Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

Luận án tiến sĩ luật học: Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.24 MB, 187 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BO GIAO DỤC VÀ DAO TẠOTRUNG TAM KHOA HỌC XÃ HỘI |VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA

VIỄN NGHIÊN CUU NHÀ NƯỚC VÀ PHẤP LUẬT

PHAM QUY TY

NHA NƯỚC QUAN LÝ BANG PHÁP LUẬT

ĐÔI VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

VA CONG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HAN

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT NHÀ NƯỚC

MA SỐ : 50505

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌCTS. BÙI XUAN ĐỨCTS. PHAN TRUNG LÝ

ie THU VIEN | |

PHỊƠN re Sy a

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

LOI CAM DOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từngđược ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận ấn.

Phạm Quý Ty

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

MỤC LỤC

PEAT TOME ES cents sion deme rancor Hiatal sli mana vs Rosgttrgesr re Enrersoigilo 1

Chương 1 : Cơ sở lý luận của việc Nhà nước quan lý bang pháp luậtdoi vi doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ở nước ta 1l

¡.I. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần theocơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, cơ sở để phát triển doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu

<small>i cá co: S22 S4 ẺSEI tu oe er eee ct ee ee kee ek es Mi</small>I.2. Sự cần thiết Nhà nước phải quản lý bằng pháp luật đối với doanh

<small>ng hep ir nln; cong day trach pment HUUHSfTE. Giese. ⁄220,215200 cà ee. dae 20</small>

1.3. Nội dung Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp

<small>tir nhàn; come vy Teacher Sr 11101111111 Wen coe cee cerns M6 34</small>

Chương 2 : Thực trạng Nhà nước quản lý bằng pháp luật doi voi<small>doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hit lqH... 54</small>

2.1. Thực trạng về việc Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý các<small>doanh: nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn... --. -:-::5-: 54</small>

2.2. Nhà nước tổ chức thi hành pháp luật để quản lý các doanh nghiệp

<small>lt nban,; Cong I#'tđểh nica Hữu THỢfi,...ccacgan00i6csnatc6/SPSSPHPRGSEsr08yVoma 70</small>

2.3. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của các doanh

<small>nghiệp tu nhan, công ty trách nhiệm hữu han... eee eee eee eee 108</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Chương 3 : Những phương hướng và giải pháp nhằm đổi mói và

<small>oo 7 A 2 ` 4 ` Z - Ze .</small>

mang cao hiệu qua hoạt động quan lý nhà nước bang pháp luật đổi với

duanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn...

3.1. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế,

tạo cơ sở pháp ly vững chắc để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước

dối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn...

3.2. Hoàn thiện các cơ quan quản lý nhà nước để thi hành pháp luật vàing cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp tu

nh q, Gỗ rà mses Mol niielilLlfLi,(D-1TRmraosnsusen ee <sup>ere rr oer</sup>

<small>Pa ime</small>

172-183

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

PHAN MỞ ĐẦU

1- Tinh cắp bách cua dé tài

Để đạt dược mục đích kinh tế - xã hội đã dé ra là "Làm cho dân giầu,

nước mạnh, dap ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần củanhân dân” [72;18-19], Nhà nước ta chủ trương "Phát triển kinh tế hàng hóanhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa” [72; 18]. Chủ trương này đã được thực hiện từ

sau Đại hội Dang toàn quốc lần thứ 6 năm 1986, khi Dang và Nhà nước ta đã

thay đổi chính sách đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân.

Từ đó trong nền kinh tế ở Việt Nam đã xuất hiện một loạt các doanhnghiệp mà chủ sở hữu của chúng không phải là nhà nước xã hội chủ nghĩa.Trong số đó trước hết phải kể đến là doanh nghiệp tư nhân, công ty tráchnhiệm hữu hạn. Việc phát triển nhanh chóng hai loại hình doanh nghiệp tư

nhân, cơng ty trách nhiệm hữu hạn trong cơ chế thị trường, đã địi hỏi Nhà

nước phải tăng cường cơng tác quản lý để các doanh nghiệp phát triển theo

hướng của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã dat được trong

<small>việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệmhữu hạn, thực tiên hiện nay cũng đang bộc lộ những khiếm khuyết như: xu</small>hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp này có chiều hướng chững lại,<small>hoạt động quản lý Nhà nước đối với chúng còn lúng túng, các quy định pháp</small>

luật còn nhiều bất cập. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến kết quả hoạt dộng

của hai loại hình doanh nghiệp này, đồng thời địi hỏi Nhà nước phải có<small>những hình thức quản lý kinh tế phù hợp.</small>

Cố nhiên, Nhà nước quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường cần phảiđược thiết kế theo những ngun tắc, hình thức và cơng cụ mới và đôi khi xalạ so với ở thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Hiến pháp 1992 quyđịnh ““Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hoạch, chính sách..."”. Như vậy, nội dung của quản lý nhà nước đã được đặtren những bình diện mới. Trong khi đó những cơng trình nghiên cứu về vấn

dẻ này từ phương diện hành chính học và luật học cịn lẻ tẻ và chưa thực sự

có hệ thống. Do vậy, luận án của chúng tơi sẽ góp một phần trong việcnehiên cứu vấn dé mới me, khó và rất bức xúc này ở nước ta hiện nay.

<sub>=—</sub>

Song với khuôn khổ của một luận án, chúng tôi không giải quyết vấn

để Nhà nước quan lý xã hội nói chung mà chỉ xem xét dưới góc độ Nhà nước

quản lý bằng pháp luật ở nước ta hiện nay, vì đây là biện pháp phổ biến nhất,

mội công cụ van minh nhất trong quản lý kinh tế. Về đối tượng quản lý,

chúng tôi tập trung vào hai loại hình doanh nghiệp, đó là doanh nghiệp tưnhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Hai loại hình doanh nghiệp này ở nướcta trong khoảng 10 năm qua đã phát triển với số lượng lớn, góp phần tăng

trưởng nền kinh tế đất nước, giải quyết cơng ăn việc làm cho người lao động.

Nhưng cũng chính những doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn

đã để lại những ảnh hưởng xấu cho xã hội, mà nguyên nhân của nó là do cósu bất cập trong một số các quy dinh của pháp luật, và một phần do bnglịng quan lý của các cơ quan nhà nước. Đó cũng là những bức xúc trongquản lý kinh tế hiện nay đòi hỏi phải sớm được nghiên cứu một cách đầy dủ<small>và đề ra phương hướng giải quyết. Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp tưnhân và công ty trách nhiệm hữu hạn ở nước ta hiện nay đều là doanh nghiệpvừa và nhỏ, đối tượng mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và khuyến khích</small>

phát triển. Điều này cũng phù hợp với xu thế phát triển của các nước trên thế

giới về việc ưu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đó là lý do mà

<small>chúng tôi chọn vấn dé “ Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh</small>

nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ” để làm đề tài nghiên cứu của

<small>2- Tình hình nghiên cứu đề tài</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Việc Nhà nước quản lý bằng pháp luật đốt với doanh nghiệp tư nhân và

công ly trách nhiệm hữu hạn là một vấn đề mới ở nước ta. Từ năm 1986 trở

lạ dây, vấn dé xây dựng nên kinh tế hàng hóa nhiều thành phần van độngtheo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dược dé cập ngày càng

nhiều và hiện thực xã hội thể hiện tư tưởng đó với quy mơ ngày càng lớn, cáctiết chế xã hội bao dam cho nó phát triển ngày càng hồn thiện.

Tham gia vào cơ chế kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế,

nhiều loại hình doanh nghiệp, trong dé các doanh nghiệp tư nhân và cong ty

trách nhiệm hữu hạn dóng một vat trị quan trọng. Khi doanh nghiệp tư nhân

và cơng ly trách nhiệm hữu hạn được phép phát triển đã nay sinh vấn dé doi

hỏi lý luận phải giải quyết. Đó là sự quan lý của Nhà nước dối với hai loạihình doanh nghiệp nay như thế nào. Nha nước có cần thiết phải quan lý bằngnháp luật đối với doanh nghiệp tu nhân và công ty trách nhiệm hữu han hay

- Bùi Xuân Đức: “Tham quyển của chính quyền dia phương trong quản

lý kinh tế”. (Luận án Phó tiến sĩ Luật học . 1990)

- Trần Trọng Hựu: “Pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật ở Việt

Nam trong giải doan hiện nay”. (Trong tuyển các bài viết “ Xã hội và Pháp

<small>luật ”, Nxb. Chính trị Quốc gia. HN, 1994)</small>

- Hoàng Kim Giao: “ Quản lý nhà nước đối với thành phần kinh tế ngoài<small>quốc doanh “. (Tap chí Nghiên cứu Kinlitế, số 3/1990)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Dương Dang Huệ: ” Pháp luật về việc cấp giấy phép thành lập doanh

.-iệp, đãng ký Kinh doanh ở Việt Nam, thực trạng và một vài kiến nghị ``,

fap chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/1994)

- Trần Văn Thông: “ Thực hiện Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật

cong ty ở Thành phố Hà Nội ”. (Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Số 3/1993)

- Nguyễn Thị Thu Vân: “Một số vấn đề hồn thiện Luật Cơng ty”.

