Tải bản đầy đủ (.pdf) (335 trang)

Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học: Nghiên cứu đối chiếu hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.25 MB, 335 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI. ¬¬

<small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI. an

TRUONG DAI HOC KHOA HOC XA HOI VA NHAN VAN

<small>SIRTWONG HONGSA WAN</small>

NGHIEN CUU DOI CHIEU HANH DONG BAC BO

TRONG TIENG THAI VA TIENG VIET

<small>Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ</small>

Mã số: 62 22 01 01

LUẬN ÁN TIEN SĨ NGÔN NGỮ HOC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. NGUYÊN VĂN HIỆP2. GS.TS. PHAM ĐỨC DƯƠNG

HÀ NOI - 2009

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>Chiến lược trực tiếp</small>

Chiến lược gián tiếp

Tién gia dinh

<small>Verb</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghiên cứu đối chiếu hành động bác bỏ (HĐBB) trên cứ liệu tiếng Thái vatiếng Việt có thé cho thấy những nét tương đồng và khác biệt về ngơn ngữ, về tínhlịch sự, về cách ứng xử văn hóa và cách thức tư duy thé hiện trong hành động ngôn

từ (HDNT) của hai dân tộc. Hiện nay vẫn cịn ít tài liệu tham khảo cả tiếng Việt lẫn

tiếng nước ngoài về các HĐNT xét theo góc độ đối chiếu, đặc biệt là đối chiếu tiếngThái với tiếng Việt.

Khi nói đến những nghiên cứu về ngữ dụng học và đặc biệt về hành động(HĐ) giao tiếp có liên quan đến tiếng Thái và tiếng Việt, người ta chỉ chủ yếu nhắcđến một số luận văn thạc sĩ và một vài (rất ít) luận án tiến sĩ của Thái Lan và ViệtNam. Qua thật, từ năm 1996 đến nay có một số luận văn thạc sĩ và luận án tiễn sĩthực hiện tại Thái Lan và Việt Nam sử dụng lý thuyết “Hành động ngôn từ” củaJohn L. Austin và John R. Searle. Ở Thái Lan có những luận văn và luận án như

<small>“The Speech Act of Apologizing in Thai” (ấnunzsums991ntTuaatirÌnø) của ThasaneeMakthavornvattana (1998), “The Speech Act of Promising in Thai Children: a</small>

<small>Metapragmatic Study” (jounssumadamiuveaan ne: msfnuvivontouilgiuamans ) của Sinee</small>

<small>Wanitchanon (1998), “Linguistic Device in Examination in Chief, </small>

<small>Cross-Examination, Re-Examination in Trial” (na3mmwamrÌun1snrổn thẩm owas</small>

<small>jumsiisisaiaa) của Sareeya Thabthan (2000), “Responding to Apologies in Thai”(msnousumivelnuluawiins) cua Passapong Pewporchai (2002), “Indirectness as</small>

<small>Communicative Strategy in Japanese Language” (natimsaoaislaumsyadoulummndiy)</small>

<small>cua Watcharachai Khobluang (2004), “Strategies for Expressing Conflict in Thai”</small>

<small>(natimsudaanrmnulaudalumuiins) của Supasinee Pothiwit (2004), v.v. Con trong văn</small>

liệu tiếng Việt, đã xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu như: “Ngữ nghĩa-ngữdụng câu hỏi chính danh (Trên ngữ liệu tiếng Việt)” của Lê Đơng (1996), “Một sốkhác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mĩ trong cách thức khen và tiếp nhận lời khen” củaNguyễn Quang (1999), “Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (các hành thức thoại

<small>1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

dẫn)” của Mai Thị Hảo Yến (2000), “Co sở giải nghĩa hàm 4n của các hành vi ngônngữ gián tiếp trong hội thoại” của Đặng Thị Hảo Tâm (2002), “Một số đặc điểmngơn ngit-van hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu vớitiếng Anh)” của Nguyễn Phương Chi (2004), “Phương thức biểu hiện hành vi từchối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)” của Trần Chi Mai

(2005), “Hành động phản bác trong tiếng Việt?” của Nguyễn Thị Kim Dung (2006),

v.v. Có thé thấy, trong một bối cảnh nghiên cứu chung như vậy, việc nghiên cứuHĐBB trong phối cảnh đối chiếu giữa tiếng Thái và tiếng Việt quả thật là mộtkhoảng trống cần được bồ khuyết càng sớm càng tốt.

