Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 107 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ... 8
4. Đối tượng nghiên cứu... 9
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ... 10
1.1. Khái quát những vấn đề chung về chất thải nguy hại ... 12
1.1.1. Khái niệm chất thải gây nguy hại và quản lý chất thải nguy hại ... 12
1.1.2. Quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ... 15
1.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại theo pháp luật hình sự Việt Nam ... 23
1.2.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại ... 23
1.2.2. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy định quản lý chất thải nguy hại ... 24
1.2.3. Dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại . 27 1.2.4. Phân biệt Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại với một số tội danh khác ... 36
1.2.5. Hình phạt của Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại ... 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ... 48
<b>CHƯƠNG II ... 50 </b>
<b>PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI ... 50 </b>
2.1. Pháp luật hình sự của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ... 50
2.2. Pháp luật hình sự của Cộng hòa Singapore ... 56
2.3. Pháp luật hình sự Liên bang Nga ... 60
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>3 </small>
2.3.1. Quy định của pháp luật hình sự Liên bang Nga - so sánh với pháp luật hình
sự Việt Nam ... 60
2.3.2. Thực tiễn xét xử ở Liên bang Nga ... 67
2.4. Pháp luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức ... 71
2.4.1. Quy định của BLHS CHLB Đức về tội phạm vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại ... 71
2.4.2. Thực tiễn xét xử ở CHLB Đức ... 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG II ... 78
<b>CHƯƠNG III ... 80 </b>
<b>THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM. ... 80 </b>
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tại Việt Nam ... 80
3.2.1. Về xác định dấu hiệu pháp lý của tội phạm ... 87
3.2.2. Về quy định của các khung hình phạt ... 93
KẾT LUẬN CHƯƠNG III ... 98
<b>KẾT LUẬN ... 99 </b>
<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 102 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>4 </small>
<b>TÓM TẮT NỘI DUNG </b>
Chất thải nguy hại là một trong các tác nhân quan trọng gây ô nhiễm môi trường, do đó mà nhà nước đặc biệt tăng cường quản lý chặt chẽ. Chế độ quản lý chất thải nguy hại được đảm bảo đến mức ngoài các chế tài xử lý vi phạm hành chính thì trong số hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại đến mức gây nguy hiểm đáng kể được xem là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại được lần đầu tiên ghi nhận trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009 của BLHS năm 1999 và tiếp tục được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hiện nay. Tuy nhiên, từ lần đầu tiên được ghi nhận và trải qua nhiều lần sửa đổi cho đến hiện tại thì hầu như khơng thể tiếp cận được trường hợp nào tội này được đưa ra xét xử trên thực tế. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong số đó chính là quy định của pháp luật hình sự cịn nhiều hạn chế, vướng mắc, bất cập, nhất là trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý của tội phạm, phân biệt tội này với một số các tội danh khác, cách thức quy định chưa phù hợp với thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm… Về vấn đề này, nhóm nghiên cứu tiếp cận pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới là những nước có các đặc điểm về điều kiện chính trị – xã hội, kinh tế – xã hội có nét tương đờng với hồn cảnh nước ta, những quốc gia có pháp luật quản lý chặt chẽ về môi trường để nghiên cứu và tìm hiểu. Với những kinh nghiệm có được từ pháp luật của một số nước trên, những kiến nghị, giải pháp tháo gỡ khó khăn sẽ góp phần hồn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, khắc phục những vấn đề đang cịn tờn tại. Việc đấu tranh và phịng ngừa có hiệu quả với tội phạm về mơi trường nói chung và tội phạm vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại nói riêng chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ mơi trường.
<b>[Từ khóa]: Bộ luật Hình sự, Tội phạm môi trường, quản lý chất thải nguy hại, kinh </b>
nghiệm quốc tế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại Tội VPQĐVQLCTNH
Chương trình mơi trường của Liên Hiệp Quốc UNEP
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">
Trong số các nguyên nhân gây ô nhiễm mơi trường thì hoạt động xả các chất thải chất thải nguy hại là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất. Quán triệt chủ trương của Đảng thông qua Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ mơi trường trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần xác định quản lý có hiệu quả đối với chất thải nguy hại chính là cơ sở để kiểm sốt có hiệu quả ô nhiễm môi trường, nhằm hướng thực hiện mục tiêu ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ơ nhiễm, suy thối và sự cố mơi trường do hoạt động của con người gây ra, góp phần sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học. Từ đó, nhiệm vụ chung được xác định đó là tăng cường kiểm sốt ơ nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp. Vì vậy, pháp luật có quy định nghiêm ngặt đối với trách nhiệm quản lý chất thải gây nguy hại và việc vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại có thể là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến mức bị xem là tội phạm và phải chịu TNHS.
Tuy nhiên, việc vận dụng quy định của pháp luật hình sự đối với các vấn đề về lĩnh vực mơi trường nói chung và quy định về quản lý chất thải nguy hại nói riêng trên thực tế đang gặp nhiều khó khăn, vẫn cịn tờn tại các quan điểm khác nhau; thiếu tính thống nhất, tính khả thi; cịn nhiều vướng mắc, bất cập trong việc xác định yếu tố cấu thành tội phạm; về căn cứ, hình phạt để xử lý trách nhiệm hình sự;... Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý gặp khơng ít trở ngại trong quá trình áp dụng pháp luật. Dù chính sách pháp luật đã ban hành được một thời gian tương đối dài nhưng thực tế lại hầu như ghi nhận rất ít trường hợp chủ thể vi phạm bị xử lý trách nhiệm hình sự. Điều này sẽ dẫn đến một hệ luỵ đó là có khả năng xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, có xử lý nhưng xử lý không triệt để, chưa mang lại hiệu quả răn đe, phòng ngừa trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo pháp luật của các nước: Trung Quốc, Singapore, Liên bang Nga và CHLB Đức, Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của những nước
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>7 </small>
này để góp phần hồn thiện hơn hệ thống pháp luật của mình, đạt được hiệu quả cao trong việc kiểm sốt và khắc phục những tình trạng tiêu cực trong quản lý chất thải nguy hại.
Vì vậy, cần có một nhận thức thống nhất, cũng như cần thiết phải có một khung hình pháp lý vững chắc, phù hợp thơng qua việc hồn thiện thể chế, chính sách pháp luật về hình sự, có quy định hướng dẫn cụ thể trong q trình vận dụng sẽ góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn, bất cập trong quá trình giải quyết vụ án của cơ quan, người tiến hành tố tụng hoặc các chủ thể có liên quan khác. Do đó, với những yêu
<i>cầu cấp thiết như trên, nhóm nghiên cứu đã quyết định lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm </i>
<i>quy định về quản lý chất thải nguy hại theo pháp luật hình sự một số nước - kinh nghiệm cho Việt Nam” để nghiên cứu và tìm hiểu. Nhóm tác giả mong rằng sẽ có những hướng </i>
nghiên cứu tường tận, sâu từng vấn đề và đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật nước nhà.
<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>
Quản lý chất thải nguy hại là vấn đề được sự quan tâm và nghiên cứu của nhiều tác giả, có thể kể đến như: Trần Linh Huân, “Bất cập trong quy định pháp luật về hoạt
<i>động quản lý chất thải nguy hại và các kiến nghị hoàn thiện”, Khoa học pháp lý, 2018, </i>
Số 8, tr.53-57; Trần Linh Huân, “Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ thể kinh doanh
<i>dịch vụ quản lý chất thải nguy hại”, Dân chủ và Pháp luật, 2019, Số 1, tr.43-48;... </i>
Nghiên cứu về pháp luật hình sự đối với tội phạm vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại có thể kể đến như: Trường Đại học Luật TP. Hờ Chí Minh (2021),
<i>Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) - quyển 1, Nxb. Hồng Đức, </i>
tr.410-412; Các quyển Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự của các tác giả,...
Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này thì khơng nhiều như: Ngơ Ngọc Diễm và Trần Thị Hồi Anh, “Bàn về vi phạm quy định về quản lý chất
<i>thải nguy hại trong Bộ Luật Hình sự năm 2015”, Tịa án nhân dân, số 1/2017, tr.1-4. Ngồi ra có một số luận văn thạc sĩ như: Nguyễn Đình Sáng (2015), Tội vi phạm quy </i>
<i>định về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học </i>
<i>quốc gia Hà Nội; Dương Minh Tiến (2015), Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải </i>
<i>nguy hại trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học quốc </i>
gia Hà Nội,...
Luận văn “Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội)” của tác giả Nguyễn Đình Sáng đã nghiên cứu về Tội VPQĐVQLCTNH theo Điều 182a BLHS năm 1999 trước đây. Nghiên cứu của tác giả đã làm rõ một số vấn đề có liên quan đến khái
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>8 </small>
niệm của tội này; về dấu hiệu pháp lý của tội phạm và hình phạt; nghiên cứu so sánh với pháp luật của các nước Trung Quốc, Singapore, Liên bang Nga và CHLB Đức. Đặc biệt, luận án đã nêu bật thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội với các thực trạng vi phạm bị xử lý hành chính; thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của tội này còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập. Thơng qua đó, nghiên cứu đã kiến nghị nhiều giải pháp hiệu quả trong việc làm rõ khái niệm của Tội VPQĐVQLCTNH; sửa đổi một số nội dung của dấu hiệu pháp lý và chỉ ra các giải pháp trên các lĩnh vực khác đóng vai trị đảm bảo cho pháp luật được thực thi có hiệu quả hơn.
Luận văn “Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Dương Minh Tiến cũng tiếp tục bổ sung thêm góc nhìn từ pháp luật hình sự Thái Lan; mở rộng phạm vi nghiên cứu thực tiễn trên phạm vi cả nước và cũng có nhiều đóng góp ý kiến, kiến nghị quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam tại thời điểm đó.
Từ đây, có thể thấy các nghiên cứu về pháp luật hình sự đối với Tội VPQĐVQLCTNH có số lượng tương đối ít. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu vẫn chưa thể tiếp cận được một nghiên cứu chuyên sâu nào quy định về tội phạm này kể từ sau khi BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) được ban hành. Do đó, sau khi đã trải qua lần sửa đổi bổ sung từ BLHS năm 1999 (sửa đởi, bở sung năm 2009) thì càng cần thiết có một nghiên cứu pháp luật hình sự đối với riêng tội phạm này nhằm để có cái nhìn xun suốt, chỉ ra những bước tiến của pháp luật Việt Nam; đánh giá được hiệu quả của quy định mới hiện nay với trung tâm là BLHS và quan trọng nhất là việc làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng trong điều kiện hiện nay.
<i>Với mong muốn đó, đề tài “Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại </i>
<i>theo pháp luật hình sự một số nước - kinh nghiệm cho Việt Nam” sẽ tiếp tục kế thừa, </i>
tiếp thu có chọn lọc những thành quả của các cơng trình nghiên cứu trước đây nhằm từng bước hồn thiện pháp luật, đáp ứng các mục tiêu quản lý chất thải nguy hại có hiệu quả thơng qua chế tài hình sự.
