I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN THNH CHUNG
ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI VI PHạM QUY ĐịNH
TRONG HOạT ĐộNG CủA CáC Tổ CHứC TíN DụNG,
CHI NHáNH NGÂN HàNG NƯớC NGOàI
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2018
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
NGUYN THNH CHUNG
ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI TộI VI PHạM QUY ĐịNH
TRONG HOạT ĐộNG CủA CáC Tổ CHứC TíN DụNG,
CHI NHáNH NGÂN HàNG NƯớC NGOàI
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS TRN VN
H NI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Thành Chung
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG,
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƢỚC NGOÀI .................................................. 7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm của định tội danh..................................................... 7
1.1.1.
1.1.2.
Khái niệm định tội danh ................................................................................ 7
Đặc điểm của định tội danh ........................................................................... 9
1.2.
Khái quát một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội Vi phạm
quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nƣớc ngoài .......................................................................................... 10
1.2.1.
Khái quát lịch sử các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và
hoạt động ngân hàng tại Việt Nam ................................................................. 10
Quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với
hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân
hàng theo pháp luật Việt Nam hiện hành .................................................... 15
Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh đối với
các tội phạm vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ....................................................... 21
1.2.2.
1.2.3.
Kết luận Chƣơng 1 .................................................................................................. 31
Chƣơng 2: CƠ SỞ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƢỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...................................................................... 33
2.1.
Dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội Vi phạm quy định trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài ........ 35
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
Các dấu hiệu thuộc khách thể của tội phạm ................................................ 35
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm ...................................... 36
Các dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm .................................................... 46
2.1.4.
Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm .......................................... 47
2.2.
Quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình
sự 2015 ........................................................................................................ 48
2.3.
Một số vấn đề đặt ra đối với Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) liên quan đến định tội danh đối với tội Vi phạm
quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến
hoạt động ngân hàng ................................................................................. 53
Kết luận Chƣơng 2 .................................................................................................. 60
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC VI PHẠM
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG KHÁC
CÓ LIÊN QUAN, MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƢỚNG MẮC VÀ CÁC
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ................................................................................. 62
3.1.
Tình hình các tội xâm phạm hoạt động ngân hàng, hoạt động khác
có liên quan trong những năm gần đây ................................................... 62
3.2.
Thực tiễn định tội danh đối với hành vi vi phạm quy định trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài ............. 66
Những kết quả đạt được .............................................................................. 66
Một số hạn chế ............................................................................................ 68
3.2.1.
3.2.2.
3.3.
3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.
3.4.
3.4.1.
Nguyên nhân của những hạn chế trong việc định tội danh đối với
tội phạm trong hoạt động ngân hàng, hoạt động khác có liên quan .... 72
Những vướng mắc, bất cập của Bộ luật hình sự 1999 và của quy định
pháp luật về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt
động ngân hàng ........................................................................................... 72
Hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng .................................................................. 73
Một số nguyên nhân khác............................................................................ 74
Các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lƣợng định tội danh đối với
tội Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác
liên quan đến hoạt động ngân hàng ......................................................... 74
Giải pháp hoàn thiện pháp luật .................................................................... 74
3.4.2.
3.4.3.
Giải pháp kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ
quan tiến hành tố tụng ................................................................................. 77
Các giải pháp khác ...................................................................................... 79
Kết luận Chƣơng 3 .................................................................................................. 80
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 85
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS:
Bộ luật hình sự
2. CQĐT:
Cơ quan điều tra
3. TA:
Tòa án
4. TANDTC:
Tòa án nhân dân tối cao
5. TCTD:
Tổ chức tín dụng
6. VKS:
Viện kiểm sát
7. VKSNDTC:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên bảng, biểu đồ
Trang
Bảng 3.1. Thống kê số vụ án, bị can khởi tố theo Điều 179 BLHS
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) trên toàn quốc từ năm
2007 đến năm 2016
64
Bảng 3.2. Thống kê về tỷ lệ án tồn đọng trong giai đoạn điều tra, truy
tố từ năm 2007 đến năm 2016
69
Bảng 3.3. Thống kê số vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm
2012 đến năm 2016
69
Bảng 3.4. Thống kê số vụ án tạm đình chỉ ở CQĐT và VKS từ năm
2007 đến năm 2016
70
Biểu đồ 3.1: Tổng số vụ án/bị can mới khởi tố từ năm 2007 đến 2016
theo thống kê của Cục 2 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu xem nền kinh tế của một quốc gia như một cơ thể sống thì hoạt động
ngân hàng được ví như hoạt động của các mạch máu, điều tiết và lưu thông nguồn
vốn trong đời sống kinh tế, xã hội, đóng vai trò trọng yếu đối với việc phát triển nền
kinh tế. Bảo vệ hoạt động ngân hàng được thông suốt, an toàn luôn là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu đối với mọi nền kinh tế trên thế giới.
