó là quyền cung cấp chứng cứ, tác giả cũng nhấn mạnh rằng: “Cung cấp chứng cứ là quyền của đương sự là bởi vì trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự thực hiện việc cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của đương sự, từ đó, đương sự được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đương sự được tự nguyện quyết định và bảo đảm thực hiện quyền này, đương sự cung cấp chứng cứ càng đầy đủ thì quyền, lợi ích hợp pháp của họ cũng càng được đảm bảo.” Như vậy, có thể hiểu một cách cơ bản, thơng qua thực hiện tốt và đúng hình thức, đúng thủ tục các quyền và nghĩa vụ của đương sự, điều này cũng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách thiết thực nhất, hơn nữa, đương sự có sự chủ động trong việc có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách hiệu quả. Có thể thấy, qua hai cơng trình nghiên cứu trên đều có điểm chung là khơng trực tiếp nhắc tới nguyên tắc mà chỉ đề cập bóng gió về một phần khía cạnh nào đó của ngun tắc nhưng đồng thời cũng cho ta thấy nguyên tắc này có mối liên kết chặt chẽ đối với các quy định của Luật TTHC Việt Nam trên tinh thần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bên cạnh đó, tác giả Võ Tấn Đào với cũng đưa ra khái niệm về quyền và lợi ích, cụ thể như sau: “quyền và lợi ích hợp pháp là những điều mà pháp luật công nhận cho được hưởng, được làm, có lợi cho một chủ thể và đúng với pháp luật.” Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh: “quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thừa nhận là một nguyên tắc hiến định và được thừa nhận trong các văn bản tố tụng, tạo cơ sở bảo đảm quyền này được thực thi trên thực tế.”<small>8</small> Với quan điểm như trên, tác giả đã giúp hình thành nên những khái niệm sơ khai về quyền và lợi ích hợp pháp chính là những điều mà pháp luật cho phép để thông qua đó bảo vệ quyền lợi của chính mình khi tham gia vào VAHC. Bên cạnh đó, tác giả cũng đồng thời khẳng định nguyên tắc này có cơ chế để thi hành và đảm bảo thực hiện trên thực tế, không
<small>7</small><i><small> Đặng Xuân Sơn (2014), Tlđd (4), tr.6. </small></i>
<small>8</small><i><small> Võ Tấn Đào (2014), Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Đương sự trong tố tụng hành chính, Khóa </small></i>
<small>luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 3. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">phải là quy định mang tính hình thức. Dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm của nguyên tắc mà chúng ta đang muốn tìm hiểu, tuy nhiên, thơng qua khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp chúng ta hình thành nên mối liên hệ và có cách nhìn khách quan và khoa học hơn, hình thành những ý nghĩa sơ khai đối với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Quyền được bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đây cũng là một nguyên tắc hiến định được đảm bảo thực hiện khơng chỉ trong TTHC mà cịn các ngành khác: tố tụng hình sự, tố tụng dân sự… Do đó, nguyên tắc này cũng là một trong kim chỉ nam được đảm bảo cho hoạt động tố tụng. Cụ thể, tác giả Nguyễn Cơng Bình cũng đưa ra quan điểm của mình về khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền và bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong tố
<i>tụng dân sự như sau: “...nội dung đầy đủ của nguyên tắc là bảo đảm cho các đương sự thực sự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án, bảo đảm cho đương sự được ủy quyền cho người khác đại diện trong tố tụng, được người khác hỗ trợ pháp lý và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện các quyền đó.”</i><small>9</small>
Có thể nói, khái niệm do tác giả đưa ra đã làm rõ được bản chất của nguyên tắc này ở lĩnh vực tố tụng dân sự. Tuy lĩnh vực tố tụng dân sự và TTHC là ngành lĩnh vực khác nhau, quyền tố tụng của mỗi ngành là khác nhau nhưng dưới góc độ cơ sở lý luận, đây là một khái niệm có thể tham khảo để làm nền tảng hình thành nên khái niệm của riêng Luật TTHC.
Tác giả Vũ Thư và tác giả Lê Thương Huyền có cách tiếp cận nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một cách trực diện như sau: “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những quyền dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa, làm bảo đảm cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách khách quan, công bằng và nhân đạo”.<small>10</small> Cũng tương tự như cách tiếp cận nguyên tắc của hai tác giả trên, tác giả Đoàn Tấn Minh bày tỏ quan điểm của mình về khái niệm của nguyên tắc này: “Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là quyền về tố tụng mà pháp luật dành cho đương sự có thể chống
<small>9 Nguyễn Cơng Bình (2002), “Ngun tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong </small>
<i><small>tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học (số 01), tr. 3. </small></i>
<small>10</small><i><small> Vũ Thư, Lê Thương Huyền (2016), Bình luận Khoa học Luật Tố tụng hành chính năm 2015, NXB Hồng </small></i>
<small>Đức, tr. 25. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">lại những qui kết của các bên đương sự hoặc nhằm giảm nhẹ sự tác động xấu của QĐHC, HVHC đối với quyền và lợi ích hợp pháp của họ.”<small>11</small>
Cả giáo trình giáo trình môn Luật TTHC của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đều không định nghĩa như thế nào là nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHC. Trong đó, theo giáo trình Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh chỉ ghi nhận nguyên tắc này dưới các hình thức được quy định trong luật. Riêng, giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội cho chúng ta nhìn nhận về nguyên tắc này thông qua mối liên hệ với Hiến pháp và các điều kiện địi hỏi từ chính ngun tắc này, cụ thể là:
<i>Thứ nhất, các đương sự có quyền tự do trong việc tự mình hay nhờ luật sư hoặc </i>
người khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
<i>Thứ hai, các cơ quan, người tiến hành TTHC có trách nhiệm tơn trọng và tạo </i>
các điều kiện cần thiết để các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện có hiệu quả việc đưa ra các quan điểm, yêu cầu, lập luận, chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của VAHC.
<i>Thứ ba, bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người </i>
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp những đương sự này có người đại diện thì người đại diện có thể tự mình hay nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà họ đại diện. Trong trường hợp những đương sự này khơng có người đại diện thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị UBND cấp xã nơi họ cư trú cử người giám hộ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.<small>12</small>
Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ trong VAHC, trong đó người bị kiện là cá nhân, tổ chức nhà nước nên việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cụ thể là người khởi kiện một là rất cần thiết. Để bảo đảm trên thực tế có thể thực hiện được nguyên tắc này, các nhà lập pháp nước ta cũng thể hiện sự chú trọng nghiêm túc khi ban hành các quy định pháp luật có liên quan. Cụ thể, tại Điều 3 Hiến pháp
<small>11</small><i><small> Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Diệp (2015), Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành chính và các văn bản </small></i>
<i><small>áp dụng giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tịa án, NXB Lao động, tr. 17. </small></i>
<small>12</small><i><small> Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân </small></i>
<small>dân, tr. 77. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><i>nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, công nhận, và tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân…” và được cụ thể hóa trong khoản 7 Điều 103 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”. </i>
Từ đây có thể khẳng định rằng đây là một trong những quyền cơ bản của cơng dân hay trong trường hợp này chính là đương sự trong VAHC.
Không chỉ là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 mà nguyên tắc này còn được thừa nhận trong văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác cụ thể là tại Điều 23 Pháp lệnh thủ tục giải quyết VAHC:
<i>“1- Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. </i>
<i>2- Một người có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của những người đó khơng đối lập nhau. </i>
<i>3- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền: a) Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện; </i>
<i>b) Đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch theo quy định tại các điều 16 và 27 của Pháp lệnh này; c) Cung cấp tài liệu, chứng cứ, đề đạt yêu cầu, đọc hồ sơ vụ án, sao chép những điểm cần thiết trong hồ sơ vụ án, tham gia phiên tồ.” </i>
Bên cạnh đó, Điều 14 Luật Tổ chức TAND năm 2014 cũng quy định về trách nhiệm chứng minh tội phạm và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự. Để đảm bảo nguyên tắc có tính thực thi cao và được áp dụng trên thực tế, đặc biệt là trong VAHC, Luật TTHC năm 2015 cũng ghi nhận tại Điều 19 Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
<i>“1. Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện theo quy định của Luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. </i>
<i>2. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. </i>
<i>3. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><i>4. Không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính.” </i>
Quy định này được đánh giá là một quy định hồn chỉnh, mang tính tổng hợp và thể hiện đầy đủ các khía cạnh của nguyên tắc này, tuy nhiên, quy định này sẽ ưu việt hơn nếu đề cập đến khái niệm, tạo cho người sử dụng luật dễ dàng tiếp nhận và áp dụng hiệu quả.