<b>3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu </b>
Dưới góc độ của đề tài cùng những luận cứ khoa học, nhóm tác giả sẽ tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về bản chất của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải gây nguy hại được quy định tại Điều 236 của Bộ luật Hình sự hiện hành (sau đây gọi tắt là BLHS). Cùng với mục đích góp phần xây dựng để pháp luật về quản lý chất thải nguy hại nói riêng và quản lý chất thải nói chung ngày càng hoàn thiện và đi vào đời sống nhằm phát huy được hiệu quả tốt nhất. Đề tài có những nhiệm vụ cơ bản sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>9 </small>
- Làm rõ cơ sở lý luận về pháp luật hình sự về tội phạm vi phạm quản lý chất thải nguy hại, qua đó nhấn mạnh sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật hình sự về QLCTNH tại Việt Nam để chỉ ra những ưu, khuyết điểm cũng như bất cập trong quá trình thực thi pháp luật.
- Tiến hành nghiên cứu pháp luật hình sự của một số quốc gia tiến bộ trên thế giới (Trung Quốc, Singapore, Liên bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức) để đánh giá về tính khả thi, tiến bộ cũng như chỉ ra những yếu tố có sự tương tích, phù hợp với điều kiện, hồn cảnh của Việt Nam, có cái nhìn tồn diện cũng như học hỏi để đúc kết kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoàn thiện hơn quy định của BLHS 2015 đối với vấn đề bảo vệ môi trường mà trực tiếp liên quan đến vai trị của các chủ thể có trách nhiệm quản lý chất thải nguy hại.
- Trên cơ sở các nghiên cứu về lý luận và những phân tích, đánh giá về thực tiễn, đề tài sẽ đưa ra những phương hướng, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hình sự đối với vi phạm này tại Việt Nam hiện nay nhằm mục đích phục vụ cho cơng tác đấu tranh, phịng chống tội phạm diễn ra ngày càng hiệu quả.
<b>4. Đối tượng nghiên cứu </b>
Trong phạm vi nội dung của đề tài, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu vào khái niệm chất thải nguy hại và những quy định của pháp luật hình sự đối với vấn đề vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại để làm rõ bản chất, ý nghĩa của sự việc. Từ đó, nhóm tiến hành phân tích các quy định pháp luật cũng như tình hình thực tiễn trong và ngồi nước để tìm ra những bất cập, hạn chế nhằm đề xuất các giải pháp, kiến nghị phù hợp dựa trên tình hình thực tế.
<b>5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 5.1. Phạm vi không gian </b>
Đề tài được thực hiện tại Việt Nam và nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này đối với Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên phạm vi các quốc gia đã nêu và trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
<b>5.2. Phạm vi thời gian </b>
Nghiên cứu được thực hiện từ 24/10/2022 đến 15/08/2023. Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung vào lịch sử của pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến nội dung trên từ Bộ luật Hình sự năm 1985, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và hiện nay là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>10 </small>
<b>5.3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu về nội dung </b>
Đề tài sẽ tìm hiểu về các khái niệm có liên quan đến tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, cơ sở lý luận, dấu hiệu pháp lý, cách thức để phân biệt đối với việc xử lý trách nhiệm hành chính và đối với một số các tội danh về mơi trường khác. Trong đó, trọng tâm đề tài sẽ nghiên cứu những vấn đề pháp lý, các văn bản pháp luật liên quan đến trách nhiệm hình sự về quản lý chất thải nguy hại và một số nước trên Thế giới cụ thể là Trung Quốc, Singapore, Liên bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức. Sau khi nghiên cứu pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới, đề tài sẽ nghiên cứu các nội dung tương tự của pháp luật hình sự Việt Nam, chỉ ra những khó khăn, hạn chế cịn tờn tại ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, sẽ thực hiện tởng hợp và đánh giá, phân tích một số kinh nghiệm để học hỏi, phát triển những quy định của pháp luật hình sự về lĩnh vực môi trường đối với quản lý chất thải nguy hại.
<b>6. Phương pháp nghiên cứu </b>
Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hóa, phân tích và dự báo về pháp luật nhằm giải thích và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này nhằm phân loại, sắp xếp các tài liệu pháp luật, khoa học theo từng mặt, từng đơn vị, từng vấn đề có liên quan đến tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên lãnh thở Việt Nam. Qua đó, hệ thống hóa thành một hệ thống trên cơ sở mơ hình lý thuyết để góp phần cho nhóm có sự hiểu biết về đối tượng nghiên cứu một cách tường tận hơn.
- Phương pháp thu thập và phân tích số liệu: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để khai thác các thơng tin sẵn có từ các ng̀n khác nhau cũng như thu thập trực tiếp thông qua phỏng vấn, khảo sát, thông tin phương tiện đại chúng, hay trực tiếp đối mặt với tình huống thực tế. Từ đó, nhóm tự xây dựng cho mình bộ câu hỏi cũng như những tóm tắt có ảnh hưởng hiệu quả nhất cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh các khía cạnh pháp lý về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại tại một số quốc gia có hệ thống pháp lý nghiêm ngặt, hiệu quả về đối tượng nghiên cứu nhằm tìm ra những điểm tương đờng cũng như khác biệt so với pháp luật Việt Nam. Từ đó góp phần đưa ra phương hướng phát triển, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện các khía cạnh pháp lý về việc xử lý vấn đề này tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><small>11 </small>
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này nhằm thu thập thông tin thực tế khi quan sát đối tượng nghiên cứu (những quy định về quản lý chất thải nguy hại) ở trong điều kiện gây biến đổi (thực tiễn và quy định pháp luật của Việt Nam). Từ đó đánh giá và đưa ra những hướng phát triển, giải pháp cụ thể để giải quyết những tình trạng vi phạm của các đối tượng đối với vấn đề này.
- Phương pháp giả thuyết: nhóm tác giả sử dụng phương pháp này để đưa ra các dự đốn có cơ sở pháp lý, khoa học rõ ràng, thực tế về nhu cầu tất yếu cũng như tính cấp thiết của thực trạng về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên lãnh thở Việt Nam, sau đó sẽ tiến hành chứng minh dự đoán.
- Các phương pháp khác giúp nhóm tác giả tiếp cận trực quan, sinh động đến chủ đề cốt lõi của đề tài hoặc các phương pháp nhằm đạt được mục đích của đề tài.
<b>7. Cấu trúc đề tài </b>
Đề tài được thực hiện gồm 3 chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Tổng quan về chất thải gây nguy hại và quy định của pháp luật hình sự đối với Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại.
Chương 2: Pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới đối với Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật và thực trạng xử lý trách nhiệm hình sự đối với Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI </b>
<b>1.1. Khái quát những vấn đề chung về chất thải nguy hại </b>
<b>1.1.1. Khái niệm chất thải gây nguy hại và quản lý chất thải nguy hại </b>
Tình trạng ơ nhiễm mơi trường là vấn đề nhức nhối của hầu hết các quốc gia và cũng khơng riêng gì Việt Nam, tình trạng ơ nhiễm này cũng là mối lo ngại to lớn với sự phát triển bền vững của nước nhà và sức khỏe của cộng đờng. Ơ nhiễm mơi trường ở đây là một thuật ngữ rộng dùng để chỉ một hiện tượng tự nhiên bị biến đởi về các tính chất vật lý, sinh học, hóa học… và gây tác hại to lớn đến đời sống sức khỏe của con người. Ô nhiễm mơi trường là từ ngữ chung để nói đến mơi trường bị suy thối và mất đi tính trong lành, nhưng sâu trong đó cịn rất nhiều ngun nhân nhỏ lẻ dẫn đến tình trạng ơ nhiễm chung, ví dụ như ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm tiếng ờn, ơ nhiễm biển, ô nhiễm môi trường nước do loang dầu xả thải khơng đúng quy trình… Đó là một số thống kê, báo cáo tiêu biểu cho những nguyên nhân nhỏ lẻ dẫn đến tình trạng ơ nhiễm mơi trường chung và theo nhóm nghiên cứu những báo cáo trên đều hướng đến việc các chất thải, đặc biệt là các chất thải nguy hại trong sinh hoạt được xả, xử lý khơng đúng theo quy trình dẫn đến tình trạng trên. Những điều đó được nhóm nghiên cứu tham khảo và phân tích sâu từng khía cạnh ở các nội dung dưới đây.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng mơi trường bị ơ nhiễm, suy thối nghiêm trọng đó là con người có các hoạt động xả các chất thải ra môi trường hằng ngày. Các chất thải dần dần có thể đe dọa môi trường sống ngay tức khắc như làm cho cá chết hàng loạt, ng̀n nước, khí độc hoặc thực phẩm trồng trọt bị nhiễm độc khiến con người bị ngộ độc, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy giảm sức khỏe. Các chất thải cũng có thể dần dần tích tụ đến một lúc nào đó có thể gây ra tình trạng chất lượng mơi trường bị giảm sút, khơng cịn là nơi phù hợp để con người và sinh vật sinh sống và phát triển. Tuy nhiên, hằng ngày con người xả các chất thải ra môi trường rất nhiều nhưng khơng phải mọi chất thải đó đều được xem là chất thải nguy hại mà chỉ một trong số đó có chứa các thành phần có khả năng gây thiệt hại một cách đáng kể cho môi trường mới được xem xét để đưa vào diện các chất thải được xem là chất thải nguy hại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>13 </small>
Chất thải nguy hại là gì? Quản lý chất thải nguy hại ra sao? Ở đây nhóm nghiên cứu sẽ phân tích trên phương diện từ ngữ, thuật ngữ về khái niệm quản lý chất thải nguy hại, Điều đầu tiên là thuật ngữ chất thải. Chúng ta thường sử dụng thuật ngữ này một cách phở biến nhưng cần có một định nghĩa chính xác về cụm từ này. Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã cho ra định nghĩa một cách đơn giản cho khái
<i>niệm trên: “chất thải và chất thải nguy hại là chất thải có các đặc tính gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe con người hoặc môi trường. Chất thải nguy hại cũng bao gồm các dạng vật chất khác nhau, bao gồm: chất rắn, chất lỏng và chất khí”. </i>
Hay tại Việt Nam khái niệm chất thải được định nghĩa ở Điều 3, khoản 18, 20 của Luật
<i>Bảo vệ môi trường 2020, cụ thể là: “Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí hoặc ở dạng khác được thải ra từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.” Các văn bản dưới luật cũng đưa ra những định nghĩa hết sức cụ thể về khái </i>
niệm trên, điển hình như Nghị định số 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu cũng dành hẳn một điều để giải thích từ ngữ trên, cụ thể ở điều 3, khoản 1, 2, 3, 4 của
<i>NĐ 38/2015/NĐ-CP có đưa ra: “1. Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn hoặc sệt (còn gọi là bùn thải) được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. 2. Chất thải thông thường là chất thải không thuộc danh mục chất thải nguy hại hoặc thuộc danh mục chất thải nguy hại nhưng có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại. 3. Chất thải rắn sinh hoạt (còn gọi là rác sinh hoạt) là chất thải rắn phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con người. 4. Chất thải rắn công nghiệp là chất thải rắn phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.”. Một khía cạnh khác của </i>
Thông tư 20/2021/TT-BYT không đưa ra khái niệm chất thải nói chung nhưng có dẫn đến chất thải trong y tế và quản lý chất thải y tế trong phạm vi khuôn viên cơ sở y tế. Điều đó cũng được quy định tại Điều 62 của Luật Bảo vệ mơi trường năm 2020. Qua đó cho thấy rằng trên có các văn bản luật, dưới luật có các nghị định, thơng tư … đưa ra những định nghĩa về chất thải. Nhưng theo cách nói dân dụng hàng ngày để tờn tại thì con người chúng ta sẽ sử dụng những nhu yếu phẩm và những vật dụng cần thiết phục vụ cho đời sống. Sau khi sử dụng những vật dụng đó sẽ trở thành rác thải, chất thải. Cịn theo định nghĩa của nhóm nghiên cứu dựa vào những khái niệm được đề cập ở phía trên thì nhóm nghiên cứu cho rằng “Chất thải” bao gồm chất thải thông thường và chất thải nguy hại, đều là những vật chất tồn tại ở các dạng rắn, lỏng, khí được thải ra từ quá trình sinh hoạt, hoạt động sản xuất, kinh doanh hay nhằm phục đích khác trong đời sống của con người.