Hoạt động ngân hàng được thực hiện thông qua các TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Dù mới được hình thành trong thời kỳ Đổi mới, nhưng hệ thống
các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài của nước ta đã và đang có những bước
phát triển mạnh mẽ với mức tăng trưởng cao, được đánh giá là một trong những thị
trường trẻ và sôi động bậc nhất trong khu vực. Tuy vậy, hành lang pháp lý đảm bảo
an toàn cho hoạt động ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập, kèm theo sự lỏng lẻo trong
quản lý, điều hành đã khiến hoạt động ngân hàng đang trở nên dễ tổn thương, tạo
điều kiện cho tội phạm trong hoạt động ngân hàng xuất hiện và gia tăng cả về số
lượng, quy mô, tính nguy hiểm và phức tạp.
Những năm gần đây, những vụ đại án tham nhũng, kinh tế liên tục xuất hiện
gây chấn động dư luận trong và ngoài nước và hầu hết đều có liên quan đến hoạt
động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Có thể kể đến những vụ án
như Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm (tại ngân hàng Á Châu – ACB), vụ Phạm
Công Danh và đồng phạm (tại Ngân hàng Xây dựng Việt Nam), vụ Hà Văn Thắm
và đồng phạm (tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương), gần đây nhất là vụ
án Trần Phương Bình và đồng phạm (tại ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á)
Trầm Bê và đồng phạm tại ngân hàng cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)...
Những vụ án này đã gây ra những thiệt hại lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng không
thể khắc phục, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động ngân hàng cũng như sự phát triển
kinh tế của đất nước.
Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017 có hiệu lực từ ngày 01
1
tháng 01 năm 2018 đã có nhiều nội dung quan trọng, đáp ứng yêu cầu phù hợp với
Hiến pháp 2013 cũng như thể hiện tinh thần của Cải cách tư pháp. Kế thừa và phát
triển quy định về Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng ở BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), BLHS 2015 đã quy định một
tội phạm riêng làm công cụ pháp lý đấu tranh, phòng chống tội phạm trong hoạt
động ngân hàng, đó là quy định về Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Điều 206. Quy định này đã
được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự
2015 mới được Quốc hội thông qua năm 2017, trong đó có việc sửa tên tội danh
thành Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến
hoạt động ngân hàng. Đây là một bước tiến quan trọng của pháp luật hình sự trong
việc bảo vệ sự hoạt động lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều vấn
đề đã được đặt ra trong việc định tội danh đối với loại tội phạm này, không chỉ với
BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà còn đối với pháp luật điều chỉnh hoạt
động ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Chính vì
vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong Luật hình sự
Việt Nam” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu từ trước đến nay chủ yếu tập trung vào nghiên
cứu về tội Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
(Điều 179 BLHS 1999) như Luận văn Thạc sĩ “Tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Hà, hay Luận văn Thạc sĩ “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Vũ Thị
Thanh Nga. Vấn đề này cũng được phân tích trong các tài liệu chuyên ngành như:
“Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động ngân hàng” - Tạp chí Ngân hàng
(số 18/2009) của luật sư Phan Văn Lãng… Những công trình, bài viết trên của các
nhà nghiên cứu đã làm rõ được cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và phân tích được thực
2
tiễn định tội danh về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng” ở Điều 179 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Qua sự nghiên
cứu này, do quy định tại Điều 206 BLHS 2015 được kế thừa và phát triển từ Điều
179 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nên kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học trên cũng đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn của việc định tội
danh về tội Vi phạm các quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài theo BLHS 2015.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những
giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với
các vụ án hình sự trong lĩnh vực ngân hàng” hoàn thành vào năm 2014 nghiên cứu
về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng nói chung, bao gồm cả các tội phạm lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản, tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng… xảy ra trong hoạt động ngân hàng. Công trình khoa học
này đã phân tích, làm rõ thủ đoạn, hành vi và định tội danh đối với các vi phạm quy
định trong hoạt động ngân hàng có dấu hiệu của tội “Vi phạm quy định trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” ở BLHS 2015.