Có thể nhận thấy rằng dưới khía cạnh các quy định của pháp luật hay giáo trình của các trường đại học, các tài liệu nghiên cứu khoa học, sách báo cũng chưa đề cập cho chúng ta một cách rõ ràng thế nào là nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHC. Dựa trên sự tham khảo từ các nguồn tài liệu trên kết hợp với ngữ nghĩa của từ theo từ điển Tiếng Việt và đặt trong mối quan
<i>hệ TTHC, nhóm tác giả xin trình bày khái niệm nguyên tắc này như sau: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là nguyên tắc tư tưởng, quan điểm mang tính chỉ đạo xun suốt trong q trình xây dựng, áp dụng và hiện pháp luật TTHC nhằm mục đích làm cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện được quyền, được hưởng, được làm những điều có lợi khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC thông qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTHC được pháp luật quy định.” </i>
Như vậy, với khái niệm trên đã giải thích đầy đủ và rõ ràng hơn về nội hàm của nguyên tắc này trong mối quan hệ giữa pháp luật hành chính. Nội dung đầy đủ của nguyên tắc này là đảm bảo cho đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền của mình để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp của mình trong quá trình tham gia vụ án. Để bảo đảm quyền và lợi ích của đương sự được triển khai thực hiện hiệu quả trên thực tế, điều này cần sự có sự kết hợp, phối hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan.
<i>1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính </i>
<i><b>Thứ nhất, là một trong những nguyên tắc cơ bản trong Luật TTHC Việt Nam. </b></i>
Một trong dấu hiệu đặc trưng của ngành luật TTHC đó chính là điều chỉnh bằng phương pháp quyền uy phục tùng thể hiện trong mối quan hệ trong mối quan hệ giữa Tòa án với các chủ thể khác. Nhà nước quản lý bằng pháp luật và pháp luật là công cụ quan trọng nhất trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội. Do đó, sự phối hợp và tuân theo các quy định các nguyên tắc là nhân tố then chốt để hoạt động quản lý nhà nước
<i><b>diễn ra được hiệu quả. </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Giáo trình Luật TTHC của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Các nguyên tắc của TTHC Việt Nam là những tư tưởng mang tính chỉ đạo, được quy định trong Luật TTHC năm 2015 mà các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng cũng như mọi cá nhân, tổ chức có liên quan phải tuân thủ khi tham gia vào quá trình TTHC.
Các nguyên tắc của TTHC được xây dựng trên cơ sở của nguyên tắc chung của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như nguyên tắc hoạt động của tư pháp và yêu câu mang tính đặc thù của hoạt động TTHC, thể hiện bản chất dân chủ, vài trò và đặc trưng của TTHC Việt Nam.”<small>13</small>
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ và lợi ích hợp pháp của đương sự vừa là một nguyên tắc hiến định vừa là nguyên tắc chung được áp dụng xuyên suốt và rộng rãi khơng chỉ trong VAHC mà cịn có ngành tiêu biểu khác: dân sự, hình sự… Chính sự quy định chặt chẽ của pháp luật liên quan đến nguyên tắc này cũng đã nói lên tầm
<i><b>quan trọng và tính thiết yếu của nó trong việc đảm bảo thực thi trên thực tế. </b></i>
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHC là hệ tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong hệ thống các quy định của pháp luật, hướng đến một xã hội công bằng dân chủ. Trong một VAHC sẽ có nhiều mối quan hệ xã hội phát sinh, do đó, tính chất quyền lực cũng như mục đích tham gia của các bên chủ thể cũng rất đa dạng. Vì vậy, để đảm bảo tính cơng bằng cho xã hội, bảo đảm quyền lực nhà nước được thực thi phù hợp, bảo đảm vụ án được diễn ra một cách nhanh chóng khách quan, bảo đảm quyền và lợi ích của đương sự cơng bằng nhất. Trong khn khổ này, chúng ta có thể khẳng định đây là một nguyên tắc buộc tất cả
<i><b>các chủ thể tham gia q trình TTHC tơn trọng, tuân thủ và nghiêm túc thực hiện. </b></i>
<i>Thứ hai, là cơ chế để đương sự tự chủ động bảo vệ quyền bảo vệ và lợi ích hợp </i>
pháp của mình một cách tốt nhất.
Căn cứ phát sinh VAHC xuất phát từ khi người khởi kiện hợp lệ, có căn cứ cho sự xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của của cơ quan nhà nước. Do đó, việc quy định nguyên tắc sẽ giúp đương sự có cách nhìn khách quan, định hướng rõ ràng
<i><b>để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ cho lợi ích của mình. </b></i>
Theo tác giả Nguyễn Cơng Bình, “quyền, lợi ích là cơ sở để con người tồn tại trong xã hội nên khi tham gia vào các quan hệ xã hội mỗi người đều quan tâm đến
<small>13</small><i><small> Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, NXB. </small></i>
<small>Hồng Đức, tr.220. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b>quyền, lợi ích nhất định.” Vậy nên, khi lợi ích bị xâm phạm thì điều mà đương sự </b>
mong muốn cơ bản nhất là khôi phục những gì bị xâm phạm. Trong mỗi VAHC, quyền và lợi ích có tính chất đối lập nhau, các chủ thể sẽ cố gắng làm triệt tiêu quyền lợi của nhau để giành thắng lợi về phía bản thân mình, do đó, nguyên tắc này sẽ giúp cho các đương sự định hướng trình tự phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, việc bảo đảm cho các đương sự được thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng đóng vai trị vơ cùng quan trọng khi đương sự tự mình tiến hành thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng, từ đó, các đương sự mới đưa ra được yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ để
<i><b>bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước Tịa án một cách tốt nhất. </b></i>
Trong suốt quá trình tiến hành giải quyết vụ án, có nhiều cách khác nhau để đương sự có thể phát huy nguyên tắc này một cách tối đa. Trên thực tế giải quyết VAHC, đặc biệt là những vụ án phức tạp, đương sự khơng thể tự mình bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của, do đó sẽ cần sự hỗ trợ của Tịa án và những người khác. Có hai con đường cơ bản để đương sự có thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp
<i><b>pháp của mình hiệu quả: </b></i>
<i>Một, tự bảo vệ hay tự thực hiện những công việc cần thiết để đảm bảo quyền lợi </i>
<i><b>của chính mình một cách tốt nhất (trong khn khổ quy định của pháp luật); </b></i>
<i>Hai, thông qua người khác (có thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp </i>
của đương sự hay Tòa án). Như vậy, sự tồn tại của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC là một trong những thiết chế bảo đảm cho quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.<small>14</small>
Và điều này không được thừa nhận trong nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà còn được áp dụng rộng rãi trên thực tế. Trong bất cứ trường hợp nào, khơng ai có quyền kể cả Tịa án cản trở, can thiệp hay gây khó khăn trong việc đương sự tiến hành các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
<i><b>Thứ ba, nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các bên đương sự. </b></i>
Bên cạnh với phương pháp điều chỉnh quyền uy - phục tùng thể hiện trong mối quan hệ giữa Tòa án với các chủ thể khác, phương pháp bình đẳng thể hiện trong mối quan hệ giữa các đương sự trong cùng một vụ án. Như vậy, các bên đương sự đều bình đẳng với nhau về vị trí pháp lý cũng như quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, VAHC lại có một nét đặc trưng rất đặc biệt so với vụ án dân sự và hình sự, đó là
<small>14</small><i><small> Võ Tấn Đào (2014), Tlđd (8), tr. 2. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">người bị kiện trong VAHC là cơ quan, cá nhân, tổ chức, cá nhân có QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, do đó sự cơng bằng giữa người khởi kiện và người bị kiện là không tuyệt đối<small>15</small><i><b>. </b></i>
Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng, công khai. Để làm được điều này, Tịa án phải là cơ quan có thẩm quyết xét xử độc lập, không thiên vị bất kỳ cá nhân nào và có cái nhìn cơng tâm, xét xử tn theo đúng pháp luật. Vì vậy, dù là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi liên quan đều được pháp luật bảo vệ như nhau. Khơng ai có quyền hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC. Do đó, chính cơ quan nhà nước cũng phải tạo điều kiện tối ưu để đương sự có thể nhận thức, tiếp cận và thực hiện nguyên tắc này thông qua các quyền và nghĩa vụ của mình một cách có hiệu quả, mang lại những giá trị pháp lý cho cộng đồng và xã hội.
<i>Thứ tư, việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tịa án ln </i>
<i><b>gắn liền với trách nhiệm của Tịa án. </b></i>
Tịa án chính là chủ thể được nhà nước trao quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực hành chính, là cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng và đưa ra các quyết định có giá trị bắt buộc thi hành đối với các chủ thể tham gia VAHC. Gánh vác sứ mệnh cao cả cũng như mức độ ảnh hưởng trong hệ thống tư pháp của nước nhà, Tịa án càng phải đặt mình trong trong vị thế độc lập và đưa ra những phán quyết cơng bằng nhất.
