Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận Văn Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Người Chưa Thành Niên Gây Ra.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.79 MB, 103 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT • • •</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

<i>Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bổ trong bất kỳ công trĩnh nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cá các nghĩa vụ tài chỉnh theo quy định của Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.</i>

<i>Vậy tôi viêt Lời cam đoan này đê nghị Đại học Luật xem xét</i>

<i>đê tơi có thê bảo vệ Luận văn.</i>

<i>Tơi xin chân thành cảm cm!</i>

Người cam đoan

<b>Bùi Hùng Cường</b>

<b><small>1</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Chương 2 THỤC TRẠNG PHÁP LUẬT VÈ TRÁCH NHIỆM BỒI </b>

<b>THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN GÂY RA.. 33</b>

2.1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra...33

2.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra... 33

2.1.2. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra...42

2.1.3. Xác định thiệt hại phải bồi thường...52

2.1.4. Quy định pháp luật về các trường hợp loại trừ trách nhiệm... 57

2.2. Đánh giá quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra...61

2.2.1. Những ưu điểm đã đạt được... 61

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra... 67

3.1.1. Những khó khăn, bất cập trong q trình thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra... 673.1.2. Nguyên nhân của những khó khăn, bất cập trong q trình thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

<small>iv</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

3.2. Kiên nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra 743.2.1. Kiên nghị hoàn thiện pháp luật vê trách nhiệm bôi thường thiệt hại do

người chưa thành niên gây ra... 74

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra...86

<b>KÉT LUẬN CHƯƠNG 3...89</b>

<b>KÉT LUẬN... 90</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...</b> 93

<b><small>V</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Tính câp thỉêt đê tài nghiên cún</b>

Trong những năm gần đây tại Việt Nam, đã có nhiều tiến bộ đáng kể trong việc bảo vệ quyền của trẻ em, đặc biệt là những người chưa đủ tuổi. Việc phát triển con người, đặc biệt là thế hệ trẻ - những nguồn lực quan trọng cho tương lai quốc gia, luôn được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển. Trong việc này, một điểm quan trọng trong pháp luật dân sự là quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều này nhằm xác định trách nhiệm về mặt dân sự khi có thiệt hại xảy ra mà khơng có sự thỏa thuận trước hoặc <i><sub>> </sub><sub>• </sub><sub>• </sub><sub>• </sub><sub>J </sub><sub>• </sub><sub>• </sub><sub>•</sub></i>thỏa thuận đó khơng liên quan đến hậu quả thiệt hại. Bồi thường thiệt hại gây ra cho người khác là một phần quan trọng trong xã hội. Điều này cũng áp dụng trong trường hợp người chưa đủ tuổi gây ra thiệt hại cho người khác. Do đó, pháp luật dân sự Việt Nam đã đưa ra các quy định cụ thể nhằm xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra một cách khách quan nhất [23],

Dành tình yêu thương và quan tâm đối với tuồi vị thành niên, Nhà nước đã khuyến khích nỗ lực để hồn thiện hệ thống pháp luật bào vệ quyền của họ. Pháp luật Việt Nam đã mạnh mẽ khẳng định trách nhiệm của tuổi vị thành niên khi tham gia vào các quy định pháp luật cụ thể, đặc biệt chú trọng đến những trường hợp gây ra hậu quả cho người khác. Từ đó, mục tiêu của Đảng và Nhà nước là gìn giữ và chăm sóc cho tương lai của tuổi vị thành niên. Nhằm đảm bảo sự thực hiện hiệu quả, việc bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với tuổi vị thành niên trong các quy định pháp luật đã nhấn mạnh vào việc giúp đỡ và giáo dục để các em nhận ra những sai lầm và sửa chữa chúng. Những nỗ lực này cung cấp cơ hội tái hòa nhập vào cuộc sống của tuối vị thành niên. Đồng thời, cũng quy định rõ trách nhiệm của cha mẹ và người

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

giám hộ trong việc giáo dục và chăm sóc con em. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các cơ quan pháp luật vẫn gặp khó khăn và vướng mắc do sự đa dạng trong cách hiểu quy định, dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất và gây bất bình trong quá trình giải quyết. Điều này thực tế là một thách thức do chưa có hướng dẫn cụ thể, khiến các cơ quan thực thi pháp luật và bảo vệ quyền lợi gặp khó khăn trong việc giải quyết các vụ liên quan đến tuổi vị thành niên [31J.

Vì nhũng lý do đó, việc nghiên cứu " Trách nhiệm <i><b>bồi thường thiệt hại do ngưòi chưa thành niên gây ra " có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực </b></i>

tiễn sâu sắc.

<b>2. Tình hình nghiên cứu của đề tài</b>

Q trình nghiên cứu đề tài này đã có một số đề tài, một số nghiên cửu có liên quan, cụ thể như sau

- Luận văn thạc sĩ Phạm Kim Anh về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2009[10].

- Luật văn Nguyễn Quỳnh Anh về đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra theo Bộ luật Dân sự 2005” bảo vệ tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2011 [14].

- Gần đây hơn có các tạp chí liên quan đến đề tài như “Bàn về cãn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015”của Trịnh Tuấn Anh đăng trên tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 19/2016, tr 34-39[15]; Quy định về “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015” của tác giả Nguyền Thị Hiên, đăng trên trang điện tử Liên hiệp các hội khoa học và ký thuật Tuyên Quang[15] ; “Bàn về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Bộ luật dân sự 2015” của Nguyễn Văn Dũng đăng trên trang điện tử Tòa án nhân dân tình Quảng Nam[16] ,...Điểm chung của các cơng trình này chỉ nghiên cứu chuyên sâu về phần chung trong trách nhiệm

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng mà chưa đi sâu vào nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra .

- Sách chuyên khảo “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS Đỗ Văn Đại - Nhà xuất bản Hồng Đức 2016 [17]; Sách

chuyên khảo “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng” của PGS.TS Phùng Trung Tập - Nhà xuất bản Công an Nhân dân 2017 [18],

Mặc dù không phải là đề tài mới tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện thủ tục giải quyết quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra ở Việt Nam hiện nay.

<b>3. Mục tiêu nghiên cún</b>

<i><b>3.1. Mục tiêu tổng quát</b></i>

Đe tài tiến hành nghiên cứu cơ sở lý luận, trên cơ sở đó tiến hành phân tích và đánh giá tình hình thực tế về vấn đề trách nhiệm bồi thường do người chưa thành niên gây ra theo quy định hiện hành. Trên cơ sở lý luận thì quá trình áp dụng đã kết quả như thế nào? Những khó khăn, vướng mắc để đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cho quá trình áp dụng. Tác giả quyết tâm đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường từ phía người chưa thành niên.

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

hậu quả liên quan đên trách nhiệm của người chưa thành niên trong các trường hợp vi phạm.

Đe xuất giải pháp nâng cao vai trò giải quyết quy định: Nghiên cứu cần đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những giải pháp này nên đi sâu vào khả năng hiện thực và khả thi, hướng đến tối ưu hóa quy trình và cơ chế pháp lý, tăng cường tính cơng bằng và hiệu quả của việc giải quyết trường hợp này.