Mặc dù những công trình nghiên cứu trên đã đề cập, làm rõ nhiều khía cạnh
về lý luận và thực tiễn định tội danh về tội “Vi phạm quy định trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”, tuy nhiên, vì là một tội
danh mới của BLHS 2015 có sự kế thừa, tổng hợp từ tội “Vi phạm quy định về cho
vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và một số tội danh khác ở BLHS
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), do đó hiện nay chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ đối với vấn đề định tội danh đối với tội
phạm này. Từ tình hình nghiên cứu trên, Luận văn Thạc sĩ này kế thừa những kết
quả nghiên cứu đi trước và tiếp tục bổ sung, làm rõ những vấn đề chưa được đề cập,
làm rõ về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài: Mặc dù đây là tội danh vừa được quy định trong BLHS
3
2015 (được tiếp tục được sửa đổi, bổ sung ở Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của
BLHS năm 2017) và chưa có hiệu lực thi hành nhưng trên thực tế, các hành vi
khách quan cấu thành tội phạm quy định tại Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) đều đã được định tội danh về các tội phạm khác nhau trong BLHS 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009). Do đó, trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận, pháp
lý, kết hợp với thực tiễn định tội danh đối với các hành vi cấu thành tội phạm đã
được xử lý theo BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), mục tiêu của đề tài là
làm sáng tỏ vấn đề định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015, đồng thời có nghiên
cứu thêm nội dung mới được hoàn thiện trong quy định của Bộ luật hình sự 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong
việc định tội danh đối với tội phạm này.
Để đạt được mục tiêu trên, một số nhiệm vụ mà tác giả đặt ra trong luận văn
bao gồm:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến
việc định tội danh đối với tội “Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” theo Điều 206 BLHS 2015;
Thứ hai, Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLHS 2015 đã sửa đổi, bổ
sung quy định tại Điều 206 BLHS 2015, do đó luận văn sẽ có sự cập nhật, đối
chiếu, phân tích những vấn đề đã được sửa đổi liên quan đến Điều 206 BLHS
2015.Từ đó phân tích những vấn đề vướng mắc, bất cập nào đã được BLHS 2015
(Sửa đổi, bổ sung năm 2017) khắc phục và vấn đề nào vẫn còn tồn tại;
Thứ ba, do BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa có hiệu lực pháp
luật, cho nên tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội
phạm về hoạt động ngân hàng (theo BLHS 1999) tương ứng với tội “Vi phạm quy
định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng”
trong BLHS 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Sau khi chỉ ra nhưng ưu điểm, luận
văn sẽ nghiên cứu về những hạn chế, tồn tại, phân tích nguyên nhân của các hạn
chế, tồn tại đó;
4
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong việc định tội danh theo Điều 206
BLHS 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật làm căn cứ định
tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng như thực tiễn
của việc định tội danh đối với các hành vi khách quan cấu thành tội phạm này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về lý luận, quy định của pháp
luật, thực tiễn liên quan đến việc định tội danh về tội Vi phạm quy định trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo Điều 206
BLHS 2015 trong mối liên hệ với các quy định tương ứng của BLHS 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự 2015
được Quốc hội thông qua năm 2017.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn
trong việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự để đấu tranh, phòng chống tội
phạm trong lĩnh vực ngân hàng nói chung, việc định tội danh theo Điều 206 BLHS
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nói riêng.