Có thể nhận thấy rằng, Tịa án là chủ thể chi phối hoạt động trong toàn bộ q trình VAHC được diễn ra, do đó mức độ đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự cũng phụ thuộc rất nhiều vào Tòa án. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền ban hành ra các quyết định về việc đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế, đương nhiên là sự chi phối này phải đúng với quy định của pháp luật. Sự phụ thuộc
<i><b>của đương sự vào Tịa án là điều khơng thể tránh khỏi đối với bất kỳ VAHC nào. </b></i>
Có ý kiến nhận định rằng, quyền con người khơng tự thân nó có thể vận hành trong thực tiễn nếu khơng có sự tác động từ phía chủ thể cơng quyền với vai trị là người điều khiển sự vận động các quy tắc hướng xã hội có trật tự. Bất kỳ một quyền nào của con người, quyền công dân cụ thể nào nếu không được quy định các yếu tố
<small>15</small><i><small> Phạm Phương Thảo (2022), Tính độc lập của hội đồng xét xử trong vụ án hành chính, Khóa luận tốt nghiệp, </small></i>
<small>Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 11. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">bảo trợ cần thiết về mặt thủ tục thực hiện cũng như các thiết chế đảm bảo thực hiện sẽ khơng thể nào có sức sống thực tế.<small>16</small>
Và chính trong nội hàm của nguyên tắc này cũng vậy, chúng ta cần một sự điều hướng để đi đúng đường mà con đường mà chúng ta hướng đến chính là quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tịa án chính là chủ thể đại diện cho công quyền, sự vận
<i><b>hành và đảm bảo quyền bảo vệ và lợi ích của đương sự. </b></i>
Khơng thể phủ nhận rằng vai trị và trách nhiệm của Tịa án trong giải quyết VAHC là vơ cùng quan trọng, nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích đương sự phụ thuộc rất nhiều vào Tòa án. Điều này chỉ được đảm bảo khi và chỉ khi Tòa án thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ của chính cơ
<i><b>quan mình. </b></i>
Có thể thấy, quyền lực của Tịa án là vô cùng cao, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết của vụ án, vậy nên để đảm bảo Tịa án là một cơng cụ hữu hiệu, ưu việt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhà nước ta cũng hình thành những cơ
<i>chế để kiểm soát tại khoản 4, 5 Điều 22 Luật TTHC năm 2015: “Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy </i>
<i><b>cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. </b></i>
<i>Người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ quan có người có hành vi vi phạm pháp luật đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo </i>
<i><b>quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.” </b></i>
Khi tham gia vào VAHC, có rất nhiều điều luật, quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự nhưng tuy nhiên liệu đương sự có thật sự đảm bảo quyền và lợi ích của mình một cách trọn vẹn nhất. Như đã nhấn mạnh ở trên, nguyên tắc này có thực sự hết giá trị hay không là phụ thuộc rất nhiều các yếu tố khách quan, chủ quan nhưng quan trọng nhất vẫn là đương sự, người hỗ trợ đương sự và đặc biệt là cơ quan có
<i><b>thẩm quyền quyết định là Tịa án. </b></i>
<i>Thứ năm, bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự gắn liền với </i>
<i><b>việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTHC. </b></i>
<small>16</small><i><small> Nguyễn Thị Thúy Hằng (2019), Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong Tố tụng dân sự, Luận án Tiến </small></i>
<small>sĩ, tr. 32. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Như phần trình bày phía trên, có thể nói ngun tắc này phụ thuộc rất nhiều vào cơ quan có thẩm quyền xét xử là Tịa án, tuy nhiên, nếu chỉ có Tịa án thực thi nguyên tắc, điều hành, tạo điều kiện cho đương sự mà khơng có sự chủ động của đương sự thì cũng rất khó để đảm bảo ngun tắc này thực thi trên thực tế. Sự chủ động ở đây đó chính là việc đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy
<i><b>định của pháp luật. </b></i>
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sư là nguyên tắc chung và gắn liền với nguyên tắc này chính là quyền và nghĩa vụ có liên quan mà những quyền và nghĩa vụ này được cụ thể hóa trong luật, làm căn cứ pháp lý, hơn thế nữa, các quyền và nghĩa vụ này có mối liên hệ chặt chẽ, gắn kết với nhau, tạo nên sự
<i><b>đồng nhất về nội dung và trình tự để đương sự có thể nhanh chóng thực hiện. </b></i>
Ở góc độ dân sự, theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng ghi nhận rằng: Các quyền tố tụng cơ bản được pháp luật trao cho đương sự để bảo vệ quyền, lợi ích dân sự của mình trong tố tụng bao gồm được quyết định về yêu cầu tố tụng trước Tòa án; được chứng minh, bảo vệ quyền lợi trước Tòa án; được tiếp cận chứng cứ, tài liệu; được tranh tụng; được xét xử bởi một Tòa án độc lập, khách quan trong một thời hạn hợp lý; được đề xuất với Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp; được hịa giải với nhau về quyền, lợi ích tranh chấp; kháng cáo, khiếu nại, trong đó có khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm…<small>17</small>
Theo đó, Luật TTHC chính quy định rất nhiều quyền và nghĩa vụ khác nhau có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp buộc đương sự phải thực hiện và tuân theo. Đây chính là công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, làm cho đương sự chắc chắn được quyền lợi pháp của mình thơng qua việc thực hiện các quyền và nghĩa cụ cơ bản như: quyền đưa ra yêu cầu, thay đổi yêu cầu, cung cấp chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình… Do đó, để đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương cũng gắn liền với việc đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ của đương sự được thực hiện trên thực tế.
<b>1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự </b>
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Đây là nguyên tắc quan trọng nhằm
<small>17</small><i><small>Nguyễn Thị Thúy Hằng (2019), Tlđd (16), tr. 45. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong một vụ tranh chấp pháp lý. Trong một xã hội pháp quyền, đương sự được coi là người có quyền được bảo vệ và được đối xử cơng bằng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của đương sự, pháp luật phải đặt ra các nguyên tắc cụ thể để bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng đòi hỏi các bên liên quan phải tuân thủ các quy định pháp luật và đảm bảo rằng quy trình giải quyết vụ tranh chấp được thực hiện đúng quy trình pháp lý.
Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những biểu hiện của dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quan trọng cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách khách quan, công bằng và nhân đạo. Trong TTHC, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Luật TTHC quy định rất rõ nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có cơ sở pháp lý được ghi nhận tại Điều 19 Luật TTHC năm 2015:
<i>“1. Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện theo quy định của Luật này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. </i>
<i>2. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. </i>
<i>3. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tịa án. </i>
<i>4. Khơng ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính.” </i>
Theo đó, ngun tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thể hiện trên các nội dung cơ bản như sau:
<i>Thứ nhất, đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và </i>
lợi ích hợp pháp của mình trong TTHC. Trong hệ thống pháp luật của một đất nước, quyền tự bảo vệ và quyền nhờ người khác bảo vệ là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều này cũng được thể hiện trong Luật TTHC với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Quyền tự bảo vệ là quyền của đương sự tự mình tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Điều này cho phép đương sự có thể chủ động đưa ra các lập luận, chứng minh sự vi phạm của bên còn lại và đề xuất các biện pháp khắc phục. Quyền tự bảo vệ còn cho phép đương sự được tiếp cận với các tài liệu, chứng cứ và thông tin liên quan đến vụ
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">việc để có thể đưa ra các lập luận và chứng minh hợp lý. Tự bảo vệ là quyền của đương sự trong việc chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, Luật TTHC đã quy định về vấn đề bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự. Vậy, tại sao Luật TTHC lại cho phép đương sự có thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp? Con người là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, quyền và lợi ích là cơ sở để con người tồn tại trong xã hội nên khi tham gia vào các quan hệ xã hội mỗi người đều quan tâm đến quyền và lợi ích của mình. Việc Nhà nước thừa nhận các quyền, lợi ích của các chủ thể là rất cần thiết và đương nhiên. Vì đương sự là những chủ thể bị xâm phạm trực tiếp bởi các QĐHC, HVHC được thực hiện, cho nên, đương sự phải được cho phép tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, do đương sự là người bị xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ nên chính đương sự là người biết, nắm được rõ nhất những nội dung, nguyên nhân tác động trực tiếp đến quyền lợi của mình và có thể đưa ra những u cầu, cách thức để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cho nên, đương sự có thể tự bảo vệ mình một cách thuận lợi và tốt nhất. Trong trường hợp đương sự có người đại diện thì người đại diện của đương sự cũng có quyền đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bên cạnh việc đương sự có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì đương sự cũng có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho mình. Trong một số trường hợp, đương sự không tự tin hoặc không đủ năng lực để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, trường hợp này, đương sự có quyền nhờ người khác bảo vệ thay mình. Điều này cho phép đương sự có thể chọn lựa một người luật sư hay một người đại diện pháp lý hoặc một người thân có đủ năng lực và kinh nghiệm để tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp. Quyền nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cũng cho phép đương sự được tiếp cận với các tài liệu, chứng cứ và thông tin liên quan đến vụ việc.
