Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Bài giảng lý thuyết tài chính tiền tệ eg16 Đại học mở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 140 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 1</small>

<b>BÀI 1: TÀI CHÍNH - THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH </b>

Học viên sau khi nghiên cứu xong bài này cần phải:

<small> </small>Hiểu được khái niệm tài chính, thị trường tài chính

<small> </small>Nẵm vững được cấu trúc, các công cụ và các chủ thể tham giá trên thị trường tài chính.

<small> </small>Hiểu được vài trị của tài chính doanh nghiệp trong thị trường tài chính. <small> </small>Quản lý nhà nước với thị trường tài chính

<i><b>Nội dung: </b></i>

<b>I. TÀI CHÍNH </b>

<b>1. Khái niệm về tài chính </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 2</small>

<i>Bản chất của tài chính có thể định nghĩa là: tổng thể hệ thống các quan hệ kinh tế gắn với việc phân phối các sản phẩm của xã hội dưới hình thức giá trị, từ đó tạo ra các quỹ tiền tệ và sử dụng chúng để thỏa mãn các nhu cầu về tích lũy và tiêu dùng cho các chủ thể trong nền kinh tế. </i>

Tiền tệ, giá cả và tiền lương là các công cụ để phân phối lại các sản phẩm được tạo ra và từ đó hình thành nền phạm trù tài chính. Ví du: hoạt động trả lương cho người lao động là một hoạt động tài chính vì nó liên quan đến việc phân phối lại một phần giá trị mà người lao động đó tạo ra. Điều này giúp hình thành nên quỹ tiền tệ cho người lao động được nhân lương. Nếu người lao động sử dụng toàn bộ quỹ lương này của mình cho hoạt động tiêu dùng như mua những hàng hóa và dịch vụ cho cuộc sống hàng ngày, thì hoạt động sử dụng quỹ tiền tệ đó khơng được coi là hoạt động tài chính. Tuy nhiên, nếu người lao động trích một phần trong quỹ tiền tệ đó để tiết kiệm hoặc trả nợ thì hành động này sẽ tạo nên một quỹ tiền tệ mới (quỹ để tiết kiệm hoặc quỹ trả nợ) đây là một hoạt động tài chính.

<b>2. Chức năng của tài chính: </b>

- Phân phối các quỹ tiền tệ được tạo lập: giúp cho mỗi chủ thể trong nền kinh tế nhận được một phần của cải để xây dựng nên các quỹ tiền tệ. Quỹ tiền tệ này có thể được sử dụng cho mục đích của từng cá thể hay cho tồn bộ xã hội. Nếu xét về mặt hình thức tồn tại, tài chính có thể ở dạng hữu hình hoặc vơ hình. Phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó khơng kèm theo với sự thay đổi hình thái giá trị. Đây là đặc điểm giúp phân biên tài chính với một pham trù phân phối khác là thương mại.

- Giám sát quá trình phân phối và giá trị phân phối: Chức năng này bắt nguồn từ sự cần thiết khách quan, phải theo dõi kiểm sốt tiến trình thực hiện các quan hệ tài chính trong phân phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Giám sát ở đây là kiểm tra quá trình phân phối và giá trị được phân phối, phát hiện những mặt được và chưa được của quá trình phân phối, để đưa ra biện pháp nhằm giúp cho quá trình phân phối hiệu quả hơn và hướng đến các mục tiêu trong việc sử dụng các quỹ tiền tệ. Chức năng giám

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 3</small>ở đây chỉ tập trung vào quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ thuộc về các chủ thể trong nền kinh tế. Việc giám sát cũng cần được thực hiện toàn diện, thường xuyên, liên tục và trên phạm vi rộng. Kết quả của quá trình giám sát thường được thẩm định qua các chỉ tiêu tài chính, các chỉ tiêu này cần mang tính chất tổng hợp và phản ánh đồng bộ các hoạt động khác nhau của một quỹ tiền tệ

- Tạo lập vốn: để có thể bắt đầu một chu trình sản xuất, lưu thơng hàng hóa địi hỏi phải có trước nguồn lực tài chính để đầu tư vào các yếu tố sản xuất. Muốn có được nguồn lực tài chính cần thiết thì cần một quá trình tạo vốn, trong bất cứ phương thức sản xuất nào, việc tạo vốn đều dựa vào sản xuất thặng dư tiết kiệm được, tích lũy tại các quỹ khác nhau, quá trình tạo lập vốn bắt nguồn từ những hình thức và các chủ thể khác nhau. Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, thông qua luật pháp do chính mình ban hành, trong đó có Luật Ngân sách, thể hiện chức năng tạo lập vốn từ các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí, và một số khoản thu khác. Từ các nguồn thu này Nhà nước sẽ lập nên các quỹ tiền tệ cho những mục đích khác nhau, trong trường hợp thiếu hụt ngân sách, nhà nước có thể phát hành trái phiếu chính phủ để tạo lập vốn.

- Công cụ quản lý và điều tiết vĩ mơ: tài chính thể hiện là cơng cụ để điều tiết vĩ mô thông qua việc định hướng, thúc đẩy, hướng dẫn và điều tiết những quan hệ kinh tế theo những hướng đi đã được định trước nhằm hỗ trợ cho những chính sách tài chính và tiền tệ của Chính phủ. Quản lý vĩ mơ nền kinh tế của tài chính được thể chế hóa thơng qua hệ thống Luật, điển hình như Luật ngân sách nhà nước, sắc luật về thuế, Luật ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp…Khi chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế, thì hệ thống luật cũng cần phải được thay đổi để hỗ trợ cho chức năng quản lý và điều tiết vĩ mô của tài chính.

<b>II. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 1. Khái niệm thị trường tài chính </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 4</small>Hàng ngày, trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ những chủ thể khác nhau. Sinh viên mới ra trường, những nhà phát minh, nhà khoa học có ý tưởng mới, có cơ hội đầu tư sinh lời thì nhiều khi khơng có vốn hoặc khơng có đủ vốn, trái lại nhiều người về hưu, được thừa kế tài sản có vốn nhàn rỗi lại khơng có cơ hội đầu tư hoặc khơng biết đầu tư vào đâu. Do đó, cần phải hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Trong thị trường tài chính, người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các cơng cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Những người có vốn dư thừa, thay vì đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà ưởng để sản uất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư mua) vào các tài sản tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Từ những lập luận trên, có thể kết luận bản chất của thị trường tài chính là:

- Thị trường tài chính TTTC) là nơi diễn ra sự luân chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi tới những người cần vốn.

- Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi mua bán, trao đổi các cơng cụ tài chính.

Những hoạt động trên thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến không chỉ một cá nhân mà đến tồn bộ nền kinh tế. Nó dẫn dắt hành vi của người tiêu dùng, tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phồn vinh của xã hội chịu tác động trực tiếp của thị trường tài chính

Hệ thống tài chính

<small>Hộ gia đình, các tổ chức xã hội </small>

<b><small> Tài chính quốc tế </small></b>

<small>THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 5</small>chính, nó có khả năng tạo ra những nguồn tài chính khác và cũng là nơi cần vốn nhiều nhất. Do đó, nó có thể tác động đến đời sống xã hội, phát triển kinh tế. Quan hệ với tài chính hộ gia đình thơng qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; nhận vốn góp bằng việc dân cư mua cổ phiếu, trái phiếu...Quan hệ với ngân sách thông qua nộp thuế; và ngân sách nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp. Quan hệ với các tổ chức tài chính trung gian thơng qua việc thu hút nguồn tài chính để tạo vốn hoặc trả nợ gốc trả lãi vay, gửi tiền, lấy lãi. Quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các bộ phận tài chính khác có thể là trực tiếp với nhau, cũng có thể thơng qua thị trường tài chính.

 Tài chính quốc tế: trong xu thế tồn cầu hóa của thế kỷ XXI thì ý nghĩa của tài chính quốc tế đặc biệt quan trong. Trong thời gian gần đây, chúng ta đã được chứng kiến vai trị của tài chính quốc tế đổi với cuộc khủng hoảng nợ công tại Châu Âu. Các kênh vận động của tài chính quốc tế: quan hệ viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài cho quỹ ngân sách nhà nước, cho các doanh nghiệp. Quan hệ về tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Q trình thanh tốn xuất nhập khẩu giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Việc thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển phí bảo hiểm, thanh tốn bảo hiểm đối với các pháp nhân nước ngồi và ngược lại. Quá trình chuyển tiền và tài sản giữa các cá nhân trong nước với nước ngoài.