Ngày nay trong xu thế hội nhập của tồn cầu hóa, việc thương lượng, đàmphán kinh tế giữa các quốc gia là lĩnh vực của những chấp thuận và BB, vậy cầnphải biết cách BB và biết cách giữ hịa khí v.v. Đối với HDBB, chúng tôi cho rang

đây là một dé tài nghiên cứu đầy hứa hẹn vì cấu trúc ngơn ngữ dùng dé thực hiện

HĐBB rất phong phú. Đặc biệt là HDNT này liên quan đến một loạt nhân tố ngữdụng thú vi, chăng hạn như phải chọn chiến lược bác bỏ (BB) như thế nào để đạthiệu qua cao nhất, sử dụng những biểu thức điều biến (modification) nào đề có thé

bao đảm được tính lịch sự. Có thé nói BB là một trong những HD dé làm mắt lòng

người đối thoại nhất, vì thế việc nghiên cứu loại HDNT này sẽ góp phan làm sángtỏ những van dé trung tâm nhất của ngữ dụng học.

Theo từ điển tiếng Việt (1997) của Hoàng Phê (Chủ biên), BB là: “...bác đi,gạt đi khơng chấp nhận” [40, 22]. Cịn theo từ điển tiếng Việt (2001) của Bùi Quang

<small>Tịnh, BB là: “không nạp, khơng nhận” [57, 30]. Hiệu lực của lời nói BB được</small>

Nguyễn Thị Thìn (2003) mở rộng, cụ thé hóa ở phương diện phạm vi, đó là: “...phủ

định một lời khẳng định, đốn định, phê phán buộc tội trước đó của người đối

thoại” [55, 174]. BB là một trong những HD dễ de dọa đến thé diện người nghe

nhất cho nên trong tiếng Thái và tiếng Việt có những chiến lược làm giảm thiểu sựmắt thê diện. Ở đây, cũng cần phân biệt BB với từ chối. BB khác với từ chối vì BBlà BB về mặt thơng tin, tức là có một người đưa ra một nhận định (tiếng Anh gọi là

<small>“statement” hoặc “assertion”) sau đó có người phủ định (PD) thơng tin đó. Cịn từ</small>

<small>2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chối là khơng chấp nhận lời mời. Ví dụ, có người mời: “Em có muốn đi ăn cơm vớianh khơng?” Người được mời có thé từ chối: “Em khơng đi được vì em có hẹn rồi”.

Mặc dù tiếng Thái và tiếng Việt có nguồn gốc khác nhau (tiếng Thái có nguồnsốc “Thai Kadai” và tiéng Việt có nguồn sốc “Nam A” [96, 1] ), có điện mao ngữâm, từ vựng, ngữ pháp khác nhau, chúng tôi vẫn đặt ra giả thuyết nghiên cứu là: bên

<small>cạnh những điểm khác biệt thì HĐNT nói chung và BB nói riêng trên cứ liệu hai</small>

thứ tiếng ắt có nhiều điểm tương đồng, thể hiện những phương diện chung nào đó

trong chiến lược giao tiếp. Việc tìm hiểu HĐBB theo hướng đối chiếu, so sánh như

vậy là rất quan trọng trong việc dạy và học tiếng với tư cách là một ngoại ngữ.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng của luận án là HĐBB, một loại HĐNT luôn luôn đe dọa xúcphạm thể diện, và do đó nó đặt ra nhiều vấn đề có liên quan về lịch sự, về ứng xử

văn hóa. Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của luận án là HDBB trong tính tồn

diện của nó. Việc nghiên cứu HDBB trong tính tồn diện, nhiều chiều kích của nó

sẽ cho phép hiểu sâu hơn những đặc trưng văn hóa ứng xử của người Thái Lan và

<small>người Việt Nam.</small>

2.2. Cũng như các HĐ khác, BB có trường hợp gián tiếp, có trường hợp trựctiếp. Khi nào người ta bác bỏ gián tiếp (BBGT) là vấn đề rất thú vị, có liên quan đếnnhững nguyên tắc giao tiếp chung, nhưng cũng liên quan đến những đặc thù văn hóariêng của các cộng đồng dân tộc.

2.3. HDBB là HD có rất nhiều dấu hiệu tường minh (explicit), đã 6n định hay

đang trên đường ổn định. Trong trường hop lí tưởng nhất, khi dấu hiệu BB là ổnđịnh, có thé thay quan hệ giữa BB (một HD) và một loại câu, đó là câu PD! (một

kiến trúc ngơn ngũ).