Có nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại phát triển như hiện nay thì chỉ các quốc gia có nền kinh tế phát triển mới lo ngại về vấn đề chất thải. Bởi lẽ, vì các quốc gia ấy có những nhu cầu và điều kiện kinh tế vững chắc nên trong quá trình phát triển sẽ xuất hiện nhiều chất thải kể trên, nhưng đó là một quan điểm đi lệch với xu hướng bảo vệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><small>14 </small>
môi trường chung của thế giới. Vấn đề môi trường đặc biệt trong việc liên quan đến chất thải và chất thải nguy hại, điều đó ln là vấn đề lo ngại địi hỏi các quốc gia cùng chung tay ứng phó, tránh tình trạng ngày một đến mức báo động, vậy nên đó là việc không của riêng một quốc gia hay một vùng lãnh thở nào. Vì vậy, việc quản lý chất thải là việc đang được đa số các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm và nghiên cứu. Vậy nên, trong quá trình nghiên cứu về các khái niệm này thì nhóm nghiên cứu cũng sẽ tham khảo các quan điểm, góc nhìn và kinh nghiệm của một số quốc gia khác.
Như đã đề cập ở trên, chúng ta đã làm rõ các khái niệm về chất thải nhưng cũng khẳng định không phải chất thải nào mà con người đưa ra môi trường cũng được xem là chất thải nguy hại mà chỉ có một trong số đó có yếu tố thể hiện sự nguy hiểm đáng kể hơn phần cịn lại đối với mơi trường mới được xem là chất thải nguy hại. Về vấn đề này trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã có sự tham khảo và tổng hợp từ các định nghĩa về
<i>chất thải nguy hại ở một số quốc gia như Philippines: “Chất thải nguy hại là những chất có độc tính, ăn mịn, gây kích thích, hoạt tính, có thể cháy, nổ mà gây nguy hiểm cho người và động vật”, hay của Canada: “Chất thải nguy hại là các chất phế thải mà tính chất và số lượng của chúng có thể độc hại đến sức khỏe con người hay môi trường và cần đến kỹ thuật thải đặc biệt để loại trừ hay giảm thiểu mối độc hại”<small>1</small>. Theo các tài liệu của Hoa Kỳ thì chất thải nguy hại được định nghĩa rằng: “Chất thải nguy hại là chất rất có thể gây ra hay góp phần đáng kể vào bệnh tật trầm trọng gây chết hay là mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe con người hoặc đến môi trường khi được quản lý không đúng cách”<small>2</small>. Hay theo như Chương trình mơi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) đưa ra định nghĩa rằng: “Các loại phế thải ngoài phế thải phóng xạ, vì lý do tác dụng hóa học hay độc tính, dễ nổ, gây ăn mịn hay các tính chất khác gây nguy hiểm đến sức khỏe hay môi trường được định nghĩa theo luật là độc hại trong xứ sở nơi chúng được phát sinh hay thải bỏ qua đường vận chuyển”<small>3</small>. Đây đều là những định nghĩa được nhóm nghiên </i>
cứu sưu tầm ở tạp chí của những năm 1995, nhìn chung thì các định nghĩa của các quốc gia và tổ chức quốc tế không khác nhau về nội dung và đều hướng đến làm rõ tính độc hại và sự nguy hiểm của nó đối với cộng động chung. Cũng cùng năm đó Việt Nam ta tham gia Cơng ước Basel về kiểm sốt vận chuyển biên giới chất thải nguy hại (CTNH) và việc tiêu hủy chúng ngày 13/3/1995. Trải qua nhiều năm cho đến nay, chất thải nguy hại được định nghĩa rõ ràng hơn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 tại Điều 3
<i>khoản 20: “Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ </i>
<small>1 Lê Kim Nguyệt (2001), Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.8. </small>
<small>2</small><i><small> Lê Kim Nguyệt, tlđd, tr. 8. </small></i>
<small>3</small><i><small> Lê Kim Nguyệt, tlđd, tr. 8. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>15 </small>
<i>cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây nhiễm độc hoặc có đặc tính nguy hại khác”. Đây chính là </i>
khái niệm chất thải nguy hại theo góc nhìn của pháp luật Việt Nam.
Từ định nghĩa về chất thải và chất thải nguy hại như đã nêu ở trên thì việc quản lý chất thải nguy hại có một tầm quan trọng to lớn đối với môi trường sống của con người và cũng là như yêu cầu cần thiết trong việc quản lý xã hội của nhà nước. Bên cạnh ý thức gìn giữ và bảo vệ mơi trường của các chủ thể trong xã hội thì vai trị của nhà nước cũng đóng vai trị to lớn. Với vai trò quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích cơng cộng của mình, bằng các cơng cụ pháp luật và bộ máy cưỡng chế trong tay thì nhà nước xây dựng các danh mục được xem là các chất thải nguy hại và đặt ra các quy định về các quy trình quản lý, các trình tự, thủ tục về việc đưa chất thải ra môi trường, các quy định cấm không để chất thải nguy hại chưa qua xử lý hoặc có nguy cơ mất an tồn cao được xả thải. Bên cạnh đó, nhà nước cũng áp đặt các trách nhiệm pháp lý tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của các chủ thể để xử lý hành vi vi phạm quy định của nhà nước.
Trên các cơ sở đã phân tích, nhóm nghiên cứu đưa ra định nghĩa của mình về quản
<i>lý chất thải nguy hại: “Quản lý chất thải nguy hại là việc thiết lập những quy trình chặt chẽ nhằm ngăn ngừa, hạn chế những nguy hiểm của chất thải nguy hại gây ra. Quy trình đó được xây dựng từ các khâu giám sát, phân loại thu gom, tái chế và tái sử dụng cùng các biện pháp xử lý nếu có sai phạm trong q trình thực hiện sản xuất, kinh doanh, hoạt động đời sống… bằng các quy định của pháp luật”. </i>
<b>1.1.2. Quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại </b>
Sau nhiều năm, Việt Nam ta đang từng bước phát triển và hoàn thiện dần các hệ thống văn bản pháp luật về chất thải nguy hại như: Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định ở Chương XIX về các tội phạm về môi trường; Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định ở Chương VI về quản lý chất thải nguy hải; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định ở Chương II về quản lý chất thải nguy hại; Quy chế quản lý chất thải nguy hại (ban hành kèm theo Quyết định số 115/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ); Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về thu hời, xử lý sản phẩm thải bỏ (thay thế Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg); Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại;…Việt Nam cũng tham gia vào một số Công ước quốc tế về quản lý chất thải nguy hại như: Công ước MARPOL (Việt Nam đã ký kết vào ngày 29/8/1991); Công ước BASEL (Việt Nam phê chuẩn vào ngày 13/5/1995); Công ước STOKHOLM (Việt Nam đã ký kết vào ngày 23/1/2001); Công ước ROTTERDAM (Việt Nam phê chuẩn vào ngày 7/4/2007);…
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><small>16 </small>
Và đồng thời, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành về quản lý chất thải nguy hại như sau: Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ở Mục 4 về quản lý chất thải nguy hại; Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ ở Điều 68 về hướng dẫn phân định, phân loại chất thải nguy hại; Điều 69, 70 về hướng dẫn vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải và phế liệu; Thông tư 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại;…
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày 17 tháng 11 năm 2020 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2022, so với Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 đối với quản lý chất thải nguy hại đã xác lập lại đúng vai trò hoạt động quản lý, kiểm sốt, kiểm tra chính xác chất thải của doanh nghiệp, Luật quy định các đối tượng xả nước thải, bụi, khí thải lớn ra mơi trường lớn thì phải quan trắc định kỳ; đối tượng phải quan trắc tự động, liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ơ nhiễm mơi trường với lưu lượng phát thải trung bình trở lên và cơ sở khơng thuộc loại hình có nguy cơ gây ơ nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải lớn, các khu, cụm công nghiệp; Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 cũng đã bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào cơng trình thủy lợi mà lờng ghép nội dung này trong giấy phép môi trường nhằm thống nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nước ngun nước; đờng thời giảm thủ tục hành chính mạnh mẽ cho doanh nghiệp<small>4</small>.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quy định của nhà nước đối với việc quản lý chất thải nguy hại được quy định như sau:
Thứ nhất, chất thải nguy hại được phân định theo mã danh mục và ngưỡng chất thải nguy hại. Các chất thải nguy hại phải được phân loại theo mã chất thải nguy hại để lưu giữ trong các bao bì hoặc thiết bị lưu chứa phù hợp được sử dụng chung bao bì hoặc là thiết bị lưu chứa đối với các mã chất thải nguy hại có cùng tính chất, khơng có khả năng gây phản ứng, tương tác lẫn nhau và có khả năng xử lý bằng cùng một phương pháp nước thải nguy hại được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trong hệ thống xử lý nước thải tại cơ sở phát sinh thì được quản lý theo quy định về quản lý nước thải.
<small>4</small><i><small> Đào Thị Tố Như (2023), “Triển khai một số điểm mới của luật Bảo vệ Môi trường năm 2020”, </small></i>
<small>2020-106.html (truy cập ngày 09/7/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Thứ ba, chủ của nguồn chất thải nguy hại có trách nhiệm chính của chủ ng̀n chất thải nguy hại là phân định, phân loại, lưu giữ chất thải nguy hại, tự chịu trách nhiệm về việc phân định, phân loại, xác định lượng chất thải nguy hại phải khai báo và quản lý có khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại, lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại trong các bao bì hoặc thiết bị lưu chứa đã đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Chỉ được lưu giữ chất thải nguy hại không
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>18 </small>
quá một năm kể từ thời điểm phát sinh, trường hợp lưu giữ quá thời hạn nêu trên do chưa có phương án vận chuyển, xử lý khả thi hoặc chưa tìm được cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại phù hợp thì phải báo cáo định kỳ hàng năm về việc lưu giữ chất chất thải nguy hại tại cơ sở phát sinh với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh bằng văn bản riêng hoặc kết hợp trong báo cáo môi trường định kỳ.
Thứ tư, đối với dự án đầu tư cơ sở phát sinh chất thải nguy hại với tổng khối lượng từ 1200kg trên một năm trở lên hoặc từ 100kg một tháng trở lên, trong q trình vận hành thì phải lập hờ sơ đề nghị cấp Giấy phép môi trường theo quy định Luật Bảo vệ môi trường. Tự xử lý chất thải nguy hại tại cơ sở phát sinh hoặc ký hợp đồng để chuyển giao chất thải nguy hại cho cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại phù hợp, phối hợp với cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại để lập chứng từ chất thải nguy hại khi chuyển giao chất thải nguy hại theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Sau thời hạn 6 tháng kể từ ngày chuyển giao chất thải nguy hại nếu không nhận được hai liên cuối cùng của chứng từ của chất thải nguy hại mà khơng có lý do hợp lý bằng văn bản từ tổ chức, cá nhân tiếp nhận chất thải nguy hại thì chủ ng̀n thải chất thải nguy hại phải báo cáo cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh hoặc Bộ Tài nguyên và Môi trường để kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm chính của chủ cơ sở thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại ký hợp đồng thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại với các chủ nguồn thải chất thải nguy hại trên địa bàn hoạt động, phù hợp với Giấy phép môi trường hoặc Giấy phép môi trường thành phần.