 Hộ gia đình và các tổ chức xã hội: quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng của gia đình. Một phần tham gia vào quỹ ngân sách nhà nước dưới hình thức nộp thuế, phí, lệ phí. Tham gia vào các quỹ bảo hiểm theo các mục đích bảo hiểm khác nhau (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người). Tham gia vào các quỹ tín dụng dưới hình thức gửi tiền tiết kiệm. Đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ gia đình. Tham gia vào thị trường tài chính qua việc góp cổ phần, mua cổ phiếu, trái phiếu... Tài chính hộ gia đình có đặc điểm là phân tán và đa dạng. Nguồn tài chính khơng quy tụ vào những tụ điểm lớn mà phân bố rải rác trong dân cư. Tài chính dân cư có quan hệ với các bộ phận khác trong hệ thống có thể thường xuyên hoặc không

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 6</small>thường xuyên. Các tổ chức xã hội nhân nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và các hộ gia đình.

 Ngân sách nhà nước: ngân sách nhà nước gắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện được nhiệm vụ của mình. Trong nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước giữ vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mơ. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội, tài trợ cho giáo dục, quốc phòng và an ninh. Ngân sách nhà nước được xây dựng từ các khoản thuế, phí và lệ phí. Hoạt động thu chi ngân sách nhà nước sẽ nẩy sinh mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, với các tầng lớp dân cư, giữa ngân sách nhà nước với các bộ phận khác.

 Bộ phận dẫn vốn: đây là nhiệm vu của TTTC, giúp cho số vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế được đưa vào tham gia qua trình phát triển kinh tế

<b>2. Chức năng và vai trò của TTTC </b>

<small>Tài chính gián tiếp</small>

<small>Tài chính trực tiếpCác trung</small>

<small>giantài chính</small>

<small>Thitrươngtài chínhThành phần</small>

<small>thừa vớn</small>

<small>Thành phầncần vớnVớn</small>

- Kích thích tiết kiệm và đầu tư: Nhờ có TTTC mà những hoạt động tích lũy và đầu tư được diễn ra liên tục tại mọi thời điểm và mọi vị trí trong nền kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 7</small>giữa người mua và người bán, quá đó giá của các tài sản tài chính được ác định.

- Tạo tính thanh khoản cho các cơng cụ tài chính: Thị trường tài chính tạo ra một cơ chế để các nhà đầu tư có thể bán tài sản của mình.

- iảm thiểu chi phí tìm kiếm và chi phí thơng tin: Nhờ tính tập trung của thị trường tài chính, cho nên khối lượng giao dịch và biên độ giá giao dịch của các công cụ tài chính trên thị trường tài chính đều lớn về số lượng và đa dạng về chủng loại, do đó thơng tin về các cơng cụ tài sản) tài chính được cung cấp đấy đủ và nhanh chóng.

- n định và điều hịa lưu thơng tiền tệ: Thơng qua việc mua bán trái phiếu, tín phiếu chính phủ của các ngân hàng trung ương trên thị trường tài chính.

Thị trường tài chính hướng đến lợi ích của các thành phần tham gia vào thị trường. Có thể thấy những vai trò quan trọng của thị trường tài chính như:

- Điều hịa nguồn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.

- Tạo môi trường thuận lợi để dung hoa các lợi ích kinh tế các các chủ thể kinh tế khác trên thị trường.

- Khuyến khích cạnh tranh giữa các chủ thể.

- Quyết định cơ cấu kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, giúp đẩy nhanh vịng quay của vốn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới được thành lập

<b>3. Cấu trúc của thị trường tài chính </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 8</small>- Tại Việt Nam, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn như tại một số nước Châu Ấu như Đức, Pháp, Áo, Ba Lan. Phương thức để phân biệt giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chính là thời gian đáo hạn của những cơng cụ tài chính được giao dịch trên thị trường đó.

- Thị trường tiền tệ: là một thị trường tài chính, trong đó những cơng cụ tài chính được giao dịch có thời gian đáo hạn dưới một năm. Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu là hoạt động tín dụng, do đó giá cả hình thành trên thị trường này được biểu hiện thơng qua lãi suất tín dụng ngân hàng, đây còn được gọi là thị trường tín dụng ngắn hạn. Các cơng cụ của thị trường tiền tệ có thời gian đáo hạn trong vịng một năm nên có tính thanh khoản cao, bao gồm tín phiếu kho bạc, các loại thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các khế ước cho vay. Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường liên ngân hàng, thị trường chứng khoán ngắn hạn, thị trường ngoại hối. Tại Việt Nam, thị trường tiền tệ được tổ chức dưới hình thức: thị trường nội tệ liên ngân hàng bắt đầu hoạt động từ 07.1993 và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động từ tháng 10.1994.

- Thị trường vốn: là thị trường mua bán, trao đổi các cơng cụ tài chính trung và dài hạn thường có thời gian trên một năm). So với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các cơng cụ trên thị trường vốn có tính thanh khoản k m hơn và độ rủi ro cao hơn, do đó chúng có mức lợi tức cao hơn. Thị trường vốn cung cấp các khoản đầu tư dài hạn cho chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Các cơng cụ tài chính được giao dịch tại thị trường vốn gồm Thị trường vốn bao gồm thị trường chứng khoán, thị trường vay nợ trung và dài hạn, thị trường cầm cố, thị trường cho thuê tài chính Leasing Market). Trong đó, thị trường chứng khốn là một hình thức vận động điển hình của thị trường vốn.

<b>4. Các cơng cụ trên thị trường tài chính </b>

Cơng cụ tài chính trên thị trường tiền tệ:

- Tín phiếu kho bạc: (treasury bill) là cơng cụ nợ ngắn hạn của Chính phủ và được phát hành với kì hạn thành tốn là 3, 6, và 12 tháng. Chúng được thanh toán một khoản định sẵn khi đến kì hạn thanh tốn và khơng có một khoản lãi nào. Tín phiếu kho bạc là loại cơng cụ có tính thanh khoản cao nhất và an toàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 9</small>thấp hơn các công cụ khác lưu thông trên thị trường tiền tệ.

- Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận Banker’s Acceptance – Bas): hối phiếu được lập ra trong quá trình thương mại hóa quốc tế và đã được dùng từ hàng trăm năm nay. Lợi ích mà cơng ty có thể mang lại do hối phiếu đó có thêm khả năng được chấp nhận khi mua hàng hóa ở nước ngồi vì nhà xuất khẩu nước ngoài biết rằng ngay cả trường hợp công ty mua hàng hóa đã phá sản thì hối phiếu ngân hàng vẫn được thanh toán đầy đủ.

- Thỏa thuận mua lại (Repurchase Agreement - Repo) là những món vay ngắn hạn thường với kỳ hạn thanh toán dưới 2 tuần) trong đó các tín phiêu kho bạc được dùng làm vật bảo đảm một tài sản mà người cho vay nhận được nếu người đi vay khơng thanh tốn được nợ. Ví dụ: Vinamilk hiện đang có khoảng 1 triệu USD vốn nhàn rỗi. Công ty muốn cho vay ngắn hạn số vốn nhàn rỗi trên, nếu Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV- khí đó đang có nhu cầu vay 1 triệu USD trong 2 tuần. Khi đó, BIDV sẽ thực hiện một Thỏa thuận mua lại bằng cách ký hợp đồng bán cho Vinamilk 1 triệu USD tín phiếu kho bạc mà BIDV đang nắm giữ với cam kết sẽ mua lại số tín phiếu này với giá cao hơn sau 2 tuần. Như vậy, Vinamilk đã cung cấp cho BIDV một khoản vay ngắn hạn, lãi suất là phần chênh lệch giá mua lại sau 2 tuần.

- Thương phiếu Commercial Paper): thương phiếu là những giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính. Nó được phát hành theo hình thức chiết khấu, nghĩa là được bán với giá thấp hơn so với mệnh giá. Phần chênh lệch giữa giá mua thương phiếu và mệnh giá của thương phiếu chính là lãi suất mà người sở hữu thương phiếu nhận được. Do tính thanh khoản k m hơn và rủi ro mất khả năng thanh toán cao hơn, lãi suất của thương phiếu cao hơn đáng kể so với lãi suất thị trường tiền tệ. Việc chuyển nhượng thương phiếu được thực hiện bằng hình thức ký hậu.

- Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit – CDs): là một công cụ vay nợ do ngân hàng bán cho người gửi tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản đã định và khi đến kỳ hạn thanh tốn, thì hồn trả lại mệnh giá (giá mua

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 10</small>ban đầu) cho người gửi tiền. Chứng chỉ tiền được phát hành bởi hầu hết các ngân hàng thương mại và có thể được bán lại ở thị trường thứ cấp.

- Đô la Châu Âu Euro Dollars): đồng đơ la Mỹ do những ngân hàng nước ngồi ở bên ngoài Mỹ hoặc những chi nhánh của ngân hàng Mỹ tại nước ngoài nắm giữ được gọi là đơ la Châu Âu.

Cơng cụ tài chính trên thị trường vốn:

- Có thể hiểu Trái phiếu (bond) là công cụ nợ dài hạn do chính phủ hoặc cơng ty phát hành nhằm huy động vốn dài hạn. Trái phiếu do chính phủ phát hành gọi là trái phiếu chính phủ (government bond) hay trái phiếu kho bạc (treasury bond). Trái phiếu do công ty phát hành gọi là trái phiếu công ty (corporate bond).

- Cổ phiếu là chứng khốn do cơng ty cổ phần phát hành xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của cơng ty đó. Cổ phiếu được phát hành khi cơng ty cổ phần huy động vốn để thành lập công ty hoặc khi công ty huy động thêm vốn để phục vụ sản xuất, kinh doanh. Số vốn đó được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đơng. Cổ phiếu có thể ghi danh hoặc không ghi danh.

- Các khoản vay thế chấp (Mortgages): Là số tiền mà các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất hoặc những cơng trình kiến trúc khác và sau đó các cơng trình kiến trúc và đất này được dùng làm vât thế chấp cho món vay. Tại Việt Nam, có những ngân hàng chuyển về lĩnh vực này như Mekong Housing Bank, và Habubank.

- Các khoản vay thương mại và tiêu dùng: đây là những khoản vay dành cho người tiêu dùng và cho những công ty kinh doanh. Các khoản vay này có thể được cấp bởi các ngân hàng hoặc các cơng ty tài chính. Thơng thường khơng có thị trường thứ cấp để mua bán lại những món vay này. Do đó, các khoản vay thương mại do ngân hàng cấp và vay tiêu dùng được coi là có độ thành khoản thấp nhất trong các công cụ của thị trường vốn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 11</small>tương lai phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản chính nguyên khởi. Hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp đồng hoán đổi.

<b>5. Các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính </b>

 Chủ thể phát hành: Là những thành phần cần vốn, thông qua phát hành chứng khoán để huy động vốn tài trợ cho những hoạt động của mình.

- Chính phủ vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và công trái để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách nhà nước tạm thời hoặc để huy động vốn cho các dự án mà chưa muốn sử dụng nguồn ngân sách nhà nước hoặc ngân sách nhà nước không đủ.

- Các doanh nghiệp thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh là điều thường xảy ra ( thiếu tương đối và thiếu tuyệt đối).

- Các hộ gia đình cũng vay trên thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình.

 Những chủ thể đầu tư: đây là những thành phần có vốn dư thừa, họ tham gia mua bán các chứng khoán. Thực chất, các nhà đầu tư đã trao cho chủ thể phát hành quyền sử dụng khoản vốn của mình theo những điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng phát hành chứng khoán.

 Những tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ.

 Chủ thể quản lý và giám sát thị trường tài chính: đây là những tổ chức được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ giám sát và quản lý hoạt động của thị trường tài chính. Mục địch của những tổ chức này là đảm bảo cho thị trường tài chính hoạt động an tồn và phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội:

- Ngân hàng trung ương: là cơ quan nắm giữ quyền phát hành tiền, và các công cụ điều tiết vĩ mô như: lãi suất cơ bản, tỉ lệ dự trữ bắt buôc. Những quyết định của ngân hàng trung ương trong việc điều chỉnh các biến số kinh tế vĩ mô sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến thị trường tài chính.

- Bộ tài chính: là cơ quan chịu trách nhiệm hoạch định và thực thi chính sách tài chính với các mục tiêu vĩ mô đã được định ra từ trước. Các quyết định của Bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 12</small>tài chính sẽ ảnh hướng đến thị trường tài chính trong ngắn hạn hoặc trong trung và dài hạn.

- Ủy ban chứng khoán nhà nước, Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là những cơ quan có nhiệm vụ giám sát hoạt động và giúp ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến thị trường chứng khốn.

<b>6.Trung gian tài chính </b>

 Trung gian tài chính là những định chế tài chính thực hiện việc huy đông nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, sau đó tái đầu tư số vốn huy động được vào nền kinh tế. Theo chức năng, các định chế tài chính có thể chia thành các định chế tài chính nhận tiền gửi, các định chế tài chính tiết kiệm theo hợp đồng.

- Những định chế nhận tiền gửi: bao gồm các ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (S&L), các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (mutal saving banks), và các quỹ tín dụng credit unions). Các định chế này có điểm chung là đều nhận tiền gửi, số tiền gửi mà họ huy động này sẽ được đem đi vay trực tiếp tới những cá nhân hay tổ chức cần vốn, một phần sẽ được đầu tư vào các chứng khoán hay các dạng đầu tư khác. Thu nhập của các định chế này được tạo ra từ hai nguồn: lãi từ các khoản cho vay, các khoản phí cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, thu nhập từ các khoản tự đầu tư trên thị trường tài chính.

- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng: Đây là những tổ chức tài chính nhận vốn một cách định kỳ trên cơ sở hợp đồng. Do họ có thể dự tính một cách đầy đủ, chính xác là họ sẽ phải thanh toán hết bao nhiêu trong các năm tới, họ không phải lo lắng nhiều như các tổ chức tài chính nhận tiền gửi về việc thiếu hụt vốn. Do vậy, tính thanh khoản của các tài sản có khơng được coi là quan trọng đối với các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng như là các tổ chức tài chính nhận tiền gửi. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng có u hướng đầu tư vốn vào các chứng khốn dài hạn như trái phiếu cơng ty, cổ phiếu và các khoản cho vay thế chấp bất động sản (mortgage). Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng chính bao gồm các công ty bảo hiểm và các quỹ hưu trí.

- Cơng ty bảo hiểm: là những định chế tài chính đảm nhận việc thực hiện một khoản thanh tốn mỗi khi có một biến cố xảy ra với một khoản đóng góp trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 13</small>người chấp nhận rủi ro. Các công ty bảo hiểm thực hiện thu phí bảo hiểm từ những người mua bảo hiểm để huy động vốn và sau đó đầu tư những khoản tiền nhận được vào chứng khoán hay một số khoản đầu tư khác. Có 2 loại hình cơng ty bảo hiểm chính: các công ty bảo hiểm nhân thọ và các công ty bảo hiểm chung. Các công ty bảo hiểm chung là các công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn ở một số nước được coi là các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.

 Các nguyên tắc quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính

- Chính phủ phải giữ vai trị chính trong việc quản lý, và xây dựng khung pháp lý và môi trường thông tin lành mạnh cho thị trường tài chính.

- Ngân hàng trung ương có đủ sự độc lập cần thiết trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng, tại quốc gia nào ngân hàng trung ương được giao quyền độc lập nhiều hơn thì tỷ lệ lạm phát tại quốc gia đó thấp và ổn định qua đó giúp đạt được mục tiêu giữ vững giá trị đồng tiền, tăng trưởng kinh tế và giảm thiểu những biến động mạnh của chu chuyển tiền tệ.