(Luận án Thạc sĩ nim 1996)

Ngồi ra, cũng cịn một số những bài viết, những cơng trình nghiên cứukhoa học khác cũng đã ít, nhiều đánh giá thực trạng kiến nghị về hoạt động

quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệrn

hữu hạn. Tuy nhiên, tất cả các bài viết, cơng trình nghiên cứu khoa học đó do

những mục đích u cầu nghiên cứu khác nhau, nên chỉ dừng lại ở nhữngkhía cạnh nhất định, mà chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, có

hé thống về vấn đề Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tưnhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Luận án này là đề tài khoa học đầu tiênnghiền cứu một cách toàn diện và có hệ thống về hoạt động quản lý của Nhà

nước bằng pháp luật đối với các đoanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm

<small>hữu hạn ở nước ta hiện nay.</small>

<small>3. Mục đích, nhiém vụ của luận án</small>

Thực tế đổi mới trong những năm qua đã chứng tỏ rang, nền kinh tế

<small>nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà</small>

nước là một hiện thực, chúng ta đã thực hiện bước đầu có kết qua đáng khích

iC. Đó là nhân tố giữ vững sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng. Nhà

<small>nước quản lý như thế nào dể ngày càng có hiệu quả hơn nền kinh tế cua datnước, đây là vấn dé còn nhiều điều phải bàn cả ở tầm lý luận, lần trong quá</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành Quyết định số 27-HĐBTiv 9/3/1989 cho phép kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhàn được phát triển;

-Luật Doanh nghiệp tu nhân” và “Luật Cơng ty” được Quốc hội khóa 8 thơng

wa ngày 21/12/1990, và nhiều văn bản pháp luật khác nhằm tao ra môi

trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển của các thành phần kinh tế đó,

nhưng trong thực tế vẫn có những vấn dé vướng mắc cần giải quyết. Đó là

những vấn dé cịn khiếm khuyết của ban thân chủ thể quản lý là Nhà nước,

chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý trong kinh tế thị trường có sự tham gia

cia nhiều thành phần kinh tế; trên thực tế Nhà nước đang tìm một cơ chếquản lý thích hợp nền kinh tế thị trường trong điều kiện ở nước ta hiện nay;

công cụ quản lý là hệ thống pháp luật hiện nay chưa hồn chính và đồng bộ,dịng thời một số văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động của cácduanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu han sau một thời gian thực

hiện đã bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập khi thực hiện.

Để đạt được mục tiêu trên đây, nội dung của luận án sẽ đề cập và giải

quyết những vấn dé sau:

Thứ nhất, làm rõ việc phát triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần

<small>theo cơ chế thị trường đó là cơ sở để ra đời và phát triển các doanh nghiệp tư</small>

nhân, công ty trách nhiém hữu hạn. Đồng thời cũng đòi hỏi Nhà nước phải

<small>quản lý bảng pháp luật đối với các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thịtrường ở nước ta như một quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ đi lênchủ nghĩa xã hội, trong đó có doanh nghiệp tư nhân, cơng ty trách nhiệm hữu</small>

han. Luận án phân tích một cách tồn diện những cơ sở pháp lý và nội dung

<small>của việc Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân,</small>cong ty trách nhiệm hữu han, qua đó đưa ra những kiến nghị về việc quản lý<small>hai loại hình doanh nghiệp này.</small>

<small>Thứ hai, dua trên cơ sở ly luận đã giải quyết ở nhiệm vu thứ nhất, luận</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

anh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu han. Đồng thời nêu lên

<small>ills I</small>

img vấn dé dang dat ra trong công tác quan lý nhà nước đối với hai loại

sình doanh nghiệp tu nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn.

Thứ ba, sau khi phân tích những cơ sở lý luận, thực tiên và thực trạnghoạt động quan lý nhà nước bang pháp luật đối với doanh nghiệp tu nhân và

-ong ty trách nhiệm hữu hạn, luận án nêu ra một số phương hướng nhằm doi

mới và nâng cao hiệu quả hoạt động quan lý của Nhà nước, đối với nên kinh

© nói chung, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn nói

rieng. Xây dung cơ chế Nhà nước quan lý bang pháp luật, đối với doanhnghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Qua đó thấy rằng nếu quản

lý mà khơng hình thành một cơ chế thì hiệu qua quan ly không cao. Cùng với

những phương hướng trên, vấn đề đặt ra là tiếp tục hoàn thiện pháp luật kinh

tế liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân và công ty tráchnhiệm hữu han. Dé là hồn thiện một cơng cụ có hiệu lực đặc biệt, nhằmnàng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với thành phần kinh tế tư nhân,

trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ

<small>nghĩa 0 nước ta hiện nay.</small>

4- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận:

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ ChíMinh về nhà nước và pháp luật để luận chứng các vấn đề đặt ra trong luận án.

Trong đó đặc biệt chú ý đến những tư tưởng của V.I. Lênin trong “Chính

<small>sách kinh tế mới” (NEP) ,có dé cập tới thái độ, chính sách của Dang và Nhà</small>

nude của giai cấp công nhân đối với thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư

bản và kinh tế tư bản nhà nước; thành tựu của những năm đổi mới; những

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ”, " Chiến lược ổn định và phát triển kinh© xã hội đến năm 2000 ”, Nghị quyết 6, 7, 8 Đại hội Đại biểu toàn quốc của

Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, so sánh, tổng hợp các tài liệu liênquan đến đề tài.Trong đó chú trọng đến phương pháp phân tích số liệu , sau

đó đối chiếu với lí luận từ đó rút ra những kết luận , kiến nghị đề xuất . Đồng

thời vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biệnchứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử để làm rõ Nhà nước quản lý bằng pháp

luật đối với thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà

nước dưới hình thức doanh nghiệp tu nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn; làm

rõ thực trạng và các giải pháp cần thiết để hiệu lực quản lý của Nhà nước tối

Phương pháp xã hội học. Dé đánh giá thục trang quản lý của các cơ<small>quan quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực có liên quan đến hoạt động củacác doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn .</small>

Phương pháp thống kê. Dé so sánh, đánh giá mức độ phát triển của các<small>doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ đó Nhà nước cầncó những giải pháp hữu hiệu để quan ly .</small>

Phương pháp kết hợp xem xét những vấn đề chung nhất trong phạm vi

cả nước, di sâu đánh giá một địa phương để làm cơ sở chứng minh. Cụ thé là

dánh giá thực trạng quản lý của tỉnh Hà Bắc cũ, và tỉnh Bắc Giang hiện nay

đối với các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn trong tinh .

Bằng cách tác giả tham gia thực hiện một đề tài khoa học cấp tỉnh và trực tiếp

làm chủ nhiệm đề tài với nội dung là “ Góp phần nghiên cứu thực trạng quản

lý nhà nước bằng pháp luật đối với các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

nhiệm Hữu hạn tỉnh Bắc Giang ”. Đề tài có sự tham gia của 8 cơ quan cấp

¡nh như Văn phòng Uy ban nhân dân tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao

dong, SO Địa chính, Cục Thuế, Ban Kinh tế tỉnh uy, Ngân hàng nhà nước, Sở

Tài chính tỉnh là các cơ quan đang quản lý các doanh nghiệp tư nhân và côngty trách nhiệm hữu han. Chúng tôi đã xem xét và khảo sát hàng trăm doanhnghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, làm việc với các cơ quan có

chức năng quản lý doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn của

tinh về nhiều lĩnh vực, từ đó rút ra những đánh giá, kết luận về thực trangquản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân và công tytrách nhiém hữu han ở tỉnh Bắc Giang. Những đánh giá của dé tai khoa học,

kết hợp với những tài liệu khác đã góp phần hồn thành luận án của chúng tôi

<small>hôm nay.</small>

Phương pháp so sánh đối chiếu pháp luật nước ta và pháp luật một sốtrước trên thể giới, điều chỉnh hoạt động các doanh nghiệp tư nhân, công tytrách nhiệm hữu hạn, từ đó rút ra những mặt hạn chế trong các quy định củapháp luật nước ta để khắc phục. Đồng thời xem xét những quy định trongpháp luật một số nước để đề nghị với Nhà nước xem xét, áp dụng vào việcquản lý các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ở nước ta.

Pháp luật một số nước, rnà chúng tôi đã xem xét trong đó được chú trọng đếncác nước cùng khu vực với nước ta như Thái Lan, Singapore, Malaysia,Philippines, Trung Quốc.

5- Cái mới của luận án

Lần đầu tiên một luận án tiến sĩ đã tiếp cận từ góc độ Luậi học để phân

<small>tích, làm rõ cơ sở lý luận của Nhà nước quản lý bằng pháp luật, đối với</small>doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu han . Từ đó luận chứng vềthực trạng và đề xuất giải pháp, phương hướng nhằm đổi mới, nâng cao hiệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

quả Nhà nước bang pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách

nhiệm hữu hạn . Luận án cũng đã nêu lên được Nhà nước quản lý bằng pháp

luật đối với doanh nghiệp tu nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn trên 3 nội

dung cơ bản đó là việc ban hình pháp luật, tổ chức triển khai việc thực hiện

pháp luật và thanh tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp

tự nhân, công ty trách nhiệm hữu han . Trên cơ sở đó luận án phân tích mộtcách tương đối đầy đủ về vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý kinhtế hiện nay. Qua đó chứng minh thêm cho quan điểm của Đảng và Nhà nướcchỉ có thơng qua quản lý của Nhà nước bằng pháp luật mới thể chế hóa và tạora cơ chế vận hành nần kinh tế của đất nước, bảo đảm sự định hướng Xã hội

chủ nghĩa. Đồng thời quản lý nhà nước bằng pháp luật là một hình thức quản

lý phù hợp với quy luật khách quan, chặt chế nhất và hiệu quả nhất đối vớinước ta hiện nay.

Bước đầu đánh giá thực trạng hoạt động quan lý của Nhà nước bằng

pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trêncơ sở đó dé ra một số biện pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nướcbảng pháp luật đốt với các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữuhạn. Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật về kinh tế và hoàn thiên bộ máynhà nước về quản lý kinh tế, để tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả đối với

<small>các doanh nghiệp tu nhân, cơng ty trách nhiêm hữu hạn. Trong đó cần chú</small>

trọng đến co quan đăng ký kinh doanh có chúc nang lưu giữ và cung cấpthông tin về doanh nghiệp, tạo điều kiện để cho các đoanh nghiệp tự giám sát

lẫn nhau, làm cho môi trường kinh doanh lành mạnh hơn, trong sáng hơn.