Thứ năm, việc thu gom, vận chuyển, tiếp nhận xử lý số lượng loại chất thải nguy hại phải theo đúng nội dung Giấy phép môi trường hoặc Giấy phép môi trường thành phần được cấp và phù hợp với hợp đồng thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại với các chủ nguồn thải chất thải nguy hại. Chỉ được tiếp nhận chất thải nguy hại do chủ nguồn chất thải nguy hại vận chuyển đến hoặc từ chủ xử lý chất thải nguy hại thực hiện việc liên kết, thông báo bằng văn bản cho chủ nguồn thải chất thải nguy hại và báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường trong trường hợp có lý do phải lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại mà chưa đưa vào xử lý sau 6 tháng kể từ ngày thực hiện chuyển giao trên chứng từ trước khỏi nguy hại. Xử lý ô nhiễm, cải tạo, hồi phục môi trường sau khi kết thúc hoạt động theo hướng dẫn kỹ thuật của Bộ Tài nguyên và Môi trường và liên kết chuyển giao chất thải nguy hại khơng có trong Giấy phép mơi trường. Khi hai tở chức, cá nhân có Giấy phép mơi trường hoặc có Giấy phép mơi trường thành phần có nhu cầu liên kết, trong đó có một bên chỉ thực hiện việc vận chuyển chất thải nguy hại và chuyển giao trách nhiệm xử lý cho bên cịn lại thì bên chuyển giao hoặc tiếp nhận phải gửi văn bản
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể đối với việc quản lý chất thải nguy hại thì nhà nước cịn áp đặt các chế tài, các trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Đối với việc xử lý vi phạm hành chính thì Chính phủ đã ban hành Nghị định 45/2022/NĐ-CP trong đó có quy định về mức xử phạt và các biện pháp xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại. Theo điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị định 45/2022/NĐ-CP thì vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại là một trong các hành vi được xem là vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Cụ thể theo các nội dung được quy định trong Nghị định này thì các hành vi vi phạm được mơ tả cũng như các biện pháp xử lý được quy định tập trung từ Điều 29 đến Điều 31. Theo đó, các hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại được liệt kê bao gồm các hành vi như:
<i>Đối với chủ nguồn chất thải nguy hại, các hành vi vi phạm bao gồm việc không </i>
tuân thủ đúng việc báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; khơng thực hiện đúng chế độ giấy tờ, sổ sách, lưu giữ chứng từ đúng quy định; không thu gom, lưu giữ chất thải nguy hại đúng quy định; vận chuyển chất thải nguy hại phát sinh tại cơ sở khi khơng có phương tiện chính chủ hoặc phương tiện, thiết bị không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật; không phân định chất thải nguy hại theo mã, danh mục và ngưỡng chất thải nguy hại; không phân loại chất thải nguy hại theo quy định; xác định không đúng số lượng, khối lượng chất thải nguy hại để quản lý theo quy định; không khai báo hoặc khai không đúng khối lượng, loại chất thải nguy hại; khơng đóng gói, bảo quản chất thải nguy hại trong các bao bì, thiết bị lưu chứa phù hợp, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật theo quy định; khơng bố trí hoặc bố trí khu vực lưu giữ chất thải nguy hại không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật; để lẫn chất thải nguy hại khác loại với nhau trong trường hợp các chất thải nguy
<small>5 Phạm Thu Hằng, “Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam hiện nay”, </small>
<small>8585.html (truy cập ngày 10/7/2023). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small> </small>
hại không cùng tính chất, khơng cùng phương pháp xử lý hoặc để lẫn chất thải nguy hại với chất thải khác trong quá trình lưu giữ; chuyển giao, cho, bán, mua, tặng chất thải nguy hại cho tổ chức, cá nhân khơng có chức năng xử lý chất thải nguy hại; làm tràn đổ chất thải nguy hại hoặc để xảy ra sự cố tràn đổ chất thải nguy hại ra môi trường; tái sử dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ chất thải nguy hại khi chưa được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận; tái sử dụng, sơ chế, tái chế, xử lý, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ chất thải nguy hại khi chưa được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận.
<i>Đối với việc vận chuyển chất thải nguy hại, hành vi vi phạm quy định về quản lý </i>
chất thải nguy hại được quy định tại Nghị định 45/2022/NĐ-CP được xác định là việc vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục liên quan đến việc báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc thuê phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại, trong việc lập và lưu giữ hờ sơ vận chủn chất thải nguy hại có yếu tố nước ngoài và các hành vi vi phạm như: không trang bị hệ thống định vị vệ tinh (GPS) đối với phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại; không cung cấp tài khoản theo dõi thiết bị định vị vệ tinh của phương tiện vận chuyển cho Bộ Tài nguyên và Môi trường giám sát, quản lý; thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại ngoài địa bàn quy định trong giấy phép; thực hiện việc liên kết vận chuyển chất thải nguy hại giữa hai cá nhân, tở chức có giấy phép mơi trường về nội dung thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại khi chưa được chấp thuận; không thực hiện đúng một trong các nội dung quy định trong giấy phép môi trường về xử lý chất thải nguy hại; sử dụng phương tiện, thiết bị chuyên dụng thu gom, vận chuyển, đóng gói, bảo quản và lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật; bố trí khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại không đúng quy định; thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại ngoài danh mục chất thải nguy hại quy định trong giấy phép; thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại vượt quá khối lượng một trong các nhóm chất thải nguy hại được quy định trong giấy phép; sử dụng phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại không được đăng ký trong giấy phép mơi trường hoặc khơng có hợp đồng thuê; hành vi chuyển giao, cho, bán chất thải nguy hại cho tở chức, cá nhân khơng có giấy phép môi trường phù hợp hoặc mua, tiếp nhận chất thải nguy hại từ các tổ chức, cá nhân khi khơng có chức năng xử lý chất thải nguy hại theo quy định.
<i>Đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong quá trình xử lý chất thải nguy hại được xác định là các hành vi: khơng có quy trình vận hành an tồn </i>
cơng nghệ, phương tiện, thiết bị chun dụng phù hợp; không lập kế hoạch quản lý môi trường; khơng có nhân sự phụ trách về bảo vệ mơi trường theo quy định; khơng thực hiện chương trình giám sát vận hành xử lý và đánh giá hiệu quả xử lý chất thải nguy hại trong giấy phép; không đào tạo, tập huấn định kỳ về môi trường hàng năm; không lưu
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>21 </small>
trữ chứng từ chất thải nguy hại đã sử dụng, báo cáo quản lý chất thải nguy hại và các hồ sơ, tài liệu khác có yêu cầu lưu trữ liên quan đến hoạt động quản lý chất thải nguy hại; không thực hiện kê khai và sử dụng chứng từ chất thải nguy hại; không công khai, cung cấp thông tin về loại, số lượng chất thải nguy hại thu gom, xử lý, phương pháp xử lý; thông tin về tên, địa chỉ chủ nguồn thải chất thải nguy hại được thu gom, xử lý và các thông tin về môi trường khác cần phải công khai, cung cấp thông tin; không lập sổ giao nhận chất thải nguy hại, sổ nhật ký vận hành hệ thống, phương tiện, thiết bị xử lý chất thải nguy hại; không lập sổ theo dõi số lượng, chất lượng, nguồn tiêu thụ của các sản phẩm tái chế hoặc thu hồi từ chất thải nguy hại; thực hiện kế hoạch thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải y tế nguy hại (mơ hình cụm) khơng đúng quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; sử dụng kho chứa chất thải nguy hại khơng có trong giấy phép mơi trường; khơng thông báo bằng văn bản cho chủ nguồn thải chất thải nguy hại trong trường hợp có lý do phải lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại mà chưa đưa vào xử lý sau 06 tháng kể từ ngày thực hiện chuyển giao ghi trên chứng từ; không thực hiện đúng kế hoạch xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường khi chấm dứt hoạt động; không lắp đặt các bảng hướng dẫn dạng sơ đồ về quy trình vận hành an tồn các hệ thống, phương tiện, thiết bị xử lý chất thải nguy hại; không lưu giữ chất thải nguy hại trước và sau khi xử lý trong thiết bị chuyên dụng phù hợp với loại hình chất thải nguy hại; thiết bị chuyên dụng phục vụ lưu giữ chất thải nguy hại, khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại hoặc thiết bị xử lý chất thải nguy hại không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật; tiếp nhận xử lý chất thải nguy hại do cá nhân, tổ chức khơng có giấy phép mơi trường vận chủn đến mà khơng có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; khơng có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi tiếp nhận chất thải nguy hại từ các chủ xử lý chất thải nguy hại khác; xử lý chất thải nguy hại vượt quá công suất xử lý một trong các nhóm chất thải nguy hại quy định trong giấy phép; xử lý chất thải nguy hại khi không có giấy phép mơi trường; khơng xử lý ơ nhiễm, cải tạo môi trường sau khi kết thúc hoạt động theo quy định; chuyển giao, cho, bán chất thải nguy hại cho tở chức, cá nhân khơng có giấy phép môi trường phù hợp hoặc mua, tiếp nhận chất thải nguy hại từ các tổ chức, cá nhân khi không có chức năng xử lý chất thải nguy hại theo quy định.
<b>Về trách nhiệm hình sự, khơng phải mọi hành vi nào vi phạm các quy định về </b>
quản lý chất thải như đã kể trên thì đều bị xử lý theo Điều 236 BLHS mà chỉ có hành vi được quy định mới phải chịu TNHS. Theo đó, Tội VPQĐVQLCTNH được quy định như sau:
- Người nào có thẩm quyền mà cho phép chơn, lấp, đở, thải trái quy định của pháp luật chất thải nguy hại thuộc danh mục các chất ơ nhiễm hữu cơ khó phân hủy cần phải
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><small>22 </small>
loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ơ nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 3.000 kilôgam đến dưới 5.000 kilôgam; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ mơi trường thuộc ng̀n phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm dưới trung bình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an tồn bức xạ - phân nhóm và phân loại ng̀n phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đờng đến 200.000.000 đờng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
+ Chất thải nguy hại thuộc danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ơ nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 5.000 kilôgam đến dưới 10.000 kilôgam; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ mơi trường thuộc ng̀n phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm trung bình theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an tồn bức xạ - phân nhóm và phân loại ng̀n phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép;
- Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm<small>6</small>.
Như vậy, dù hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại là rất phong phú, đa dạng nhưng chỉ có hành vi cho phép chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại theo quy định của người có thẩm quyền mới phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội VPQĐVQLCTNH theo Điều 236 BLHS.
Việc quản lý chất thải nguy hại có thể xem như là một trong các vấn đề quan trọng của nhà nước vì nó mang tính chất quyết định đến mục tiêu bảo vệ mơi trường. Do đó,
<small>6 Cụ thể tại Điều 236 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>23 </small>
các quy định về quản lý chất thải nguy hại được xây dựng một cách có hệ thống và tương đối chặt chẽ, bao gồm nhiều khâu, nhiều trình tự, thủ tục và ln đan xen với vai trị kiểm tra, kiểm sốt của nhà nước. Bên cạnh đó thì nhà nước cũng áp đặt các chế tài, các trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm để xử lý các trường hợp vi phạm, răn đe và phòng ngừa việc vi phạm pháp luật cũng như nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Đặc biệt trong số đó thì việc vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại cũng được nhà nước xem nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến mức là tội phạm và được quy định trong BLHS.