- Phát triển một thị trường tài chính cân đối khơng dựa quá mức vào hệ thống ngân hàng. Bản thân các ngân hàng đã thường xun phải đổi phó với rủi ro. Vì vậy, nếu thị trường tín dụng ngân hàng phải đảm nhiệm phần lờn việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 14</small>cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế thì càng tăng các rủi ro hệ thống cho ngành ngân hàng và thị trường tài chính

- Tự do hóa tài chính và tự do hóa tài khoản vốn một cách thận trong

<b>8. Tài chính doanh nghiệp </b>

Trong phần này chúng ta nghiên cứu tài chính doanh nghiệp trên khía cạnh doanh nghiệp là một thành phần huy động vốn từ nền kinh tế và đóng góp vốn cho nền kinh tế. Khi doanh nghiệp cần vốn thì có thể huy động vốn từ thị trường tài chính, ngược lại khi ho thừa vốn thì có thể cung cấp ngược lại cho thị trường tài chính. Chúng ta khơng xem xét khía cạnh doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn huy động được như thế nào, vì đấy là vấn đề của mơn học Quản trị tài chính doanh nghiệp.

Theo luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Doanh nghiệp có thể được chia thành doanh nghiệp tài chính và doanh nghiệp phi tài chính. Doanh nghiệp tài chính là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ như: doanh nghiệp bảo hiểm, ngân hàng thương mại, cơng ty chứng khốn... Doanh nghiệp phi tài chính là một tổ chức kinh doanh có nhiệm vụ trước hết là sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá và cung ứng các dịch vụ.

Sự vận động của vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh đã làm nảy sinh các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị, các quan hệ kinh tế đó bao gồm:

<i>- Quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước: quan hệ này phát </i>

sinh trong quá trình doanh nghiệp phân phối với nguồn tài chính do doanh nghiệp tạo ra chuyển vào ngân sách Nhà nước thông qua các Luật thuế mà mọi doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thực hiện. Về phía Nhà nước, cung cấp vốn cho doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư vốn vào các cơng ty cổ phần, góp vốn liên doanh khi thấy cần thiết…để thực hiện chính sách quản lý vĩ mơ của mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 15</small>đều vừa là người mua các yếu tố cho hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa là người bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, đồng thời vừa là người cung, vừa là người cầu các nguồn lực tài chính.

<i>- Quan hệ kinh tế trong nội bộ các doanh nghiệp: là giữa doanh nghiệp </i>

với người lao động trong doanh nghiệp về các khoản thanh toán tiền lương, thưởng, nhận và thanh toán tạm ứng.

<b>Chức năng của tài chính doanh nghiệp: </b>

 Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả: các doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, trực tiếp sử dụng mọi tư liệu sản xuất kết hợp với sức lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là nơi phát sinh các quan hệ kinh tế thông qua hoạt động mua bán, vay mượn, phân phối và là nơi trực tiếp thi hành mọi chính sách, chế độ, thể lệ kinh tế, tài chính của Nhà nước. Hiện nay, để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, cần giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước và mở rộng quyền chủ động của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh cũng như về tài chính. Các doanh nghiệp sẽ tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn, quản lý, sử dụng vốn, doanh thu, chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cùng với việc tăng cường trách nhiệm của người lãnh đạo về điều hành kinh doanh

- Trong nền kinh tế thị trường, tài chính nhà nước khơng cịn là một kênh cấp phát và bao cấp toàn bộ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước. Chính phủ quy định đối với các loại hình doanh nghiệp, ngồi các khoản vốn ngân sách Nhà nước cấp, vốn có nguồn gốc từ ngân sách đối với doanh nghiệp Nhà nước), vốn tự có đối với doanh nghiệp ngồi quốc doanh), vốn do doanh nghiệp tự tích lũy, doanh nghiệp còn được huy động vốn dưới các hình thức như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn, nhận góp vốn liên kết – có quyền tạo vốn độc lập theo những quy định của pháp luật

- Việc huy động vốn vừa phải đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh vừa phải lựa chọn hình thức huy động hợp lý, để bảo đảm chi phí huy động vốn thấp nhât. Do đó, cần ác định nhu cầu vốn hợp lý cho hoạt động của

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 16</small>doanh nghiệp để định hướng sự huy động vốn, hạ thấp chi phí nhằm tăng lợi nhuận.

- Cùng với việc tạo lập nguồn vốn, doanh nghiệp còn phải biết tổ chức phân phối sao cho hợp lý, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, đồng thời phải bảo tồn và luôn phát triển vốn dựa trên cơ sở giảm hao phí vật chất, sử dụng tối ưu cơng suất máy móc thiết bị hiện có, thu hút lao động vào làm việc với năng suất cao, tăng tích lũy, hồn thành nghĩa vụ với Nhà nước.

 Kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh: tài chính doanh nghiệp có tác dụng kích thích hay kìm hãm hoạt động của nền kinh tế còn tùy thuộc vào sự vận dụng chức năng phân phối của người quản lý vào việc giải quyết lợi ích kinh tế đối với các chủ thể. Nếu việc phân phối các quỹ tiền tệ phù hợp với quy luật sẽ tạo ra những động lực kinh tế tác động tới năng suất lao động, kích thích tiêu dùng xã hội, thúc đẩy tăng vòng quay của vốn, thực hiện tái sản xuất mở rộng, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Vai trị kích thích, điều tiết của tài chính doanh nghiệp thể hiện rõ nhất ở việc tạo ra sức mua hợp lý, thu hút đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ và thông qua việc ác định giá mua, bán hợp lý của hàng hóa, dịch vụ, cổ phiếu sẽ có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.

 Kiểm tra các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Thực hiện chức năng giám đốc tài chính, nhà quản lý các doanh nghiệp sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền các hoạt động của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu kế hoạch, chỉ tiêu về khả năng sinh lời, các định mức kinh tế tài chính, các chỉ tiêu về khả năng thanh tốn…để từ đó đưa ra các giải pháp, nhằm nâng cao hiệu sử dụng các nguồn tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp

<b>Phương thức huy động vốn </b>

Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc huy động nguồn vốn, nhằm tạo lập quỹ tiền tệ ứng trước. Các doanh nghiệp có thể huy dộng nguồn vốn từ bên trong và nguồn vốn từ bên ngoài.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 17</small>liên doanh với các tổ chức trong và ngoài nước, các khoản nợ do mua hàng trả chậm, trả góp… Nguồn vốn bên trong gồm có: Bổ sung vốn từ kết quả kinh doanh, từ các quỹ chuyên dùng. Các nguồn vốn huy động chỉ được dùng vào mục đích kinh doanh, khơng dùng vào mục đích khác và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả. Các doanh nghiệp phải chú trọng lựa chọn nguồn vốn huy động hợp lý với chi phí thấp ở mức hợp lý, góp phần gia tăng lợi nhuận. Để thực hiện được yêu cầu này, trước hết doanh nghiệp cần chú trọng tập trung khai thác nguồn vốn từ nội lực, lựa chọn các nguồn vốn từ bên ngoài một cách hợp lý sao cho phù hợp với điều kiện, nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.

Lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định, phần cịn lại được phân phối theo trình tự sau:

Bù lỗ năm trước, đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế, nộp tiền thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trả tiền phạt vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp.

Phần lợi nhuận sau khi trừ các khoản trên được sử dụng để chia lãi cho các đối tác góp vốn, phần cịn lại lập quỹ dự phịng tài chính, quỹ đầu tư phát triển, chia lãi cổ phần, lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.

Mục đích sử dụng các quỹ doanh nghiệp

Quỹ đầu tư phát triển dùng để bổ sung vào vốn kinh doanh nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp, vốn góp liên doanh, mua cố phiểu theo quy định hiện hành.

Quỹ dự phịng tài chính để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất và bồi thường cho các tổ chức bảo hiểm.

Quỹ phúc lợi để đầu tư, sửa chữa, bổ sung vốn xây dựng các cơng trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp, chi cho hoạt động thể thao, văn hóa, phúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 1 </small></b><small>Trang 18</small>lợi công cộng của tập thể cơng nhân viên trong doanh nghiệp, đóng góp cho quỹ phúc lợi xã hộ, trợ cấp khó khăn cho người lao động doanh nghiệp.

Quỹ khen thưởng dùng để thưởng cuối năm hoặc định kỳ cho cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp hoặc những cá nhân, đơn vị ngoài doanh nghiệp có quan hệ kinh tế, hồn thành tốt hợp đồng, đóng góp có hiệu quả vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

<i><b>Chúc mừng Anh/Chị học tập tốt! </b></i>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

1. TS.Nguyễn Tiến Hùng – iáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Viện Đại học Mở Hà Nội – NXB Thông tin và Truyền thơng năm 2013.

2. iáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học Kinh Tế Quốc Dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 1 </small></b>

<b>BÀI 2: </b>

Học viên sau khi nghiên cứu xong bài này cần phải:

<small> </small>Hiểu được khái niệm tiền tệ, khối lượng tiền. <small> </small>Chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.

<small> </small>Hiểu rõ được khái niệm lạm phát và tác động của lạm phát đến nền kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 2 </small></b>

<i><b>Nội dung: </b></i>

<b>I. TIỀN TỆ </b>

<b>1. Khái niệm và bản chất của tiền tệ </b>

Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế.

Tiền tệ – kim loại vàng là sản phẩm của lao động con người có đầy đủ hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng là hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ tiền có giá trị sử dụng đặc biệt, dùng nó người ta có thể trao đổi với bất cứ hàng hóa nào. Do nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển bị chi phối bởi nhiều quy luật khách quan. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa của nó thì q trình phi vật chất của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách tương ứng. Nghĩa là vai trò của tiền vàng theo xu hướng giảm dần và tăng cường sử dụng các loại dấu hiệu trong lưu thông. Cho nên, định nghĩa trên là phù hợp với lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường phát triển.

<b>2. Các hình thái tiền tệ </b>

Trước hết phải thừa nhận tiền được mọi người chấp nhận là những dạng vật chất quen thuộc và có ích với tất cả mọi người, hoặc được mọi người đánh giá cao về mặt giá trị.

- Hoá tệ là lấy hàng hố làm tiền tệ, đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Hàng hoá được sử dụng làm tiền tiền tệ có 2 loại : Hàng hố khơng phải kim loại và kim loại.

- Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân nó khơng có giá trị, hoặc giá trị của nó rất nhỏ khơng đáng kể, nhưng nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dụng. Tín tệ có 2 loại là tiền kim loại ( dùng kim loại để đúc thành tiền) và tiền giấy ( sử dụng giấy để làm tiền). Giá trị của tiền không phụ thuộc vào nguyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 3 </small></b>

liệu làm tiền mà nó phụ thuộc vào những dấu hiệu ghi trên mặt đồng tiền do nhà nước quy định.

- Bút tệ (tiền ghi sổ): đây là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. Đó là tiền do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng các bút toán ghi Nợ, ghi Có trên các tài khoản tiền gửi khơng kỳ hạn ở ngân hàng.

- Tiền điện tử: các ngân hàng đã có thể thay thế phương thức thanh toán truyền thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điến tử (Electronic means of payment), điều kiện cần là cá nhân và tổ chức cần thanh toán có tài khoản tại ngân hàng. Các giao dịch chuyển tiền sẽ được thực hiện trên hệ thống máy tính kết nối hệ thống ngân hàng.

Trong khi tiền được hiểu tương đối hẹp, thì cách sử dụng tiền thì có ý nghĩa rất rộng, có thể thơng qua ví dụ sau để hiểu được. Nếu như một ai đó nói “trong túi tơi có rất nhiều tiển” có nghĩa là anh ta đang nói đến tiền mặt được mang theo trong người. Cịn nếu anh ta nói “tơi kiếm được rất nhiểu tiền” điều này có thể hiểu là thu nhập của anh ta. Trong trương hợp anh ta nói “tơi có rất nhiều tiền” thì lại là đang nói về của cải của anh ta có được bao gồm cả bất động sản, tiền trong tài khoản, tranh nghệ thuật, trang sức bằng kim loại quý.

Từ đó, các nhà kinh tế và những người sản xuất kinh doanh bắt đầu nghĩ và đưa ra những tiêu chuẩn tiện lợi mà tiền – với tư cách là vật trung gian trao đổi – cần phải có, đó là:

- Phải có giá trị thực tế - Dễ sử dụng trong tự nhiên

- Dễ vận chuyển và khơng q cồng kềnh

- Có thể chia nhỏ phục vụ cho việc giao dịch thông thường hàng ngày - Có thể tồn tại lâu dài và không hư hại

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 4 </small></b>

Từ những tiêu chuẩn trên có thể thấy được rất nhiều thứ đã là tiền bây giờ trở nên khơng thích hợp, tiền đá khó vận chuyển và khơng có giá trị thực tế. Bị hay lừa khó vận chuyển và khó chia nhỏ và không thể tồn tại lâu dài.

<b>3. Chức năng của tiền </b>

* Phương tiện trao đổi: tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian trong việc trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá. Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định:

- Được chấp nhận rộng rãi

- Dễ nhận biết - Có thể chia nhỏ

- Dễ vận chuyển, không bị hư hỏng một cách nhanh chóng

- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng và có tính đồng nhất.

* Chức năng phương tiện lưu giữ giá trị: Để được thừa nhận là một phương tiện trao đổi tiền buộc phải có tính chất bảo tồn giá trị. Chúng ta sẽ khơng dám chấp nhận tiền nếu nó chỉ có hiệu lực trao đổi trong ngày hôm nay mà không thể dùng để trao đổi từ ngày mai trở đi. Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian.

Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tuỳ thuộc vào sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng hàng hoá mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy để tiền thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. Với chức năng này có

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 5 </small></b>

thể thấy tiền cũng là một loại tài sản như những tài sản khác chỉ là nó khơng sinh lời theo thời gian.

* Thước đo giá trị: giá trị của tiền tệ được sử dụng làm chuẩn để đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Thơng qua quan hệ so sánh này giá trị của các hàng hóa được biểu hiện thành giá cả hàng hóa. Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong các hàng hóa. Muốn thực hiện được chức năng này, tiền tệ có những đặc điểm sau đây:

- Có giá trị nội tại

- Tiêu chuẩn giá cả

- Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã làm cho mọi hàng hóa đều có một tiếng nói chung đó là giá cả. Giá cả của hàng hóa, là giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng tiền. Thực chất giá cả của hàng hóa là tỷ lệ so sánh giữa giá trị của nó với giá trị tiền tệ hay nói cách khác giá cả của hàng hóa là một đại lượng tỉ lệ thuận với giá trị của hàng hóa và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ. * Chức năng phương tiện thanh toán: chức năng này là chức năng gộp của hai chức năng: trung gian trao đổi và đơn vị tính tốn. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học tiền tệ vẫn muốn tách nó riêng ra để phản ánh một tính chất điển hình của tiền: tiền là phiếu nợ.

* Công cụ để điều tiết nền kinh tế: số lượng tiền tệ được cung ứng cho mỗi thời điểm của nền kinh tế tùy thuộc vào hai điều:

- Nhu cầu tiền của nền kinh tế vào thời điểm đó. Điều này phụ thuộc vào tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Nhân tố này thường rất thụ động.

- Số lượng cung ứng tiền phụ thuộc vào quyết định của mỗi chính phủ thơng qua ngân hàng trung ương của mình, và đây là nhân tố xác định chủ động.

<b>4. Khối lượng tiền </b>

* Các phép đo khối tiền tệ được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương tiện được hệ thống tài chính cung cấp và thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 6 </small></b>

nhìn chung các khối tiền tệ trong lưu thơng bao gồm:

<b>- Khối tiền giao dịch (M1) gồm những phương tiện được sử dụng rộng </b>

rãi trong thanh toán chi trả về hàng hoá dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất: + Tiền mặt trong lưu hành: Bộ phận tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và tiền đúc) nằm ngoài hệ thống ngân hàng.

+ Tiền gửi khơng kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng.