Việc hệ thống hóa vấn đề lý luận và đề xuất các giải pháp tối ưu là cách tiếp cận cần thiết để nghiên cứu đề tài mang lại những đóng góp tích cực và ý nghĩa trong việc cải thiện quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra tại Việt Nam.

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>

Đề tài tập trung nghiên cứu một số khái niệm liên quan đến người chưa thành niên, đồng thời tập trung vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, như được quy định trong Bộ luật Dân sự hiện hành của Việt Nam. Nghiên cứu sẽ xem xét kỹ lưỡng những quy định pháp luật về việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đê hiêu rõ hơn vê quá trình giải quyêt các vụ việc liên quan.

<b>5. Tính mới và những đóng góp cửa đề tài</b>

Kết quả nghiên cứu của đề tài mang ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và

<small>4</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thực tiễn, mở ra một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về việc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, đồng thời đáp ứng yêu cầu trong quá trình cải cách tư pháp cùa đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Thành quả của nghiên cứu và các kết quả đạt được trong luận văn làm sáng tở cả về khía cạnh lý luận lẫn thực tiễn, hệ thống hóa các vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, đúng theo quy định của pháp luật và những chính

Thành quả của nghiên cứu và các kết quả đạt được trong luận văn làm sáng tở cả về khía cạnh lý luận lẫn thực tiễn, hệ thống hóa các vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, đúng theo quy định của pháp luật và những chính

sách của Đảng và Nhà nước.

<b>7. Kết cấu của đề tài</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì phần nội dung gồm 03 chương, cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

<small>5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra và một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện

<small>6</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên</i>

Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được hiểu là: “Người chưa<i> thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thế lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ cơng dân” [44].</i>

Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 thì “Trẻ<i> em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn ”[45].</i>

Trước hết xét dưới góc độ ngôn ngừ học: Thuật ngừ “người chưa thành niên” sẽ được hiểu là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đù quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân[49]. Tuy nhiên, trong các quy định của pháp luật của mồi quốc gia thì có sự quy định khác nhau về vấn đề này. Theo quy định Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận như sau: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới

18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”[45]. “Như vậy, pháp luật quốc tể ghi nhận định nghĩa không dựa vào đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát triển thể chất... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua độ tuổi. Kể cả khái niệm trẻ em và khái niệm

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

người chưa thành niên đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra khả năng mở để cho các quốc gia tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội, văn hố, truyền thống cùa mình có thể quy định độ tuổi khác” [47],

Người chưa đủ tuổi được phân thành một loạt độ tuổi khác nhau, trong đó nhóm người dưới 6 tuổi hồn tồn khơng có khả năng thực hiện hành vi dân sự. Nhóm từ 6 đến chưa đủ 18 tuổi có khả năng hành vi dân sự nhưng bị hạn chế. Người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và một phần thanh niên theo phân loại đối tượng. Dựa theo Bộ Luật Dân sự, người chưa thành niên (còn được gọi là vị thành niên) là những người dưới 18 tuổi.

Theo Điều 586 Khoản 2 và Khoản 3 của Bộ Luật Dân sự (BLDS) năm 2015, "Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà có cha, mẹ thì cha, mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà người chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì sẽ sử dụng tài sản đó để bồi thường phần thiếu". Quy định này áp dụng trong trường hợp người gây thiệt hại khơng có khả năng bồi thường và vẫn còn dưới sự giám sát, quản lý của cha mẹ. Mục đích của quy định này khơng phải là để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên đổi với phần thiếu, mà là để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại và đồng thời tuân thủ nguyên tắc bồi thường kịp thời [5],

Xét dưới góc độ nghiên cứu thì NCTN chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, tức là chưa được phép tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Trên thực tế thì xuất phát từ nguyên nhân NCTN chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ nên việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của họ phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ trường hợp đặc biệt như giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lửa tuổi hoặc có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định được phép |6|.

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>ỉ. 7. 7.2. Khái niệm trách nhiệm bôi thường thiệt hại do người chưa thành niên </i>

<i>gây ra</i>

Trách nhiệm pháp lý nói chung và TNBTTH ngồi hợp đồng nói riêng chỉ phát sinh dựa trên các quy định của pháp luật, BLDS năm 2015 đưa ra khái niệm chung về TNBTTHNHĐ nói chung: “Người nào có <i>hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ, danh dự nhân phẩm uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gãy thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”[3]. Như vậy, </i>

theo quy định này, TNBTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi (1) Có thiệt hại xảy ra đây là nhũng thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phấm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác; (2) Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; (3) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra[6].

Trong lĩnh vực pháp luật dân sự, nguyên tắc cơ bản là khi một chủ thể pháp luật thực hiện hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thế khác, sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) gây ra cho người bị hại. Tuy nhiên, nếu người thực hiện hành vi này khơng có khả năng nhận thức đầy đù về hành vi xâm hại của mình, họ khơng phải chịu trách nhiệm BTTH. Khả năng nhận thức về hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, theo thuật ngừ pháp lý, được gọi là "Năng lực chịu trách nhiệm BTTH". Do đó, "năng lực chịu trách nhiệm" là điều kiện quan trọng đế xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.Thường, nghĩa vụ chứng minh năng lực chịu trách nhiệm sẽ thuộc về bị đơn. Điều này có nghĩa là, khi bị đơn chứng minh rằng họ khơng có năng lực chịu trách nhiệm, thì khơng thể coi đó là vi phạm trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với bị đơn. Dù có đủ điều kiện để xác định trách nhiệm BTTH như hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, sự thiệt hại, lỗi và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại, nhưng thiếu vắng năng lực chịu trách nhiệm có thể làm mất đi sự

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

câu thành của trách nhiệm BTTH.

Thực tế, trẻ em và thanh niên dưới độ tuổi pháp luật không thể chịu trách nhiệm hình sự cho các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, điều này khơng

có nghĩa là họ không chịu trách nhiệm về các hành vi của mình khi gây ra tổn thất hoặc thiệt hại đối với người khác hoặc tài sản của người khác. Điều này đặc biệt đúng trong trường họp người chưa thành niên gây ra thiệt hại về tài sản hoặc danh dự của người khác, hoặc gây ra thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của người khác [6],

Để giải quyết vấn đề này, khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã được ra đời. Theo đó, trách nhiệm này được áp dụng đối với những trường hợp khi người chưa thành niên gây ra thiệt hại đối với quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thế khác [8]. Từ đó, ta có thế định

nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra (TNBTTH) như sau:

<i><b>TNBTTH do người chưa thành niên gây ra là hậu quả pháp lý bat lợi mà chủ thể có năng lực bồi thường phải bù đắp tổn thất do người chưa thành niên xâm phạm đến những quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thế khác gây ra.</b></i>

Các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã thiết lập một cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp liên quan. Khi người chưa thành niên gây ra thiệt hại, các quy định này xác định rõ trách nhiệm của cha mẹ (nếu còn), người giám hộ, và người quản lý họp pháp của người chưa thành niên, coi họ là có lồi và chịu trách nhiệm bồi thường. Nhờ quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, quyền lợi của người bị thiệt hại được đảm bảo. Trách nhiệm này cũng giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của cha mẹ, gia đình, và người có trách nhiệm quăn lý, cũng như ý thức trách nhiệm của cà xã hội

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

và nhà nước trong việc chăm sóc, giáo dục và quản lý người chưa thành niên - những thế hệ trẻ được coi là chủ nhân tương lai của đất nước.