<b>1.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại theo pháp luật hình sự Việt Nam </b>
<b>1.2.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại </b>
Khi nghiên cứu một tội phạm cụ thể thì việc đưa ra một khái niệm về tội phạm đó là điều cần thiết. Thơng qua đó, chúng ta có thể làm rõ được những dấu hiệu bản chất để có thể nhận diện, phục vụ mục đích nghiên cứu về tội phạm đó. Trước hết Tội VPQĐVQLCTNH là một tội phạm được quy định trong BLHS nên do đó nó có những những dấu hiệu bản chất chung của tội phạm và có những dấu hiệu đặc thù riêng.
BLHS khơng có quy định nào nói về khái niệm của Tội VPQĐVQLCTNH, chỉ có
<i>khái niệm chung được nêu tại khoản 1 Điều 8 như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm </i>
<i>cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Trên cơ sở khái niệm tội phạm được quy định </i>
tại khoản 1 Điều 8, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm ngắn gọn về tội phạm như sau: tội phạm là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, do người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện, có lỗi và phải chịu TNHS. Về dấu hiệu định tội của Tội
<i>VPQĐVQLCTNH được quy định tại khoản 1 Điều 236 BLHS như sau: “Người nào có </i>
<i>thẩm quyền mà cho phép chơn, lấp, đổ, thải trái quy định của pháp luật chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 3.000 kilơgam đến dưới 5.000 kilơgam; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ mơi trường thuộc nguồn phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm dưới trung bình theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>24 </small>
<i>nhóm và phân loại nguồn phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Trên cơ sở khái niệm của tội phạm và các dấu hiệu </i>
định tội theo khoản 1 Điều 236 BLHS, nhóm nghiên cứu đưa ra khái niệm về Tội VPQĐVQLCTNH như sau:
Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong quản lý chất thải nguy hại, hành vi này được thực hiện thông qua hành vi cho phép việc chôn, lấp, đổ thải trái quy định của pháp luật chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 3.000 kilơgam trở lên; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ mơi trường thuộc ng̀n phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm dưới trung bình trở lên theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại ng̀n phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép mà theo quy định phải chịu trách nhiệm hình sự.
<b>1.2.2. Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về Tội vi phạm quy định quản lý chất thải nguy hại </b>
Bộ luật Hình sự là một đạo luật quan trọng, quy định về tội phạm và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Liên quan đến Tội vi phạm quy định quản lý chất thải nguy hại, có thể chia lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội này thành ba giai đoạn: giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất – BLHS 1985; giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất – BLHS 1985 đến khi BLHS 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; giai đoạn từ khi BLHS 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đến nay.
<i><b>Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất – BLHS năm 1985: </b></i>
Trong giai đoạn trước khi có BLHS năm 1985, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước ta khi vừa trải qua một thời gian dài của chiến tranh giành độc lập, điều kiện kinh tế xã hội cịn khó khăn,... nên những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm chưa được quan tâm, chú trọng nhiều. Từ những năm 1960, vấn đề bảo vệ môi trường đã được Nhà nước ta quan tâm thông qua các chủ trương, chính sách như: Chỉ thị số 07/TTg ngày
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><small>25 </small>
16/01/1964 về việc thu tiền bán khoán lâm sản và chi tiền nuôi rừng; Pháp lệnh quy định bảo vệ rừng ngày 11/9/1972... Đến những 1980, vấn đề bảo vệ mơi trường nói chung
<i>được đạo luật cao nhất của Nhà nước là Hiến pháp 1980 quy định tại Điều 36: “Các cơ </i>
<i>quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện mơi trường sống”. Có thể thấy mặc dù chưa đầy đủ nhưng ở </i>
mức độ nhất định đã có những quy định khá cụ thể và chặt chẽ trong vấn đề bảo vệ môi trường ở một số lĩnh vực. Tuy vậy, trong lĩnh vực lập pháp, các quy định về bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật hình sự nói riêng chưa được nhận thức một cách đầy đủ của pháp luật hình sự. Trong giai đoạn này, tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại chưa được quy định.
<i><b>Giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất – BLHS 1985 đến khi BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009: </b></i>
Trong thời gian từ năm 1985 đến năm 1999, thời kỳ này nền kinh tế của đất nước đang trong giai đoạn phát triển kinh tế, q trình đơ thị hóa, sự sử dụng rộng rãi các loại hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật; nạn phá rừng tràn lan đã làm mất cân bằng sinh thái trầm trọng... khiến cho vấn đề bảo vệ môi trường trở thành thách thức lớn của xã hội. Đứng trước những yêu cầu về bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm, Nhà nước ta đã quy định trong BLHS năm 1985 một số hành vi xâm hại đến các yếu tố của môi trường gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm và cá nhân vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là lần đầu tiên vấn đề bảo vệ môi trường được ghi nhận trong BLHS, tuy nhiên vấn đề này chưa được quy định trong một chương riêng biệt trong BLHS mà chỉ được ghi nhận tại 4 điều luật trong các Chương VIII “Các tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng và trật tự quản lý hành chính” và Chương VII “Các tội phạm về kinh tế” đó là: Điều 180 – Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai, Điều 181 – Tội vi phạm các quy định về quản lý bảo vệ rừng, Điều 195 – Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng, Điều 216 – Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc quy định như thế vẫn cịn rất sơ sài, khơng được hệ thống hóa, tập trung với tính chất là một chương riêng biệt đối với các tội phạm về mơi trường. Đờng thời, có thể các nhà làm luật lúc này chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của các ng̀n tài nguyên mà chưa chú ý đến khía cạnh sinh thái của chúng. Có thể dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi trường được gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm về môi trường.
Hiến pháp 1992 ra đời trong hoàn cảnh vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm, thể hiện một mức độ quyết liệt hơn, nghiêm
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>26 </small>
<i>khắc và cụ thể hơn: “Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại </i>
<i>môi trường” (44, Điều 29). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992 trong lĩnh vực bảo </i>
vệ môi trường, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ thể hóa việc bảo vệ mơi trường như: Luật Đất đai 1993, Luật Bảo vệ môi trường 1993; Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường v.v…
BLHS năm 1999 được ban hành để khắc phục những điểm còn hạn chế và bất cập của BLHS 1985 trước đây và đồng thời đáp ứng những yêu cầu mới do bối cảnh đất nước đặt ra. Vấn đề bảo vệ môi trường được BLHS coi trọng và lần đầu tiên các tội phạm về môi trường được ghi nhận tại một chương riêng – Chương XVII của BLHS 1999 với 10 điều luật quy định khá cụ thể và chi tiết các hành vi xâm hại đến môi trường từ các Điều 182 đến Điều 190. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại chưa được quy định trong BLHS.
<i><b>Giai đoạn từ sau khi sửa đổi bổ sung BLHS Việt Nam 1999 đến nay: </b></i>
Trải qua gần mười năm thi hành, một số quy định của BLHS 1999 về tội phạm môi trường nói chung, các loại tội phạm gây ơ nhiễm mơi trường nói riêng đã phát sinh một số hạn chế, vướng mắc và bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là việc tăng cường hội nhập quốc tế và q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, việc sửa đởi bổ sung một số quy định của BLHS 1999 đối với các tội phạm về môi trường là một việc làm cần thiết. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong giai đoạn này trở thành một vấn đề rất nghiêm trọng tại Việt Nam, hàng loạt các vụ sai phạm về quản lý chất thải nguy hại như vụ công ty Vedan xả thải ra sơng Thị Vải khơng qua quy trình xử lý, vụ chôn lấp trái phép chất thải nguy hại của công ty Nicotex Thanh Thái,... Đặc biệt, theo cảnh báo của các tổ chức quốc tế trong Hội nghị quốc tế về biến đởi khí hậu thì Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của việc biến đởi khí hậu.
Trước tình hình đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS 1999 là tiếp tục hồn thiện, bở sung các tội phạm về mơi trường trong BLHS để đấu tranh, phịng, chống có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm này. BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định 11 tội danh tại các Chương XVII: Các tội phạm về môi trường, cụ thể: Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 182); Tội vi phạm các quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 182a); Tội vi phạm các quy định về phòng ngừa sự cố môi trường (Điều 182b); Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 185); Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho con người (Điều 186); Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187); Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản (Điều 188); Tội hủy hoại rừng (Điều 189); Tội vi phạm các quy định về bảo vệ
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>27 </small>
động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Điều 190); Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191); Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 191a).
BLHS 1999, sửa đổi, bổ sung 2009 đã bổ sung một số tội mới do thực tế đòi hỏi cần phải được quy định, trong đó có tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại. Đây là lần đầu tiên, hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại được quy định trong BLHS. Ở lần sửa đổi này, với việc quy định thành một tội danh mới đã thể hiện sự tiến bộ về mặt kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xử lý các hành vi vi phạm về quản lý chất thải nguy hại. Mặt khác, cũng cho thấy sự phù hợp giữa Luật Bảo vệ môi trường 2005 với BLHS. Đặc biệt, chủ thể của tội phạm này là người có trách nhiệm trong việc quản lý chất thải nguy hại, với quy định của điều luật này góp phần tăng cường hơn nữa trách nhiệm của họ trong phạm vi nhiệm vụ của mình.
Đến BLHS năm 2015 (sau này được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện vào năm 2017), trước những điểm bất cập và chưa hợp lý của BLHS năm 1999 thì Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại được quy định tại Điều 236 có sự thay đổi đáng kể theo hướng xây dựng tội phạm từ cấu thành tội phạm vật chất chuyển thành tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, hành vi phạm tội được giới hạn một cách cụ thể rõ ràng, cách thức xác định mang tính định lượng hóa cao và các quy định về hình phạt cũng thay đổi theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng và tăng mức phạt tiền.
<b>1.2.3. Dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại</b>
Nghiên cứu về một tội cụ thể thì ngồi làm rõ về khái niệm của tội đó cịn cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý (cấu thành tội phạm) của tội đó. Điều này có vai trị và ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi lẽ một tội phạm được cấu thành thì ln địi hỏi phải đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Nhận thức rõ vấn đề này chính là tiền đề quan trọng phục vụ việc nghiên cứu, là cơ sở để phân biệt với các tội khác trong BLHS và là nền tảng của quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế khi có một tội phạm xảy ra. Dựa trên quy định tại khoản 1 Điều 236, có thể nhận diện các dấu hiệu pháp lý của Tội VPQĐVQLCTNH như sau:
<b>a) Khách thể của tội phạm </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>28 </small>
Theo khoa học pháp lý, khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại<small>7</small>. Khách thể của tội phạm có thể được phân loại thành khách thể chung (tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ chung bị xâm hại), khách thể loại (nhóm các quan hệ xã hội cùng tính chất được bảo vệ) và khách thể trực tiếp (một quan hệ xã hội cụ thể bị một tội phạm cụ thể xâm hại).
Thứ nhất, đối với khách thể chung, khoản 1 Điều 8 BLHS đã liệt kê bao gồm: xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thở Tở quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tở chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đây là những khách thể chung nhất mà mọi hành vi phạm tội đều sẽ tác động đến trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại cũng khơng nằm ngồi những yếu tố đó, khi hành vi phạm tội xảy ra thì suy cho cùng cũng đã tác động một cách gián tiếp vào khách thể chung được BLHS bảo vệ.