<b>- Khối tiền tài sản (M3) bao gồm: </b>

+ M2

+ Trái khốn có mức lỏng cao như: Hối phiếu, tín phiếu kho bạc

<b>II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1. Cầu tiền tệ </b>

Keynes xây dựng lý thuyết về cầu tiền tệ được gọi là lý thuyết về sự ưa thích tiền mặt. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm nổi tiếng: “Học thuyết chung về công ăn việc làm, lãi xuất và tiền tệ”. Trong học thuyết của mình,

Keynes đã nêu ra 3 động cơ cho việc giữ tiền:

<i>• Nhu cầu tiền cho giao dịch: hoạt động giao dịch của các tác nhân và thể </i>

nhân (gọi chung là tác nhân) diễn ra thường xuyên. Mọi giao dịch đều cần phải sử dụng tiền, như: trả công lao động (trả lương), mua nguyên vật liệu, thanh toán

<i><b>nợ, mua vật phẩm tiêu dùng ... Các khoản chi này hợp thành Tổng cầu tiền cho </b></i>

<i><b>giao dịch. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 7 </small></b>

<i>• Nhu cầu tiền cho tích luỹ: ngồi các khoản chi thường xuyên cho giao </i>

dịch, các tác nhân cịn phải tích luỹ một khoản tiền nhất định cho các nhu cầu đã dự định trước, như: mua sắm tài sản, đầu tư, cho kỳ du lịch sắp đến ... Giá trị của

<i>các khoản này chưa đến "độ sử dụng", chúng ở trong quỹ của các tác nhân dưới </i>

dạng tiền nhàn rỗi. Khi lãi suất tiền gửi thấp, thì số tiền giành cho nhu cầu tích lũy với các mục đích trên sẽ cao. Nhu cầu tích lũy phụ thuộc vào mức thu nhập và mục đích của các tác nhân. Thời gian sử dụng tiền càng cấp bách thì địi hỏi tác nhân tích lũy càng nhanh. Giá trị khoản chi càng lớn thì phải tích lũy càng nhiều.

<i>• Nhu cầu tiền cho dự phòng: dự phòng là nhu cầu bắt buộc của các tác </i>

nhân. Nhu cầu này được chia làm ba loại. Dự phòng một số tiền để chờ cơ hội mua mà khơng dự báo trước được. Dự phịng chi thường xuyên. Đây là những khoản chi thường xuyên cho nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải dự phòng một khoản tiền tối thiểu và cuối cùng dự phòng chi cho rủi ro.

<i>• Nhu cầu tiền để cất trữ: đây là số lượng tiền nhàn rỗi lâu dài, chưa có </i>

<i>mục tiêu sử dụng. Trường hợp này các thể nhân thường đưa số "tiền thừa" vào </i>

<b>2. Cung tiền tệ </b>

Cung tiền tệ là khối lượng tiền tệ đã được cung cấp cho nền kinh tế bởi hệ thống ngân hàng. Nói khác đi mức cung tiền tệ là tổng các phương tiện tiền tệ thực tế trong lưu thông và được nắm giữ bởi các chủ thể trong nền kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 8 </small></b>

<b>3. Cân bằng cung và cầu tiền tệ </b>

Thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ bằng mức cầu tiền tệ. Điều kiện cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ là:

<b>5. Mục tiêu của chính sách tiền tệ </b>

Thường các ngân hàng trung ương xây dựng chính sách tiền tệ hướng đến những mục tiêu sau:

 Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được lạm phát.

 Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái.

 Ổn định lãi suất

 Ổn định các thị trường tài chính  Tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định

 Tạo công ăn việc làm và giảm bớt thất nghiệp

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 9 </small></b>

Trong tác phẩm “sức mua của tiền tệ”, nhà kinh tế học Mỹ Irving Fisher đưa ra mối quan hệ giữa tổng lượng tiền tệ (M) với tổng chi tiêu để mua hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế dựa trên một khái niệm gọi là tốc độ lưu thông tiền tệ theo phương trình trao đổi tính theo giá trị danh nghĩa của các giao dịch trong nền kinh tế:

<i>MVT = PT </i>

Trong đó P là giá bình quân mỗi giao dịch,

T là số lượng giao dịch tiến hành trong một năm

<i>VT : là tốc độ giao dịch của tiền tệ - tốc độ khối lượng tiền quay vòng hàng </i>

năm

Vì giá trị danh nghĩa của các giao dịch (T) rất khó đo lường cho nên học thuyết số lượng đã được phát biểu theo tổng sản phẩm (Y):

MV=PY

<b>6. Cơng cụ của chính sách tiền tệ: </b>

Là những hoạt động của Ngân hàng trung ương nhằm tác động đến cung tiền và lãi xuất, qua đó nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương sử dụng hai nhóm cơng cụ chính sách tiền tệ đó là:

 Những công cụ gián tiếp được dùng phổ biến hiện nay như:

- Nghiệp vụ thị trường mở: Trong các cơng cụ điều chỉnh chính sách tiền tệ thì cơng cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều chỉnh khối lượng tiền lưu thông và lãi suất.

- Nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương tham gia mua hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các ngân hàng thương mại với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hịa cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 10 </small></b>

hàng trung ương, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng này.

Trên thị trường tiền tệ, ngân hàng trung ương chủ yếu mua bán trái phiếu của Chính phủ và trái phiếu ngân hàng trung ương để làm tăng giảm khối dự trữ của ngân hàng thương mại, khi đó, ngân hàng thương mại có thể mở rộng hoặc hạn chế khả năng cho vay.

Việc ngân hàng trung ương mua trái phiếu góp phần tăng cung tín dụng, từ đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi vay. Đây cũng là một cách gia tăng khối tiền tệ. Ngược lại, bằng cách bán trái phiếu trên thị trường tiền tệ cho ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương thu hút tiền vào làm giảm bớt khối tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương bị giảm, từ đó hạn chế khối lượng cấp tín dụng của ngân hàng thương mại.

Nếu sự mua bán trái phiếu khơng có ngân hàng trung ương tham gia mà chỉ là giữa các ngân hàng thương mại với nhau thì khối tiền tệ khơng thay đổi. Đó chỉ là sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng thương mại này sang ngân hàng thương mại khác và một sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng dư của ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng thiếu.

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm 1920. Nó là cơng cụ tác động mạnh, linh hoạt và chủ động, cơng cụ này có thể hạn chế được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt ở chỗ là dễ đảo ngược được tình huống khi phát hiện tiền lưu thơng thừa hay thiếu bằng cách mua hoặc bán ra các giấy tờ có giá trị. Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.

Ở Việt Nam, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bằng việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 11 </small></b>

Nhà nước. Do đó, hiệu quả điều tiết khơng cao, chỉ chủ yếu tác động vào dự trữ của các ngân hàng.

Tỉ lệ dự trữ bắt buộc: Các ngân hàng trung gian phải ký gửi tại ngân hàng trung ương một phần của tổng số tiền gửi mà ngân hàng trung gian nhận được từ dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định.

Phần bắt buộc ký gửi đó được gọi là tiền gửi dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements) và tỷ lệ phần trăm mà ngân hàng trung ương quy định như trên được gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền gửi huy động được mà các ngân hàng thương mại không được sử dụng để kinh doanh. Mục đích của việc thực hiên dự trữ bắt buộc là nhằm:

- Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian, hoặc trong những trượng hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi (bank run) của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng ngân hàng.

- Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng.

- Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở ngân hàng trung ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của các ngân hàng trung gian đối với ngân hàng trung ương.

Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, ngân hàng trung ương muốn khuyến khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ, tức là muốn gia tăng khối tiền tệ. Điều này sẽ kích thích được các hoạt động kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài chính giữa các

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 12 </small></b>

doanh nghiệp, thể hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương muốn giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ “thắt chặt” hay hạn chế khối tiền tệ. Điều này tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng trung gian.

Vì vậy, khi tiến hành gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào đó của ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp, cộng vào đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt nhiều mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn, do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, ngân hàng trung ương có thể quy định tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn.

Chính sách chiết khấu: Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ, bằng nguồn vốn huy động tiền gửi là chính. Nhưng khơng phải lúc nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng thiếu vốn. Những trường hợp ào ạt rút tiền thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó, nhiều ngân hàng khó tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng thanh khoản. Vì vậy, nếu khơng có ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ rất dễ rơi vào tình trạng phá sản. Chính vào những lúc khó khắn đó, ngân hàng thường mại tìm đến sự giúp đỡ của ngân hàng trung ương, người cho vay cuối cùng.

Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua nhiều hình thức, thơng dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã làm tăng khối tiền lưu thông. Đây là hình thức phát hành tiền

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 13 </small></b>

được xem là lành mạnh do được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các chứng khoán đáo hạn ngân hàng trung ương sẽ địi được các món nợ đã cho vay. Bên cạnh đó, việc cho vay này ln gắn liền với yêu cầu của nền kinh tế do sự tác động trực tiếp của quy luật cung cầu.

Thường thì việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ được thơng qua lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách hạn chế (thắt chặt) tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất chiết khấu lên. Khi đó, các ngân hàng thương mại sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt những cơ hội cho vay và ngược lại, nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng (nới lỏng) ngân hàng trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu, ngân hàng thương mại trong trường hợp này đi vay rẻ, nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay tăng.

Tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại là công cụ đắc lực trong định hướng phát triển kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, ngân hàng trung ương sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu. Tuy nhiên khi chấp nhận tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã tăng khối lượng tiền cung ứng. Chính vì tầm quan trọng đó nên ngân hàng trung ương chỉ có thể chấp nhận tái chiết khấu theo điều kiện:

- Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức cấp tín dụng cho nền kinh tế cịn được phép cung ứng thêm.

- Bản thân các ngân hàng thương mại đem hối phiếu để tái chiết khấu phải là những hối phiếu tốt.

Như vậy, chiết khấu và tái chiết khấu chính là việc ngân hàng trung ương “mua” các thương phiếu của ngân hàng thương mại nhằm điều chỉnh mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều chỉnh cung ứng tiền tệ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 14 </small></b>

Tuy nhiên, mỗi một cơng cụ đều có ưu nhược điểm riêng của nó, cơng cụ tái cấp vốn (tái chiết khấu) có ưu điểm và nhược điểm sau:

-Ưu điểm: Các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá do nó có khả năng thanh tốn. Đồng thời cơng cụ tái chiết khấu có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay hạn chế.

-Nhược điểm: Ngân hàng trung ương thụ động khi cung ứng tiền tệ, vì việc vay hay không vay chủ động nằm ở ngân hàng thương mại

 Nhóm cơng cụ trực tiếp thường mang tính hành chính như:

- Hạn mức tín dụng: là mức dư nợ tối đa mà mỗi tổ chức tín dụng được phép duy trì theo quy định của Ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ. Hạn mức tín dụng cho các tổ chức tín dụng là khác nhau, phụ thuộc vào đặc thù và năng lực kinh doanh cũng như mức tổng dư nợ tín dụng dự tính của Ngân hàng trung ương cho tồn bộ nền kinh tế cho từng thời kỳ tại mỗi quốc gia.

- Khung lãi suất: Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, Ngân hàng trung ương thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích thích các ngân hàng thương mại và tổ chức tính dụng sử dụng tiền vay của ngân hàng trung ương để tăng cường tín dụng cho nền kinh tế. Ngược lại, để thực hiện chính sách tiền thắt chặt, Ngân hàng trung ương điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế quy mơ tín dụng của các ngân hàng thương mại cho nền kinh tế.

- Biên độ giao động tỷ giá ít khi được dùng tới: Khi tỷ giả hối đoái biến động, Ngân hàng trung ương phải can thiệp vào thị trường mở để ổn định tỷ giá hối đoái bằng việc mua hoặc bán một lượng ngoại tệ

<b>III. LẠM PHÁT </b>

<b>1. Khái niệm lạm phát </b>

Lạm phát đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ rất sớm, hầu hết các nhà nghiên cứu về lạm phát đều đồng ý rằng “lạm phát là hiện tương tăng giá liên tục của mức giá chung trong một khoảng thời gian”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 15 </small></b>

Lạm phát cũng thể hiện ở những mức độ nghiêm trọng khác nhau.

- Lạm phát vừa phải: được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự đoán trước được, tỷ lệ lạm phát hàng năm dưới một con số có thể coi là lạm phát vừa phải. Khi đó, các thành phần trong nền kinh tế tin tưởng vào việc giữ tiền mặt và ký các hợp đồng tính theo giá của đồng bản tệ, vì họ tin rằng giá của loại hàng hóa được mua khơng chệch đi quá xa.

- Lạm phát phi mã: là tỷ lệ lạm phát trong phạm vi hai chữ số hoặc ba chữ số, như 20%, 100% hay 200%. Một khi lạm phát phi mã diễn ra thường xuyên thì sẽ đưa đến rất nhiều biến dạng kinh tế nghiêm trong. Trước nhất, các hợp đồng mua bán có thể sẽ được neo vào một chỉ số giá nào đấy hoặc theo ngoại tệ có thể là đơla hoặc Euro. Khi xảy ra lạm phát phi mã, đồng tiền tại quốc gia đó bị mất giá trị rất nhanh, đưa đến các thành phần trong nền kinh tế chỉ giữ một lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các thanh toán hàng ngày, họ sẽ chuyển tiền sang các loại đầu tư không bị ảnh hưởng bởi lạm phát và không gửi tiền tiết kiệm với mức lãi suất danh nghĩa. Tại Việt Nam, trong những năm 80 của thế kỷ trước, chúng ta cũng đã có tỷ lệ lạm phát đến 300%.

- Siêu lạm phát: diễn ra khi giá cả trong một nền kinh tế thị trường tăng hàng triệu hay thậm chí hàng tỷ phần trăm một năm. Các nhà nghiên cứu nhận thấy một số đặc điểm thường gặp của siêu lạm phát, thứ nhất cầu về tiền giảm mạnh (đo bằng trữ lượng tiền chia cho mức giá), thứ hai giá cả và lương thực tế khơng ổn định. Siêu lạm phát có thể hủy hoại thành quả lao động của các thành phần trong nền kinh tế như một thảm họa tự nhiên. Thế giới đã được chứng kiến siêu lạm phát tại Đức vào đầu thế kỷ XX và tại Zimbabwe trong thời gian gần đây.

<b>2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát </b>

Milton Friedman đã đưa ra một kết luận nổi tiếng “Lạm phát mọi nơi và mọi lúc đều là hiện tượng tiền tệ”, nghĩa là khi tăng cung tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ thông qua việc Ngân hàng nhà nước mua trái phiếu do

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 16 </small></b>

Chính phủ phát hành, thì lạm phát là không thể tránh khỏi. Lý thuyết này được giải thích bới tiền đề tiền tệ trung lập, tiền đề này cho rằng cung tiền tăng lên hoàn toàn khơng tác động gì đến số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và số việc làm.

Keynes thi cho rằng, việc bù đắp chi tiêu bằng cách tăng cung tiền sẽ không dẫn tới lạm phát cao, nếu trong nền kinh tế tại quốc gia đó đang có thất nghiệp cao và các doanh nghiệp chưa tận dụng được hết năng lực sản xuất của mình. Nói cách khác là nền kinh tế chưa đạt được mức GDP tiềm năng của mình.

Keynes phân biệt có hai loại lạm phát, đó là lạm phát hàng hóa và lạm phát thu nhập (Luận thuyết về tiền tệ,1930). Trong đó lạm phát hàng hóa xảy ra khi giá thị trường của các hàng hóa được sản xuất hàng loạt và lâu dài như nông sản, dầu thô, khống sản… tăng lên. Tương đương khi cầu hàng hóa trong tương lai tăng đột biến trong khi cầu không thay đổi, thì khi đó giá thị trường sẽ tăng vọt. Lạm phát thu nhập xuất hiện khi chi phí sản xuất hàng hóa tăng lên, điều nay đưa đến việc các doanh nghiệp sẽ phải tăng giá bán để đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất như tiền lương, nguyên vật liệu, chi phí cho vốn vay đều trở lên đắt hơn. Trong khi, năng suất lao động không tăng, hoặc tăng không nhanh bằng tốc độ tăng của chi phí sản xuất được tính bằng tiền.

Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, khi các nhà kinh tế học của trường phái cơ cấu nghiên cứu về lạm phát tại các nước đang phát triển đã tìm thấy một nguyên nhân gây ra lạm phát là sự không co giãn của cung và sự cứng nhắc của cơ cấu giữa các khu vực trong nền kinh tế (Torado,1989). Các nhà kinh tế học đều xây dựng căn cứ để xác định lạm phát cơ cấu dựa trên ba yếu tố căn bản:

- Giá tương đối thay đổi khi cơ cấu kinh tế thay đổi - Sự kém linh hoạt của giá cả và tiền tệ

- Cung tiền thụ động để cân bằng lượng cầu dư trong thị trường hàng hóa và dịch vụ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 17 </small></b>

Tổng kết lại, cho dù tiếp cận từ các góc độ khác nhau, các nguyên nhân khác nhau để phân tích ngun nhân gây ra lạm phát, thì các nhà kinh tế học đều chấp nhận rằng lạm phát xảy ra khi tổng cầu hàng hóa và dịch vụ vượt quá tổng cung hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế.

Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cấu bao gồm:

- Nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu phải kể đến sự tăng cung tiền, tăng thu nhập khả dụng, tăng chi tiêu công cộng của chính phủ, tăng tiêu dùng, mở rộng tín dụng, mở rộng khu vực kinh tế tư nhân, tăng hàng xuất khẩu, manh nên của nền kinh tế ngầm và một số nhân tố ít ảnh hưởng khác

- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung gồm có thiếu các nhân tố sản xuất, sự mất ổn định trong công nghiệp, thiên tai và dịch bệnh trong nông nghiệp, sự khan hiếm hàng giả tạo, tăng hàng xuất khẩu, sự độc quyền và các nhân tố khác.

- Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế và công ăn việc làm. Đối với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra cơ bản là có tác động làm tăng trưởng nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng nghĩa với việc cung tín dụng phát triển quá nhanh chóng, các nhà kinh doanh có cơ hội để đầu tư thêm, cơng ăn việc làm cũng được tạo ra nhiều hơn. Nhưng khi lạm phát giảm đột ngột thì sẽ làm cho nền kinh tế bị co

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 18 </small></b>

hẹp lại quá nhanh, hậu quả là số lao động giảm và thiết bị bị bỏ không, không sử dụng hết năng lực của nền kinh tế, ví dụ như nến kinh tế Việt Nam tại thời điểm 2012. Các món nợ ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được trong thời kỳ lạm phát, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ khơng thiệt hại gì cả. Chỉ có người gửi tiền mới bị thiệt hại.

Các tác động khác của lạm phát

- Lạm phát cân bằng có dự tính được trước: đây là một trường hợp lý tưởng khi giá cả tăng lên 10% chằng hạn, thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 10% có nghĩa là lạm phát khơng ảnh hưởng gì đến thu nhập, nó khơng phân phối lại thu nhập. Ở đây Nhà nước đã dự đoán trước được thu nhập và điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, người dân cũng vậy, họ cũng biết trước được tỷ lệ lạm phát và điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình cho phù hợp.

- Một cuộc lạm phát vừa cân bằng, vừa dự đốn trước được khơng có ảnh hưởng gì đến sản lượng thực tế, hoặc phân phối lại thu nhập.

- Lạm phát không cân bằng: thực tế là lạm phát thường đẩy các loại chi phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên. Có nghĩa là nó có ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập.

<b>4. Các biện pháp kiềm chế lạm phat </b>

 Chính sách hạn chế lượng cung tiền

Biện pháp này thực hiện khi lạm phát diễn ra ở một tốc độ siêu tốc hoặc phi mã. Thực hiện chính sách thắt chặt lượng cung tiền tệ, ngân hàng trung ương của các nước thường thực hiện chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt nhằm hạn chế khối lượng tiền lưu thông, cịn Chính phủ thường thực hiện chính sách hạn chế chi tiêu hoặc các biện pháp khác, đây là biện pháp chủ yếu để kiểm soát lạm phát.

 Chính sách tiền tệ

- Để thực hiện chính sách tiền tệ, hạn chế bằng hai cách “đóng băng” tiền tệ hoặc “hút” bớt tiền từ lưu thông về, ngân hàng trung ương sử dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ theo hướng:

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 19 </small></b>

+ Gia tăng lãi suất để hạn chế nhu cầu vay vốn của nền kinh tế đồng thời kích thích tăng lượng tiền gửi của doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân cư vào ngân hàng.

+Chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. + Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại.

+ Thực hiện các biện pháp khác nhau nhằm rút bớt khối lượng tiền thừa trong lưu thông như bán: chứng khoán, vàng, ngoại tệ,.. nhằm thu hút tiền lưu thông vào hệ thống ngân hàng.

- Đối với chính sách tài chính:

+ tiết kiệm chi Ngân sách Nhà nước, cắt giảm chi tiêu của Chính phủ mà khơng tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế, giảm biên chế nhằm giảm bớt các khoản chi tiêu phúc lợi xã hội, chi quốc phòng an ninh và các khoản chi khác.

+ Nỗ lực khơi tăng các nguồn thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí và các khoản khác, tăng thu nhập cũng phải chú ý đến đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, đặc biệt chính sách thuế phải có tác động hướng tới thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.

+Hạn chế bội chi ngân sách Nhà nước, đặc biệt là bội chi thường xuyên cho chi lương, không sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách.

- Chính sách thu nhập:

Trong thời kỳ lạm phát Chính Phủ thường phải thi hành biện pháp hạn chế việc tăng thu nhập làm giảm áp lực gia tăng cung ứng tiền tệ vì nếu tăng cung ứng tiền tệ có thể sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên.

<i>- Chính sách về lao động. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<i><b><small>Trung tâm Đào tạo E – Learning Cơ hội học tập cho mọi người </small></b></i>

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 20 </small></b>

Lao động là 1 trong các yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của nền kinh tế, nghĩa là lao động là yếu tố trực tiếp quyết định đến sản lượng, đến tổng thu nhập xã hội; đến lạm phát.

Mặt khác từ mơ hình đường cong Phillips đơn giản, người ta thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp. Do vậy trong điều kiện để hạn chế, kiểm soát lạm phát, người ta phải chấp nhận 1 tỉ lệ thất nghiệp nhất định để “mua” lấy 1 tỷ lệ lạm phát mong muốn.

 Biện pháp mở rộng cầu

Biện pháp này thực hiện khi lạm phát diễn ra tốc độ vừa phải, lạm phát thấp.

<i>-Thi hành các biện pháp nhằm gia tăng khối lượng hàng hóa cung ừng cho nền kinh tế bằng cách thực hiện: </i>

Kế hoạch sản xuất và lưu thơng hàng hóa phù hợp. Việc gia tăng sản xuất hàng hóa trong nước là biện pháp cơ bản nhất mang tính chiến lược, nhằm tạo cơ

<i>sở phát triển lưu thong hàng hóa và ấn định lưu thơng tiền tệ. </i>

Trước mắt, cần phải nhập khẩu hàng hóa thiết yếu cung ứng cho nền kinh tế, giảm bớt căng thẳng mất cân bằng cung – cầu hàng hóa nhầm thiết lập thể cân bằng mới.

<i>- Thi hành biện pháp nhằm ổn định giá cả: </i>

Nhằm để hạn chế sự gia tăng của giá cả đối với 1 số mặt hàng thuộc lĩnh vực: nông sản, công nghệ, nhập khẩu dịch vụ bằng các biện pháp:

Thực hiện việc kiểm soát giá cả, nhất là kiểm soát đối với các mặt hàng đầu mối, nguyên vật liệu.

Thực hiện chính sách tự do mậu dịch để hàng hóa tự do dịch chuyển, điều hịa giữa nơi thừ và nơi thiếu.

Nới lỏng hàng rào thuế quan, khuyến khích nhập khẩu hàng hóa với giá rẻ cung ừng cho nền kinh tế.

<i><b>Chúc Anh/Chị học tập tốt! </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b><small>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 2 Trang 21 </small></b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>

1. TS.Nguyễn Tiến Hùng – Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Viện Đại học Mở Hà Nội – NXB Thông tin và Truyền thơng năm 2013.

2. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học Kinh Tế Quốc Dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<i><b>Trung tâm Đào tạo E-Learning Cơ hội học tập cho mọi người </b></i>

<b>Lý thuyết tài chính tiền tệ - Bài 3 </b> Trang 1

<b>BÀI 3: TÍN DỤNG – LÃI SUẤT TÍN DỤNG </b>

 Tìm hiệu về bản chất và chức năng lãi suất và tín dụng.

 Nghiên cứu sự khác biệt giữa các loại lãi suất và vai trò của lãi suất đối với tăng trưởng kinh tế.

 Nghiên cứu các hình thức tín dụng và vai trị của nó đối với nền kinh tế.

 Tìm hiểu mối quan hệ giữa lãi suất và tín dụng trong thời gian qua tại Việt Nam.

<i><b>Mục tiêu : </b></i>

Học viên sau khi nghiên cứu xong bài này cần phải:

 Hiểu được khái niệm lãi suất và các loại lãi suất khác nhau.  Nẵm vững được các hình thức tín dụng.

 Hiểu được vài trị lãi suất và tín dụng đối với nền kinh tế.

 Hiểu được biến động thức tế của lãi suất và tín dụng trên thị trường tài chính

</div>

×