<i><b>1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thưòng thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b></i>

<i>1.1.2. Ị. Đặc điêm chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài họp đồng</i>

Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra là một loại trách nhiệm pháp lý, cụ thể là trách nhiệm dân sự. Do đó, TNBTTH do người chưa thành niên gây ra mang đầy đủ các đặc trưng của trách nhiệm pháp lý nói chung, cụ thể:

<i>Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là loại hậu quả pháp lý bấtlợi</i>

Hậu quả pháp lý bất lợi này sẽ phải dongười gây thiệt hại hoặc người có trách nhiệm bồi thường gánh chịu. Chủ thề gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi này phải bù đắp những tồn thất mà người bị thiệt hại đã phải chịu đựng. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn đem lại hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại nói chung. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là góp phần tạo nên một xã hội cơng bằng và vàn minh [7].

Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng khi có sự xảy rathiệt hại. Thiệt hại có thể gây ra về tài sản hoặc tính mạng và sức khỏe của người khác. Ví dụ, khi một người lái xe vi phạm luật giao thông và gây ra tai nạn, gây thiệt hại cho người khác hoặc tài sản của họ, người lái xe sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của mình gây ra. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khi một chủ thể gây ra thiệt hại mà không vi phạm pháp luật. Trong những trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khơng được áp dụng. Do đó, việc xác định sự vi phạm pháp luật là vô cùng quan trọng để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu khơng có sự vi phạm pháp luật, thì khơng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại,

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

và người bị thiệt hại phải tự chịu trách nhiệm cho thiệt hại của mình[12].

Thứ ba, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khơng áp dụng trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng xảy ra. Điều này đồng nghĩa rằng nếu sự kiện khơng thể dự đốn hoặc kiểm sốt, chủ thể khơng bị buộc phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nguyên tắc quan trọng trong pháp luật để đảm bào công bàng và bảo vệ quyền lợi của các bên trong giao dịch. Tuy nhiên, có những trường hợp khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được áp dụng do có sự kiện bất khả kháng xảy ra. Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện ngồi tầm kiểm sốt của con người, khơng thể dự đốn hoặc ngăn chặn. Ví dụ như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hỏa hoạn hoặc các tình huống khẩn cấp và bất ngờ khác. Trong những trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được áp dụng do khơng có sự vi phạm pháp luật từ bất kỳ bên nào. Tuy nhiên, việc xác định sự kiện bất khả kháng là một vấn đề phức tạp và đòi hỏi sự đánh giá ti mỉ và cân nhắc kỳ lưỡng từ phía các bên liên quan. Trong một số trường hợp, các bên có thể đàm phán và thởa thuận để chia sẻ trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra. Việc này đòi hỏi sự chấp nhận và đồng thuận từ cả hai bên để giải quyết vấn đề một cách hợp lý và công bằng." [8]

Thứ tư, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có tính chất khách quan. Nó không phụ thuộc vào nguyên nhân hay động cơ của chủ thể, mà chỉ phụ thuộc vào việc thiệt hại đã xảy ra hay chưa. Điều này là một trong những đặc điểm quan trọng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nó đồng nghĩa với việc trách nhiệm này không phụ thuộc vào cảm xúc hay quan điềm của các bên liên quan, mà chỉ phụ thuộc vào việc có hay khơng có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại. Điều này giúp đảm bảo tính cơng bằng và minh bạch trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Người bị thiệt hại có thể đưa ra bằng chứng về việc chủ thể khác đã gây thiệt

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

hại cho họ, và các bên liên quan có thể tham gia vào q trình giải quyết tranh chấp để tìm ra giải pháp tốt nhất cho mọi người. Tuy nhiên, việc đánh giá và xác định mức độ thiệt hại thực tế có thể là một quá trình phức tạp và khó khăn. Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ thiệt hại, bao gồm tài sản bị mất, sức khỏe bị tốn thương và các hậu quả tinh thần và xã hội. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, sự đánh giá và xác định mức độ thiệt hại có thể cần

sự hồ trợ từ các chuyên gia và các bên liên quan khác." [9]

Thứ năm, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có tính chất phụ trách. Điều này đồng nghĩa với việc chủ thể phải chịu trách nhiệm đối với mức độ thiệt hại gây ra bởi hành vi của mình. Người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm không chỉ về mặt pháp lý mà còn về mặt đạo đức, tâm lý và trách nhiệm xã hội. Họ phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cũng như có trách nhiệm hành động phù hợp với điều đó. Ngồi ra, tính chất phụ trách của trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn đòi hỏi người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả các hậu quả của hành vi của mình. Họ khơng thề chỉ chịu trách nhiệm cho những thiệt hại trực tiếp gây ra mà còn phài chịu trách nhiệm cho tất cả những hậu quả phát sinh từ hành vi của mình. Điều này bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp và những hậu quả pháp lý có thể gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có tính chất phụ trách cũng đòi hỏi người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm trọn vẹn về số tiền bồi thường và thời gian bồi thường. Họ không thể trốn tránh trách nhiệm của mình bằng cách chậm trễ hoặc từ chối bồi thường thiệt hại. Nếu họ không đáp ứng đầy đủ trách nhiệm của mình, thì họ sẽ bị xem là vi phạm pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật."[l 1]

Thứ sáu, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có tính chất đồng thời. Điều này có nghĩa là chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh từ hành vi của mình, khơng chi một phần mà là tất cả. Tính chất

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

đồng thời của trách nhiệm bồi thường thiệt hại có nghĩa là người gây ra thiệt hại phải đền bù cho người bị thiệt hại một cách đồng thời, tức là phải bồi thường đầy đủ và đúng thời hạn. Nếu không đáp ứng được yêu cầu này, người gây ra thiệt hại sẽ chịu trách nhiệm về những hậu quả pháp lý bất lợi, bao gồm cả sự kiện bị kiện tụng, phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Trong một số trường hợp, việc xác định thời hạn bồi thường thiệt hại có thế khá phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như độ nghiêm trọng của thiệt hại, khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại, thỏa thuận giữa các bên liên quan và luật pháp quy định. Tuy nhiên, tính chất đồng thời của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ trong các quan hệ xã hội và pháp luật."[12]

<i>1.1.2.2. Đặc điểm riêng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</i>

<i>Thứ nhất, chù thề chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thường không phải là người trực tiếp gây thiệt hại</i>