Do không phải đương sự nào cũng có thể tự mình tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất, cho nên, đương sự có thể mời luật sư. Luật sư tham gia TTHC với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi được đương sự yêu cầu và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Khi đó, luật sư có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm theo quy định của TTHC. Luật sư là những người có kiến thức pháp luật, chun mơn, kỹ năng để thực hiện việc tiếp cận tài liệu, chứng cứ, đưa ra ý kiến quan điểm bảo vệ quyền, lợi ích cho đương sự, có thể giúp cho đương sự được bảo vệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">quyền và lợi ích hợp pháp của mình tốt hơn. Hoặc trong một số trường hợp, đương sự có thể tự bảo vệ nhưng lại khơng có đủ kiến thức chun mơn, vẫn còn hạn chế về pháp luật nên họ nhờ đến luật sư để bảo vệ. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự có thể là luật sư, hay trợ giúp viên pháp lý, hoặc có thể là bất kỳ người nào nhưng với điều kiện người đó là cơng dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có kiến thức pháp lý, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, khơng thuộc các trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, khơng là cán bộ, cơng chức trong các ngành Tịa án, Kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an,… Thông thường thì đây là những người có năng lực chun mơn, có hiểu biết rõ về pháp luật nên sự tham gia của họ sẽ góp phần lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời nâng cao chất lượng xét xử hành chính cũng như có thể giải quyết VAHC một cách thuận lợi và tốt nhất.
Vậy tại sao luật lại quy định thêm “người khác có đủ điều kiện” bảo vệ quyền lợi cho đương sự? Bởi vì khơng chỉ luật sư, mà cũng có những người khác đều rất giỏi, có tầm hiểu biết và kiến thức về luật, cho nên pháp luật cho phép đương sự có quyền nhờ người khác khơng phải luật sư, có thể là trợ giúp viên pháp lý để đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Ngồi ra, cũng có thể do đương sự khơng có đủ khả năng tài chính, chi trả cho chi phí thuê luật sư, cho nên có thể nhờ người khác với một chi phí hợp lý nhưng mà vẫn được đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, để có thể sử dụng quyền tự bảo vệ và quyền nhờ người khác bảo vệ, đương sự cần phải đáp ứng một số điều kiện theo quy định của Luật TTHC. Điều kiện này bao gồm việc đăng ký đơn tố cáo, đơn khởi kiện hoặc đơn đề nghị giải quyết tranh chấp theo đúng thủ tục quy định. Ngoài ra, đương sự cần phải có đầy đủ tư cách hợp pháp để tham gia vào q trình giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, có thể thấy được quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được đề cao trong việc ngay cả trường hợp đã có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì đương sự vẫn có thể cùng với họ để tham gia tố tụng, cùng bổ sung ý kiến trong việc phát biểu, tranh luận tại phiên tịa hành chính,…
Việc có quyền tự bảo vệ và quyền nhờ người khác bảo vệ là một trong những nền tảng cơ bản của hệ thống pháp luật. Điều này cho phép đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách chủ động và hiệu quả. Tuy nhiên, để sử dụng quyền này một cách hiệu quả, đương sự cần phải có đầy đủ kiến thức về quy định của pháp luật và có đủ năng lực để tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ thay mình. Như
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">vậy, có thể nói Luật TTHC tạo điều kiện tối đa cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong án hành chính một cách tốt nhất.
<i> Thứ hai, trong mọi trường hợp, Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự </i>
thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc đương sự thực hiện được quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong TTHC có thể tạo điều kiện cho Tịa án giải quyết vụ việc hành chính nhanh chóng và đúng pháp luật. Do đó, việc Tịa án bảo đảm đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Luật TTHC ghi nhận là một quy định trong nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nguyên tắc này chỉ có thể được thực hiện khi Tịa án thực sự tơn trọng và bảo đảm cho đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Tòa án là cơ quan quan trọng trong hệ thống pháp luật của một quốc gia. Nhiệm vụ chính của Tịa án là giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa các bên. Trong q trình này, Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Điều này là cực kỳ quan trọng vì nếu Tịa án khơng đảm bảo được quyền của đương sự, thì hệ thống pháp luật sẽ trở nên bất cơng và khơng cịn đáng tin cậy. Trong TTHC, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu, có trách nhiệm chính đối với việc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo đó, Tịa án có trách nhiệm thơng báo, giải thích, tạo điều kiện đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Luật TTHC đã có những quy định mở rộng quyền cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia tố tụng, ví dụ như quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng, quyền được quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án; quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu hợp pháp của đương sự; quyền được tham gia tranh luận tại phiên tòa,… Đây là một sự tiến bộ rất đáng ghi nhận, thể hiện bản chất dân chủ của hệ thống pháp luật ta, nhất là đặt trong bối cảnh VAHC - khi mà người bị kiện là các cơ quan tổ chức nhà nước. Tòa án phải bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vì đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản của hệ thống pháp luật. Điều này đảm bảo rằng mọi người đều có quyền được bảo vệ và được đối xử cơng bằng trước pháp luật. Nếu Tồ án khơng đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì họ có thể bị tổn thương và khơng được đối xử cơng bằng. Điều này có thể dẫn đến sự mất lòng tin vào hệ thống pháp luật và làm giảm tính hiệu quả của nó. Do đó, Tồ án phải bảo đảm rằng tất cả các đương sự được đối xử công bằng và
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">có quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngồi ra, Tịa án chính là chủ thể được nhà nước trao quyền giải quyết các VAHC, là cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng và đưa ra các quyết định có giá trị bắt buộc thi hành đối với các chủ thể tham gia VAHC. Với một vai trò quan trọng, Tòa án phải công tâm và đưa ra những phán quyết công bằng. Tịa án là cơ quan có thẩm quyền ban hành ra các quyết định chi phối việc đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế, cho nên, sự phụ thuộc của đương sự vào Tịa án là điều khơng thể tránh khỏi đối với bất kỳ VAHC. Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gắn liền với các bước bảo đảm thực hiện quyền đó. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Tòa án phải chấp nhận yêu cầu của đương sự nhờ luật sư hay người khác khi đủ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tịa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tạo điều kiện cho các đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trong bất cứ trường hợp nào thì Tịa án cũng khơng được cản trở, can thiệp hay gây khó khăn trong việc đương sự mời luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ vẫn có quyền tự bảo vệ mình.
Để hiểu rõ hơn về tại sao Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì điều đầu tiên, đương sự có quyền được nghe và được giải thích. Điều này có nghĩa là Tịa án phải đảm bảo rằng đương sự được nghe và được giải thích về tất cả các quyền và lợi ích của họ trong quá trình giải quyết vụ việc. Điều này bao gồm cả quyền được biết rõ cách thức giải quyết vụ việc, quyền được giải thích về các quy định pháp luật liên quan đến vụ việc và quyền được nghe và trả lời các câu hỏi của Tòa án. Bên cạnh đó, Tịa án phải đảm bảo rằng đương sự có quyền được thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ việc, bao gồm cả quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu đương sự bị xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp. Tóm lại, Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong mọi trường hợp. Điều này là cực kỳ quan trọng để đảm bảo rằng hệ thống pháp luật là công bằng và đáng tin cậy và để đảm bảo rằng tất cả mọi người đều được bảo vệ trước pháp luật.
Như vậy, việc quy định Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong VAHC theo quy định của Luật TTHC năm 2015 đã xác định rõ và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia trong một VAHC. Quy định này thực sự đảm bảo cho đương sự có
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động xét xử nhằm xây dựng nền tư pháp vững mạnh, trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người…
<i> Thứ ba, đối với các trường hợp được hưởng TGPL theo quy định pháp luật thì </i>
Nhà nước phải bảo đảm cho đương sự được TGPL. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, việc bảo đảm quyền lợi và đảm bảo sự công bằng cho các đương sự trong TTHC là một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước. Điều này được đảm bảo thông qua việc cung cấp TGPL cho các đương sự, đặc biệt là những người có ít kinh nghiệm hoặc khó khăn về tài chính. Hiện nay, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội cịn lớn, nhất là khu vực nơng thơn, miền núi đã tạo ra sự không ngang bằng trong việc tiếp cận với các điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa,… và đặc biệt là tiếp cận với các dịch vụ pháp lý cịn có khoảng cách đáng kể. Do đó, nhiều trường hợp khơng được tư vấn pháp luật hoặc không mời được luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lý tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại dễ bị thiệt thòi trước pháp luật. Tổ chức TGPL của nhà nước ra đời đã tạo điều kiện để người có cơng với cách mạng, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người yếu thế trong xã hội có được cơ hội tiếp cận với các dịch vụ pháp lý miễn phí, củng cố lịng tin của nhân dân vào pháp luật và góp phần thực hiện dân chủ, công bằng trong xã hội. Đây cũng là một trong những điều kiện quan trọng góp phần thể hiện bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, hướng người dân đến “sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật.”