Kiến nghị với Nhà nước cần sớm hoàn thiện pháp luật về kinh tế làm cơ

sở pháp lý để quản lý các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu

hạn. Giải quyết về một số vấn đề bức xúc hiện nay như: cần phải quy định

<small>thêm công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân; mở rộng quyền</small>

dược góp vốn vào cơng ty hợp danh; cho phép doanh nghiệp tư nhàn được

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

chuyền sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; sửa đổi Luật Phá

vn doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu thực tế hiện nay. Hoàn thiện các

thu LỤC về ding ký kinh doanh, các quy định về thanh tra, kiểm tra...

6- Ý nghĩa lý luận và thực tiên của luận án

Luận án góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng ta về vấn đề

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong đó thể hiện rõ quan điểm củaDang ta đối với kinh tế tu nhân trong đó có các doanh nghiệp tư nhân va các

công ty trách nhiệm hữu hạn trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã

lội chủ nghĩa.

Qua những cơ sở lý luận và thực tiễn được đề cập, luận án có ý nghĩakhong những về lý luận phát triển khoa học nhà nước và pháp luật, khoa học

quản lý, mà cịn có giá trị thiết thực vào việc giải quyết những khó khăn,

vướng mắc trong thực tiễn xây dựng, hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực hiệnpháp luật và kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật đốt với các doanh nghiệp<small>tư nhàn, công ty trách nhiệm hữu hạn.</small>

Luận án đóng góp cho cơng tác quản lý của Nhà nước bằng pháp luật

<small>doi với các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn, những ý</small>

kiến nhằm nâng cao hiệu qua của công tác quan lý, tạo môi trường pháp lý

<small>thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp.</small>

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng đạy luậtKinh tế, quản lý nhà nước cũng như những người quan tâm về nó.

<small>7+ Cầu trúc của lận án</small>

Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương, 8 tiết và danh

<small>mục tài liệu tham khảo.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Chương Ì

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ

BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN,

CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN Ở NƯỚC TA

1.1.Chính sách phát triển nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phầntheo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xãhội chủ nghĩa, cơ sở để phát triển doanh nghiệp tu nhân, công ty trách

nhiệm hữu hạn

Sự phát triển của xã hội có thể dién ra theo những con đường khác nhau,

tuỳ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thổ của mỗi nước. Ở

Viel Nam, sau khi đánh đổ chủ nghĩa thực dân phong kiến ở miền Bắc nam1954, và sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chúng ta bat tay ngay vào

xảy dựng chính quyền vơ sản, tiến hành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

<small>Với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn trên thế giới, chúngla đã tiến hành cơng nghiệp hố, tạo ra tiền dé vật chất- kỹ thuật của chủ</small>

nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất làm cơ sở hoàn thiện quan hệ sản<small>xuất mới. Tuy nhiên, kết quả hàng chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội daKhông được như chúng ta mong muốn. Sản xuất chậm phái triển, nền kinh tế</small>

không ổn định, đất nước rơi vào trạng thái khủng hoảng từ cuối những nam

1980. Mac dù trong nhiều năm, Đảng và Nhà nước đã hết sức cố gắng chấn

chính, cải tiến quản lý các đơn vị kinh tế, nhưng do vẫn trong khuôn khổ

<small>nhân thức và cơ chế cũ nên không thu được kết quả khả quan.</small>

Trước yêu cầu thực tế của xã hội, với những đòi hỏi của cuộc sống,

Dang ta đã tổng kết thực tiễn và ra Nghị quyết Trung ương 6 (khoá 6) nim

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

,a79 dé ra chính sách phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ca trong sản xuất

ng nghiệp và nông nghiệp. Tiếp theo là Chi thị 100 của Bộ Chính trị (1-

0#) về phát triển nơng nghiệp, đã tạo ra những chuyển biến bước đầu quanyong, nhưng vẫn chưa cơ bản va triệt để. Do đó, tình hình sản xuất có tiến bộđược trong vài năm sau đó lại xấu đi. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần

hu 6 (1986) đã đề-ra việc tiến hành đổi mới tồn điện, trên mọi mặt của đờisóng xã hội, nhằm phát triển kinh tế đất nước. Sau Nghị quyết Đại hội 6, vềcong nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cịn có các Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị

và Quyết định 27/HĐBT ngày 9-3-1989 của Hội đồng Bộ trưởng về pháttien kinh tế tư nhân. Do vậy, kinh tế tư nhân khơng cịn bi coi là thành phần

kinh tế phi xã hội chủ nghĩa như trước, mà được khuyến khích phát triển, vàtrên thực tế đã phát triển rất nhanh cả về số lượng xí nghiệp và vốn đầu tư.

Trước yêu cầu đó, Đảng đã đề ra chủ trương phải xem xét lại phươngthức và con đường đưa đất nước tiến lên. Xác định nước ta từ một nước tiềntư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể bỏ qua việc xây dựng các

cư sở Vật chất- kỹ thuật ở trình độ mà chủ nghĩa tu bản đã đạt được. Bởi vì,chính cơ sở vật chất- kỹ thuật ấy là cơ sở, nền tảng của sự phát triển xã hội,

và cùng với việc phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao, nó là cơ sở

của sự hình thành và phát triển quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất xã

<small>hoi chủ nghĩa. Chủ trương mà Dang ta đã nêu ra có cơ sở lý luận và thực tiễndược thể hiện như sau:</small>

Về cơ sở lý luận, Kinh tế chính trị Mác-Lênin đã chỉ ra rằng, trong lịch

sử phát triển kinh tế- xã hội hiếm có một nền kinh tế thuần nhất. Thông

thường trong một chế độ kinh tế- xã hội đương thời vẫn tồn tại những tàn dư

của phương thức sản xuất trước và chứa đựng những nhân tố của phương thức

sẵn xuất kế sau. Những phương thức sản xuất tiêu biểu cho chế độ kinh tế- xã

hội hiện thời giữ địa vị thống trị, chi phối, còn các tàn dư và nhân tố của

"hững phương thức sản xuất khác ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối. Nhưng

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

oes lịch sử của mọi nước lại có những giai doan mà xã hội dang trong bước

~~ từ chế độ nay sang chế độ khác, ở đó khơng có phương thức san xuất

aww giữ địa vị thống trị, vì phương thức sản xuất đã từng giữ địa vị thống trị

song thời kỳ trước đang suy thối, khơng cịn đủ sức để chi phối nên kinh tế

quốc dan nữa và phương thức sản xuất mới dang lớn lên nhưng chưa giànhđược địa VỊ thống trị. Đó chính là thời kỳ quá độ, trong đó mọi phương thức

sạn xuất chỉ là một mảnh, một bộ phan của kết cấu kinh tế xã hội vừa có tính

doc lập tương đối, vừa có tính tương trợ lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh

với nhau. Mỗi bộ phận là một thành phần kinh tế- xã hội. Một trong những

thành phần ấy sẽ vươn lên giữ vai trị chủ đạo, lơi cuốn các thành phần khác

theo định hướng của mình và tiến tới giữ địa vị thống trị nền kinh tế quốc

din. Tuy thế tiến trình lịch sử đã cho thấy có những thành phần kinh tế

khơng bao giờ giữ vai trị chủ đạo và không thể vươn lên giữ địa vị thống trịnhư kinh tế gia đình, sản xuất hàng hóa nhỏ.

Về cơ sở thực tiễn trên thế giới và ở nước ta trước thời kỳ đổi mới 1986.

- © nước Nga vào những nim 1918 - 1919, xuất phat từ những đặc điểm

của một nước lạc hậu, kinh tế tiểu nông chiếm đại bộ phận, kinh tế tư bảnchưa phát triển. V.I. Lénin đã khẳng định rằng không thể chuyển trực tiếp

<small>nước Nga lên chủ nghĩa xã hội mà phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài,</small>

nhằm khôi phục va phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ<small>thuật cho chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin viết: " Chúng ta hãy kể ra các thànhphan kinh tế đó là:</small>

1- Kinh tế nơng dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

4- Chủ nghĩa tư bản nhà nước.§- Chủ nghĩa xã hội [121; 363].

Sự tồn tại 5 thành phần kinh tế trong thời kì quá độ là một tất yếu

khách quan. Ngăn can hoặc thủ tiêu các thành phần kinh tế ngoài thành phầnxinh tế xã hội chủ nghĩa là khơng thể thực hiện được, thạm chí Lênin cho

cing đó là "tự sát” là "đại đột” đối với dang nào muốn làm như vậy. Về lợi

¡ch của giai cấp tư sản cũng được Lênin xử lý một cách thoả đáng trong nền

kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Dé bác lại những người cho rang trong

chủ nghĩa xã hội sự quan tâm đến lợi ích của những nhà tư bản là ” ngược

doi” Lénin đã khẳng định: " Người nào thu được nhiều kết quả nhất, dầu là

bing con đường tu bản tu nhân... thì người đó giúp ích cho cơng cuộc xâydựng chủ nghĩa xã hội trong tồn bộ nước Nga nhiều hơn những kẻ chỉ ngồilo lắng đến sự thuần túy của chủ nghĩa cộng sản ” [120; 281].