Về mặt lý luận: Đề tài phân tích các vấn đề về mặt lý luận, trong đó tập trung
vào các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về hoạt động ngân hàng liên quan
đến việc định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nói
riêng,góp phần kiến nghị hoàn thiện nội dung của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017). Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng
dạy, nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ đưa ra những giải pháp có thể tham khảo được
nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, vướng mắc sẽ xuất hiện trong thực tế liên
quan đến việc định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017). Bên cạnh đó luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan lập pháp và các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật cũng như tổ chức
tiến hành đấu tranh, phòng chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này.
5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề tội phạm, các quan điểm của Đảng
và chính sách pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm thể hiện
qua các Văn kiện của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu chính của Luận văn bao gồm: Phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liệt kê, phương pháp thống
kê…Các phương pháp nghiên cứu này đã được vận dụng một cách linh hoạt để tạo
ra kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương với các nội dung sau:
Chương 1: Lý luận về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Chương 2: Cơ sở pháp luật hình sự về định tội danh đối với tội Vi phạm quy
định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn định tội danh đối với các vi phạm trong hoạt động ngân
hàng, hoạt động khác có liên quan, một số khó khăn, vướng mắc và các giải pháp
khắc phục.
6
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM
QUY ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
TỔ CHỨC TÍN DỤNG, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của định tội danh
Định tội danh là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải
quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Việc nghiên cứu về
định tội danh luôn là một trong những trọng tâm nghiên cứu cơ bản và là nhiệm vụ
quan trọng của Khoa học luật hình sự [1, tr.17].
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Trong Khoa học luật hình sự, dưới những góc độ khác nhau, các nhà khoa
học đã đưa ra những khái niệm định tội danh khác nhau. Tuy vậy, dù dưới góc độ
nào thì cần cũng phải khẳng định: Nhiệm vụ của định tội danh là xác định hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có cấu thành tội phạm theo quy định của
BLHS hay không? Nếu hành vi cấu thành tội phạm thì đó là tội gì, thuộc khung
hình phạt nào và được điều, khoản nào của BLHS quy định? Mục đích của định tội
danh là nhằm xác định đầy đủ sự thật về các tình tiết khách quan của vụ án; đưa ra
sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý và thực tiễn, làm tiền đề cho việc xử
lý trách nhiệm hình sự (quyết định khởi tố, truy tố hoặc ra phán quyết trong xét xử)
và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô cũ (Liên bang Nga hiện nay)
Kuđriavtxev V.N. coi “định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự
phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định” [1, tr.19]. Đồng
nhất với quan điểm nêu trên, Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh cũng đưa ra khái niệm
tương tự: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [42, tr.18]. Đây là khái
7
niệm tương đối rõ ràng, đồng thời làm rõ được nhiệm vụ của định tội danh. Tuy
vậy, khái niệm trên còn chưa làm sáng tỏ những đặc điểm cụ thể của khái niệm này
như: Chủ thể của việc định tội danh, cách thức (dạng) tồn tại của phạm trù này.
Giáo sư Sliapôchnhikôv A.C. thì cho rằng:
Định tội danh là một giai đoạn của hoạt động bảo vệ pháp luật do
các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử thực hiện trên cơ sở các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự và, dựa vào các tình tiết thể hiện sự nguy hiểm
cho xã hội của hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu thành tội
phạm tương ứng với hành vi đó [1, tr.20].
Khái niệm này đồng nhất hoạt động định tội danh với một bộ phận của hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lê Văn Cảm định nghĩa:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính Logic,
đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự và, được tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối
chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [1, tr.21].
Chia sẻ với khái niệm nêu trên, Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Độ đưa ra khái
niệm định tội (danh):
Định tội là một hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật
được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình
tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung
quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và
xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất
định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp
và thông qua các giai đoạn nhất định [27].
Tác giả đồng ý với quan điểm nêu trên của hai nhà khoa học bởi đây là
8
những khái niệm cụ thể và toàn diện về thuật ngữ định tội danh, thể hiện được
những đặc điểm cơ bản, riêng có của phạm trù này. Khái niệm nêu trên không chỉ
làm rõ nhiệm vụ của định tội danh mà còn chỉ rõ dạng tồn tại của phạm trù này là
một “quá trình (hoạt động) nhận thức” và là “một hoạt động áp dụng pháp luật”,
qua đó đã khái quát những đặc trưng cơ bản của Định tội danh.