<small>3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án</small>

<small>Luận án đặt cho mình mục đích và nhiệm vụ sau đây:</small>

3.1. Khảo sát HĐBB trên cứ liệu tiếng Thái và tiếng Việt.

<small>LỞ đây, cần nhắc lại rằng bác bỏ không nhất thiết phải dùng câu phủ định (đây là trường hợp chọn lối bác bỏ</small>

<small>gián tiếp), và ngược lại, câu phủ định không nhất thiết chi dung dé bác bỏ, mà có thé dùng dé miêu tả cũngnhư thực hiện nhiều hành động ngôn từ khác.</small>

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

3.2. Tìm hiểu những nét tương đồng và khác biệt trong cấu trúc hình thức vàngữ nghĩa của những phát ngôn dùng dé thực hiện HĐBB trong tiếng Thái và tiếng

3.3. Phân tích ảnh hưởng của phép lịch sự đối với HDBB, qua đó đưa ranhững nhận xét về cách ứng xử văn hóa và cách thức tư duy của hai dân tộc Thái vàViệt được thể hiện qua HĐBB.

<small>4. Đóng góp mới của luận án</small>

Về ý nghĩa lý luận, luận án góp phần làm rõ những tương đồng và khác biệtcủa HĐBB trong tiếng Thái và tiếng Việt ở cả hai mặt hình thức tổ chức và ngữ

nghĩa-ngữ dụng. Sau nữa, đối với một loại HĐNT có nhiều điểm thú vị như BB,

luận án cũng đặt cho mình nhiệm vụ bước đầu giải thích những tương đồng, khácbiệt của HD này trong tiếng Thái và tiếng Việt từ góc độ tư duy và văn hóa.

Về ý nghĩa thực tiễn, chúng tôi cho rằng kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có

<small>tác dụng tích cực trong việc biên soạn các tài liệu giảng dạy và xây dựng phương</small>

pháp học ngoại ngữ theo lí thuyết HĐNT, ứng dụng trong lĩnh vực dịch thuật, gópphần tăng sự hiểu biết về phép lịch sự, về ứng xử văn hóa ngôn từ và về phương

thức tư duy của người Thái Lan và người Việt Nam. Tat cả đều là chìa khóa cho sự

<small>hợp tác thành cơng và có hiệu quả giữa hai dân tộc.5. Phương pháp nghiên cứu va tư liệu nghiên cứu</small>

5.1. Phương pháp nghiên cứu: Dé làm sáng tỏ HDBB trên cứ liệu tiếng Tháivà tiếng Việt, luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp

<small>qui nạp và phương pháp diễn dịch, vận dụng chúng một cách linh hoạt, trong đó</small>

<small>phương pháp qui nạp là phương pháp chủ đạo.</small>

Phương pháp qui nạp được thực hiện qua việc thu thập tư liệu về HĐBB trong

tiếng Thái và tiếng Việt, từ đó đi đến khái quát hóa hai chiến lược BB với những

biểu hiện cụ thé của chúng.

Phuong pháp diễn dịch được thể hiện trong luận án thơng qua ngun lí lịchsự, diễn giải ngun lí này với tư cách là nguyên lí phổ quát chi phối giao tiếp ngơn

<small>từ nói chung và BB nói riêng.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Đi vào những van dé cụ thé, luận án sử dụng một loạt các thủ pháp nghiên cứungơn ngữ học như thủ pháp miêu tả định tính, thủ pháp so sánh đối chiếu và thủ

<small>pháp phân tích ngữ cảnh. Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng phương pháp khảo sát</small>

mang tính xã hội học, áp dụng cho các phiếu điều tra HĐBB.

5.2. Tư liệu nghiên cứu: Ngữ liệu nghiên cứu được khai thác từ các nguồn

<small>chính sau đây:</small>

5.2.1. Tư liệu chính được rút ra từ những phiếu điều tra HĐBB của sinh viên,

học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tiếng Thái và Ngôn ngữ học của

Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Chulalongkorn, Băng Cốc, Thái Lan và sinh<small>viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Ngôn Ngữ học của Khoa</small>Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc giaHà Nội, Việt Nam. Số lượng của phiếu điều tra cho mỗi ngôn ngữ là 100 phiếu,

được phát bằng cách gửi thư điện tử và phát trực tiếp. Những câu trả lời tiêu biểu

được người viết chọn đề làm ví dụ cho luận án. Trong trường hợp có phát ngơn BBhay mà chúng tơi chưa hiểu rõ hoặc muốn tìm hiểu thêm về ý nghĩa và cách sử dungphát ngơn đó, chúng tơi sẽ phỏng vấn thêm bằng cách chát online, gửi thư điện tử,

hoặc hỏi trực tiếp chủ nhân của lời BB đó.