Chủ thể thực hiện hành vi gây thiệt hại là người chưa thành niên: Chủ thể gây thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra là người chưa thành niên. Người chưa thành niên là người chưa có đầy đủ khá năng nhận thức, và làm chủ hành vi, chưa có đủ kinh nghiệm để có thể điều tiết được cảm xúc và thông thường những người này cũng chưa có đủ các điều kiện kinh tế để gánh chịu hậu quả. Do vậy thực tế cho thấy chủ thế này thường khơng có đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Theo quy định pháp luật thông thường, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người trực tiếp thực hiện hành vi gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, khi thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được xác định cho một chù thể khác (không phải là người chưa thành niên trực tiếp gây thiệt

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

hại). Luật pháp quy định răng trong trường họp người chưa thành niên vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại cho chủ thể khác, có thế phân thành hai trường hợp khác nhau [11]. (i) Người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới

18 tuổi trường hợp này người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn là người chưa thành niên trực tiếp gây thiệt hại, trừ trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại do lồi của trường học, bệnh viện hoặc tồ chức khác có lồi quản lý để người chưa thành niên gây thiệt hại; (ii) Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại. Trong trường họp này pháp luật quy định người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là cha, mẹ, người giám hộ, trường hợp, bệnh viện hoặc tổ chức có trách nhiệm quản lý, chăm sóc người chưa thành niên nhưng có lỗi để người chưa thành niên gây thiệt hại cho chù thể

<i>Thứ hai, về các loại thiệt hại được bồi thường</i>

Trong trách nhiệm bồi thường, thường hiểu thiệt hại là các tổn thất về tài sản phát sinh do hành vi vi phạm pháp luật của một chủ thế khác. Tuy nhiên, đối với trường hợp thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, không nhất thiết phải bao gồm những tổn thất về danh dự và nhân phẩm mà chủ thể khác phải chịu. Có thể hiểu rõ hơn rằng trong trách nhiệm bồi thường, người chưa thành niên thường không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất về danh dự và nhân phẩm của người khác do hành vi vi phạm pháp luật. Đặc biệt, đối với trẻ em dưới 6 tuồi, họ thường khơng có khả năng nhận thức và kiếm sốt hành vi của mình, và do đó, khơng chịu trách nhiệm về các hậu quả vơ tình mà họ gây ra. Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm bồi thường vẫn phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thế, và luật pháp có thể điều chỉnh việc áp dụng trách nhiệm bồi thường đối với trẻ em theo quy định của pháp luật.

<i>Thứ ba, về nguồn tài sán dùng đê bồi thường</i>

Trong các trường họp thông thường, người chịu trách nhiệm bồi thường

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

thiệt hại chỉ có thể dùng tài sản thuộc sở hữu của mình đế khắc phục, bù đắp những tồn thất mà chủ thể khác phải gánh chịu do hành vi trái pháp luật của chủ thể này gây ra. Tuy nhiên, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, tài sản dùng để bồi thường có thể là tài sản của người chịu trách nhiệm bồi thường, có thể là tài săn của người chưa thành niên. Mục đích của việc xác định trách nhiệm bồi thường là nhằm bù đắp tốn thất cho người bị thiệt hại, thực tế người gây thiệt hại là người chưa có đủ khả năng kinh tể, sống lệ thuộc và chịu sự giám sát, quàn lý của cha mẹ, người giám hộ. Việc đế người chưa thành niên gây thiệt hại thông thường do sự lơ là quản lý, chăm sóc, giáo dục kịp thời của cha mẹ, người giám hộ...Vì vậy, bằng những lý do nói trên, nguồn tài sản dùng để bù đắp thiệt hại có thể lấy từ chính tài sản của người thực hiện hành vi gây thiệt hại hoặc cũng có thế được lấy từ tài sản của những chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.

<i><b>1.1.3. Phân loại trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b></i>

<i>Thứ nhất, căn cứ vào loại thiệt hại được bồi thường, trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gãy ra được phân thành:</i>

<i>Một là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chat</i>

Bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm đền bù những tổn thất vật chất thực tế, được tính bằng giá trị tiền mà bên vi phạm gây ra, bao gồm tài sản bị thiệt hại, các chi phí hợp lý để ngăn chặn, giám thiểu và khắc phục hậu quả, cũng như thu nhập thực tế đã mất hoặc giảm sút. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là một khái niệm pháp lý quan trọng trong việc đảm báo tính cơng bằng và tơn trọng quyền lợi của mồi cá nhân. Nó bao gồm việc chịu trách nhiệm và bồi thường những tổn thất về tài sản, thiết bị, phương tiện vận chuyển hoặc các tài sản khác của người khác bị phá hoại hoặc mất mát do hành vi của mình[13].

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Trong pháp luật, trách nhiệm bôi thường thiệt hại vê vật chât thường được xác định bởi nguyên tấc "ai gây thiệt hại thì ai chịu trách nhiệm bồi thường". Điều này có nghĩa là người gây ra sự cố sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất về vật chất mà họ đã gây ra[ 14].

Tuy nhiên, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất cũng phải được xem xét một số yếu tố khác, chẳng hạn như tính cẩn trọng của người gây hại và mức độ tổn thất gây ra. Neu người gây hại không thể trực tiếp bồi thường tồn bộ thiệt hại, thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho phần thiệt hại mà họ có khả năng chi trả. Một trong những mục đích chính của trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là khôi phục cho người bị thiệt hại một khoản tiền hoặc giá trị tương đương với thiệt hại mà họ đã phải chịu. Việc này giúp đảm bảo tính cơng bằng và giúp người bị thiệt hại có thể khơi phục lại tài sản của mình hoặc sửa chữa các thiết bị hoặc phương tiện vận chuyển bị hư hỏng. Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất cũng có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo tính kinh tế của xã hội.

<i>Hai là, trách nhiệm hồi thường thiệt hại về tinh thần</i>

Bồi thường tốn thất tinh thần là việc đền bù thiệt hại phát sinh ngoài khung hợp đồng, do việc vi phạm đến thể diện cá nhân bao gồm tính mạng, sức khỏe, danh dự, phẩm chất, uy tín. Điều này cụ thể hóa trách nhiệm bồi thường khơng phát sinh từ mối quan hệ hợp đồng. Người nào thực hiện hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản và quyền lợi hợp pháp của người khác, dẫn đến sự thiệt hại, đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mọi trường họp khi danh dự, nhân phẩm, và uy tín bị xâm phạm, người bị xâm phạm sẽ được bồi thường một khoản tiền để đền bù tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phụ thuộc vào: Hình thức xâm phạm (có thể là lời nói, bài viết trên báo, mạng xã hội, v.v...) Hành vi xâm phạm và mức độ lan truyền thông tin xúc phạm...

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Y nghĩa phân loại: Người gánh chịu chịu trách nhiệm bôi thường trong trường hợp sức khỏe, tính mạng, danh dự và phẩm chất cá nhân của người khác bị vi phạm phải tiến hành bồi thường theo quy định và ngoài việc đền bù số tiền tương ứng, họ cịn phải thanh tốn một khoản tiền bồi thường để đền đáp các tổn thất tinh thần mà người bị vi phạm đã phải chịu đựng. Mức bồi thường để bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ được thống nhất qua sự thỏa thuận giữa các bên; trong trường họp khơng có sự thỏa thuận, mức tối đa dành cho việc bồi thường thiệt hại tinh thần của một người bị xâm phạm không vượt quá năm mươi lần mức lương cơ sở theo quy định của Nhà nước[12].