Đối với khách thể loại, vì thuộc nhóm tội phạm mơi trường nên sẽ khách thể ở đây chính là các quan hệ xã hội về quản lý và bảo vệ môi trường mà hệ quả của hành vi phạm tội là làm ảnh hưởng xấu đến sự bền vững, ổn định của môi trường, hệ sinh thái.
Về khách thể trực tiếp, Tội VPQĐVQLCTNH chính là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến các quan hệ xã hội là chế độ quản lý nhà nước đối với chất thải nguy hại. Các chất thải nguy hại có tác động tiêu cực đến môi trường, cuộc sống, sức khỏe của con người nên nhà nước đặc biệt quản lý chặt chẽ và nghiêm ngặt. Việc vi phạm những quy định của nhà nước đối với việc quản lý chất thải nguy hại trước hết sẽ xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước đối với lĩnh vực môi trường. Đây chính là quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ bởi vì nhà nước đặt ra quy định về quản lý chất thải nguy hại và chính nhà nước cũng phải bảo vệ trật tự quản lý của mình bằng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc để đảm bảo việc quản lý nhà nước được thực thi trên thực tế và có hiệu quả, phịng ngừa để xảy ra các tình trạng bị ơ nhiễm, suy thối nghiêm trọng. Từ sự vi phạm quy định về quản lý CTNH thì ngồi việc mục tiêu quản lý của nhà nước khơng thể đạt được mà cịn có thể phát triển thành nhiều mối đe dọa khác nhau như làm ơ nhiễm mơi trường, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, ảnh hưởng đến khả năng phát triển kinh tế khi mơi trường khơng cịn đủ chất lượng để có tiến hành các hoạt động sản xuất - kinh doanh (ví dụ như đất khơng cịn khả năng để trờng trọt, nước khơng cịn khả năng để ni trờng thủy - hải sản,...) và thậm chí có thể dẫn đến
<small>7 Trường Đại học Luật TP. Hờ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb. Hồng Đức, tr.108. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><b>b) Mặt khách quan của tội phạm </b>
Mặt khách quan của tội phạm theo định nghĩa của khoa học pháp là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và ln tờn tại bên ngồi thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm<small>8</small>. Trong các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm thì chỉ có hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc có trong mọi tội phạm. Dấu hiệu về hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả thì tùy thuộc vào từng tội phạm cụ thể mà các dấu hiệu khác có thể đóng vai trị là dấu hiệu bắt buộc đối với tội danh đó hoặc vai trị xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nghiên cứu Điều 236 BLHS, có thể nhận diện được mặt khách quan của tội phạm bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Tội VPQĐQLCTNH là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Để được xem là tội phạm thì hành vi đó phải mang tính chất gây nguy hiểm cho xã hội. Hành vi gây nguy hiểm ở đây được quy định đó là hành vi của người có thẩm quyền mà cho phép chơn, lấp, đổ, thải trái quy định của pháp luật đối với các chất thải nguy hại. Việc quy định về hành vi này là một trong những điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) trước đây. Điều 182a của BLHS năm 1999 quy
<i>định: “Người nào vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi </i>
<i>trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm </i>
<small>8 Trường Đại học Luật TP. Hờ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb. Hồng Đức, tr.121. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Đối với BLHS 2015, về hành vi khách quan của tội phạm chỉ xem xét trong phạm vi hành vi cho phép chủ thể khác được thực hiện việc chôn, lấp, đổ, xả các chất thải nguy hại ra môi trường của người có thẩm quyền mà khơng cịn coi những hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại xác định theo các quy định của pháp luật chuyên ngành như trước kia. Do đó, đối với BLHS năm 2015 thì hành vi khách quan của tội này được xác định là hành vi cho phép của người có thẩm quyền trong việc cho
<small>9 Nghị định 179/2013/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ mơi trường. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>31 </small>
phép chủ thể khác thực hiện hành vi chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại được liệt kê tại Điều 236 ra môi trường là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến mức phải chịu TNHS.
Hành vi “cho phép” ở đây có thể được hiểu là hành vi đồng ý hoặc chấp thuận để cho một người nào đó được phép làm một việc gì đó. Do đó, để xác định là hành vi khách quan của tội này thì nhóm nghiên cứu cho rằng hành vi cho phép có thể được hiểu dưới cả hai dạng hành động và không hành động. Hành động phạm tội ở đây là người phạm tội đã làm một việc mà pháp luật cấm. Ở đây, nếu hành vi cho phép thể hiện dưới dạng hành động thì chính là hành động đồng ý, chấp thuận một cách minh thị, rõ ràng như cấp giấy phép, trả lời thể hiện sự chấp thuận bằng văn bản, bằng lời nói hoặc dưới các hình thức khác. Bên cạnh đó, cũng có thể hiểu hành vi cho phép ở đây thể hiện dưới dạng không hành động, tức là người phạm tội đã không làm một việc mà pháp luật buộc người đó có nghĩa vụ phải làm. Do đó, khơng nhất thiết phải là sự chấp thuận một cách minh thị mà có thể là sự chấp thuận ngầm như bản thân người có thẩm quyền biết rõ về hành vi đó chơn, lấp, đở, thải các chất thải nguy hại đang hoặc sẽ được thực hiện trên thực tế nhưng khơng có hành vi ngăn chặn, xử lý mà để mặc cho việc đó xảy ra.
Thứ hai, dấu hiệu hậu quả ở BLHS 2015 khơng cịn là dấu hiệu định tội. Trước kia, BLHS năm 1999 đặt ra yêu cầu những hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại phải ở mức độ đó là làm ơ nhiễm mơi trường ở mức độ nghiêm trọng hoặc các thiệt hại khác ở mức độ nghiêm trọng thì mới là căn cứ để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự. Như vậy, đối với tội danh vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trước kia là tội phạm thuộc cấu thành vật chất. Có nghĩa là, chỉ có thể xem xét cấu thành tội phạm khi đã có hậu quả xảy ra trên thực tế và phải đạt đến một mức độ nhất định (cụ thể ở đây là mức độ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây các thiệt hại khác cũng ở mức độ nghiêm trọng). Điều này trên thực tế lại phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình vận dụng. Trước hết, chính bản thân khái niệm “gây ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng” và “gây hậu quả nghiêm trọng khác”. Thuật ngữ “Gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng” hiện nay khó được tiếp cận khái niệm dưới góc độ văn bản pháp luật hiện hành. Khái niệm này đã từng xuất hiện ở Luật Bảo vệ môi trường năm
<i>2005. Theo đó, tại khoản 2 Điều 92 quy định: “Mơi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng khi </i>
<i>hàm lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 3 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên”. Nhưng từ Luật </i>
Bảo vệ môi trường 2014 và hiện nay là Luật Bảo vệ mơi trường 2020 đã khơng cịn ghi nhận khái niệm này. Do đó, khi áp dụng sẽ có những ý kiến khác trong việc xác định hậu quả mà đây lại là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Ngoài ra, thuật ngữ “gây
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Điều 236 BLHS 2015 đã có sự thay đởi cơ bản về vai trị của yếu tố hậu quả thiệt hại. Từ việc hậu quả thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc để xác định cấu thành tội phạm thì cho đến nay dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả đã khơng cịn là dấu hiệu bắt buộc trong các dấu hiệu thuộc mặt khách quan. Theo đó, Tội VPQĐVQLCTNH hiện này là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, tức là chỉ cần có dấu hiệu hành vi khách quan là hành vi của người có thẩm quyền mà
<i>cho phép việc chơn, lấp, đổ thải các chất thải nguy hại mà vượt ngưỡng chất thải nguy </i>
hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy từ 3.000 kilơgam trở lên; chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ mơi trường thuộc ng̀n phóng xạ loại có mức độ nguy hiểm dưới trung bình trở lên theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại ng̀n phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép xảy ra thì có thể được xem như đã thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm mà khơng cịn xét đến mức độ của hậu quả gây ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả trên thực tế như thế nào. Chính vì vậy, Tội VPQĐVQLCTNH được xác định là tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm hành vi cho phép của người có thẩm quyền về việc chôn, lấp, đổ, thải chất thải nguy hại theo quy định xảy ra.
Về nội dung này, nhóm nghiên cứu cho rằng BLHS 2015 đã có một bước tiến lớn về hướng tiếp cận. Bởi lẽ, việc đặt yêu cầu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc đối với tội danh quy định tại Điều 236 nói riêng và các tội phạm trên lĩnh vực mơi trường nói chung là có khả năng sẽ gây khó khăn trong q trình áp dụng. Như đã nói, việc xác định hậu quả trên thực tế là không dễ dàng mà cịn có thể khẳng định là khó khăn về nhiều mặt khi thực hiện. Chính điều này có thể dẫn đến quy định khơng khả thi và khó áp dụng được trên thực tế. Trước hết, việc đặt ra tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng đối với thành phần của chất
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>33 </small>
thải nguy hại như trên đã cho thấy sự thay đổi theo hướng tăng tính định lượng, giảm tính định tính trong trong quy định. Dựa trên yếu tố này thì việc xử lý tội phạm sẽ có cơ sở pháp lý vững chắc, hạn chế các quan điểm khác nhau trong việc xác định yếu tố “mức độ nghiêm trọng”. Mặt khác, dựa theo quy định hiện nay thì việc giám định, kiểm tra thành phần của các chất thải nguy hại được đưa vào môi trường trở nên đơn giản hơn mà không cần thực hiện việc xác định tình trạng mơi trường đã bị ơ nhiễm đến mức nghiêm trọng hay chưa và hậu quả ở mức độ như thế nào và còn phải chứng minh được về mối quan hệ nhân quả với hành vi VPQĐVQLCTNH đó.
Như vậy, về cách thức nhìn nhận đối với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi khách quan của Tội VPQĐVQLCTNH giữa hai Bộ luật có sự thay đởi căn bản. Nếu như tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội ở hành vi khách quan được quy định tại Điều 182a BLHS 1999 ở hậu quả làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây các hậu quả nghiêm trọng khác. Trong khi đó, cách thức nhìn nhận về tính nguy hiểm cho xã hội ở hành vi khách quan được quy định tại BLHS năm 2015 là ở khả năng gây ô nhiễm môi trường và các hậu quả nghiêm trọng khác. Vấn đề này được lý giải bởi hành vi cho phép việc chôn, lấp, đổ, thải chất thải nguy hại có thành phần nguy hại vượt ngưỡng quy định đóng vai trị chính là điều kiện để cho những chất này được đưa vào mơi trường. Do đó, tính nguy hiểm của hành vi này được thể hiện thông qua việc khả năng làm phát sinh hậu quả ô nhiễm môi trường và các thiệt hại nghiêm trọng khác. Cách thức tiếp cận này đã tạo một hành lang pháp lý thuận lợi để xử lý tội này trên thực tế, góp phần mở ra khả năng áp dụng quy định có tính khả thi hơn. Đờng thời, nó cịn mang ý nghĩa trong việc thể hiện sự quản lý nghiêm ngặt của nhà nước, tăng tính răn đe, chế tài đối với vấn đề về bảo vệ môi trường, đặc biệt liên quan đến chế độ quản lý chất thải nguy hại.