V.I. Lénin khẳng định rằng do những sai lầm của chính sách kinh tế

trước đây, để cứu văn nước Nga khỏi khủng hoảng. cần áp dụng chế độ tự dobuon bán trao đổi hàng hóa. Việc thực hiện chế độ tư do bn bán trao dối

hàng hóa, điều đó có thể din đến hiện tượng đầu cơ trục lợi, hiện tượng bnbán v6 chính phủ, trốn tránh sự kiểm tra của Nhà nước vô sản, hiện tượngphá rối thị trường v.v... V.I. Lênin viết: " Trao đổi hàng hóa và tự do buôn

<small>bán nhất định sẽ làm xuất hiện những nhà tư bản và những quan hệ tư bảnchủ nghĩa. Khơng việc gì phải sợ điều đó. Nhà nước cơng nhân có trong lay</small>

dảy đủ phương tiện để cho phép những quan hệ đó - những quan hệ hiện

đang có ích và cần thiết trong hồn cảnh sản xuất nhỏ - phát triển có chừng

mực nhất định và để kiểm sốt những quan hệ đó ” [120; 331]. Như vậy,

chính sách đúng đắn nhất nhằm nâng cao đời sống nhân dân và phát triển lực

lượng sản xuất chỉ có thể JA chính sách thúc đẩy sự phát triển của các thành

phan kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

- Đối với Việt Nam, nền kinh tế tính từ năm 1954 đến nay, có thể tam

mời chia làm hai giai đoạn, lấy năm 1986 - năm mà Dang và Nhà nước tachoi xuOng chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước làm mốc.

Thời kỳ trước năm 1986, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tập trung,quan TIÊU, bao cấp với hai thành phần kinh tế chủ yếu, đó là kinh tế quốc

doanh và kinh tế tap thể. Khu vực kinh tế tư nhân không những không đượcthừa nhận, mà cịn cho là đối tượng cần phải cải tạo. Vì chỉ có hai thành phần

kinh tế, nên kinh tế Việt Nam giai đoạn này không phải là nền kinh tế hànghóa với sự đa dạng của các thành phần kinh tế, mà là nền kinh tế kế hoạch

hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, khơng có cạnh tranh, mà chỉ có sự độcquyền của Nhà nước trong mọi lĩnh vực. Hiến pháp năm 1959 nước Việt

Nam Dân chủ cộng hòa quy định: ˆ Ở nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa

trong thời kỳ q đọ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện

nay là hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu

của hợp tác xã là hình thức sở hữu của tập thể của nhân dân lao động, hình

thức của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tu sản dân tộc ”[73:243]»

Do hoàn cảnh lịch sử trong thời kỳ này, kinh tế tư nhân không phát

triển. Do vậy, Hiến pháp nam 1959 tuy có thừa nhận hình thức sở hữu củangudi lao động riêng Íẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dan tộc, nhưng

đến Hiến pháp nim 1980 được khang định " Nhà nước tiến hành cách mang

về quan hệ sản xuất, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ

nghĩa thiết lap và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sảnxuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần:<small>thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế</small>

hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của người lao động. Kinh tế quốc doanh giữ

Vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên ” [74:

355].

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Có thể nói thời kỳ trước năm 1986, chúng ta đã nhấn mạnh một chiều

chế dO sở hữu tư liệu sản xuất là tiền đề, là nhân tố quyết định mở đường cho

lực lượng sản xuất phát triển mà quên rang “ bất cứ một sự biến động nào về

mặt quan hệ chiếm hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những

jyc lượng sản xuất mới, khơng cịn phù hợp với các quan hệ chiếm hữu nữa ”(16; 452- 453].Do đó, Nhà nước khơng quan tâm đến việc phát triển thànhphẩn kinh tế tư nhân, chỉ coi trong hai thành phần kinh tế là quốc doanh vàlp thể với vai trò bao trùm của Nha nước từ khâu sản xuất đến khâu phan

phối, lưu thông. Trong quản lý kinh tế Nhà nước đưa ra hệ thống kế hoạch

pháp lệnh, quy định giá cả, nơi tiêu thụ cho hầu hết các sản phẩm và dé racác chính sách hỗ trợ tài chính qua đầu tư tín dụng cho các doanh nghiệp. kếtquả là trong xã hội không chỉ ton tại hai thành phần kinh tế Nhà nước và tập

thể, mà vẫn có những mầm nống, những nhân tố của các thành phần khác

cùng tồn tại. điều này được thể hiện rõ nhất là kinh tế gia đình, kinh tế tiểu

chủ như thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán, kinh doanhdịch vụ cá thể. Những “thành phần” kinh tế này một phần còn tổn tại lại sau

cuộc cải tao công thương nghiệp tư doanh vào những năm 1955-1960 củaNhà nước ta. Mặt khác nó được phát triển ngay trong công cuộc xây dựngchủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, khi mà hai thành phần kinh tế Nhà nước và tập

thể còn những mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Năm 1975 giải<small>phóng miền Nam thống nhất đất nước, một lần nữa Nhà nước ta tiến hành cảitạo các nhà tư sản va vận động nông dân các tỉnh miền Nam vào hợp tác xa</small>nơng nghiệp, thực hiện thống nhất trong tồn quốc chỉ có hai thành phần

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

phường đã mạnh dạn khoán đến hộ sản xuất, tiểu thủ công nghiệp xuất hiện

<small>các tổ sản xuất, cửa hàng dịch vụ có th, mướn một số ít lao dong. những</small>

<small>tình thức hoạt động này đã nhanh chóng được xã hội thừa nhận như một tất</small>

yếu khách quan và phần nào giải quyết được những khó khan, bức xúc vềkinh tế lúc bấy giờ.

Căn cứ vào những cơ sở ly luận và thực tiễn như đã nêu ở trên, Dai hội

lần thứ 6 năm 1986 của Dang đã xuất phát từ thực tế nước ta, vận dụng quanđiểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưngcủa thời kỳ quá độ, và chỉ ra rằng: “ Ở nước ta các thành phần kinh tế đó là:

- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập

thẻ, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.

- Các thành phần kinh tế khác gồm: Kinh tế tiểu chủ sản xuất hàng hố( thợ thủ cơng, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịchvụ cá thể ) kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà

hình thức cao nhất là công tư hợp doanh, kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc trong

một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao

khác ” [28; 56].

Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta với việc thừa nhận nền kinh tếhàng hố nhiều thành phần, đã khẳng định tính thống nhất hữu cơ giữa các

quy luật kinh tế đặc thù của chủ nghĩa xã hội với những quy luật kinh tế hàng

hóa. Quan điểm mới đó là cơ sở tạo ra động lực mạnh mế thúc đẩy sản xuất

hàng hóa và kinh tế hàng hóa phát triển.

Cùng với việc đổi mới về tư duy kinh tế, Đảng ta cũng chỉ ra rằng, trong

diều kiện kinh tế nhiều thành phần ở chang đường đầu tiên của thời ky quá

độ thì việc vận dụng tính thống nhất của các quy luật kinh tế ở nước ta càngphải dược quan tâm để có chính sách và cơ chế quản lý phù hợp. Phải nhậnthức được trong hệ thống các quy luật, quy TữatKirrlT tếcơ bản cùng với các

| +... |

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ

gao, vận động trong một thé thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng

hóa, đặc biệt là quy luật giá trị và quan hệ cung cầu. Phải kết hợp hài hòa

giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Bởi vì " Khơng có quyền lợi nào mà khơng có

nghĩa vụ, khơng có nghĩa vụ nào mà khơng có quyền lợi ” [15; 615]

Những hạn chế của tư duy kinh tế cũ đã dựa trên quan niệm giản đơn về

chủ nghĩa xã hội, không thừa nhận thực trạng kinh tế nhiều thành phần là tấtyếu hoặc cho nó chỉ ton tại trong một thời gian rất ngắn. Vì vậy, muốn daynhanh cách mạng quan hệ sản xuất theo hướng tập thể hóa càng sớm càng

tốt. Quan điểm ấy đã dẫn tới hiện tượng lúc thì nóng vội, lúc lại bng lỏng

cong cuộc cai tao xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tư duy cũ coi nền kinh tế xãhội chủ nghĩa là nên sản xuất mang tính xã hội trực tiếp ngay từ đầu, khơngcần phải qua các quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Từ đó dẫn đến sự cường điệu khả

ning tổ chức quản lý và kế hoạch hóa tập trung trực tiếp từ cấp trên, chủ yếu

dựa vào quyền lực hành chính và quan hệ hiện vật, nhấn manh kế hoạch tập

Irung, xem nhẹ quy luật giá trị, phá vỡ nguyên tắc tập trung dân chủ đúng

<small>nghĩa của nó trong quản lý kinh tế. Vì thế, cơ chế quản lý tập trung quan liêubao cấp đã vi phạm nghiêm trọng quy luật khách quan trên hai mặt :</small>

Một là, vi phạm su tac động biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lựclượng sản xuất, cũng như giữa cơ chế quản lý với đối tượng quản lý.

<small>Hai là, vi phạm tính khách quan và tính hệ thống của các quy luật kinh</small>lế, do cơ chế quản lý chủ yếu dựa vào mệnh lệnh gắn liên với việc chưa thật

su thừa nhận những quy luật và phạm trù của sản xuất hàng hóa. Sự vi phạm

quy luật của sản xuất hàng hóa tất yếu dẫn đến vi phạm mọi quy luật kinh tếkể cả quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, và làm mất khả năng vận

dộng của các quy luật khác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Do có sự nhận thức dung dan như vậy, nên Đại hội Dang lần thứ 6

(10860) dã xác định những đuan điểm và phương hướng doi mới kinh tẻ- xã

nói, trong đó việc phat triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được coi như

„;ỏ! chủ truong mang tính chiến lược. Chính vì vậy đến đại hội Đảng lần thứ

+ trong khi khẳng định việc tiếp tục đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt của

đời song kinh tế --xa hội, đã chỉ rõ: ˆ Chúng ta chủ trương thực hiện nhất

quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.foi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu

và thu nhập hợp pháp. Các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau.

hình thành những tổ chức kinh doanh da dang. Các doanh nghiệp không phan

biệt quan hệ sở hữu, đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau,

bình đẳng trước pháp luật ” [29; 115-116]. Quan điểm bao trim của Đảng tathể hiện xu hướng đổi mới tư duy trong lĩnh vực quản lý kinh tế là thật sựnhìn nhận tính khách quan, tính hệ thống của nền kinh tế đang chuyển mạnh

sang kinh tế hàng hóa với cơ cấu nhiều thành phần, cũng như sự tồn tại talyeu của quan hệ hàng hóa - tiền tệ và quan hệ thị trường.