<i>Thứ hai, căn cứ vào nguyên nhân gây thiệt hại, trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gầy ra được phân loại thành</i>

Một là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người chưa thành niên gây thiệt hại

Đây là trường hợp bằng hành vi có ý chí của mình, người chưa thành niên thực hiện hành vi gây thiệt hại cho chủ thế khác. Dù cho ý chí cịn chưa chín chắn, trưởng thảnh nhưng phần nào đó người chưa thành niên cũng đã nhận thức được, thực hiện hành vi gây ra tồn hại cho chủ thể khác. Việc xác định chữ thể chịu trách nhiệm BTTH được xác định theo năng lực chịu trách nhiệm BTTH.

Hai là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của người chưa thành niên gây thiệt hại

Đây là trường hợp tài sản thuộc sở hữu của người chưa thành niên gây thiệt hại. Theo nguyên lý của học thuyết cân bằng lợi ích, người được hưởng lợi từ tài sản phải chịu trách nhiệm, rủi ro, hậu quả bất lợi do tài sản gây ra. Tuy nhiên, người chưa thành niên có những trường hợp chưa đủ năng lực để tự mình thực hiện trách nhiệm BTTH mà phải thông qua hành vi của người đại diện. Vì vậy, khi định danh chủ thể chịu trách nhiệm BTTH người chưa

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

thành niên là chủ thê chịu trách nhiệm BTTH nhưng thực hiện trách nhiệm thông qua hành vi cúa chủ thể khác.

Ý nghĩa của việc phân loại: Định danh chính xác chủ thể chịu trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra và tài sản của người chưa thành niên gây ra đảm bảo lợi ích của người đại diện, giám hộ.. .được xem xét đến.

<i>Thứ ba, căn cứ vào chủ thê chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</i>

Một là, người chưa thành niên thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Đây là những trường họp người chưa thành niên nhưng đã đến ngưỡng độ tuối có khả năng nhận thức làm chủ hành vi, có nguồn tài chính theo quy định của pháp luật được tự mình mang vào giao dịch, tham gia các quan hệ pháp luật dân sự trong đó có trách nhiệm BTTH do mình gây ra. Ví dụ: Trường hợp từ người chưa thành niên đủ 15 tuổi đến 18 tuổi gây thiệt hại.

Hai là, chủ thế khác không phải người chưa thành niên thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Đây là trường họp bản thân người chưa thành niên thực hiện hành vi gây thiệt hại nhưng chưa có năng lực chịu trác nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm BTTH phải do người có trách nhiệm quản lý, chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên gánh chịu. Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm được thực hiện tuỳ trường hợp cụ thể trên thực tế nhưng tiêu chí xác định là chủ thể đang trực tiếp quản lý người chưa thành niên tại thời điểm và địa điểm mà người này thực hiện hành vi gây thiệt hại. Trừ trường hợp chủ the trực tiếp quản lý chứng minh được mình thuộc căn cứ loại trừ trách nhiệm BTTH hoặc không đủ các yếu tố, điều kiện cấu thành trách nhiệm BTTH cho mình.

Ý nghĩa của việc phân loại: Xác định chính xác chủ thể chịu trách nhiệm, định danh chính xác đưoug sự trong các vụ án về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

do người chưa thành niên gây ra. Đông thời, định danh được nguôn tài sản được dùng để thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.

<b>1.2. Khái quát pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b>

<i><b>1.2.1. Khái niệm, đặc điếm của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b></i>

“Xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, cùng với xu hướng tồn cầu hóa, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động hồn thiện các quy định trong các lĩnh vực nói chung, đặc biệt là dân sự cần thiết phải được đảm bảo và phải mang lại nhiều kết quả tích cực cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tác động mặt trái của hoạt động về trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng do người chưa thành niên gây ra nói riêng cần thiết phải được điều chỉnh. Mặt khác, pháp luật có tác dụng thúc đấy và điều tiết các quan hệ trong quan hệ dân sự được đặt ra dưới sự hoàn thiện trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia”[42].

“Cùng với sự phát triến kinh tế - thị trường thì việc xảy ra những mâu thuần, hoặc sự việc ngoài ý muốn chủ quan của các chủ thể là NCTN diễn ra ngày càng nhiều được thể hiện dưới mn hình vạn trạng. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh để thực hiện quy định về BTTH do NCTN gây ra nhằm bảo về quyền lợi của các bên khi tham gia vào các quan hệ dân sự nói chung phải được vận hành an toàn, lành mạnh và hiệu quả. Các quy định pháp luật đã quy định chi tiết xác định các hành vi vi phạm cụ thể, đồng thời thiết lập các biện pháp trừng phạt áp dụng cho những vi phạm này. Ngồi ra, nó cũng quy định rõ ràng về các phương pháp giải quyết mâu thuẫn, cùng với cơ chế kiểm tra và giám sát. Tài liệu pháp lý còn liệt kê các yêu cầu và biện pháp cần thiết để đảm bảo các cá nhân và tổ chức tham gia thị trường tuân thủ đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ của các bên trong q trình vi phạm [41],

Chính bởi hoạt động BTTH do NCTN gây ra có vai trị đặc biệt quan

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

trọng, khơng chì thúc đấy sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vậy, đặt ra các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình này là yêu cầu mang tính khách quan. Các quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh hoạt động BTTH do NCTN gây ra, chế tài áp dụng với các hành vi vi phạm và các biện pháp giải quyết tranh chấp là cơ sở pháp lý quan trọng để chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự nói chung thực hiện đầy đù các quyền và nghĩa vụ của mình[23].

Theo góc nhìn truyền thống, pháp luật được coi là công cụ then chốt trong quản lý của nhà nước đối với hoạt động kinh tế, định rõ vị thế pháp lý bình đẳng cho từng cá nhân và tổ chức tham gia săn xuất kinh doanh. Điều này hình thành một 'lối đi' pháp lý để các cá nhân và tổ chức có thể thực hiện hoạt động một cách hợp pháp" [29], Trong bối cảnh là một phần của hệ thống pháp luật tổng thể, pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa trưởng thành gây ra là một tập hợp các quy định pháp luật được cơ quan nhà nước có thấm quyền ban hành hoặc cơng nhận, có chức năng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mọc nảy ra từ hoạt động đối phó với rủi ro và xử lý hậu quả của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa trưởng thành gây ra..

<i><b>1.2.2. Nội dung pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b></i>

Trong phân tích từ khía cạnh pháp luật, TNBTTH do NCTN gây ra thể hiện một dạng trách nhiệm dân sự, áp dụng cho tình huống mà chủ thế vi phạm pháp luật và gây hại cho bên kia trong mối quan hệ họp đồng. Nhiệm vụ của trách nhiệm bồi thường này tập trung vào khía cạnh tài chính và mục tiêu chính là bù đắp tổn thất gây ra cho bên bị tổn thất. Do đó, đây là một dạng trách nhiệm pháp lý được triển khai để giải quyết hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật từ một trong những chủ thể có liên quan.