1.1.2. Đặc điểm của định tội danh
Từ khái niệm Định tội danh đã nêu trên, có thể phân tích những đặc điểm cơ
bản của khái niệm này như sau:
Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận được thể hiện dưới
hai khía cạnh: 1) Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện có phù hợp (tương đồng) với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ
thể do Điều tương ứng trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hay không? 2)
Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một
hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan [1, tr.21];
Thứ hai, vì đây là một hoạt động áp dụng pháp luật nên chủ thể của hoạt
động này là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
trong tố tụng hình sự. Kết quả của hoạt động này là các văn bản áp dụng pháp luật
(Lệnh, quyết định, cáo trạng, bản án…);
Thứ ba, cơ sở pháp lý duy nhất để định tội danh là cấu thành tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự quy định về các cấu thành tội phạm
đối với từng tội danh cụ thể để từ đó, những chủ thể tiến hành tố tụng “xác định và
ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể
đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm”;
Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự được tiến hành về cơ bản theo bốn bước cụ thể là:
Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với
hiện thực khách quan;
Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp
luật hình sự đang có hiệu lực thi hành;
9
Lựa chọn đúng điều luật tương ứng trong Bộ luật hình sự quy định trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm cụ thể để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm đó với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã được thực hiện;
Cuối cùng là sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ, chính xác thì
ra một văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo
sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã thực hiện với cấu thành tội
phạm cụ thể tương ứng được quy định trong BLHS [1, tr.22-23].
1.2. Khái quát một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội Vi phạm quy
định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài
1.2.1. Khái quát lịch sử các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài và hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Ngân hàng được xem là TCTD đầu tiên và cơ bản nhất. Hoạt động ngân
hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển từ thế kỷ XIV tại các thành phố giàu
có của Ý thời Phục hưng, trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý tưởng và
khái niệm của tín dụng và cho vay bắt nguồn từ thế giới cổ đại. Tuy nhiên, do
những đặc điểm về tự nhiên – xã hội mà tại Việt Nam, hoạt động ngân hàng theo ý
nghĩa hiện đại được hình thành và phát triển tương đối muộn. Sự hình thành và phát
triển hoạt động ngân hàng và các TCTD trải qua ba giai đoạn lớn như sau:
Thời kỳ pháp thuộc
Trong suốt thời kỳ tồn tại của các triều đại phong kiến Việt Nam cho đến nửa
đầu thế kỷ 19, ở Việt Nam chưa có hoạt động ngân hàng. Đến giữa thế kỷ 18, khi
Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, được sự tán thành của Quốc hội Pháp, ngày 21-011875, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về việc “thiết lập Đông Dương ngân hàng và cho
cơ quan này được hưởng độc quyền phát hành tiền tại các xứ Đông Dương, các
thuộc địa Pháp miền Thái Bình Dương và các tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp” [2, tr.198] và
sau đó cho phát hành tờ tiền Đông Dương. Từ đây, nền kinh tế Đông Dương phụ
thuộc hoàn toàn vào Ngân hàng Đông Dương. Đây là một ngân hàng cổ phần, tất cả
số cổ phiếu trên đều được tư nhân thu mua. Cho nên, có thể gọi Ngân hàng Đông
10
Dương là một ngân hàng trung ương tư hữu của xứ thuộc địa (vì là ngân hàng có
đặc quyền phát hành tiền tệ cho xứ thuộc địa) [29].
Hệ thống tài chính ở Việt Nam thời kỳ này đương nhiên do chính phủ bảo hộ
nắm giữ và điều hành, ngân hàng Đông Dương đã độc quyền phát hành tiền và nắm
giữ TCTD quan trọng như ngân hàng Pháp - Hoa, ngân hàng địa ốc Đông Dương,
ngân hàng Cầm cố Đông Dương, Nông phố ngân hàng,… tạo thành một tập đoàn tài
chính có sức mạnh áp đảo trên thị trường tài chính [29].