Nhờ có đường lối chiến lược đúng din của Dang, cùng với quyết tâmcủa toàn Đảng, toàn dân thực hiện cho được mục tiêu: " Cơ bản ơn định tinh

hình kinh tế- xã hội, ổn định đời sống nhân dân ”. Khẳng định dường lối pháttriển kinh tế xã hội của Việt Nam là: " Tăng cường kinh tế xã hội chủ nghĩa

<small>trên ca ba mặt : chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phan phối làm cho</small>

kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể giữ vai trò

quyết định trong nén kinh tế quốc dân, chi phối các thành phần kinh tế khác,

khuyến khích phát triển kinh tế gia đình... sử dụng kinh tế tư bản tư nhân

<small>trong một số ngành nghề... mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành</small>

Phần kinh tế theo ngun tắc cùng có lọi. bình đẳng trước pháp luật” [28;

Ì27]. Cho nên thời kỳ sau năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã có một sự thay

<small>SẮC Lá = Fa 4 aie # Pe > ~ . ae To vs</small>

<small>dối lớn nhằm xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý kinh tế tập chung quan liêu, hao</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

cấp đình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bang pháp luật.

tế hoạch, chính sách và cơng cụ khác.

Đỉnh cao về quyết tam đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện

rong VIỆC sua đổi Hiến pháp năm 1992. Điều 21 của bản Hiến pháp 1992 đã

xác nhận năm thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân được

Nhà nước bảo đảm những điều kiện phát triển thuận lợi: " Kinh tế cá thể,

tinh tế tư bản tư nhân được lựa chon hình thức tổ chức sản xuất, được thành

lap doanh nghiệp không bi hạn chế về quy mơ hoạt động trong những ngànhnghề có lợi cho quốc kế dan sinh ” [72; 20-21].

Những quy định tiên đây của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định địa vị pháp lý của các thành phần

kinh tế. Vai trò và cơ chế hoạt động của các thành phần kinh tế nhà nước, tap

thể và tư nhân có những thay đổi dáng kể, trong đó vai trị chủ đạo vẫn thuộc

về thành phần kinh tế quốc doanh. Kinh tế quốc doanh sẽ nắm mot số ngànhthen chốt, sao cho thông qua kinh tế quốc doanh, Nhà nước tác dong vào nềnkinh tế quốc dân. Mục đích của việc kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đụotrong nền kinh tế quốc dân, là nhằm bảo đảm cho sự phát triển ổn định và có<small>hiệu qua của nền kinh tế quốc dân. theo định hướng xã hột chủ nghĩa. Các</small>thành phần kinh tế tồn tại và phát triển trên nguyên tắc bình đẳng trước phán

luật, và “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nehicp thuộc thành phần kinh tế tu nhân ra đời và phát triển. Thực tế cho

hay chỉ sau một thời gian ngắn từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới

ám 1986) đến năm 1990, hàng loạt các xí nghiệp tư nhân được thành lập.

phan lớn những xí nghiệp này khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật

Cong ty đã chuyển thành doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữuhan. Điều này đã thể hiện đường lối dung dan của Dang trong công cuộc đổimới nền kinh tế đất nước .

Có được một nhận thức đúng đắn về quy luật kinh tế và các yếu tố khác,

ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế, từ đó đề ra các chủ trương, chính sách

kinh tế phù hợp với giai đoạn cách mạng hiện nay của Đảng ta, là cả một quátrình được vận dụng, kiểm nghiệm bằng thực tiễn ở nước ta trong thời gian

qua. Do đó đã mang lại kết quả trong những năm đổi mới, đồng thời khẳng

dịnh chính sách phát triển kinh tế hàng hố nhiều thành phần, theo cơ chế thị

trường, có sự quản !ý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa của

Dang ta là hoàn toàn đúng dan.

Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là Nhà nước phải tổ chức quản lý thành

phần kinh tế mới được thừa nhận và phát triển như thế nào. Bởi vì, nước taxuất phát từ một nước phổ biến là sản xuất nhỏ, lực lượng sản xuất phát triểnkhông đều và do đó, các thành phần kinh tế cịn cùng tồn tại. Nếu để pháttriển tự phát trong nền kinh tế thị trường, thì theo lơ gích tự nhiên. nền kinhlễ nước ta sẽ di lên chủ nghĩa tư bản. Do vậy, nhiệm vụ của Nhà nước là phảiquan lý được thành phần kinh tế tư nhân nói chung, doanh nghiệp tư nhân,

<small>cơng ty trách nhiệm hữu hạn nói riêng phát triển theo định hướng xã hội chủ</small>

Để làm được điều này yêu cầu đặt ra là Đảng, Nhà nước phải kip thời<small>sửa đổi. bổ sung chính sách. pháp luật, khơng cịn phù hợp đang kìm hãm sự</small>phat triển của các doanh nghiệp. Chúng ta đã có chính sách, nhấp luật cho

Phép các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển và

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

thực tế 10 nam qua đã có hàng vạn doanh nghiệp dược cấp đăng ky kinh

doanh, nhiều doanh nghiệp hoạt động rất có hiệu quả. Nhưng cũng phải nói

cảng chúng ta cịn thiếu những chính sách cụ thể để khuyến khích các doanh

nghiệp đầu tư, phát triển theo định hướng của Nhà nước. Đối với pháp luật

cùn nhiều văn bản mang tính luật khung, thiếu những văn bản dưới luật để cụ

thể hoá việc tổ chức thực hiện pháp luật, vì vậy đã có ảnh hưởng đến hoạt

Jong của các doanh nghiệp. Vấn đề này phải được khắc phục kịp thời tạo cơ

sở pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động.

1.2. Sự cần thiết Nhà nước phải quản lý bằng pháp luật đối voi doanh

ngiiệp tr nhân, công ty trách nhiệm hữu han

<small>Việc xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn</small>và Nhà nước phải tổ chức quản lý là một tất yếu khách quan, cả trên phươngdiện lý luận và thực tiên của nước ta. Bàn về quản lý xã hội nói chung CácMác đã viết : ” Quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ ban chất xã hộicủa quá trình lao động ” [14; 29]. Như vậy, ở đâu có sự hiệp tác của nhiều

npười, ở đó cần phải có quản lý, vì mọi hoạt động chung của nhiều người đòi

<small>hỏi phải được liên kết với nhau dưới nhiều hình thức. Khái niệm về quản lý</small>bao gồm hai mat: một mặt, quản lý là cần thiết để bảo dam tính nhất trí giữacơng việc của cá nhân tổ chức, hay nói cách khác, quản lý là sự tác đông đến

cách thức xử sự của những người bị quản lý từ phía những chủ thể quản lý;

<small>mặt khác, quan lý còn là sự thực hiện những chức năng chung nay sinh từ sự</small>

vận động của toàn bộ thực thể sản xuất xã hội. Chức năng chung, qua thựctiên cho thấy đã ngày càng tăng lên và đóng vai trị quan trong trong quản ly

Xã hội cùng với mức độ phát triển của sản xuất, tính phức tap của sinh hoạt

xã hội, sự tăng trưởng nói chung của xã hội. Chức năng chung của quản lý

không đơn giản là sự thống nhất, sự phối hợp cơng việc riêng biệt, sự tác

động chung, duy trì những điều kiện tồn tại của lao động, phục vụ những nhu

<small>Cau tập thể tiến hành những công việc chung, như kế hoạch hóa cơng tác.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

việc phân công công việc, bảo đảm phương tiện lao động chung, trả công lao

jong, phân phốt lại các thu nhập v.v... những chức nang nay tách khỏi quá

sinh lao động sản xuất tạo thành một nhóm đặc biệt các chức nang mang

nh chất bảo đảm. Ở cấp độ nhà nước, những cơng việc chung đó, chức năng

-hung đó mang tính chất quốc gia. Nhiều chức năng được tách ra và thoát

khỏi quá trình sản Xuất, tạo nên cơ sở của các chức nang và những nhiệm vụ

của Nhà nước, của quản lý nhà nước, khơng cịn là sự thống nhất đơn giản

giữa các cá nhân riêng biệt.

Như vậy, quản ly nhà nước không chi là sự tác động, mà là hoạt động

nhiều mặt. Đó là phương tiện thực hiện những nhiệm vu và chức nang củaNhà nước, là việc thực hiện các chính sách của Nhà nước. Đây chính là cơ sở

khách quan của quản lý nhà nước. Ngoài ra, quản lý nhà nước cũng như tấtvũ các dang quản lý xã hội khác đều mang bản chất tổ chức.

Tổ chức là sự phân cơng, phân định rõ vị trí, chức trách của từng cánhân trong tập thể của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, là sự phối hợp,liên kết hoạt động của nhiều người, nhiều cơ quan để thực hiện mục tiêu đã

dẻ ra. Tổ chức là yếu tố quyết định mang lại hiện quả cho quản lý. Khơng có

id chức thì khơng thé quản lý có hiệu quả. Quản lý nhà nước không phải là

quyển riêng của các cơ quan chấp hành thực hiện, đó là hoạt động của toàn

bỏ hệ thống các cơ quan nhà nước, tồn bộ bộ máy nhà nước, đó là hoạt động

tỏ chức nhiều mặt nhằm thực hiện các chức nang và nhiệm vụ của Nhà nước.