TGPL trong TTHC là một quyền cơ bản của các đương sự, đảm bảo rằng họ có thể tham gia vào q trình tố tụng một cách cơng bằng và hiệu quả. Nếu khơng có sự hỗ trợ này, đương sự có thể gặp khó khăn trong việc hiểu và thực hiện các quy trình, thủ tục pháp lý, gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến quyền lợi của họ. TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho đối tượng được TGPL nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng này, là một trong những chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước dành cho người dân nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số nghèo và những người yếu thế trong xã hội, đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật. Nhu cầu được TGPL luôn tồn tại trong xã hội và ngày càng nhiều, do đó, nếu để xã hội tự đáp ứng, sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh, từ sự đa dạng, phức tạp về chủ thể, đối tượng, tính chất các vụ việc. Những đối tượng thuộc diện TGPL là những người gặp những khó khăn nhất định, mà đơi khi khơng phải do bản thân người đó; nếu khơng có sự can thiệp, hỗ trợ, họ
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">khơng thể hoặc hiếm có được cơ hội như người khác trong tiếp cận công lý. Mặt khác, nhà nước là chủ thể chính thức và chủ yếu của quan hệ pháp luật, trong đó có quan hệ liên quan đến nhân quyền. Quyền được TGPL là một quyền con người cơ bản, nhà nước là tổ chức thích hợp nhất cho việc đáp ứng cam kết, chịu trách nhiệm pháp lý và sử dụng nguồn lực trong lĩnh vực TGPL. Sự có mặt của trợ giúp viên pháp lý sẽ giúp các đương sự ít xảy ra vướng mắc về hồ sơ, giấy tờ hoặc chế độ, chính sách… giúp các đương sự hiểu, nắm được quy trình giải quyết, hạn chế sai sót khơng đáng có.
Những trường hợp thuộc nhóm yếu thế trong xã hội như người nghèo, người khuyết tật, người có cơng với cách mạng, người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV mà khơng có nơi nương tựa, người già từ đủ 60 tuổi trở lên sống cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em dưới 16 tuổi không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,… thì Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm TGPL họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tịa án. Theo đó, Tịa án có thể đề nghị Trung tâm TGPL, tổ chức tham gia TGPL cử người TGPL giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người thuộc nhóm yếu thế trên. Theo quy định của Luật TGPL năm 2017, việc TGPL dành cho nhóm đối tượng trên hồn tồn miễn phí. Điều này thể hiện bản chất dân chủ, mục tiêu công bằng trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Trợ giúp viên pháp lý là những người đóng vai trị chủ chốt trong việc thực hiện chính sách TGPL miễn phí cho những người yếu thế. TGPL miễn phí là chính sách lớn của Đảng, Nhà nước ta. Thể chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi từ Nhà nước, sự phối hợp, tạo điều kiện của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan là một trong những yếu tố góp phần để cho vụ việc TGPL miễn phí nhưng chất lượng ngang bằng hoặc cao hơn chất của những vụ việc có thu phí, bên cạnh đó cũng cần sự nhiệt huyết và cố gắng của các trợ giúp viên pháp lý, luật sư.
Người thuộc đối tượng được TGPL có thể liên hệ với các trung tâm TGPL của Nhà nước hoặc các cơ quan ký hợp đồng TGPL khác như tổ chức hành nghề Luật sư (các văn phòng luật, công ty luật…) để được nhận sự TGPL theo quy định pháp luật. Nhà nước sẽ có trách nhiệm bảo đảm TGPL cho các đối tượng theo quy định để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. TGPL từ trước tới nay thường thiên về trợ giúp cho các bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự, cịn các vụ việc hành chính ít nhận được sự quan tâm từ phía các cơ quan trợ giúp. Quy định thể hiện sự nhấn mạnh về quyền bảo vệ của đương sự, tức là trong các vụ việc dân sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">các đối tượng chính sách, các trường hợp mà việc tự bảo vệ gặp nhiều khó khăn hay khơng có điều kiện để th luật sư cần đến sự trợ giúp của nhà nước. Trong những trường hợp này, các cơ quan liên quan có trách nhiệm trợ giúp họ theo quy định của pháp luật.
Để đảm bảo rằng các đương sự được hỗ trợ pháp lý đầy đủ, Nhà nước cần phải cung cấp các nguồn lực và cơ chế hỗ trợ pháp lý cho các đương sự. Các nguồn lực này có thể bao gồm các dịch vụ tư vấn pháp lý, hỗ trợ tài chính và cung cấp các tài liệu pháp lý cần thiết cho các đương sự. Điều quan trọng cần lưu ý là TGPL không chỉ đơn thuần là việc cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý. Nó cịn bao gồm việc đảm bảo rằng các đương sự được đối xử cơng bằng trong q trình tố tụng và có quyền địi hỏi các quyền lợi của mình được bảo vệ. Các đương sự có thể gặp nhiều khó khăn trong quá trình TTHC, bao gồm việc đối mặt với các quy trình pháp lý phức tạp, các quyết định của các cơ quan hành chính khơng cơng bằng hoặc thiếu minh bạch và các chi phí pháp lý cao. Những khó khăn này có thể khiến các đương sự cảm thấy bị áp đặt và không công bằng, và có thể dẫn đến việc họ từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, nhà nước cần phải đảm bảo rằng các đương sự được hỗ trợ pháp lý đầy đủ trong quá trình TTHC. Điều này có thể đảm bảo rằng các đương sự có thể tham gia vào quá trình tố tụng một cách công bằng và hiệu quả và đảm bảo rằng quyền lợi của họ được bảo vệ một cách đầy đủ.
<i>Cuối cùng, nhằm phòng ngừa những cản trở cho việc bảo vệ quyền và lợi ích </i>
hợp pháp của đương sự trong VAHC, tại khoản 4 Điều 19 Luật TTHC năm 2015 quy
<i>định: “không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hành chính.” Trong một xã hội pháp quyền, quyền bảo vệ quyền và lợi </i>
ích hợp pháp của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống tư pháp. Là một quyền cơ bản trong tố tụng nói chung, nhưng trong TTHC, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự lại đặc biệt quan trọng để bảo đảm sự công bằng giữa một bên đương sự là người khởi kiện với bên kia - người bị kiện - cũng đồng thời là cơ quan hành chính. Khơng ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC. Mọi hành vi vi phạm, cản trở, hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Điều này nhấn mạnh và phản ánh đầy đủ bản chất của điều luật khơng những chỉ đương sự có quyền mà đương sự còn được đảm bảo để thực hiện quyền của mình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Vậy tại sao không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự? Vì quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC là một quyền cơ bản của con người, được bảo vệ bởi các văn bản pháp luật, bao gồm cả Hiến pháp và các công ước quốc tế. Tất cả mọi người đều có quyền được bảo vệ và được đối xử công bằng trong tất cả các tình huống pháp lý. Việc hạn chế quyền này sẽ là vi phạm quyền cơ bản của con người và không được chấp nhận. Một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất liên quan đến quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC là nguyên tắc đối xử công bằng. Theo nguyên tắc này, mọi đương sự đều có quyền được đối xử công bằng và không bị phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, tơn giáo, chủng tộc, quốc tịch, địa vị xã hội hay tình trạng kinh tế. Điều này có nghĩa là khơng ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chỉ vì những yếu tố này. Ngồi ra, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC còn được bảo vệ bởi các quy định pháp lý khác, bao gồm cả quyền được biện hộ và quyền được tư vấn pháp lý. Quyền được biện hộ có nghĩa là đương sự có quyền được đại diện bởi một luật sư trong quá trình tố tụng, trong khi quyền được tư vấn pháp lý đảm bảo rằng đương sự được cung cấp đầy đủ thông tin và tư vấn pháp lý trước khi quyết định tham gia vào q trình tố tụng. Ngồi những yếu tố pháp lý, đạo đức và chính trị cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC. Đạo đức yêu cầu mọi người đối xử với nhau với lịng trung thực và tơn trọng nhân phẩm của đối phương. Chính trị yêu cầu các nhà lãnh đạo của một quốc gia phải đảm bảo rằng hệ thống pháp luật của họ đáp ứng được nhu cầu của người dân và bảo vệ quyền lợi của họ. Trong một số trường hợp, có thể có những hạn chế đối với quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC. Ví dụ, trong một số trường hợp đặc biệt, chính phủ có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được đưa ra theo các quy định pháp lý cụ thể và phải được đảm bảo rằng chúng không gây ra bất kỳ thiệt hại nào cho quyền lợi của đương sự.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, có thể xuất hiện nhiều tranh cãi về việc có nên hạn chế quyền này hay khơng. Một số người cho rằng, trong một số trường hợp, đương sự có thể sử dụng quyền này để gây ảnh hưởng đến quyết định của Tịa án, hoặc để trì hỗn q trình tố tụng. Tuy nhiên, điều này là khơng xác thực. Nếu Tòa án hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, điều này sẽ dẫn đến việc Tịa án khơng thể đảm bảo quy trình TTHC được thực hiện đúng quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">pháp luật. Điều này sẽ dẫn đến việc quyết định của Tịa án khơng được ràng buộc và có hiệu lực pháp lý. Do đó, Tịa án không thể hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC. Ngồi ra, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cịn đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo tính cơng bằng và chính đáng trong quy trình TTHC. Nếu đương sự khơng có quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, điều này sẽ dẫn đến việc quy trình TTHC khơng cơng bằng và chính đáng. Điều này sẽ dẫn đến việc Tịa án khơng thể đưa ra quyết định đúng đắn và công bằng, và ảnh hưởng đến quyết định của Tịa án.