5.2.2. Ngồi ra không thé không ké đến những phát ngôn BB được quan sát từthực tế tiếng Thái và tiếng Việt vì người viết luận án trực tiếp trải nghiệm mơi

<small>trường sinh ngữ trong cả hai xã hội Thái Lan và Việt Nam.</small>

5.2.3. Một số phát ngôn BB được chọn lọc và suy ngẫm dựa trên tư liệu quansát được trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như trong các ấn phẩm chính thức

về ngơn ngữ học trong tiếng Thái và tiếng Việt.

<small>Ca 3 phương pháp trên vừa mang tính ngoại quan (extrospective) (quan sát,</small>

thu thập tư liệu) nhưng vừa mang tính nội quan (introspective), có tính đến những

đánh giá chủ quan của bản thân người viết luận án.

6. Bố cục của luận án

<small>Ngoài phân mở đâu và kêt luận, luận án gôm bôn chương:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Chương thứ nhất: Phan cơ sở lí thuyết. Chương này nhấn mạnh vào lí thuyếtHĐNT của John L. Austin và John R. Searle. Sau đó là lí thuyết về ngun lí lịch sựcủa Penelope Brown và Stephen C. Levinson, cùng một số vấn đề có liên quankhác như vấn đề cặp thoại (xác tín / BB), tiền giả định (TGĐ) và hàm ý (HY). Tấtcả nhằm đến mục đích là nêu ra một cái phơng (background) tri thức cần thiết cho

việc tìm hiểu HĐBB.

Chương thứ hai: Miêu tả về HĐBB trong tiếng Thái.

Chương thứ ba: Miêu tả về HĐBB trong tiếng Việt.

Chương thứ tư: Đối chiếu những nét tương đồng và khác biệt trong HDBB

giữa tiếng Thái và tiếng Việt. Trong chương này, một số khuôn mẫu của HDBB

<small>trong hai ngôn ngữ sẽ được xem xét tỉ mi. Chương nay cũng phân tích ngun lí</small>

lịch sự, cách ứng xử văn hóa có liên quan và cách thức tư duy được thể hiện trong

<small>HĐBB của người Thái và người Việt.</small>

7. Kết quả có thể đạt được

7.1. Trong phối cảnh so sánh, luận án đi đến xác định những nét tương đồngvà khác biệt trong cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của các phát ngôn được dùng déthực hiện HĐBB trong tiếng Thái và tiếng Việt, nghiên cứu phép lịch sự cùngnhững đặc trưng văn hóa-tư duy được thể hiện trong HĐBB nói riêng và hoạt độnggiao tiếp liên nhân nói chung trong tiếng Việt và tiếng Thái.

7.2. Kết quả của luận án này có thé giúp cho việc biên soạn các sách dạy tiếngThái và tiếng Việt theo định hướng giao tiếp. Kết qua của luận án cũng có thé đượcáp dụng dé nâng cao chất lượng bién-phién dịch Thái-Việt có liên quan đến HDBB

<small>nói riêng và HĐNT nói chung.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>CHƯƠNG 1</small>

CƠ SỞ LÝ THUYET

1.1. Lý thuyết “Hành động ngôn từ”(Theory of Speech Act)” của John L.

<small>Austin và John R. Searle</small>

1.1.1. Lý thuyết “Hành động ngôn từ” của John L. Austin

1.1.1.1. Bối cảnh ra đời của “How to Do Things with Words”

Austin, nhà triết học thuộc trường phái Triết học “Theo nội hàm”(Intentionalist), là người đầu tiên đưa ra quan niệm về “Hanh động ngơn từ ”

<small>(Speech Act), trình bày tại Trường Đại học Harvard, được in thành sách với tên gọi</small>

“How to Do Things with Words” năm 1962 sau khi ông mat. Trong cuốn nàyAustin đã phat biểu một mệnh đề rất quan trọng đến nỗi bất kì ai đọc nó đều phải

<small>nhớ, đó là “khử tơi nói tức là tôi hành động” (WhenI say, (...) I do) [64, 6]. Nghĩa</small>

là, nói năng là một HD giống như các HD khác của con người, có điều đây là loạiHD được thực hiện bằng lời. HD của người nói gây ra biến đổi nào đó trong thực tếvà những ảnh hưởng nào đó ở đối tượng tiếp nhận.