<b>c) Chủ thể của tội phạm </b>
Hiện nay, pháp luật hình sự Việt Nam xác định chủ thể của tội phạm bao gờm có hai chủ thể, đó là cá nhân và pháp nhân thương mại<small>10</small>. Đối với chủ thể là pháp nhân thương mại thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự cho mọi tội phạm chỉ chỉ trong phạm vi các tội danh được liệt kê tại Điều 76 BLHS và phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 75. Tuy nhiên, đối với Tội VPQĐVQLCTNH thì BLHS chỉ quy định chủ thể của tội danh này là cá nhân mà lại không đặt ra đối với pháp nhân thương mại. Vấn đề này cũng đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, nhóm nghiên cứu sẽ tập trung làm rõ ở các phần sau.
Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt. Chủ thể đặc biệt của tội phạm là chủ thể ngoài các dấu hiệu của chủ thể thường (có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ t̉i chịu
<small>10 Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>34 </small>
trách nhiệm hình sự), cịn có thêm dấu hiệu đặc biệt khác mà chỉ khi có dấu hiệu này họ mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm tương ứng<small>11</small>. Đối với Tội VPQĐVQLCTNH, không phải người nào cũng có thể là chủ thể của tội này. Chỉ có những người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc quản lý mới là chủ thể của tội phạm. Bởi lẽ, điều này thể hiện tính chất đặc thù của tội danh này đó là nhằm áp đặt trách nhiệm hình sự đối với những những người có vai trị quản lý chất thải nguy hại.
Tuy nhiên, việc xác định chủ thể là người có thẩm quyền về việc cho phép chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại cũng tương đối phức tạp. Để xác định những chủ thể này, phải dựa trên các quy định của pháp luật chuyên ngành về bảo vệ môi trường. Dựa vào quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu (Văn bản hợp nhất số 09/VBHN-BTNMT) thì chủ thể có thẩm quyền ở đây có thể là Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường, Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,...<small>12</small>. Điều 13 và Điều 14 Nghị định 138/2015/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 136/2018/NĐ-CP và Nghị định 40/2019/NĐ-CP) quy định về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và môi trường và Sở Tài nguyên môi trường ở các địa phương cấp tỉnh trong việc quản lý chất thải nguy hại. Đối với Bộ Tài ngun mà mơi trường có nhiệm vụ quản lý thống nhất trên phạm vi của cả nước và Sở Tài nguyên và môi trường quản lý trong phạm vi địa phương của mình. Do đó, các cá nhân có thẩm quyền quản lý chất thải trong các cơ quan này có hành vi cho phép chơn, lấp, đở, thải các chất thải nguy hại vào mơi trường thì chính là chủ thể của Tội VPQĐVQLCTNH theo Điều 236 BLHS.
Cũng có quan điểm cho rằng chủ thể của tội này cịn có thể là người trong các cơ quan, tở chức, đơn vị, doanh nghiệp mà có thẩm quyền quản lý đối với chất thải nguy hại<sup>13</sup>. Theo quy định tại Mục 4 (các Điều 83 đến 85 Luật Bảo vệ mơi trường) thì các chủ thể tham gia vào việc quản lý chất thải nguy hại bao gồm: chủ nguồn chất thải nguy hại, cơ sở cung ứng dịch vụ xử lý chất thải nguy hại. Hai chủ thể này tham gia trong các quá trình khai báo, phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý các chất thải nguy hại. Trong khi đó, trong các quy định của pháp luật chuyên ngành về bảo vệ môi trường cũng không xác định rõ người nào là người có thẩm quyền cho phép việc đưa chất thải nguy hại vào môi trường. Đối với các những chủ thể đã nêu trên thì họ chính là người đang quản lý và nắm giữ trực tiếp chất thải nguy hại nên hồn tồn có khả năng chất thải nguy
<small>11 Trường Đại học Luật TP. Hờ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb. Hờng Đức, tr.148. </small>
<small>12 Nguyễn Ngọc Hịa (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), Nxb. Tư Pháp, 2018, tr.602. </small>
<small>13 Đinh Văn Quế (2023), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Các tội phạm về môi trường, Nxb. Thông tin và </small>
<i><small>Truyền thông, tr.78. </small></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><small>35 </small>
hại được đưa vào môi trường thông qua các chủ thể này. Do đó, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu thì chính các chủ thể này cũng phải được xác định là chủ thể của tội này.
<b>d) Mặt chủ quan của tội phạm </b>
Nếu như mặt khách quan của tội phạm là những yếu tố bên ngoài của tội phạm như hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả gây ra. Còn đối với mặt chủ quan, đó là mặt bên trong của tội phạm bao gồm các yếu tố lỗi, động cơ, mục đích.
Theo khoa học pháp lý, lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý<small>14</small>. Trong các yếu tố của mặt chủ quan thì dấu hiệu lỗi có vai trị quan trọng hàng đầu. Bởi lẽ, tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người thực hiện hành vi phải có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Lỗi là thái độ tâm lý, khả năng nhận thức của người phạm tội, là cơ sở để nhà nước đánh giá khả năng chế tài, trừng trị, răn đe, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Hai yếu tố động cơ (động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm) hay mục đích (mục tiêu mong muốn đạt được của chủ thể phạm tội sau khi thực hiện tội phạm) thì lại phong phú, đa dạng, phức tạp. Do đó, phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mới có thể xác định được động cơ, mục đích khác nhau. Vì vậy, động cơ và mục đích thường chỉ được xem xét ở các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc là tình tiết tăng nặng định khung. Trong khi đó, lỗi chính là một trong những thành tố cơ bản nhất trong việc xác định tội phạm cụ thể. Và cũng theo quy định của Điều 236 BLHS thì các dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội cũng không đặt ra là dấu hiệu định tội mà chỉ xem xét về yếu tố lỗi. Do đó, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích tập trung xoay quanh yếu lỗi.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 236 BLHS thì hành vi phạm tội được xác định thông qua hành vi cho phép việc chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại. Vì vậy, từ việc xác định hành vi khách quan ở trên là hành vi cho phép của người có thẩm quyền thì buộc người đó phải ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, phải nhận thức được về hậu quả có khả năng xảy ra và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc nếu khơng mong muốn thì cũng để mặc cho hậu quả xảy ra nên Tội VPQĐVQLCTNH phải được thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi cố ý là việc người phạm tội ý thức được hậu quả từ hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của mình nhưng vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý bao gồm lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý trực tiếp là việc người phạm tội ý thức được hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả và mong muốn cho hậu quả xảy ra khi thực hiện tội phạm. Còn đối với lỗi cố ý
<small>14 Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Tập I, Nxb. Công an nhân dân, tr.128. </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>36 </small>
gián tiếp thì người thực hiện hành vi nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã cho xã hội của mình, tuy khơng mong muốn cho hậu quả xảy ra nhưng lại có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Đối với trường hợp người có thẩm quyền quản lý chất thải nguy hại thực hiện hành vi cho phép chủ thể khác chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại theo quy định ra môi trường nhưng với lỗi vô ý thì khơng thể xử lý theo Điều 236 BLHS vì khơng thỏa mãn dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm. Ở trường hợp này, nếu xem xét xử lý trách nhiệm hình sự thì có thể xử lý với Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 360 BLHS. Sở dĩ cần phải quan tâm đến trường hợp này là bởi lẽ chủ thể của tội danh này là chủ thể đặc biệt, tức là những người có thẩm quyền về việc cho phép việc chôn, lấp, đổ, xả các chất thải gây nguy hại thì những chủ thể này phải có trách nhiệm với hành vi cho phép của mình. Để đưa đến hành vi cho phép thì người đó cũng phải đánh giá tác động của các chất thải nguy hại khi được đưa vào môi trường. Tuy nhiên, điều này cũng tương đối phức tạp bởi vì tùy vào đặc điểm, tính chất, mức độ, hàm lượng, chỉ tiêu, số lượng, các yếu tố điều kiện khác có thể ảnh hưởng, tác động khác nhau đến mơi trường. Nên vì vậy việc quản lý về mơi trường nói chung và quản lý trực tiếp đối với chất thải nguy hại nói riêng lại u cầu cao về trình độ, chun môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực khoa học về môi trường. Nếu xem xét điều này thì cũng sẽ có khả năng những người có thẩm quyền cho phép việc chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại cũng vẫn cho phép việc đưa các chất thải nguy hại ra môi trường trái quy định của pháp luật khi chủ quan, tự tin cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc thiệt hại xảy ra cũng không lớn, có thể ngăn ngừa được. Hoặc khi người có thẩm quyền không nhận thức được hành vi nguy hiểm của mình, khơng mong muốn hậu quả xảy ra nhưng với chức trách, trình độ, chun mơn, vai trị quản lý của mình thì buộc phải nhận thức được về hành vi và khả năng có thể xảy ra hậu quả đó. Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì người có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm mang tính chất nghiêm ngặt nhất đối với hành vi của cho phép của mình. Từ việc ràng buộc trách nhiệm to lớn này thì việc quản lý chất thải nguy hại sẽ diễn ra một cách thận trọng, kỹ lưỡng và có hiệu quả hơn. Do đó, trong trường hợp thực hiện hành vi cho phép với lỗi vô ý thì chúng ta vẫn có thể xem xét xử lý trách nhiệm hình sự theo Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 360 mà không phải xử lý theo Tội VPQĐVQLCTNH theo Điều 236 BLHS như thơng thường. Đối với nội dung này thì nhóm nghiên cứu sẽ trình bày cụ thể hơn ở mục 1.2.4.
<b>1.2.4. Phân biệt Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại với một số tội danh khác </b>
<b>a) Đối với Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235 BLHS) </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>37 </small>
Về khách thể, Tội gây ô nhiễm môi trường xâm phạm đến chế độ quản lý nhà nước nhằm bảo vệ sự bền vững, ổn định và trong sạch của môi trường. Đối tượng tác động của tội gây ô nhiễm môi trường đó là các thành tố của mơi trường như đất, nước, khơng khí. Cịn đối với tội danh theo Điều 236 BLHS thì xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý nhà nước đối với chất thải nguy hại nhằm hướng đến việc không để xảy ra việc những chất thải có thành phần nguy hại đối với môi trường, ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe, an tồn của con người được đưa ra mơi trường mà không được xử lý đúng quy định. Đối tượng tác động của tội danh này chính là các chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc chất thải có chứa chất phóng xạ, gây nhiễm xạ mơi trường thuộc ng̀n phóng xạ loại có mức độ theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn bức xạ - phân nhóm và phân loại ng̀n phóng xạ vượt quy chuẩn cho phép.
Về mặt khách quan của tội phạm, Tội gây ô nhiễm môi trường và Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại đều là các tội có cấu thành tội phạm hình thức, có nghĩa là mặt khách quan của tội phạm chỉ bao gờm có các hành vi khách quan mà khơng đòi hỏi dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, hành vi khách quan của hai tội danh này là hoàn tồn khác nhau. Đối với Tội gây ơ nhiễm mơi trường thì hành vi khách quan chính là hành vi tác động trực tiếp vào mơi trường và có nguy cơ gây ra ơ nhiễm mơi trường. Có thể là các hành vi chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại vào mơi trường đất, nước và khơng khí. Tuy nhiên đối với Điều 236 BLHS thì hành vi khách quan không tác động trực tiếp vào môi trường mặc dù có thể hậu quả ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường nhưng là tác động gián tiếp thông qua hành vi cho phép chủ thể khác được phép thực hiện hành vi chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại theo quy định vào môi trường.