Tóm lại, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC là một trong những quyền cơ bản nhất của công dân. Việc không ai được hạn chế quyền này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm cả các nguyên tắc pháp lý, đạo đức và chính trị. Việc đảm bảo quyền này là cực kỳ quan trọng để đảm bảo rằng hệ thống pháp luật của một quốc gia hoạt động hiệu quả và công bằng.
<b>1.3. Mục đích và yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự </b>
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHC. Nội dung này được thể hiện ở chỗ đương sự khi tham gia vào hoạt động TTHC, đương sự được thực hiện những công việc theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Dựa trên tinh thần, mục đích, nhiệm vụ mà ngay từ đầu các nhà làm luật đã xác định cho Luật
<i>TTHC. Theo Điều 1 của Luật TTHC năm 2015, nhiệm vụ đề ra là: “Luật Tố tụng hành chính góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; bảo đảm tính ổn định, thơng suốt và hiệu lực của nền hành chính quốc gia”, </i>
thơng qua đó Luật TTHC phải tác động được đến người dân trên cơ sở tạo niềm tin để người dân tin vào pháp luật, công lý được phát huy, người dân nghiêm chỉnh chấp hành luật, nền hành chính quốc gia được tăng cường. Với mục đích nhằm để người dân tham gia, hưởng ứng và phát huy cao độ tính dân chủ và xét xử kịp thời công bằng, vô tư, khách quan của Tịa án, địi hỏi phải có một quy định cụ thể, rõ ràng để đảm bảo các điều trên thì nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hướng tới việc nhà nước có trách nhiệm trong mọi hoạt động quản lý nhà nước của mình, người dân có điều kiện tham gia vào pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có nguy cơ bị xâm phạm. Nguyên
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đặt ra vấn đề đương sự trong mọi hồn cảnh họ đều có thể tự bảo vệ quyền lợi hoặc tìm đến sự trợ giúp để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc có nguy cơ bị xâm phạm trước Tịa án cơ quan đảm bảo cơng lý.
Do đó, mục đích chính của thực hiện ngun tắc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gồm có:
<i>Thứ nhất, thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp </i>
của đương sự giúp cho các đương sự trong VAHC thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách tốt nhất qua đó các đương sự được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi một VAHC phát sinh, nhờ vào việc quy định rõ ràng các quyền lợi mà pháp luật quy định như theo khoản 6, khoản 7, khoản 8 Điều 55 Luật TTHC năm 2015 về quyền của đương sự có quy định:
<i>“6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; </i>
<i>7. Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình khơng thể thực hiện được; đề nghị Tịa án buộc bên đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản; </i>
<i>8. Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96 của Luật này;” </i>
Nhờ quy định này trong các vấn đề đến chứng cứ, tài liệu mà các đương sự nộp hoặc của cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, đương sự biết được và nắm bắt được tình hình nhờ đó mà đương sự có thể chuẩn bị tốt nhất những chứng cứ, lập luận của mình trước Tịa án. Với đặc điểm đặc trưng của VAHC là liên quan đến các hoạt động của nhà nước, cho nên khơng dễ để có thể nắm bắt kịp cách thức hoạt động của cơ quan nhà nước như thế nào cũng như quy định phức tạp của pháp luật, cho nên tại khoản 1
<i>Điều 19 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện theo quy định của Luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”, theo quy định này đương sự có quyền nhờ luật sư hoặc </i>
một người đủ điều kiện quy định của pháp luật để hỗ trợ đương sự trong các hoạt động về pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Nhận thấy rằng, đương sự có nhu cầu giải quyết QĐHC, HVHC nhưng do hạn chế về mặt pháp luật và trước mối quan hệ chênh lệch giữa một bên là cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền đưa ra QĐHC, HVHC và một bên chủ yếu là người dân trong việc nhận phải QĐHC, HVHC từ cơ quan nhà nước hoặc chủ thể có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Từ quy định này, bất kể đương sự có đủ điều kiện, khả năng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi cho rằng lợi ích của mình có nguy cơ bị xâm phạm đương sự có thể đảm bảo tốt nhất các quyền lợi của mình trước Tịa án bằng cách nhờ một người am hiểu pháp luật đứng ra thay đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ như là luật sư hoặc một người khác đủ điều kiện theo quy định mà họ tin tưởng có thể giúp họ giành lấy lại quyền lợi hợp pháp. Cho nên, về khía cạnh này, pháp luật quy định ngồi việc đương sự tự mình tham gia tố tụng, họ cịn có thể nhờ luật sư giúp đỡ mình. Luật sư là những người am hiểu luật, được đào tạo luật bài bản, họ sử dụng những kiến thức luật để giúp người dân giành lại quyền lợi ích hợp pháp, với vai trị của luật sư, họ có thể tư vấn, giúp đỡ cho những người dân khi đi kiện biết được nên làm gì tốt nhất cho họ, bởi luật sư sẽ hỗ trợ về mặt pháp lý từ khâu chuẩn bị khởi kiện đến khi thụ lý vụ án. Nhờ đó nâng cao niềm tin vào pháp luật, góp phần thúc đẩy người dân thượng tôn pháp luật, sử dụng pháp luật là một công cụ để bảo vệ quyền lợi chính của mình. Ngồi ra pháp luật khơng chỉ quy định luật sư hay bản thân đương sự được quyền bảo vệ quyền lợi của mình trước Tịa án, họ cịn có thể trao niềm tin của mình vào một người khác đủ điều kiện theo pháp luật quy định để tham gia TTHC.
<i>Thứ hai, thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp </i>
pháp của đương sự nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của VAHC trên cơ sở người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng và đương sự thực hiện tốt quyền bảo đảm của mình.
Đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự có thể phát huy tối đa quyền của mình khi có tranh chấp Tịa án hành chính phát sinh và được đảm bảo thực hiện tốt bởi các cơ quan nhà nước và Tòa án. Nhờ đó giúp cho hoạt động xét xử của phiên tịa diễn ra đúng theo các trình tự của pháp luật và góp phần sáng tỏ sự thật của vụ án và quyết định của bản án đưa ra có giá trị hiệu lực pháp lý. Từ đó, người dân có thêm niềm tin vào cơng lý, niềm tin vào pháp luật, các cơ quan xét xử, cơ quan nhà nước cũng góp phần nâng cao uy tín trong mắt người dân.
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Mặc dù các quy định này đã được quy định nhưng các tỷ lệ giải quyết các VAHC vẫn còn thấp. Cho nên yêu cầu đặt ra, đương sự phải được tiếp cận đầy đủ đến các quy định này, đương sự là người phải nắm rõ để vận dụng và tuân thủ các trình tự, hình thức theo đúng pháp luật quy định. Từ đó bằng niềm tin và sự hiểu biết pháp luật của mình đương sự khi khiếu kiện, khởi kiện các VAHC họ biết cách vận dụng và xoay trở trước các QĐHC, HVHC trái pháp luật xâm phạm đến quyền lợi ích của họ.