1.1.1.2. Những “Hành động ngôn từ” theo quan điểm của John L. AustinTrước hết, trong thực tiễn hành ngôn, Austin phân biệt 2 kiểu câu:

1) Câu tường thuật (Constative Sentence)’ là câu người ta ding dé thơng báo

về cái gì đó với ý nghĩa tương đối ơn định và người ta có thể nhận xét câu nói đó là

<small>đúng hay sai.</small>

<small>Ví dụ: Chi Siriwong là nghiên cứu sinh, người Thái Lan.</small>

Câu này là đúng nếu có bằng chứng thực tế chứng minh như hộ chiếu, lí lịch

<small>khoa học v.v. của chị Siriwong.</small>

<small>? Tên gọi “Lý thuyết hành động ngôn từ” dùng theo Cao Xuân Hạo (2005) cho hợp với thuật ngữ tiếng Tháivì tiếng Thái gọi “hành động ngơn từ” là “ãunzzi” [wa ! E&ca&na!?&kam], tu [wa!&ca&na!'?] là siya</small>

<small>[kHamépHu#:t] nghĩa là “lời nói, tiếng Anh dùng từ “speech”, cịn mzw [kam] là nwnszth[ka:n&kra&tHam] nghĩa là “hành động”, tiếng Anh dùng từ “act”. Vì vậy, tất cả có nghĩa là “hành động</small>

<small>của lời nói”. Hiện nay cịn có một số cách dịch khác: “Hành vi ngôn ngữ” (Nguyễn Đức Dân, 2000; Đỗ HữuChâu, 2003), “Hành vi nói năng” (Nguyễn Văn Khang, 1999), “Hành động phát ngơn” (Nguyễn Thị Thìn,</small>

<small>2003), v.v.</small>

<small>3 Thuật ngữ dùng theo Cao Xuân Hạo (2005).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Câu ngôn hành (Performative Sentence) là câu mà người nói khơng nhằm đểnói về một cái gì đó mà là dé thực hiện HD. Câu ngôn hành khác với câu tườngthuật ở chỗ không thê đánh giá được là đúng hay sai theo chân lí.

<small>Vi dụ: I bet you six pence it will rain tomorrow. [64, 5]“Tôi đánh cược 6 xu với ban là mai trời sẽ mưa.”</small>

Câu này thể hiện HD đánh cược của người nói, theo đó nếu ngày mai trời

<small>khơng mưa thì người nói phải đưa cho người nghe 6 xu, và ngược lại.</small>

Sau đó, ơng tiếp tục phát triển tư tưởng của mình, khi cho rằng tất cả câu nói

đều là ngơn hành, tức nói (saying) cũng là HĐ, có điều cần phân biệt ngơn hànhtường minh (explicit), tức có dấu hiệu ngơn ngữ chỉ ra loại HD đang được thựchiện, và ngôn hành nguyên cấp (primary), tức trường hợp khơng có dấu hiệu ngơn

ngữ đặc thù, chỉ có thé nhận biết được nhờ vào ngữ cảnh.

Hơn thế nữa, theo Austin, khi ta nói ra một câu cụ thé trong một ngữ cảnh nao

đó, ta sẽ thực hiện không phải một HD mà là đồng thời 3 kiêu HĐNT sau đây:

1) Hành động tạo lời (Locutionary act) là HD mà người nói sử dụng các yếu tốngơn ngữ và quy tắc ngữ pháp để tạo ra câu nói ít nhiều có nghĩa. Đây chỉ là nghĩabề mặt, nghĩa hiển ngơn, chưa tính đến bat kì hàm ý gì trong câu nói.

Ví dụ: Sáng nay trời mưa rất nhiều, bố ạ. (con nói với bố)

Câu này chỉ có nghĩa đơn giản là người con muốn thông báo cho bố biết tìnhhình thời tiết sáng nay.

<small>2) Hành động tại lời (Ilocutionary act) là HD mà cả người nói và người nghe</small>

hiểu được “lực ngôn trung” (Illocutionary force) của phát ngôn. Lực ngôn trung là ýnghĩa thật sự của phát ngôn trong một hồn cảnh giao tiếp hiện thực. Ví du: HDchào, hỏi, khen, xin lỗi, từ chối, bác bỏ, v.v.

Ví dụ: Áo dài của bạn đẹp lắm? (bạn nói với bạn)

Câu này có “Lực ngơn trung” là người nói muốn khen áo dài của người nghe.Theo Austin, “Hành động tại lời” phân ra 2 kiểu sau đây:

(2.1) Hành động trực tiếp (Direct speech act) là HD được thực hiện bang

<small>những phương tiện ngơn ngữ chun dùng cho nó.</small>

<small>8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Ví dụ: Cái áo này bao nhiêu tiền? (bạn nói với bạn)

Câu này nghĩa là người nói có ý định hỏi để biết giá của cái áo. Đó là câunghi vẫn có mục đích hỏi và địi hỏi có câu trả lời.

(2.2) Hanh động gián tiếp (Indirect speech act) là HD được thực hiện một cáchgián tiếp, thông qua việc thực hiện, theo câu chữ, một HD tại lời trực tiếp khác.