Hoạt động quản lý của Nhà nước được thực hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau

<small>nhu: an ninh, quốc phịng, văn hóa, giáo dục, kinh tế... wong đó hoạt động</small>quản lý của Nhà nước về kinh tế giữ vị trí hết sức quan trọng đối với dời<small>song Xd hội.</small>

Để thực hiện chức nang quản lý kinh tế, Nhà nước tiến hành nhiều hoạt

động quản lý khác nhau, trong đó có hoạt động quản lý các loại hình doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

-shiếp. Trong phạm vi dé tài này, như chúng tôi đã nêu ở phần mở đầu, chỉsẻ cập đến hoạt động quản ty của Nhà nước bằng pháp luật đối với hai loạiyah doanh nghiệp đó là doanh nghiệp tư nhân và cơng ty trách nhiệm hữu

Về lĩnh vực quản lý kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp tư nhân,;òng ty trách nhiệm hữu hạn nói riêng Nhà nước áp dụng nhiều biện phápkhác nhau. Điều 26 Hiến pháp năm 1992 có quy định: ” Nha nước thốngnhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách...

2: 22]. Như vậy, trong các công cụ mà Nhà nước ta sử dụng để quản lý nền

kink tế, ngoài pháp luật cịn một số phương pháp khác chẳng hạn phương

nháp có tính chất chính trị, tinh than: thuyết phục, giáo dục, khuyến khích vềtinh thần; phương pháp có tính chất kinh tế: khuyến khích vật chất các hoạtdịng xã hội có ích; phương pháp tổ chức: dự định, tổ chức, kiểm sốt, chỉ

đạo; phương pháp mệnh lệnh hành chính. Nhưng pháp luật được đề lên hàngdấu và là công cụ không thể thiếu được trong quản lý kinh tế mà biểu hiện rõ

nhất là pháp luật tác động lên hệ thống quản lý và hệ thống chịu sự quản lý.Đối với hệ thống quản lý:

- Pháp luật trước tiên là phương tiện tổ chức hệ thống đó, như tăng

<small>cường mọi biện pháp tổ chức nhằm kiện toàn cơ cấu bộ máy quản lý trong</small>phạm vi nhà nước, đó là giải thể hoặc thành lập cơ quan mới.

- Quy định quyền và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các bộ

phận cấu thành của chúng và những người có trách nhiệm, có nghĩa là điều

chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ hệ thống quản lý.

- Củng cố quá trình quản lý, dự kiến những điều kiện để quản lý, quydinh thời hạn và trình tự giải quyết cơng việc...

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>- Bảo đảm các điều kiện để thực hiện hoạt động quản lý, quy định</small>

wach nhiệm của các co quan va những người có chức năng quản lý. Định

ước những biện pháp bảo vệ, ngăn chặn những hành vi nhằm can trở hoạt

dong quan ly.

Đối với hệ thống chịu sự quản lý :

Pháp luật nói chung đóng vai trò là phương tiện để tác động lên nhận

thức và hoạt động của mọi đối tượng chịu sự quản lý. Nhờ có pháp luật mà

lip ra được quyền và nghĩa vụ chủ thể của họ, giới hạn các hành vi cho phép,

cưỡng chế thực hiện khi cần thiết.

Vai trò của pháp luật thể hiện tính khách quan của hoạt động quản lý

trong nền kinh tế thị trường, mà yếu tố chủ quan của chủ thể quản lý dù

muốn hay không muốn thì cũng khơng thể áp đặt được.

Trở lại thời kỳ Nhà nước quản lý kinh tế theo cơ chế tập chung, quanliêu, bao cấp lúc đó cơng cụ quản lý của Nhà nước cũng bao gồm pháp luật,kế hoạch, chính sách ... Như vậy, khơng phải từ sau thời kỳ đổi mới nền kinhlẻ đất nước, Nhà nước ta mới sử dụng công cụ pháp luật trong quản lý kinhlẻ, mà trước đó pháp luật đã có mặt trong số các công cụ quản lý kinh tế. Tuy

<small>nhiên, đo hồn cảnh lịch sử thời kỳ đó chế độ kinh tế của chúng ta chỉ có hai</small>

thành phần kinh tế, tương ứng với hai hình thức sở hữu, đó là sở hữu nhà

<small>nước và sở hữu tập thể. Nhà nước điều hành kinh tế chủ yếu bằng các chỉ tiêu</small>

pháp lệnh, các doanh nghiệp thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh thông qua kế hoạch

dược giao, như sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu, bán cho ai, giá cả

bao nhiêu ... tất cả đều nằm trong kế hoạch.

Với cơ chế quản lý kinh tế như vậy, cho nên các doanh nghiệp hầu nhưkhông cần cạnh tranh với nhau. Trong sản xuất kinh doanh, tuy pháp luật có

quy định về ký kết hợp đồng kinh tế nhưng hầu hết các doanh nghiệp khơng

<small>quan tâm đến vấn đề này. Vì trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

qghiỆP đù có 16 hay lãi cũng khơng có gì ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Nếu

R thi nộp về ngân sách, nếu lỗ khơng hồn thành kế hoạch thì cuối năm Nhàsước điều chỉnh lại chỉ tiêu kế hoạch. Tham gia trực tiếp vào quản lý kinh tế

yong thời kỳ này khơng chi có Nhà nước mà cịn có các tổ chức chính trịthác, lúc đó các chi bộ, dang uy cơ quan có thể ra nghị quyết mang tính chấtquan ly déi với các doanh nghiệp ma khơng cần đến sự quan lý của các cơ

quan Nhà nước. Vai trị của các tổ chức cơ sở dang có lúc lấn sân sang chức

năng quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước.

Trước tình hình như vậy vai trị của pháp luật bị lu mờ và trở nên

khơng thực sự cần thiết khi tham gia vào quản lý kinh tế. Điều này hồn tồnkhơng có nghia là pháp luật lúc đó khơng mang giá trị của nó mà chính là do

cơ chế quản lý.thời kỳ hành chính bao cấp đã khơng phát huy hết vai trị của

pháp luật trong quản lý kinh tế. Mặt khác có thể nói rằng ở thời điểm đó,

chúng ta cũng chưa nhận thức một cách đầy đủ về vai trò của pháp luật có tácdịng đến nền kinh tế, nhất là tác động đến kinh tế tư nhân. Do đó kinh tế tưnhân khơng được khuyến khích phát triển, cho nên pháp luật đã cấm mọi

hoạt động nhằm mục đích phát triển kinh tế tư nhân.

Chuyển sang thời kỳ kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển

<small>theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hộichủ nghĩa, thì yêu cầu về quản lý xã hội, quản lý kinh tế của Nhà nước được</small>

thay đổi về chất. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật, kế hoạch, chínhsách... trong đó phấp luật đóng vai trị đặc biệt quan trọng. Điều này cũng

Không phải do chủ thể quản ly quy định pháp luật là quan trọng, mà chính làdo sự chuyển đổi về cơ chế quản lý đã làm thay đổi vai trò của pháp luật, địi

hỏi phải có pháp luật để điều chỉnh các quan hệ của xã hội. Chính vì vậy,

<small>trong khoảng 10 năm trở lại đây rất nhiều các văn bản pháp luật đã được Nha</small>

nước ban hành để quan lý kinh tế như Bộ luật Dân su, Bộ luật Lao động, Luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

yeu! nghiệp tư nhân. Luật Công ty, Luật Phá san đoanh nghiệp và gần day

<small>Là * CC = P</small>

„ Lud! Dounh nghiệp...

Việc xác định vai trò quan trọng của pháp luật và Nhà nước quản lý

¿nh tẾ bang pháp luật không phải lần đầu tiên được xác định ở nước ta, ma-jc nước trên thế giới, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đều áp dụng.

pat là các nước đã áp dụng cơ chế thị trường hàng trăm năm nay cho thấy,

thi dã chấp nhận việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theocơ chế thi trường, thì pháp luật bao giờ cũng là cơng cụ CĨ Vai trị quan trọngnhất trong quan lý kinh tế. Mặt khác khi nền kinh tế phat triển theo cơ chế thitrường thì pháp luật đã trở thành một bộ phận cấu thành của cơ chế quản lýsinh tế. Khơng có pháp luật, hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu

củi của nền kinh tế thị trường, thì nền kinh tế thị trường khơng thể vận hànhnoi chảy được. Một khi pháp luật dat ra ngồi q trình cai cách kinh tế hoặckhong được chú trọng đúng với tâm quan trọng của nó, thi cải cách kinh tế

theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường sẽ rơi vào tình trạng lộn xộn và

di đến thất bại. O đây, pháp luật đóng vai trị đảm bảo việc chuyển nền kinh

tẻ thi trường từ trạng thái tự phát, kém tổ chức sang một thị trường văn minh.

Phip luật có nhiệm vụ tạo lập một mơi trường pháp lý thuận tiện cho mọihoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế.

tiều chí để đánh giá pháp luật đó đúng đắn hay khơng, chính là sự phát triển

phon vinh của nền kinh tế thị trường văn minh. Vai trị đó của pháp luật được

quy định trước hết bởi những yêu cầu khách quan do chính nền kinh tế thị<small>Irường đặt ra, sau nữa bởi những giá trị xã hội của pháp luật trong việc bảo</small>dam tính tổ chức, trật tự và kỷ luật cao của một nền kinh tế, và trong điều

Kiện của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, giá trị xã hội của pháp luật lạicàng to lớn.