Ngồi ra, để đảm bảo nguyên tắc này được thực hiện phải có được sự bảo đảm
<i>từ phía Tịa án. Theo khoản 2 Điều 19 Luật TTHC năm 2015: “Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được”. Biểu tượng chính của Tịa án là nơi biểu thị cơng lý, cơng bằng và lẽ phải, đó </i>
chính là nhiệm vụ của Tòa án mà Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tại Điều 102 quy định như sau:
<i>“1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. </i>
<i>2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. </i>
<i>3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. </i>
Do đó, Tịa án có trách nhiệm giám sát, đảm bảo từ khâu thụ lý vụ án đến khâu khởi kiện vụ án, trách nhiệm của Tòa án là phải đảm bảo để đương sự thực hiện tốt quyền và lợi ích của mình, xem xét tính hợp lý của thời hiệu khởi kiện, đối tượng khởi kiện, đánh giá tính đúng đắn của chứng cứ và đảm bảo các bên khi đứng trước tòa là để chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình mà khơng phải bị gị bó, uy hiếp bởi bất kỳ đối tượng nào, giờ đây chính Tịa án là cơ quan tư pháp, cơ quan xét xử đứng ra thụ lý, giải quyết vụ án cơng bằng, khác quan, điều đó cũng góp phần làm cho phiên tịa được diễn ra thuận lợi, khách quan. Để làm được điều này, yêu cầu đặt ra nhà nước phải cung cấp phạm vi, quyền hạn để khơng gây ra khó khăn, hạn chế trong việc xét xử của Tòa án. Hoạt động xét xử hành chính với nét đặc trưng là xét xử đối với QĐHC, HVHC được đưa ra bởi một bên là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, còn người chịu QĐHC, HVHC đa phần là người dân. Do đó đa phần trong TTHC người bị kiện trong VAHC chính là cơng quyền - cụ thể là cơ quan hành chính. Chính vì lẽ đó, để phán quyết của tịa thực sự đúng đắn,
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">đảm bảo cơng lý, thì yêu cầu đặt ra trong việc xét xử của tòa phải đảm bảo tính độc lập, khách quan, vơ tư, không bị lệ thuộc vào bất kỳ tác động của bên nào. Có thể thấy để đảm bảo tính khách quan, độc lập trong việc xét xử của Tòa án là vô cùng
<i>quan trọng, tại Điều 13 Luật TTHC năm 2015 quy định “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật: </i>
<i>1. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 2. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dưới bất kỳ hình thức nào.” </i>
Bên cạnh đó, cần mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tịa án, tạo điều kiện để Tịa án nhanh chóng, kịp thời xử lý vụ việc như thời hạn xét xử nhanh gọn tránh kéo dài thời gian xét xử, giảm thời gian và sức lực cho cả Tòa án và đương sự khi giải quyết tranh chấp hành chính. Nhờ đó thụ lý được nhiều vụ án tránh tình trạng một vụ án có nguy có bị hỗn xét xử lâu hoặc thời gian xét xử quá lâu mà khơng đem lại kết quả. Nhờ đó nâng cao sự tín nhiệm của người dân vào các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử của Tòa án và sự tin tưởng vào nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của người dân vào sự bảo vệ, đảm bảo của pháp luật sẽ giành lại công bằng, lẽ phải.
Mặt khác, một vụ án khi xét xử cần sự chung tay của nhiều cơ quan, để giúp cho việc chấp hành án, thực thi đúng pháp luật. Ví dụ trong khâu giám sát cơ quan thi hành án, kiểm sát việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC và đảm bảo cho mọi bản án của Tồ án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đối với VAHC, chỉ riêng trách nhiệm của Tịa án để đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự là chưa đủ, bởi thực tiễn xét xử một VAHC cịn rất nhiều trình tự mà khơng chỉ Tịa án có thể làm kịp.
Như vai trò của nhà nước đảm bảo hỗ trợ kịp thời cho đương sự về mặt pháp
<i>luật. Tại khoản 3 Điều 19 Luật TTHC năm 2015 có quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án”. Quyền được TGPL là một quyền con người cơ bản, thuộc nội hàm của </i>
quyền tiếp cận tư pháp, "là cơ sở cho việc thụ hưởng các quyền khác, bao gồm quyền được xét xử công bằng và là một biện pháp bảo vệ quan trọng để bảo đảm sự công
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">bằng cơ bản và niềm tin của công chúng đối với q trình tư pháp..."<small>18</small> TGPL nhằm mục đích là để giúp người cần được TGPL có được những hiểu biết về pháp luật, tạo điều kiện để người dân được tiếp cận và biết được cụ thể bản chất, đối tượng của QĐHC, HVHC tác động lên bản thân mình. Việc hỗ trợ TGPL của nhà nước là vô cùng cần thiết và ý nghĩa, nhất là đối với các đối tượng gặp khó khăn về hiểu biết rõ pháp luật, về hoạt động của cơ quan nhà nước và có những khó khăn về tài chính. Tại
<i>Điều 2 Luật TGPL năm 2017 có quy định: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong tiếp cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật.” Việc quy định như thế góp </i>
phần nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong hoạt động TGPL. Nhà nước luôn hỗ trợ kịp thời nhất là đối với những đối tượng có khó khăn trong tài chính hay hiểu biết pháp luật. Điều này cũng góp phần để người dân khi tham gia vào xét xử VAHC, quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ một cách tối đa, góp phần đảm bảo quyền công dân, quyền con người sống trong nhà nước pháp quyền. Để đạt được điều đó, đảm bảo cho hoạt động TGPL, đảm bảo quyền của đương sự, quyền cơng dân u cầu đặt ra đó là nhà nước cần phải khơng ngừng rà sốt, sửa đổi, bổ sung để quyền TGPL tiếp cận được nhiều đối tượng có nhu cầu trợ giúp, tư vấn pháp luật, giảm bớt chi phí phần mềm quản lý TGPL, mở rộng phạm vi đối tượng cần trợ giúp, nâng cao hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó, nhà nước cần phải chủ động tiếp cận đối tượng tạo cơ sở pháp lý để cơng dân tìm đến và thực hiện TGPL. Đảm bảo bình đẳng, khơng phân biệt, mọi người đều được tiếp cận những thông tin như nhau về TGPL và đảm bảo thông tin pháp lý khi đến với đương sự và những người liên quan được kịp thời. Hơn hết là phải đảm bảo về mặt tài chính và nâng cao trình độ, đội ngũ nhân lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp và bảo đảm việc giải quyết khiếu kiện hành chính phải khách quan, dân chủ, chịu sự giám sát của xã hội và tư vấn, cung cấp thơng tin pháp lý chất lượng.
Ngồi ra, phải quy định rõ chế tài xử phạt nếu người có thẩm quyền, cơ quan nhà nước hoặc một người khác có hành vi cản trở, gây rối làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cho nên vấn đề cần nói đến khơng chỉ quy định các vấn đề liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm
<small>18 Phan Hà (2013), “Các nguyên tắc của liên hợp quốc về tiếp cận Trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự”, </small> <i><small>Trợ giúp pháp lý - Bộ tư pháp, </small></i> <small> truy cập ngày 15/6/2023 </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">của đương sự hay người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng mà cịn phải nêu rõ nếu như những người này có hành vi không đảm bảo thực hiện nguyên tắc đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm minh. Nhờ đó mà việc thực hiện, tuân thủ pháp luật và đảm bảo cho đương sự có thể thực hiện tốt nhất quyền lợi của mình.
Trong thực tiễn, việc xét xử hành chính vẫn còn bị kéo dài. Theo Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hịa Bình trả lời chất vấn trước Quốc Hội: “Từ kết quả giám sát chuyên đề của Uỷ ban Tư pháp Quốc hội cũng như từ thực tiễn hoạt động của ngành Toà án cho thấy việc giải quyết án hành chính có 3 tồn tại chính. Một là tỷ lệ giải quyết án thấp so với yêu cầu của Quốc hội, hai là số lượng án hành chính tồn đọng nhiều, ba là thời gian kéo dài.” Thông qua nội dung của nguyên tắc quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thể hiện qua Điều 19 Luật TTHC năm 2015, điều hướng tới của các nhà làm luật khi quy định điều này đó là đem đến một điều luật với mục đích góp phần bảo vệ cơng lý, nâng cao nhận thức, giá trị và niềm tin pháp luật đến người dân Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề xuất phát từ trách nhiệm của cơ quan nhà nước khi giải quyết các vấn đề liên quan đến thủ tục TTHC cần phải được nâng cao, địi hỏi đó là sự tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành, nghiêm túc hợp tác để giải quyết hiệu quả các VAHC. Không chỉ có vậy, việc phổ cập, tuyên truyền đến người dân biết luật, hiểu luật và thực hiện đúng luật như một cách để bảo vệ quyền lợi bản thân và tăng cường sức ảnh hưởng của pháp luật. Đó một phần cũng xuất phát từ công tác tuyên truyền pháp luật đến từng người ở mọi nơi sao cho nghiêm túc và đạt được hiệu quả, từ đó xây dựng niềm tin vào pháp luật. Bên cạnh đó, cùng với sự giao lưu và hội nhập trên quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế, cần phải không ngừng cập nhật sự tiến bộ từ các nước ngồi từ đó xây dựng hệ thống pháp luật TTHC hoàn chỉnh bắt kịp với nền kinh tế đất nước. Điển hình một số nước có thể học hỏi như Hoa Kỳ, Pháp hay Trung Quốc từ cách quy định, ban hành luật trong việc xét xử hành chính, nhờ đó đút kết được kinh nghiệm để đảm bảo thời hạn xét xử hợp lý, tránh làm phức tạp, rườm rà các VAHC, tăng cường các loại án có thể xử theo thủ tục rút gọn, áp dụng các thành tựu công nghệ mới vào hoạt động tố tụng như việc xét xử online có thể kể đến áp dụng khi có thiên tai, dịch bệnh xảy ra lấy ví dụ dịch bệnh Covid - 19 vừa qua và có tiêu chí cũng như cơ chế giám sát và cơng khai về thời hạn xét xử án hành chính cũng như thi hành án hành chính.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><b>1.4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với một số nguyên tắc khác trong tố tụng hành chính </b>
Nguyên tắc của Luật TTHC Việt Nam được định nghĩa là những tư tưởng, nguyên lý làm nền tảng, chỉ đạo và định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTHC Việt Nam và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về TTHC.<small>19</small> Các ngun tắc này có vai trị bảo đảm tính thống nhất của Luật TTHC, chúng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng pháp luật TTHC Việt Nam và là cơ sở để áp dụng pháp luật TTHC trong thực tiễn. Giữa các nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chúng cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, giúp cho hoạt động TTHC vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan, vừa giữ tính ổn định, phản ánh bản chất chế độ chính trị - xã hội của nước ta: dân chủ, pháp quyền bảo vệ con người, quyền công dân.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nguyên tắc quan trọng của Luật TTHC, tuy nhiên, nếu chỉ tồn tại độc lập thì nguyên tắc này vẫn chưa thể phát huy được vai trị của mình mà nó cần có sự liên hệ, hỗ trợ từ những nguyên tắc khác. Vì vậy, khi tìm hiểu về nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì việc phân tích, tìm hiểu mối liên hệ của nó với các nguyên tắc khác là hết sức cần thiết. Qua đó, chúng ta sẽ xác định được những yếu tố chi phối đến việc thực hiện nguyên tắc này trên lý thuyết và thực tiễn, từ đó, đưa ra những giải pháp và kiến nghị để có thể phát huy tối đa giá trị của nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong VAHC một cách tốt nhất.