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Tương tự như trách nhiệm bôi thường trong lĩnh vực dân sự, trong ngữ cảnh quan hệ lao động, trách nhiệm bồi thường cũng mang những đặc điềm đáng chú ý. Đầu tiên, đây là một dạng trách nhiệm do cơ quan nhà nước có thấm quyền áp dụng đổi với cá nhân hoặc tố chức thực hiện hành vi gây hại. Trách nhiệm bồi thường chỉ được áp dụng trong trường hợp các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thỏa mãn, bao gồm việc xảy ra hậu quả thiệt hại, có hành vi vi phạm, tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra, và phải có sự lồi từ phía người gây hại. Cuối cùng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm có thế đem lại hậu quả khơng lợi cho người bị áp dụng.Cụ thể:

<i>Thứ nhất,</i> về hành vi gây thiệt hại. Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra là một loại trách nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi một trong các bên chủ thề có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho phía bên kia thì chủ thể của hành vi gây thiệt hại phải BTTH và BTTH chính là trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ và tài sản do các quy định của BLDS điều chỉnh. Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người bị gây thiệt hại và người bị gây thiệt hại trong quan hệ được BLDS điều chỉnh [28].Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra chỉ đặt ra khi thỏa mãn các điều kiện nhất định, đó là: (i) có thiệt hại xảy ra, tức là phài có thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của một trong các chù thể trong quan hệ dân sự; (ii) phải có hành vi vi phạm nghĩa vụ của các chủ thế trong quan hệ dân sự.Bên cạnh hai điều kiện trên, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, tức là hành vi trái pháp luật đó phải gây thiệt hại cho một trong các chủ thể tham gia quan hệ dân sự và yếu tố lồi của người gây thiệt hại là điều kiện để xác định trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra. Đây là những căn cứ có tính chất quan trọng để xác định trách nhiệm của

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

người có hành vi vi phạm và băt buộc phải BTTH ngồi hợp đơng do các hành vi vi phạm gây ra [30],

<i>Thứ hai, chủ thế gây thiệt hại. </i>Chủ thể chịu trách nhiệm trong việc đền bù thiệt hại do người chưa thành niên gây ra là người chưa thành niên. Người chưa thành niên được định nghĩa là cá nhân thiếu đầy đủ khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi, cũng như thiếu kinh nghiệm đủ đề quản lý tình cảm. Do đó, ngoài các quy định về điều kiện tham gia và thiết lập giao dịch dân sự, hệ thống pháp luật còn áp đặt những quy định đặc thù đế điều chình quá trình xác định và thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.

<i>Thứ ba, chủ thê bồi thường. Theo quy định pháp </i>luật thông thường người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người trực tiếp thực hiện hành vi gây thiệt hại. Nhưng trường hợp thiệt hại do người chưa thành niên gây ra thì khác, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được xác lập cho chủ thể khác (không phải là người chưa thành niên trực tiếp gây thiệt hại). Pháp luật quy định khi người chưa thành niên thực hiện hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác được chia thành hai trường hợp. (i) Người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi trường họp này người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn là người chưa thành niên trực tiếp gây thiệt hại, trừ trường họp người chưa thành niên gây thiệt hại do lỗi cùa trường học, bệnh viện hoặc tố chức khác có lồi quản lý để người chưa thành niên gây thiệt hại; (ii) Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại. Trong trường hợp này pháp luật quy định người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là cha, mẹ, người giám hộ, trường hợp, bệnh viện hoặc tổ chức có trách nhiệm quản lý, chăm sóc người chưa thành niên nhưng có lồi để người chưa thành niên gây thiệt hại cho chủ thế khác.

<i>Thứ tư,“trách nhiệm BTTH là loại trách nhiệm mang đến hậu quả bất lợi </i>

cho người bị áp dụng. Bởi vì, về mặt pháp lý, trách nhiệm BTTH do người

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

chưa thành niên gây ra luôn mang đến một hậu quả nhất định cho chủ thể bị áp dụng. Đó là sự bất lợi do giảm sút uy tín, sự giảm sút về tài sản do phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường của người gây thiệt hại. Để xác định trách nhiệm bồi thường cùa người có hành vi gây thiệt hại thì phải tính tốn được tổn thất của người bị gây thiệt hại là những gì để từ đó các định trách nhiệm của chủ thể của hành vi gây thiệt hại”[23].

<i>Thứ năm, vấn đề miễn trách nhiệm. Theo quy định tại khoản 2 Điều 584 </i>

BLDS 2015: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lồi của bên bị thiệt hại trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Theo đó, người gây thiệt hại khơng phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, người gây thiệt hại trong trường hợp do sự kiện bất khả kháng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 một sự kiện được cho là bất khả kháng khi có đù ba điều kiện:

(i) Sự kiện xảy ra một cách khách quan;(ii) Không thể lường trước được; và

(iii) Không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Thứ hai, trường hợp một bên có hành vi gây thiệt hại nhưng nguyên dân dẫn đến thiệt hại hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại. Theo lẽ công bằng, người gây thiệt hại nhưng khơng có lồi mà lỗi hồn tồn là do bên bị thiệt hại thì trong trường hợp này người gây thiệt hại sẽ được xem xét miền, giám trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hoàn toàn phù hợp.

Thứ ba, trường hợp các bên tự thoả thuận miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại. về cơ bản bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự và được thực hiện trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận của

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

các bên. Do đó, các bên có thế tự thoả thuận về vấn đề miễn trừ trách nhiệm <b><sub>7</sub><sub>•</sub><sub>• </sub><sub>•</sub></b>bồi thường thiệt hại.Bên cạnh đó, Điều 594 Bộ luật dân sự 2015 còn quy định về việc người gây thiệt hại khơng phải bồi thường trong trường hợp phịng vệ chính đáng. Trong một số trường hợp phịng vệ, hành vi của người phịng vệ chính đáng sẽ gây ra thiệt hại cho chính người đang có hành vi tấn cơng. Do đó, hành vi của người phịng vệ (người gây thiệt hại) chống trả gây thiệt hại cho người có hành vi tấn cơng (người bị thiệt hại) sẽ được xem xét miễn trừ trách nhiệm bồi thường.

<i><b>1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b></i>

<i><b>* Yếu tố pháp luật</b></i>

Trong việc áp dụng pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, cần đề ra các quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này phải được định rõ thông qua các quy định về phạm vi, thẩm quyền, và trình tự thủ tục. Việc đảm bảo hiệu quả của các công cụ pháp luật là mục tiêu quan trọng.Ngoài ra, hệ thống các văn bản pháp luật cần có tính dự báo cao, với các quy định rõ ràng và phạm vi điều chỉnh rộng. Việc quan tâm và chú trọng đến vấn đề áp dụng pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã trở thành một vấn đề quan trọng được các quốc gia trong khu vực và trên thế giới quan tâm.