Ví dụ: Sao mà bạn nấu cơm ngon thế! (bạn nói với bạn)

Trong trường hợp này, tuy về hình thức, có thê xếp câu nói vào câu nghi vấn

(chăng hạn, dựa trên dấu hiệu có từ nghi vấn “sao”) nhưng thực ra người nói khơng

hề có ý định hởi (hỏi về lí do tại sao mà bạn nau com ngon thế) mà là muốn khen

người nghe nấu cơm ngon. Câu nghi vấn trong trường hợp này khơng có mục đích

hỏi, khơng cần câu trả lời.

<small>3) Hành động mượn lời (Perlocutionary act) là HD mà khi người nói nói ra</small>

một câu thì có thể gây ra một hiệu quả tâm lí nào đó ở người nghe như khiến người

nghe vui mừng, phan chan, lo sợ hay tin tưởng v.v. Hiệu quả này có thê phù hợp

hoặc khơng phù hợp với ý muốn của người nói.

Ví dụ: Liệu hồn, bố sắp về rồi đây! (mẹ nói với con)

Câu nói của người mẹ trong trường hợp này có thé có tác động làm cho người

con có ý thức về việc bố mình sắp về, cho nên phải thay đổi cách ứng xử hay tháiđộ đối với mọi việc, khơng cịn được tự do thoải mái như trước nữa.

1.1.2. Lý thuyết “Hành động ngôn từ” của John R. Searle

1.1.2.1. Tinh than của “Speech Acts”

Searle, nhà triết học ngôn ngữ người Mỹ, là học trị của Austin va P.E.

Strawson. Ơng đã tiếp tục tư tưởng của hai người thầy và phát triển lý thuyết “Hành

động ngôn tir”. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông là cuốn “Speech Acts” được ratnhiều nhà ngôn ngữ học tham khảo khi bàn về ngữ dụng học, đặc biệt là khi nói vềsự kế tục cơng trình “How to Do Things with Words” của Austin.

Đối với Searle, “Speech Acts” có thé diễn giả là “Wới là hành động tuân theođiều kiện” (Talking is performing acts according to rules) [77, 22]. Mỗi HDNT(speech act) sẽ được thực hiện theo những điều kiện khác nhau.

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

1.1.2.2. Những “Hành động ngôn từ” theo quan điển của John R. Searle

<small>- Hành động lời nói của con người</small>

Searle tin rằng mỗi khi ai đó thực hiện một HDNT thì người đó có thể thực

hiện 3 HD* sau đây:

<small>1) Hành động phát ngơn (Utterance act) là HD mà người nói sử dung dong âm</small>

thanh, từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp dé tạo ra phát ngôn giao tiếp. Tư tưởng nàygiống tư tưởng của Austin.

2) Hành động mệnh đề (Propositional act) là nội dung ý nghĩa của phát ngôn

và nội dung đó có thé nhận xét được là đúng hay sai.

<small>Ví dụ: Trong gia đình, em là con cả. (sinh viên nói với cơ giáo)</small>

Câu này có nghĩa: sinh viên (nguời nói) là con cả trong gia đình. Điều đó có

thé kiểm tra được, chăng hạn, băng lý lịch của sinh viên.

<small>3) Hanh động tại lời (Illocutionary act) là sự bày tỏ của người nói cho người</small>

nghe biết chủ ý / ý định tại lời (illocutionary intention) của mình khi dùng một phát

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Ví dụ: Đừng nói chuyện khi thầy đang dạy. (thầy giáo nói với sinh viên)

Với phát ngôn này, thầy giáo yêu cầu sinh viên đừng nói chuyện trong lớp, vìđiều đó có thể làm cho thầy giáo không dạy được.

3) Hành động kết ước (Commissives) là HĐ mà người nói cho người nghe biết

<small>là người nói sẽ làm việc gì đó.</small>

<small>Ví dụ: Thưa cơ, em hứa với cô là từ hôm nay em sẽ chăm chỉ học hơn. (sinh</small>

<small>viên nói với cơ giáo)</small>

<small>Câu này có nghĩa: sinh viên hứa với cô giáo là từ hôm nay mình sẽ chăm chỉ</small>

hoc hon. Câu này có TGD là trước đây sinh viên lười học và có thé đã bị cô giáo

trách mắng.

4) Hành động biểu cảm (Expressives) là HD mà qua lời nói người nói bộc lộtrạng thái tâm lý, tình cảm, thái độ của mình đối với sự tình được đề cập đến trong

nội dung của phát ngơn hoặc đối với người nghe.