Thời kỳ chiến tranh giành độc lập cùng với sự hình thành và phát triển
ngân hàng một cấp
Cách mạng tháng Tám thành công là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân
tộc, nhưng bên cạnh đó, chính quyền non trẻ mới được thành lập phải đối diện với
muôn vàn khó khăn, trong đó có khó khăn về kinh tế. Khi chưa phát hành được động
tiền mới, Đảng và Nhà nước vẫn tạm thời sử dụng đồng tiền Đông Dương làm công
cụ chi tiêu cho chính quyền cách mạng. Ngày 31-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
sắc lệnh 18b/SL cho phép phát hành giấy bạc Việt Nam tại các địa phương từ nam vĩ
tuyến 16 trở vào. Nhờ vậy, Đảng và Chính phủ ta đã giải quyết được các vấn đề về tài
chính cho công cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa và đặt nền
móng để hình thành, phát triển nền tài chính - tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ hai (tháng 2/1951) đã đề ra những chủ trương chính
sách về tài chính – kinh tế hết sức sáng suốt và kịp thời, phù hợp với bối cảnh của
đất nước và để lại những dấu ấn lịch sử. Nội dung cơ bản của những chủ trương,
chính sách đó là:
Chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế nhằm
phát triển kinh tế, bồi dưỡng sức sản xuất của nhân dân. “Nắm vững phương
châm phát triển kinh tế bảo đảm cung cấp chính là thực hiện một nền tài chính
vững chắc” [11, tr.336].
Đặc biệt, Đảng ta xác định rõ:
Cải tiến chế độ tín dụng đối với nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Quỹ tín dụng cần tăng thêm nữa. Sự sử dụng quỹ tín dụng phải nhằm
đúng những nguyên tắc sau:
11
+ Chú ý vào những nơi nào có nhiều khả năng để phát triển kinh
tế và có nhiều sức lao động song lại nghèo phương tiện, nhất là tiền vốn;
+ Chú ý vào nông nghiệp trước hết, nhưng cũng cần nâng đỡ các
ngành thủ công nghiệp cần thiết; trong nông nghiệp thì chú trọng đặc biệt
vào bần cố nông, song đối với những phú nông có ý kinh doanh để tăng
gia sản xuất mà thiếu phương tiện thì cũng cần giúp.
+ Việc giúp vốn theo đúng nông thời.
+ Tổ chức và thủ tục phải đơn giản, hợp lý đúng với quyền lợi của
dân nghèo [27, tr.338-339].
Trên cơ sở này, ngày 6/5/1951, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng
quốc gia Việt Nam do đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Tổng giám đốc với những
nhiệm vụ sau:
1) Phát hành giấy bạc, điều hòa sự lưu hành tiền tệ;
2) Huy động vốn của nhân dân, điều hòa và mở rộng tín dụng để
nâng cao sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế Nhà nước;
3) Quản lý ngân quỹ quốc gia;
4) Quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài;
5) Quản lý kim dung bằng các thể lệ hành chính: thể lệ về vàng
bạc; thể lệ về quỹ của các doanh nghiệp quốc gia,v.v…
6) Đấu tranh tiền tệ với địch (Điều 2 của sắc lệnh).
Đây là một bước ngoặt lịch sử trong hệ thống tiền tệ - tín dụng của Việt
Nam. Lần đầu tiên nước ta có được một ngân hàng độc lập, tự chủ của nhân dân.
Ngân hàng quốc gia Việt Nam được tổ chức theo quy mô lớn, quản lý hoạt động
kinh doanh theo nguyên tắc tập trung thống nhất, giữ vị trí trụ cột trong hệ thống
tiền tệ - tín dụng của nước ta.
Cho đến Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1954 đến năm
1975 là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, hoàn thành công cuộc giải phóng Miền Nam. Những năm đầu mới hoà
bình lập lại, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên là Ngân hàng Trung ương,
12
nhưng thực chất vẫn là ngân hàng một cấp với tất cả chức năng của một ngân hàng
trung ương và ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Trung ương vào thời kỳ đó là một hệ thống có 3 cấp ngân hàng:
trụ sở chính đóng tại Hà Nội, các tỉnh và thành phố có các chi nhánh và cấp huyện
có các chi điếm ngân hàng.