Tại nước ta, Hiến pháp 2013 là cơ sở pháp lý cơ bản nhất và quan trọng nhất, hồ trợ việc ban hành các văn bản luật khác và dưới đó là BLDS 2015. Các văn bản luật này cung cấp các quy định chi tiết về vấn đề này và hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng.Khi pháp luật được ban hành với sự chặt chẽ và thống nhất, việc điều chỉnh các quan hệ tranh chấp và phù hợp với thực tiễn sẽ giúp giãi quyết nhanh chóng

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

và hiệu quả các tranh chấp, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo ốn định chính trị địa phương. Điều này sẽ giúp pháp luật đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội và đảm bảo mọi công dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.

<i><b>* Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, cơng chức</b></i>

Trong việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, yếu tố nhân lực đóng một tầm quan trọng và ảnh hưởng đáng kế đến hiệu suất của quá trình này. Khả năng và trình độ của đội ngũ cán bộ, cùng với môi trường làm việc và cơ sở vật chất, tạo nên cơ sờ quan trọng xác định đến thành công của việc thực thi pháp luật trong trường hợp này. Mơi trường làm việc đóng vai trị chủ chốt trong việc phát triển cán bộ và công chức, đồng thời tác động đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, và đơn vị, khơng chỉ trong lĩnh vực này mà cịn trên mọi lĩnh vực khi thực thi pháp luật.Cơ quan, tổ chức, và đơn vị có mơi trường làm việc tốt thường đạt được hiệu suất làm việc cao, duy trì sự đồn kết và giữ chân cán bộ, cơng chức có kiến thức và trình độ cao. Ngược lại, mơi trường làm việc khơng thuận lợi có the gây ra hậu quả lớn, như hiệu suất làm việc kém, sự khơng đồng lịng, và thậm chí cả việc cán bộ, công chức rời khỏi công việc hoặc chuyển công tác. Để xây dựng môi trường làm việc tốt, mỗi cơ quan, tổ chức, và đơn vị, đặc biệt là lãnh đạo, cần tạo ưu tiên cho việc này và đồng thời thực hiện nhiệm vụ và chức năng của họ một cách hiệu quả. Môi trường làm việc tốt là một yếu tố quan trọng trong việc áp dụng pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, giúp đảm bảo quá trình này diễn ra thành công và đạt được kết quả tốt.

<i><b>* Cơ sở hạ tầng vật chất trong hoạt động thực hiện pháp luật về trách nhiệm BTTH do NCTN gây ra</b></i>

Những yếu tố tài chính, kinh phí đào tạo và bồi dưỡng có tác động trực

<small>26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

tiếp và gián tiếp đến quá trình đào tạo nguồn nhân lực trong thực tế. Chúng cung cấp cơ hội và đồng thời có thể gây ra các rào cản, thậm chí là rủi ro cho các cơ sở đào tạo. Tuy nhiên, những chính sách ưu tiên và khuyến khích sẽ tiếp thêm động lực cho hoạt động đào tạo và bồi dưỡng, đồng thời thúc đấy sự tích cực của cán bộ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực.

Hiện nay, để thực hiện hiệu quả pháp luật về trách nhiệm BTTH, cần có một nguồn đào tạo chất lượng và bền vững, từ đó xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ trong thực tế. Điều này rất quan trọng đế khai thác toàn diện sức mạnh của hệ thống tư pháp nhân dân và đảm bảo sự hiệu quả của việc thực thi pháp luật về trách nhiệm BTTH trong thực tiễn ở nước ta ngày nay."

<i><b>1.2.4. Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra</b></i>

Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã bắt đầu được hình thành từ những quy định làm nền tảng cơ bản của pháp luật hiện đại. Điều này thể hiện trên một số quy định của pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại qua từng thời kỳ ở Việt Nam như sau:

* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chia thành niên gây ra theo quy định của pháp luật thời kỳ phong kiến

“Trong thời kỳ phong kiến Việt Nam, có hai văn bàn pháp luật nổi tiếng là Bộ Luật Hồng Đức hay cịn gọi là Quốc Triều hình luật. Bộ luật Hồng đức quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha mẹ khi con gây thiệt hại. Cụ thể: Theo quy định của Điều 457 trong Quốc Triều Hình Luật, nếu con cái vẫn sống cùng cha mẹ mà lại có hành vi trộm cắp, thì cha mẹ sẽ chịu trách nhiệm bị xử tội và phải bồi thường thay con những tài sản bị mất. Nếu hành vi trộm cắp cùa con cái nặng hơn, thì cha mẹ còn bị xử tăng thêm tội. Tuy nhiên, nếu con cái đã ra sống riêng, trách nhiệm của cha mẹ sẽ bị giảm xuống. Trong

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

trường hợp cha mẹ đã báo cáo cho cơ quan chức năng và hành vi của con cái vẫn tiếp diễn, thì cha mẹ cũng khơng phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu cha mẹ đã báo cáo và vẫn để con cái ở nhà tiếp tục hành vi trộm cắp, thì họ sẽ bị xử lý như chưa báo cáo. Với những quy định này, pháp luật thời kỳ đó đã có sự quan tâm đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra. Tuy nhiên, đáng tiếc là chỉ có quy định về trách nhiệm cùa cha mẹ người chưa thành niên gây thiệt hại mà chưa có những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ thế khác. Mặc dù quy định này mang tính chất bức xúc, nhung nó cho thấy sự quan tâm và cân nhắc của pháp luật đối với vấn đề này. Đây là văn bàn pháp luật đầu tiên và có quy định cụ thể trong trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra được Quốc triều Hình Luật ghi nhận”[46].

“Bên cạnh Quốc triều hình luật, thời kỳ phong kiến Việt Nam cịn một văn bản mà những thành tựu của nó còn được kế thừa cho đến thời điểm hiện nay đó là Bộ Hồng Việt Luật Lệ (hay cịn gọi là luật Gia Long) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua Gia Long Bộ luật được xây dựng thành 398 Điều, chia

thành 22 quyển và sắp xếp theo 6 lĩnh vực tương ứng với nhiệm vụ của 6 bộ trong triều đình. Tuy nhiên, Luật Gia Long khơng có quy định về bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra. Vì vậy, Bộ Luật Gia Long, các quy định về bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên đã khơng có điều kiện đế hình thành và phát triển thêm một bậc mới so với thời kỳ của Luật Hồng Đức”[16].

<i><b>* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chia thành niên gây ra theo quy định của các bộ dân luật hình thành trong thòi kỳ Pháp thuộc</b></i>

“Tại miền Bắc nước ta, Bộ dân luật Bắc Kỳ được ban hành vào ngày 01/04/1931 và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật (Dân luật Trung kỳ) được ban hành áp dụng cho miền Trung nước ta vào ngày 31/10/1936. Thời kỳ này hoạt

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

động lập pháp của Việt Nam chịu ảnh hưởng rât lớn từ tư duy lập pháp của người Pháp. Do vậy, cả hai bộ dân luật thời kỳ này đều có quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ví dụ Điều 711 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 763 Dân luật Trung Kỳ quy định: “Người ta phải chịu trách <i>nhiệm không những tôn hại tự mình làm ra mà cả về sự tổn hại do những người mà mình phải bảo lãnh hay những vật mà mình phải trơng coi nữa ”....NỘi dung trên có thể hiếu </i>

rằng người giám hộ có thế phải chịu trách nhiệm nếu người được giám hộ gây thiệt hại, bởi lẽ người giám hộ đã không thực hiện tốt nghĩa vụ giám hộ của mình để người được giám hộ gây thiệt hại bên cạnh trách nhiệm bồi thường của bản thân. Quy định này bước đầu đặt cơ sờ đế xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại ngày nay”[46].