Ví dụ: Tơi xin chân thành cảm ơn anh đã giúp đỡ tôi hết sức! (một phụ nữ nói

với anh cơng an đã bắt được kẻ ăn cắp xe của mình)

Người phụ nữ nói câu này để cảm ơn anh công an.

5) Hành động tuyên bố (Declarations) là HDNT mà người nói dùng dé thayđổi thực lại.

Ví dụ: Từ hơm nay, tơi đuổi anh và không cho anh làm việc ở công ty của tơinữa! (giám đốc nói với một nhân viên)

Bằng phát ngơn này, giám đốc đã đuôi anh nhân viên ra khỏi cơng ty của mình

<small>vì lí do nào đó.</small>

Trong “HD tại lời”, Searle quan tâm đến hành động giá ntiếp (HDGT)(Indirect speech) hơn hành động trực tiếp (HDTT) (Direct speech). Theo Searle,mac dù HĐGT được thực hiện bằng phát ngôn mà theo đó nghĩa đích thực của câunói khơng liên hệ trực tiếp với nghĩa theo câu chữ của câu nhưng người nghe vẫnnhận biết và hiểu được ý nghĩa đó, vì người nói và người nghe cùng có nền hiểu biếtchung, nền “tri thức bách khoa” giống nhau và có sự nhạy cảm nào đó đối với ngữcảnh giao tiếp.

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>Vi dụ: Ba sinh viên đang nói chuyện với nhau:</small>

- A: Chúng ta xuống căng tin ăn cơm đi.- B: Cơm ở căng tin khô lắm.

<small>- C: Cịn hơn là khơng có gì nhét vào bụng.</small>

Nội dung của ba câu trên đây có thể khúc giải là: A mời B và C đi ăn

cơm nhưng B dùng HĐGT để từ chối. Cịn C thì đồng ý nhưng sự đồng ý này cũng

<small>được thực hiện thông qua một HDGT.</small>

Trong giao tiếp hàng ngày, bác bỏ thường được thực hiện thơng qua HĐGT,

bởi vì BB ln ln thuộc vào số những HĐNT “nhạy cảm”, “tế nhị”, đụng chạm

đến thé diện (face) của người nghe.

<small>Ví dụ: Hai người hàng xóm nói chuyện với nhau.</small>

- A: Thằng Hưng con nhà Hiền chăm chỉ học nhỉ!- B: Thấy nó chỉ đọc truyện tranh cả ngày.

Trên đây, A nói đến Hưng (con của Hiền) và khen Hưng là rất chăm chỉ học.Nhưng B không đồng ý và BB bằng một câu trả lời gián tiếp vì khơng muốn nói

<small>thăng ra là “thằng đó lười học”.</small>

Lý thuyết HDNT của Austin va Searle là lý thuyết chính mà chúng tơi sử dụngtrong luận án này cho nên chúng tôi sẽ đi vào những phần quan trọng của lý thuyếtcó liên quan đến luận án, đặc biệt là HD tại lời.

1.2. So sánh lý thuyết “Hanh động ngôn từ” của John L. Austin và của John R.

So sánh lý thuyết “HDNT” của Austin và của Searle, có thé thay rằng giữa hai

lí thuyết này có cả nét tương đồng và khác biệt, nhưng nét khác biệt thì nhiều hơn.

Mặc dầu Searle là học trị của Austin nhưng ơng khơng phải có tư tưởng hồn tồngiống Austin.

1.2.1. Những nét tương đồng

1) Về mục đích: Mặc dù cơng trình của Austin va Searle có tên gọi khác nhau

<small>nhưng cả hai đêu có mục đích nghiên cứu vé “HĐNT”.</small>

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

2) Về đường hướng lý thuyết: Lý thuyết của Austin và Searle đều liên quanđến “ngữ dung học” (Pragmatics).Va cả hai ông đều quan tâm đến “HDGT” - một

dạng đặc biệt của “HD tại lời” - khi một HD tại lời kiểu này được thực hiện thông

qua phát ngơn có dau hiệu ngơn ngữ đặc thù cho một HD tại lời thuộc kiêu khác.

<small>1.2.2. Những nét khác biệt</small>

1) Tên cơng trình: Mặc dù cơng trình của Austin và Searle đều có mục dichviết về “HDNT” giống nhau, nhưng cách đặt tên của 2 tác giả là khác nhau. Tên của

<small>cơng trình Austin là: “How to Do Things with Words”, cịn của Searle là: “Speech</small>

Acts”. Tên cơng trình của Austin khó hiểu và nhiều HY hon của Searle.