Về chủ thể, Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại là tội có chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có những người có thẩm quyền về quản lý chất thải nguy hại mới là chủ thể của tội phạm, nếu khơng phải là người có được pháp luật trao cho thẩm quyền quản lý thì khơng phải là chủ thể của tội danh này. Cịn đối với Tội gây ơ nhiễm mơi trường thì chủ thể của tội phạm khơng địi hỏi phải là có dấu hiệu đặc biệt mà chỉ cần đáp ứng điều kiện về t̉i (từ đủ 16 t̉i trở lên), có năng lực trách nhiệm hình sự thì có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, một trong những điểm khác biệt to lớn đó là Điều 235 BLHS quy định pháp nhân thương mại cũng có thể là chủ thể của Tội gây ô nhiễm môi trường nhưng Điều 236 thì chỉ có cá nhân mới là chủ thể tội phạm mà không bao gồm pháp nhân thương mại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>38 </small>
Về mặt chủ quan, cả hai tội danh đều khơng địi hỏi dấu hiệu về động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu định tội mà chỉ xem xét yếu tố lỗi. Dấu hiệu lỗi của hai tội này đều là lỗi cố ý, bao gờm cả hai dạng đó là lỗi cố ý trực tiếp (người phạm tội nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và mong muốn cho hậu quả xảy ra) và lỗi cố gián tiếp (người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội mặc dù khơng mong muốn nhưng lại có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra).
<b>b) Đối với Tội vi phạm quy định về phịng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường (Điều 237 BLHS) </b>
Khoản 1 Điều 237 BLHS quy định:
<i>“Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: </i>
<i>a) Vi phạm quy định về phịng ngừa sự cố mơi trường để xảy ra sự cố môi trường; b) Vi phạm quy định về ứng phó, khắc phục sự cố mơi trường làm mơi trường bị ơ nhiễm nghiêm trọng hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121% hoặc gây thiệt hại từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng”. </i>
Khái niệm “sự cố môi trường” được định nghĩa theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường là sự cố xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc do biến đổi bất thường của tự nhiên, gây ơ nhiễm, suy thối mơi trường nghiêm trọng. Do vậy, chủ thể nào có trách nhiệm mà vi phạm quy định về phịng ngừa, ứng phó và khắc phục để xảy ra sự cố môi trường được xem là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội và được xem là tội phạm. Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu định tội được quy định tại khoản 1 Điều 237 BLHS thì có thể thấy đối với Tội vi phạm quy định về phịng ngừa, ứng phí, khắc phục sự cố mơi trường có các dấu hiệu cơ bản khác biệt với với Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại như sau:
Về khách thể, nếu như Tội VPQĐVQLCTNH xâm phạm đến khách thể trực tiếp là chế độ quản lý của nhà nước đối với chất thải nguy hại nhằm tránh đưa chất thải nguy hại chưa qua xử lý an tồn vào mơi trường thì đối với Tội vi phạm quy định về phịng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố mơi trường có khách thể là chế độ quản lý của nhà nước về việc phịng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố môi trường nhằm hướng đến việc tránh để xảy ra các sự cố về môi trường xảy ra hoặc nếu đã xảy ra thì sẽ giảm thiểu được thiệt hại đến mức hạn chế nhất có thể và khắc phục được sự cố đã gây ra cho môi trường. Đối
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><small>39 </small>
tượng tác động của Tội VPQĐVQLCTNH là các chất thải nguy hại. Trong khi đó, Tội được quy định tại Điều 237 có đối tượng tác động chính là các quy định của nhà nước đặt ra do chủ thể không thực hiện đúng, không tuân thủ đúng các quy đó là đã tác động vào các quy định này mà đã gây ra sự cố môi trường.
Về mặt khách quan, Tội VPQĐVQLCTNH là có cấu thành tội phạm hình thức, mặt khách quan chỉ bao gờm có hành vi khách quan là hành vi cho phép chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại theo quy định vào môi trường. Đối với Tội quy định tại Điều 237 BLHS lại có cấu thành tội phạm vật chất, tức là ngồi có hành vi khách quan thì cịn đòi hỏi thêm dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả xảy ra. Ở đây, Tội vi phạm quy định về phịng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố mơi trường địi hỏi chủ thể phải có hành vi không tuân thủ đúng các quy định của nhà nước đối với việc xử lý và ngăn ngừa các sự cố mơi trường và phải có hậu quả xảy ra do việc vi phạm các quy định đó. Ở đây, việc khơng tn thủ đúng có thể tờn tại dưới hai hình thức đó là hành động phạm tội (khi chủ thể đã làm một điều mà pháp luật không cho phép làm mà nếu làm thì sẽ có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường) và không hành động phạm tội (chủ thể không làm điều mà pháp luật quy định là nghĩa vụ phải thực hiện, nếu khơng thực hiện thì có khả năng sự cố mơi trường). Điều này có sự tương đờng với Tội VPQĐVQLCTNH vì hành vi khách quan có thể tờn tại cả dưới dạng không hành động. Hành vi cho phép của người có thẩm quyền có thể là hành động cho phép một cách minh thị, cấp giấy phép hoặc có thể là phát hiện nhưng không ngăn chặn hoặc để mặc cho việc chôn, lấp, đổ, thải các chất thải nguy hại ra môi trường trong khi bản thân chủ thể phạm tội có trách nhiệm quản lý. Như vậy, ở mặt khách quan thì Tội vi phạm quy định về phịng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố mơi trường địi hỏi phải có hậu quả xảy ra mới mới đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu thuộc mặt khách quan, nếu khơng có hậu quả xảy ra hoặc hậu quả chưa đến mức bị truy cứu TNHS thì không bị xử lý bởi tội danh này mà phải chịu các trách nhiệm pháp lý khác như trách nhiệm hành chính, kỷ luật,... Tội VPQĐVQLCTNH chỉ địi hỏi có hành vi khách quan mà khơng u cầu phải có hậu quả xảy ra hay không.
Về chủ thể, cả hai tội đều có chủ thể đặc biệt. Đối với chủ thể của Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố mơi trường thì phải là người từ đủ 16 t̉i trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và cịn có thêm một dấu hiệu đặc biệt khác đó là chủ thể này theo quy định có trách nhiệm một trong các việc là phịng ngừa, ứng phó hoặc khắc phục sự cố mơi trường. Nếu như chủ thể khác khơng có trách nhiệm này thì cũng khơng thể là chủ thể của tội phạm được quy định tại Điều 237 BLHS. Pháp nhân thương mại cũng có thể là chủ thể của tội này trong khi Tội VPQĐVQLCTNH chỉ có quy định cá nhân mà không bao gồm pháp nhân thương mại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>40 </small>
Về mặt chủ quan, tương tự với Tội VPQĐVQLCTNH khi dấu hiệu lỗi được quy định phải là lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) và động cơ, mục đích phạm tội khơng phải là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
<b>c) Đối với Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 239 BLHS) </b>
Dấu hiệu định tội của Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam được quy định tại
<i>khoản 1 Điều 239 BLHS: “Người nào đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam trái pháp </i>
<i>luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: </i>
<i>a) Đưa từ 1.000 kilôgam đến dưới 3.000 kilơgam chất thải nguy hại có thành phần nguy hại đặc biệt vượt ngưỡng chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật hoặc có chứa chất phải loại trừ theo Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ơ nhiễm hữu cơ khó phân hủy hoặc từ 3.000 kilôgam đến dưới 10.000 kilôgam chất thải nguy hại khác; </i>
<i>b) Đưa từ 70.000 kilôgam đến dưới 170.000 kilôgam chất thải khác”. </i>
Về khách thể, Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường, nhằm ngăn chặn chất thải được đưa vào lãnh thổ Việt Nam và gây ra ô nhiễm mơi trường. Việc nhập khẩu chất thải có thể được thực hiện trên các lĩnh vực như nhập khẩu máy móc, cơng nghệ, thiết bị, phế liệu hoặc hóa chất, chế phẩm sinh học, chất thải nguy hại, chất thải hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ. Đối tượng tác động của Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam là chất thải nguy hại hoặc là các chất thải khác. Như vậy, so với Tội VPQĐVQLCTNH thì khách thể hướng tới việc bảo vệ chế độ quản lý của nhà nước trong việc ngăn cho chất thải nguy hại không được đưa ra môi trường khi chưa xử lý đúng quy định mà đối với Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam nhằm hướng đến việc ngăn chặn trước hết việc đưa các chất thải từ nước ngoài vào bên trong lãnh thổ Việt Nam mà không cần đặt ra việc các chất thải ấy đã tác động đến môi trường ở Việt Nam hay chưa xét dựa trên hành vi làm xuất hiện các chất thải ấy từ nước ngoài xuất hiện ở trên lãnh thở Việt Nam. Ngồi ra, đối tượng tác động cũng có sự khác biệt. Nếu như đối tượng tác động của Điều 236 BLHS chỉ bao gồm các chất thải nguy hại theo quy định thì trong khi đó Điều 239 BLHS cịn quy định ngồi chất thải nguy hại mà còn cả các chất thải khác mà không phải chất thải nguy hại.
Về mặt khách quan, cả hai tội đều có cấu thành tội phạm hình thức vì chỉ địi hỏi hỏi hành vi khách quan. Tuy nhiên, hành vi khách quan ở Điều 236 BLHS chính là hành vi cho phép người khác để đưa chất thải nguy hại tác động vào mơi trường thì hành vi khách quan của Điều 239 BLHS là hành vi nhập khẩu (hành vi dịch chuyển qua biên
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><small>41 </small>
giới) các chất thải để đưa vào lãnh thở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng hành vi khách quan của Tội này cũng có thể hành vi cho phép nhập khẩu cơng nghệ, máy móc, thiết bị, chế phẩm sinh học, chế phẩm hóa học khác; các chất độc hại, phóng xạ hoặc phế thải không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường<sup>15</sup>.
Về chủ thể, đối với Tội đưa chất thải vào lãnh thở Việt Nam thì khơng địi hỏi chủ thể thực hiện tội này phải là chủ thể đặc biệt như Điều 236 BLHS mà người (đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS) hoặc pháp nhân thương mại nào có hành vi nhập khẩu từ nước ngồi các chất thải theo quy định qua biên giới để đưa vào lãnh thở Việt Nam thì đều có thể là chủ thể của tội này. Trên cơ sở cũng có quan điểm xác định hành vi cho phép nhập khẩu các chất thải trên cũng là hành vi khách quan như đã nêu thì chủ thể của tội này cịn có thể bao gờm cả người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã cho phép việc nhập khẩu các chất thải vào Việt Nam.
<b>d) Đối với Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 360 BLHS) </b>
<i>Điều 360 BLHS quy định về dấu hiệu định tội của tội này như sau: “Người nào có </i>
<i>chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm: </i>
<i>d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”. </i>
Nếu so với các chủ thể quản lý chất thải nguy hại thì những người trong các doanh nghiệp, đơn vị là chủ nguồn chất thải nguy hại hoặc thực hiện việc vận chuyển chất thải nguy hại hoặc thậm chí là thực hiện việc xử lý chất thải nguy hại vẫn có thể là chủ thể của Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Các dấu hiệu bản chất để nhận diện người nào được xem là người có chức vụ, quyền hạn trong các tội phạm về chức vụ căn cứ dựa trên quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng năm
<i>2018: “Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, </i>
<i>do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương, </i>
<small>15 Đinh Văn Quế (2023), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Các tội phạm về môi trường, Nxb. Thông tin và Truyền thông, tr.176. </small>
</div>