Như đã đề cập ở trên, các nguyên tắc của Luật TTHC đều có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau và số lượng các nguyên tắc khá nhiều, vì vậy trong bài viết này, nhóm tác giả chỉ đề cập đến những nguyên tắc có mối liên hệ chặt chẽ, rõ ràng với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đó là bốn nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan trong TTHC; - Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTHC; - Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử;
- Nguyên tắc cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong TTHC.
<small>19</small><i><small> Phạm Hồng Thái, Bùi Tiến Đạt (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc </small></i>
<small>gia Hà Nội, tr.38. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><i>1.4.1. Mối liên hệ với nguyên tắc đảm bảo sự vô tư, khách quan trong tố tụng hành chính </i>
Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu sơ lược về nguyên tắc đảm bảo sự vô tư, khách quan trong TTHC. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 14 Luật TTHC năm 2015, như sau:
<i>“1. Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, người phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá khơng được tiến hành, tham gia tố tụng nếu có căn cứ cho rằng họ có thể khơng vơ tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. </i>
<i>2. Việc phân cơng người tiến hành tố tụng phải bảo đảm để họ vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.” </i>
Nguyên tắc này áp dụng với hai nhóm đối tượng: người tiến hành tố tụng (bao gồm Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Thẩm tra viên, Kiểm tra viên) và những người tham gia có tính hỗ trợ cho hoạt động tố tụng (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Đây là những người có chức vụ hoặc nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động TTHC hoặc hỗ trợ đắc lực quá trình TTHC bằng kiến thức, kinh nghiệm hay sự chứng kiến của mình. Hoạt động của họ nếu có thiên lệch, vụ lợi chắc chắn sẽ làm sai lệch kết quả giải quyết VAHC. Vì vậy, sự vơ tư, khách quan, không thiên vị của những người tiến hành tố tụng là yếu tố rất quan trọng để có thể xét xử đúng pháp luật, từ đó, bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự một cách công bằng. Nguyên tắc này được thể hiện qua việc khi có căn cứ cho thấy những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng có sự khơng vơ tư thì những đối tượng này sẽ bị thay đổi hoặc buộc phải từ chối tiến hành hoặc tham gia tố tụng.
Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư, khách quan trong TTHC là tiền đề để nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể được thực hiện một cách đúng nghĩa, phát huy đúng giá trị của mình, vì:
<i>Thứ nhất, nếu không đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người tham gia </i>
có tính hỗ trợ cho hoạt động tố tụng và đặc biệt là người tiến hành tố tụng thì nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trở thành một nguyên tắc “hình thức”. Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTHC là quyền rất quan trọng nhằm đảm bảo sự công bằng giữa một bên đương sự là người khởi kiện với - người bị kiện - cũng đồng thời là cơ quan hành chính. Đương
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">sự có thể tự bảo vệ quyền của mình hoặc thông qua người đại diện hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi của mình như luật sư, trợ giúp viên pháp lý,…Tuy nhiên, mọi sự nỗ lực để bảo vệ quyền lợi bị xâm phạm của người khởi kiện sẽ trở nên vô nghĩa nếu người tiến hành tố tụng khơng có sự vơ tư, khách quan, thiên vị người bị kiện trong quá trình giải quyết tranh chấp hoặc ngược lại. Khi đó, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ khơng được đảm bảo, hoạt động tố tụng sẽ không đạt được các mục đích đã đặt ra, đó là góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi những quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC của các cơ quan công quyền.
<i>Thứ hai, nếu không đảm bảo sự vơ tư, khách quan của nhóm người tiến hành tố </i>
tụng nhằm giải quyết VAHC (Chánh án Tòa án, Thẩm phán,…) thì Tịa án khơng thể bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
<i>Một, Tòa án là cơ quan tiến hành TTHC chủ yếu, như vậy, bản chất Tịa án là </i>
một cơ quan. Vì vậy, cơ quan này muốn giải quyết VAHC một cách kịp thời, công bằng và đúng pháp luật thì những người hoạt động trong cơ quan đó phải đáp ứng được những yêu cầu trên, cụ thể là nhóm người tiến hành tố tụng nhằm giải quyết VAHC phải công tâm, khách quan và tuân theo pháp luật. Ngược lại, nếu như họ khơng vơ tư, khơng khách quan thì Tịa án cũng sẽ tương tự.
<i>Hai, trong TTHC, Tịa án có trách nhiệm chính trong việc bảo đảm quyền bảo </i>
vệ quyền bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Theo đó, Tịa án có trách nhiệm thơng báo, giải thích, tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.<small>20</small> Luật TTHC đã có những quy định mở rộng quyền cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây là một sự tiến bộ rất đáng ghi nhận, thể hiện bản chất dân chủ của hệ thống pháp luật ta, nhất là đặt trong bối cảnh VAHC - khi mà người bị kiện là các cơ quan nhà nước.<small>21</small> Vì vậy, trong trường hợp nhóm người tiến hành tố tụng nhằm giải quyết VAHC có sự thiên vị với một bên thì có thể dẫn đến việc bên cịn lại khơng được tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện quyền của mình, đặc biệt là đối với người khởi kiện vốn đã có sự chênh lệch địa vị, thiệt thịi nhất định so với người bị kiện - cơ quan nhà nước.
<small>20</small><i><small> Vũ Thư, Lê Thương Huyền (2016), Tlđd (10), tr. 25. </small></i>
<small>21</small><i><small> Phạm Hồng Thái, Bùi Tiến Đạt (2018), Tlđd (20), tr. 54. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><i>Ba, Tịa án cịn có vai trị hỗ trợ những người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội </i>
được tiếp cận với những đơn vị TGPL bằng cách đề nghị Trung tâm TGPL, tổ chức tham gia TGPL cử người TGPL bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tương tự ý trên, để Tòa án thực hiện tốt vai trị này thì sự cơng tâm, khách quan của người tiến hành tố tụng nhằm giải quyết vụ án là yếu tố rất quan trọng. Bởi lẽ, ở đây, người khởi kiện là nhóm người yếu thế, trong xã hội, họ là đối tượng đã chịu nhiều sự thiệt thòi, hơn ai hết họ mong muốn nhận được sự đối xử cơng bằng, bình đẳng.
Tóm lại, ngun tắc đảm bảo sự vô tư, khách quan trong TTHC là tiền đề của nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ngun tắc này có tầm vai trị quan trọng vì nó chi phối trực tiếp đến việc được tiếp cận sự hỗ trợ khi đương sự cần, thực hiện quyền lợi và kết quả của việc giải quyết tranh
<i>2. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tịa án. </i>
<i>3. Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.” </i>
Để tìm hiểu về mối liên hệ giữa nguyên tắc này với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu sơ lược nguyên tắc trên. Với bản chất nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật là nguyên tắc cốt lõi trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Nội dung nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTHC cụ thể như sau: thứ nhất, bình đẳng của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong pháp luật TTHC; thứ hai, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự với nhau trong quá trình giải quyết VAHC; thứ ba, Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đúng theo pháp luật.<small>22</small>
<small>22</small><i><small> Phạm Hồng Thái, Bùi Tiến Đạt (2018), Tlđd (20), tr. 60 - 61. </small></i>
</div>