Trong một nền kinh tế thị trường văn minh, việc bảo đảm sự thống nhất

hai hịa giữa nền kính tế và xã hội là một yêu cầu khách quan. Hat mặt này

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

sg luôn luôn ở trạng thái mâu thuần nhau. Trong khi đó, với mục dich nhằm

yy dược lợi nhuận cao nhất, ban thân nền kinh tế thị trường khơng bao hàm

xang đĨ CƠ chế bao dam các vấn dé xã hội. Sự thống nhất giữa phát triểngah tế lẫn Xã hội chỉ có thể đạt được bằng sự can thiệp của Nhà nước bằng

-ttiP luật:

vé đường lối phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay Dang, Nhà nước đã

tháng định chúng ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị

trường. Nhu vậy về lý thuyết như đã phân tích ở trên thì pháp luật là công cụ

quan trong nhất trong quản lý kinh tế của Nhà nước. Thực tiễn quản lý kinhtự của Nhà nước ta trong những năm vừa qua đã khẳng định điều đó là đúngdin. Chúng ta có thé dé dàng nhận thấy rang hoạt động kinh tế hiện nay cịnnhiều khó khăn, tính tự phát nổi lên khá phổ biến, hiện tượng tiêu cực trongkinh tế khá nhiều: ” Chúng ta chưa gắn chat nhiệm vu phát triển kinh tế- xã

hỏi với bảo vệ an ninh, trật tự, chưa quan tâm đúng mức giải quyết nhữngnguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh phat triển tội phạm; còn buông lỏng

pháp chế, ky cương; đấu tranh chưa mạnh mẽ, xử lý chưa nghiêm minh

những kẻ phạm tội; cịn có mặt hữu khuynh mất cảnh gidc ...” [29; 38 ]. Thực

trang đó có phần do hau quả của cơ chế cũ để lại, có phần do tính phức tạpcủa quan hệ thị trường, đặc biệt là đo trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn

<small>thiếu nhiều yếu tố của một thị trường đích thực, đầy đủ, chứa đựng nhiều yếutO tác động ngoài kinh tế. Nguyên nhân quan trong là do ta cịn có nhiều sơ</small>

hi trong chính sách, thể lệ kinh tế do hệ thống pháp luật kinh tế còn thiếu và

<small>chấp hành pháp luật đã được ban hành chưa nghiêm. Nhận định về vấn dé</small>Nay, văn kiện đại hội Đảng tồn quốc lần thứ 8 có nêu, chúng ta “ chưa giảiquyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềmNing, đồng thời chưa quan lý tốt thành phần kinh tế này”. [27; 65; 66]. Vì‘dy, Nhà nước phải coi trọng điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, đó là đặc

từng vốn có của sự quản lý nhà nước. Nhờ có pháp luật làm chuẩn mực cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

jw của các cơ quan nhà nước, các tô chúc kinh tế mà xác lập được kỷbel ug!

„mơ, trật ty trong kinh tế.

Vai trò quan trọng của pháp luật còn được thể hiện ở chỗ khi chúng ta

yc định nền kinh tế thị trường nước ta có định hướng xã hội chủ nghĩa , như

jv, VIỆC chuyển sang nên kinh tế thị trường không đơn thuần là một quá

<small>tJ.› :</small>

nh kinh tế, mà bao giờ cũng phải gắn liền với những thay đổi lớn, căn bản

'¿ xã hội, thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và tiến"xì xã hội. Vi vậy, pháp luật phải đóng vai trị đảm bảo tính hai mặt chủ yếucia q trình đó: Một mat, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của cơng dan,mắt khác, phải dam bao lợi ích của xã hội, bảo vệ người lao động, người tiêuJing, khơng thể để xẩy ra tình trạng làm kinh tế bằng bất cứ giá nào. Thiếuvai trò của pháp luật khơng thể có một nền thị trường văn minh. Nói đến thịuường là nói đến đa hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, đa thành phần

kinh tế, da lợi ích. Từ đó u cầu đặt ra là phải bảo đảm bình dang và cơng

hing. Việc bảo đảm bình dang và cơng bang trong khi điều hành nên kinh tế

bing pháp luật đó cũng là chức nang cua pháp luật.

Đối với những đối tượng quản lý hoạt động trong cơ chế thị trường,quyên tự đo kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh sẽ là hình thức nếu thiếusw quy định của pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng của các doanh nghiệp

<small>tỏi chung và doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn trước</small>

pháp luật nói riêng. Trong những hồn cảnh như nhau, mọi doanh nghiệp

<small>dược hưởng những khả năng, điều kiện và có lợi như nhau, phải ngang quyền</small>

<small>tong quan hệ với nhau, không có sự phân biệt đối xử nào. Trong điều kiện</small>

Kinh tế quốc đoanh vẫn giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế thì càng phải dé<small>“10 Vai trị của pháp luật trong việc bảo đảm sự bình đẳng, nếu không nền</small>

kinh tế nước ta rất dễ quay trở lại cơ chế cũ: tập trung quan liêu - bao cấp.

Một quy định của pháp luật khi ban hành phải được số đơng trong cộng đồng

“ng hộ, cho là đúng thì tính cơng bằng lại càng cao. Dé có một hé thống

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

náp luật đạt được yêu cầu đó, cần phải xây dựng một cơ chế xây dựng pháp<small>cit</small>

gạt thal SỰ dân chủ, đủ điều kiện để phản ánh sự đa dạng về lot ích, làm sao

pap lual ki

xhác nhau thực hiện được chức nang " chuẩn mực chung của đời sống kinh tế

nh tế phải thực sự là “ đại lượng bằng nhau ” cho những chủ thể

-Khái niệm Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư

nhàn và công ty trách nhiệm hữu hạn bao hàm những nội dung co bản như

Nhà nước là chủ thể quản lý, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm

hữu hạn là đối tượng quản lý và pháp luật là công cụ để Nhà nước thực hành

việc quản lý.

Với tư cách là chủ thể quản lý các doanh nghiệp tư nhân và công ty

trách nhiệm hữu han, Nhà nước định hướng cho các đoanh nghiệp phát triển

(neo hướng nhất định. Nhà nước tác động vào mọi hoạt động của doanhnghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu han thông qua cơ chế quan lý. Bởivày, nếu Nhà nước tác dong theo đúng quy luật, thì sẽ thúc day được doanhnghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển, bằng khơng thì

chính Nhà nước lại kìm hãm, hoặc triệt tiêu sự phát triển của các doanh

Trong cương lĩnh chính trị của Dang ta có nêu: ” La tổ chức thé hiện vathực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân đân, Nhà nước ta

phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra pháp luật và tổ chức, quản lý

mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật...” [26; 7].

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tu nhân vàcông ty trách nhiệm hữu hạn ở nước ta hiện nay có cơ sở khách quan của nó.

Chúng ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, thị

tường được mở rộng thì các mối quan hệ kinh tế cũng phát triển theo và trởnen hết sức phức tạp. Người sản xuất làm ra sản phẩm không phải để tiêu

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

dụng cho chính bản thân họ mà là để bán. Hình thức trao đổi hiện vật đã

“huts chỗ cho hình thức mua bán va do đó sản phẩm đã trở thành hàng hóa,amg đẳng sau nó là các chủ thể gặp nhau trên quan hệ lợi ích do hàng hóa

jo dem lại. Mục tiêu lợi nhuận của người kinh doanh được quyết định cả từtại phía - người sản xuất và người tiêu dùng, do đó quan hệ cung cầu chị

chối đằng sau nó có hàng loạt yếu tố tác động. Trong điều kiện đó, để địnhnướng sự Kinh doanh đúng dan và điều hòa hợp lý các quan hệ lợi ich , địi

hoi phải có cơ chế, chính sách và pháp luật. Ngồi ra cịn nảy sinh không it

hiện tượng các nhà kinh doanh thuộc tất cả các thành phần kinh tế - khơng

(ng gì các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ vì

muc đích lợi nhuận, vì lợi ích riêng của ban thân và của tap thể nhỏ mà gâyhại cho người khác và xã hội bằng những hành động dối trá, lừa đảo, phá

luại, vi phạm chính sách và pháp luật, bất chấp đạo lý và pháp luật. Thực tế

trong những năm qua đã có khơng ít những giám đốc doanh nghiệp tư nhân

<small>và công ly trách nhiệm hữu hạn phải ra tòa với các tội danh: lừa đảo, trốn</small>

thuế, lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sảncủa công dân. Trong điều kiện đó, pháp luật có tác dụng dé phịng và ngăn

<small>ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật và bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng ,</small>

bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của toàn xã hội.

Từ thực trạng quản lý kinh tế - xã hội trong thời điểm sôi động hiện<small>Nay, càng cho thấy mối quan hệ va tác động lẫn nhau giữa cơ chế chính sách</small>và pháp luật và yêu cầu khách quan phải tăng cường pháp luật. Sản xuất kinh<small>doanh là một hiện tượng khách quan, nhưng lại chịu sự tấc động manh mẽ</small>

cua cơ chế chính sách, có thể thúc đẩy, kìm hãm nếu chính sách đúng hay

<small>‘a. Khi có cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp thì hoạt động sản xuất kinh</small>doanh của các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ phat

triển với tốc độ tới hạn của chính nó và khi đó cần có sự quản lý của Nhà

<small>ước khơng phải để kìm hãm tốc độ phát triển, mà nhờ có cơ chế chính sách</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

q mo dúng dan, Nhà nước vừa kích thích su phát triển với tốc độ cao, vừa

<small>„an cấm và hạn chế tới mức thấp nhất những sai phạm gây tổn hại cho nền</small>

sa tế, cho xã hội. Muốn xây dung được những chính sách, pháp luật phù

nop cần phải phục tùng những điều kiện về kinh tế. Mác viết: " Trong thời

<small>tị nào Cũng thế chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế,</small>chứ không bao giờ-vưa, chúa lại ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được.

Chang qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dan sự chỉ là cái việc

nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế ” [17; 93].

Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân và

cong ty trách nhiệm hữu hạn là một hiện tượng phổ biến đối với các nước,

chứ không phải đặc thù của Việt Nam. Tuy nhiên ,về mức độ và yêu cầu

quản lý ở mỗi nước có khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển ở từng

nước, trước hết là sự phát triển của luật học, trình độ quản lý của Nhà nước

và trình độ dân trí. Đối với nước ta, trong những năm đầu chuyển từ cơ chếquan lý hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, sang cơ chế thị trường vaitrò của Nhà nước và pháp luật chưa thực sự được coi trong dung mức. Song

thực tiên của những năm đổi mới đã cho chúng ta một nhận thức rằng, muốn

dam bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân trước hết là về mặt kinh tế,

<small>thông qua sự quản lý của Nhà nước, tiến tới một nhà nước pháp quyền thì vaitrị của pháp luật và quản lý nhà nước bằng pháp luật lại càng trở nên quanlrọng và cấp bách. Pháp luật trước hết bảo vệ quyền làm chủ cho các doanh</small>

nghiệp tr nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn về kinh tế, chính trị, xã hội

Khơng phải bằng lời nói, bằng những hoạt động hình thức mà bằng cơ chế

chính sách, thể chế, bằng những quy định mang tính pháp lý bắt buộc đối với

<small>các doanh nghiệp. Trong quản lý kinh tế, pháp luật đảm bảo cho mọi công</small>dân thuộc mọi thành phần kinh tế được tự đo kinh doanh hợp pháp, mọi côngdân được bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo gắn quyền với trách nhiệm,

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

sajfa VU với lợi ích, dan chủ với ky cương, ngắn chặn và trừng trị những

jen tượng lầm an gian dối, phá hoại, vi phạm pháp luật, bất kể họ là ai.

Trong lĩnh vực quản lý kinh tế đối với doanh nghiệp tu nhân và công ty

rách nhiệm hữu hạn, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các doanh

aphiệp khi tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Pháp luật cũng

hao đảm cho sự hình thành và vận động của nền kinh tế hàng hóa nhiều

ihanh phần, định hướng xã hội chủ nghĩa bằng một hệ thống luật kinh tế nhưĐiều lệ xí nghiệp, Luật Cơng ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật giải thể và

phú sản doanh nghiệp, Luật về các cơ quan tài phán kinh tế, Bộ luật Dân sự...

Trong nền kinh tế hàng hóa, pháp luật cịn là công cụ bảo đảm cho hoạt động

kinh doanh, vận hành có trật tự trong một hành lang cho phép, đẫm bảo sử

dụng và khai thác mọi tiém nang của kinh tế có hiệu quả nhất. Pháp luật góp

phản ngăn cấm các hành vi lừa đảo, gian lận thương mại, do đó địi hỏi

những quy dịnh, pháp lý về tiêu chuẩn hàng hóa, đo lường, sáng chế phatminh, chuyển giao cơng nghệ, bảo vệ sở hữu công nghiệp, quy dinh về quan

lý khoa học và công nghệ, luật bảo vệ môi trường...

Như vậy, nói đến Nhà nước quản lý bằng pháp luật là nói đến cơ chế

pháp lý của quản lý. Đó là một q trình tác động mang tính quản lý của cáccơ quan nhà nước có thẩm quyền lên hoạt động của các đối tượng chịu sự

<small>quản lý với sự giúp đỡ của pháp luật, nhằm đạt được những kết quả có lợi cho</small>

Nhà nước, xã hội. Cơ chế đó, một mặt, tuân thủ các yêu cầu của các quy luật

kinh tế khách quan, mặt khác, phải có được một hệ thống pháp luật thích hợp

để quản lý nền kinh tế. Vì vậy, cơ chế quản lý của Nhà nước bằng pháp luật

đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn là khái niệm

dùng để chỉ phương thức mà bằng pháp luật Nhà nước tác động vào đốilượng để định hướng cho các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệmhữu hạn vận động đến mục tiêu mà Nhà nước đã định. Đối với các doanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

xahiệp, tren CƠ sở các quy định của pháp luật được tự do sản xuất, Kinh

doanh theo mục tiêu, phương hướng mà doanh nghiệp da định.

Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với:‘Tu tưởng chi dao của kế hoạch và chính sách kinh tế là giải phóng moi

ning lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước va

sự dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản

xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hệi chủ nghĩa ” [28;

47]. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có tính đa dạng, phong phú,

nhiều hình, nhiều vẻ, chứa đựng cả mặt tích cực và tiêu cực, có nhiều mâuthudn về lợi ích, nên địi hỏi phải nâng cao vai trị quản lý của Nhà nước bangpháp luật. Đó là các hoạt động với những hình thức kiểm tra, kiểm sốt, tạo

môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, đồng thời thiết lập một hànhlung pháp lý cho phép và điều tiết các quan hệ, bảo dam su kết hợp đúng dan

các lợi ích kinh tế.

1.3. Nội dung Nhà nuéc quản lý bàng pháp luật doi voi doanh

<small>nghiệp tu nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn</small>

Do khác nhau về quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, cho nên quản lý

<small>nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân và cơng ty tráchnhiệm hữu hạn, có những điểm khác so với quản lý các loại hình doanh</small>

nghiệp khác. Những nội dung chủ yếu về Nhà nước quản lý bằng pháp luật

đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn là:

1.3.1. Nhà nước ban hành pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận lợi

dé khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân, cơng ty trách nhiệm hữu han

Phát triển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Mục dich chủ yếu của các nhà kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận, dovậy tùy theo kha năng về vốn, kinh nghiệm quan lý, thị trường tiêu thụ... mà `

nhà kinh doanh quyết định quy mô đầu tư. Nhưng dà là quy mô lớn hay quy

mo nhỏ điều quan trọng là Nhà nước cần phải có những quy định của pháp

luật như thế nào để các nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Nhà nướcthơng nên có những quy định chung cho tất cả các vùng, miền trong cả nước,

hoặc các ngành, nghề sản xuất, kinh doanh như nhau. Mọi vùng, miền hoặc

ngành, nghề đều có những đặc điểm riêng, vì vậy chính sách pháp luật sẽ là

dong lực để các nhà kinh doanh đầu tư vào các ving, miền có các điều kiện

tự nhiên, kinh tế, xã hội không thuận lợi. Những quy định của pháp luật cũng

khuyến khích các doanh nhân mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất đểtạo ra nhiều hàng hóa cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho đội quân

lao động dang dư thừa hiện nay.

Những quy định của pháp luật khơng chỉ khuyến khích các doanh

nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh mà còn phải thể hiện rõ để các nhà kinh

doanh biết được ngành nghề nào thì được làm và ngành nghề nào không đượclàm. Những lĩnh vực mà Nhà nước thường xuyên chú ý đến, trong quản lýhoạt dộng của các doanh nghiệp đó là các quy định về thuế, vay vốn, nhà đấtđể xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, sản xuất hàng xuất khẩu ... Mat khác,Nhà nước cần tạo những cơ sở pháp lý quan trọng để cho các doanh nghiệp<small>hoạt động. Đó là:</small>

Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, quy định cho các doanhnghiệp được tự do kinh doanh, tự do giao lưu kinh tế. Có thể nói đây còn lànguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất của một nền kinh tế thị trường, theo đó

các doanh nghiệp được quyền chủ động hồn tồn trong q trình giao lưu

kinh tế, tự do ký kết hợp đồng, tự do tuyển dụng lao động... nhưng phải trong

khuôn khổ của pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Tự do kinh doanh cần được hiểu là bất cứ một cơng dân nào khi đã cóJa điều kiện do pháp luật quy định, nếu có nhu cầu đều được Nhà nước cho<small>phép thành lập doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Không</small>một cơ quan tổ chức hay cá nhân có quyền ngăn cản hoặc hạn chế quyền tựdo thành lập doanh nghiệp của họ. Khi đã có đủ các điều kiện để thành lậpdoanh nghiệp, quyền lựa chọn ngành nghề và quy mơ kính doanh lớn, nhỏ là

do doanh nghiệp tự quyết định, Nhà nước không buộc doanh nghiệp kinh

doanh trái với ý muốn của họ. Tất nhiên cơng dân có quyền tự do kinh

doanh, nhưng khơng có nghĩa là kinh doanh vơ chính phủ, vơ tổ chức mà

phải kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, trong sự tôn trọng quyền tự

do kinh doanh của người khác. Dé dam bảo lợi ích của doanh nghiệp và của

xđ hội cịn phải lưu ý đến các điều kiện về vốn, về trình độ chuyên môn củangười quản lý doanh nghiệp, về các ngành nghề mà pháp luật cấm kinh

doanh, về bảo vệ môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa danh lam thang

cảnh và trật tự an toàn xã hội.

Bằng các quy định của pháp luật Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền

sở hữu hợp pháp của các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữuhạn. Vấn đề sở hữu tài sản là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi nhà kinh

doanh. Nhà kinh doanh không thể yên tâm bỏ vốn vào đầu tư nếu không có

một sự đảm bao vững chắc bang pháp luật về quyền sở hữu của họ. Các chủ

<small>doanh nghiệp lo sợ Khơng phải khơng có căn cứ, vì đã có thời kỳ Nhà nước ta</small>khơng khuyến khích sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất. Để giải quyết

vấn đề này, trước hết Nhà nước phải tin vào dân, thì dân mdi tin vào Nhà

nước. Nhà nước thật sự tin dân ta có của, có tài và có cả cái tâm nữa để làm

cho dân giầu, nước mạnh. Nhà nước cần chứng tỏ trong cách nghĩ và điềuhành sao cho dân tin vào Nhà nước, bởi vì trong thực tế cuộc sống dân chưa

hồn tồn n tâm về chính sách lâu dài cho kinh tế tư nhân phát triển, đó là

những suy tư có thực của đân. Hậu quả của việc cải tạo và kiểm tra hành

</div>

×