<i><b>* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện đại</b></i>

“Sau khi Bộ dân luật Bắc kỳ khơng cịn được áp dụng ờ miền Bắc nước

<b><small>. _rrns z 1_ A ._-1Ạ..Ạ • _ _ __f fw 1? . _1-1* . </small></b><i><small>Sa</small></i> <b><small>. ’ .. Ạ 1 Ạ •41 .</small></b>

ta, Toa an nhan dan toi cao co co văn ban hướng dan xét xử vê bôi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, cụ thể là Thơng tư 173-UBTP ngày 2303/1972. Thơng tư đã có hướng dẫn chi tiết hơn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại tại Mục A Phan II. Để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì cần có 4 căn cứ phải có thiệt hại, phải có hành vi trái pháp luật, phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật và người gây thiệt hại có lỗi.Ngồi ra Thơng tư cũng có quy định về trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vị thành niên tại điểm a tiểu mục 2 Mục B Phan II của Thông tư. Pháp luật thời kỳ đó đã đưa ra những quy định cụ thể hơn liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra. Tuy nhiên, phạm vi của những quy định này chỉ giới hạn trong một số chủ thể mà người chưa thành niên tác động đến, khơng bao gồm tồn bộ các chủ thể như hiện nay. Trách nhiệm bồi thường cũng chỉ áp dụng

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

cho cha mẹ của người chưa thành niên và khơng có những quy định cụ thê hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các chủ thể khác bị tác động bởi hành vi của người chưa thành niên”[46].

“Ngày 20/01/1988 Hội đồng thẩm phán đã ra Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hơn nhân và gia đình, trong đó có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra . Trên tinh thần áp dụng luật Hơn nhân và gia đình, căn cứ vào trách nhiệm, vai trò của cha mẹ đối với con cái mà đặc biệt là đối với con chưa thành niên, Điểm b, điều 25, Mục 4 của Nghị quyết quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con dưới 16 tuổi gây ra sẽ do cha mẹ thực hiện. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên từ 16 tuổi đến 18 tuối gây ra sẽ dùng tài sản của con để bồi thường, và con chưa thành miên cũng chính là chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Kế thừa tư tưởng của các văn bản pháp luật trước đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã chính thức được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 mà không chỉ là quy định trong Thông tư và Nghị quyết như trước đây”[46]. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra gồm các điều luật sau đây:

Trong Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 611 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, Điều 625 quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý. Kế thừa các quy định này, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân tại điều 606, điều 621 quy định Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuồi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý. Các quy định của BLDS năm 2005 gần như được kế

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

thừa nguyên vẹn trong BLDS năm 2015 tại các quy định trong các điêu luật 586, 599. Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra của BLDS năm 2005 được hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/ NQ - HĐTPTANDTC, hiện nay các quy định của văn bản này có một số điểm vẫn được áp dụng đồng hành cùng với quy định của BLDS năm 2015 về người chưa thành niên gây thiệt hại.

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<b>TIỂU KÉT CHƯƠNG 1</b>

Quy định về pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đóng vai trị quan trọng trong việc thiết lập và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự tồng thể và đặc biệt trong lình vực trẻ em ở Việt Nam ngày nay. Điều này là cơ sở cần thiết để xác định đặc điểm và ý nghĩa của pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, từ đó hồ trợ việc thiết lập các quy định pháp luật chặt chẽ hơn và hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật dân sự ở Việt Nam.

Việc hoàn thành nhiệm vụ này rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước, nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa sự phát triển kinh tế và bảo vệ quyền lợi của mọi chủ thế tại Việt Nam khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Qua đó, cũng bảo vệ đúng đắn quyền lợi họp pháp của những chủ thể tham gia vào việc giải quyết các vụ án liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra. Cũng có đóng góp quan trọng trong q trình xét xử các vụ án tại Tịa án, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập và phát triển của nước ta.

Qua thời gian, pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã trải qua những điều chỉnh để phù họp với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Điều này đảm bảo quá trình thực thi pháp luật được thích ứng với thực tế và đóng góp vào tính nghiêm minh cùa hệ thống pháp luật. Chương I của luận văn đã khái quát phân tích cơ sở lý luận của pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra tại Việt Nam hiện nay, bao gồm: định nghĩa, đặc điểm và vai trò, nội dung pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra. Dựa trên cơ sở lý luận về pháp luật này, tác giả tiến hành nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật để đánh giá tình hình, kết q, khó khăn và nguyên nhân trong quá trình thực hiện trong thực tế

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Trong quá trình đánh giá trách nhiệm bồi thường, cần thấu hiểu và đối diện trực diện với sự phức tạp và tinh tế của việc xử lý những tình huống này. Tầm quan trọng của việc làm này khơng chỉ là đảm bảo sự bình đẳng và hợp

lý, mà còn là xây dựng nền tảng chắc chắn cho việc tôn trọng quyền của người bị thiệt hại và trẻ em. Neu chúng ta muốn xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều được đối xử cơng bàng và nhân văn, thì sự cân nhắc kỳ lưỡng và tinh thần nhân đạo trong việc quyết định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra là không thể thiếu. Theo quy định cùa

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

pháp luật hiện hành, trách nhiệm bôi thường thiệt hại do người chưa thành niên chỉ phát sinh khi thỏa mãn quy định tại khoản 1, điều 584, BLDS năm 2015.

Theo quy định của điều luật này trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên sẽ phát sinh khi: (1) có thiệt hại xảy ra; (2) có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; (3) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Cụ thể:

<i>Thứ nhất, có thiệt hại thực tế xảy ra</i>

Thiệt hại được coi là căn cứ quan trọng tiên quyết cần xem xét tới để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh hay khơng Trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ chỉ phát sinh trên cơ sở đã có thiệt hại xảy ra Theo quy định của điều 361, BLDS năm 2015.

“So sánh các điều khoản của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án Nhân dân Tối cao ngày 08 tháng 07 năm 2006 về hướng dần áp dụng một số quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 liên quan đến bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng (hiện tại vẫn cịn có hiệu lực) với các điều khoản của Bộ Luật Dân sự năm 2015, chúng ta có thể nhận thấy rằng các thiệt hại về tài sản bị xâm phạm được quy định tại khoăn 1, điều 589 của Bộ Luật Dân sự năm 2015; thiệt hại về sức khỏe được quy định tại khoản 1, điều 590 của Bộ Luật Dân sự năm 2015; thiệt hại về tính mạng được quy định tại khoản 1, điều 591 của Bộ Luật Dân sự năm 2015; và thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín được quy định tại khoản 1, điều 592 của Bộ Luật Dân sự năm 2015”[18].

Còn thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể. Theo quy định của Nghị quyết số 03/2006/NQ - HĐTPTANDTC. Vì vậy, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

<small>34</small>

</div>

×