Thời kỳ tháng 4/1975 đến năm 1986
Ngay trong những năm đầu miền Nam được giải phóng, ngành ngân tín trực
thuộc Ban kinh tế tài chính miền Nam đã nhận được sự chi viên đắc lực của Ngân
hàng Trung ương. Ngân hàng Trung ương đã cử nhiều đoàn cán bộ tham gia Uỷ ban
quân quản (dưới phiên hiệu K3) tiếp quản hệ thống ngân hàng của chế độ cũ.
Để phù hợp với nhu cầu phát triển trong tình hình mới, thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, chính trị của Đảng và Nhà nước. Ngày 6/6/1975 Hội đồng Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định số 04/PCT – 75
thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Theo Nghị định:
Ngân hàng quốc gia Việt Nam là cơ quan trung ương của Hội
đồng chính phủ, chịu trách nhiệm cải tổ hệ thống ngân hàng cũ, xây dựng
ngân hàng mới, tổ chức thực hiện và quản lý tập trung thống nhất của
nhà nước về các chính sách tín dụng, phát hành tiền tệ, thanh toán, quản
lý ngân sách nhà nước, quản lý ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Thời kỳ đổi mới đến nay, việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp và sự
hình thành, phát triển của hệ thống các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Đây là thời kỳ đổi mới tổ chức và hoạt động của ngân hàng trong cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống bộ máy tổ chức của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ, mà bước khởi đầu là Nghị định
53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng V/v: “Chuyển hẳn hệ thống
Ngân hàng sang hoạt động kinh doanh”, thành lập hệ thống ngân hàng 2 cấp:
+ Cấp quản lý: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng để
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ ứng dụng, đồng thời làm chức
năng “Ngân hàng của ngân hàng” (Ngân hàng Trung ương);
13
+ Cấp kinh doanh: Thành lập các Ngân hàng thương mại hoạch toán kinh tế
độc lập trên cơ sở các chi nhánh Ngân hàng Trung ương tỉnh, thành phố, đặc khu và
ở cấp huyện, quận, thị xã, kinh doanh tiền tệ và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Trong thời gian này, 4 ngân hàng chuyên doanh của nhà nước được hình
thành bằng chuyển và tách ra từ Ngân hàng trung ương thành 4 ngân hàng thương
mại quốc doanh:
- Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam;
- Ngân hàng Công thương Việt Nam;
- Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam;
- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Các ngân hàng thương mại từng bước phát triển theo chiều hướng kinh doanh
đa năng, có lợi nhuận và đóng vai trò định chế trung gian, thu hút vốn, hoạt động cho
vay, phục vụ tích cực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước.
Sang thập niên 90, hệ thống các TCTD đã có sự thay đổi căn bản về tổ chức
và hoạt động, thông qua các bước sau:
Bước thứ nhất: Quyết định số 07/HĐBT ngày 4 tháng 1 năm 1990 của
Hội đồng Bộ trưởng, chuyển nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và các quỹ
dự trữ tài chính Nhà nước từ Ngân hàng Nhà nước sang Bộ tài chính, thành lập
hệ thống Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính;
Bước thứ hai: Ngày 24 tháng 5 năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
đã ký sắc lệnh công bố hai pháp lệnh: một là pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam; hai là Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính, giá
trị có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 1990. Theo quy định của hai pháp lệnh này,
hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức gần như hệ thống ngân hàng ở các
nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới, tức là hệ thống ngân hàng hai cấp;
Bước thứ ba: Ngày 26 tháng 12 năm 1997 Chủ tịch nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký lệnh công bố hai đạo luật quan trọng, đó là luật
Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng;
14
Bước thứ tư: Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII
tại kỳ họp thứ 7 ngày 16 tháng 6 năm 2010 đã thông qua Luật các tổ chức tín dụng
mới, có hiệu lực cho đến nay;
Mới đây, Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật các tổ chức tín dụng số
17/2017/QH14 vừa được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20 tháng
11 năm 2017. Văn bản này dự kiến sẽ có hiệu lực vào ngày 15 tháng 01 năm 2018.
1.2.2. Quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với
hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo
pháp luật Việt Nam hiện hành
Khái niệm TCTD được định nghĩa đầu tiên lại Luật các tổ chức tín dụng năm
1997. Kế thừa và phát triển Luật các tổ chức tín dụng 1997, quy định tại Điều 4
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì TCTD được định nghĩa:“là doanh nghiệp
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng”. Theo Luật này thì
TCTD bao gồm những loại hình:
Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mu ̣c tiêu ho ạt động,các
loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã;
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận
tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vu ̣ thanh toán qua tài kho ản của khách
hàng. TCTD phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và
các TCTD phi ngân hàng khác;
Tổ chức tài chính vi mô là loại hình TCTD chủ yếu thực hiện một số hoạt
động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập
thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ;
Quỹ tín dụng nhân dân là TCTD do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự
nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân
hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật hợp tác xã nhằm mu ̣c tiêu
chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
15
Riêng đối với Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của
ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài
bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
Hoạt động ngân hàng theo quy định tại Điều 4 khoản 12 Luật các tổ chức tín
dụng 2010: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
- Nhận tiền gửi;
- Cấp tín dụng;
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”
Tuy nhiên, cũng theo Luật các tổ chức tín dụng 2010, hoạt động ngân hàng
không phải là hoạt động duy nhất của các TCTD mà bên cạnh đó, TCTD còn thực
hiện đa dạng các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Tổng quan
lại, hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến ngân hàng bao gồm:
Huy động vốn
Mặc dù Luật các tổ chức tín dụng 2010 không giải thích rõ ràng, cụ thể thế
nào là huy động vốn, nhưng lại ghi nhận trong quy định về hoạt động của ngân hàng
thương mại, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và hoạt động của tổ chức
tài chính vi mô. Đây là một hoạt động nghiệp vụ kinh doanh vô cùng quan trọng của
các TCTD. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp trên khía cạnh hoạt động ngân hàng thì có thể
hiểu huy động vốn là hoạt động tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi từ cá nhân và tổ chức
để tạo ra nguồn vốn hoạt động của ngân hàng [37, tr.38]. Theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng 2010 thì có một số hình thức huy động vốn như sau:
i) Nhận tiền gửi:
Đây là hình thức huy động vốn được sử dụng nhiều nhất của các TCTD.
Điều 4 Khoản 13 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định:
Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận
tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người
gửi tiền theo thỏa thuận [20, Điều 4].
16
Các TCTD được thực hiện hoạt động này bao gồm:
- Ngân hàng thương mại “nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác” theo khoản 1 Điều 98 Luật các tổ chức
tín dụng 2010;
- Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi của tổ chức
theo điểm a, Khoản 1 Điều 108; Khoản 1 Điều 112 Luật các tổ chức tín dụng;
- Tổ chức tín dụng là hợp tác xã chỉ được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam
và chỉ trong trường hợp tiền gửi là của thành viên hợp tác xã hoặc tổ chức, cá nhân
khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước (Khoản 1 Điều 118 Luật các tổ chức
tín dụng 2010);
- Tổ chức tài chính vi mô nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam dưới các hình
thức sau đây theo Khoản 1 Điều 119 Luật các tổ chức tín dụng:
“ a) Tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô;
b) Tiền gửi của tổ chức và cá nhân bao gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách
hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi nhằm mục đích thanh toán” [20];
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép nhận tiền gửi tương tự như
hoạt động của ngân hàng thương mại.
ii) Vay vốn:
Trong trường hợp thiếu vốn tạm thời do lượng khách hàng rút tiền mặt tăng
vượt quá khả năng chi trả hoặc để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán thì TCTD có
thể vay vốn bằng các hình thức:
- Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định tại Điều 99 Luật các tổ
chức tín dụng 2010, theo đó: “Ngân hàng thương mại được vay vốn của Ngân hàng
Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam”. Hình thức vay vốn này thường xuất hiện trong một số trường hợp thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia và trong một số trường hợp nhằm phục hồi khả
năng thanh toán cho các ngân hàng thương mại;
- Vay vốn của TCTD, tổ chức tài chính theo quy định tại Điều 100 Luật các
tổ chức tín dụng 2010, theo đó: “Ngân hàng thương mại được vay vốn của tổ chức
tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.”
17