2) Tư tưởng về HĐNT: Theo Austin, “khử tơi nói tức là tơi hành động”. Điều

đó nghĩa là Austin quan tâm đến “hiệu quả” nhiều hơn cách bày tỏ của người nói.Hơn nữa, Austin nghĩ rang lời nói và cách bày tỏ của người nói là có thé tách rađược. Vì vay, HĐNT theo Austin là HD theo truyền thống, theo luật và đúng cungcách. HD đó khơng cần người nghe cắt nghĩa nhiều. Cịn theo Searle, HĐNT chính

la dùng lời nói dé bày tỏ ý của mình, “Wới là hành động tuân theo điều kiện”.

Searle không quan tâm đến hiệu quả của HĐNT như Austin nhưng quan tâm đến

cách bày tỏ của người nói nhiều hơn nội dung và cần người nghe cắt nghĩa. Searle

nghĩ rằng lời nói và cách bày tỏ của người nói khơng thé tách ra được. Mỗi lần nói,

<small>người nói ln có sự bày tỏ trong câu nói của mình.</small>

3) Nội dung trong HĐNT: Trong cuốn “How to Do Things with Words”,Austin nghiên cứu chủ yếu về nghỉ thức giao tiếp ví dụ như cách đặt tên thuyền, lễcưới, v.v. nên kết cầu của câu là kết cấu theo truyền thống, tuân thủ chặt chẽ quy tắc

ngữ pháp-ngữ nghĩa. Còn trong cuốn “Speech Acts”, Searle tập trung nghiên cứu về

lời nói trong giao tiếp hàng ngày của con người, khơng nghiên cứu lời nói trong

nghỉ thức giao tiếp nên Searle quan tâm đến cách bày tỏ của người nói và cách

người nghe cắt nghĩa.

4) Kiểu HĐNT: Austin đã phân ra 3 kiều HDNT được thực hiện đồng thời khi

<small>phát ngơn câu nói. Đó là HD tạo lời (locutionary act), HD tại lời (illocutionary act)</small>

va HD muon lời (perlocutionary act). Con Searle chú ý đến 3 loại HDNT của con

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

người là HD phát ngôn (utterance act), HD mệnh dé (propositional act) và HD tạilời (illocutionary act). Sau đó Searle tập trung vào 5 kiểu HĐNT thuộc HD tại lời.Đó là kiểu HD biểu kiến (representatives), kiéu HD cau khién (directives), kiéu HDkết ước (commissives), kiểu HD biểu cảm (expressives) va kiéu HD tuyén bố

Trên đây chúng tôi đã đề cập đến cách phân chia HDNT của 2 tác giả khác

<small>nhau với hệ thuật ngữ khác nhau. Chỉ có một thuật ngữ “HD tại lời” (illocutionary</small>

act) là giống nhau. Searle nghĩ rằng HD được thực hiện bao giờ cũng kèm theo

những điều kiện thành cơng nào đó. Mỗi HĐNT (speech act) được thực hiện sẽ địihỏi những điều kiện thành cơng khác nhau.

<small>5) HD tại lời: Theo Austin, khi nói ra một phát ngơn, “HD tại lời” chỉ là sự</small>

bày tỏ của người nói cho người nghe biết. Người nói và người nghe khơng cần phải

có cơ sở dựa trên nền hiểu biết chung. Còn Searle chú trọng nhiều đến HĐNT gián

tiếp, được thực hiện bằng phát ngơn mà nghĩa của nó khơng liên hệ trực tiếp với kết

cấu và diện mạo từ vựng của câu nhưng người nghe vẫn nhận biết và hiểu được,

dựa trên những TGD và điều kiện nào đó của ngữ cảnh giao tiếp.

Theo chúng tôi, phần so sánh khái quát lý thuyết HĐNT của Austin và Searle

là cơ sở quan trọng giúp chúng tôi rút ra những nét tương đồng và khác biệt trong lýthuyết của hai ông trước khi đi vào phân tích những nội dung liên quan trong luận

1.3. Quan điểm của một số nhà ngôn ngữ học khác có liên quan đến lý thuyết

<small>“Hành động ngơn từ” của John L. Austin va John R. Searle</small>

<small>1.3.1. John R. Searle, Ferenc Kiefer va Manfred Bierwisch (Chủ biên, 1980) với</small>

cuốn “Speech Act Theory and Pragmatics” (Lý thuyết về Hanh động ngơn từ va

<small>Ngữ dụng học)</small>

Trong cuốn này có rất nhiều bài viết thú vị liên quan đến lý thuyết HĐNT của

<small>Austin va Searle. Sau đây là một vài tóm lược của chúng tôi:</small>

- Bài: “Cấu trúc ngữ nghĩa và lực ngôn trung” (Semantic Structure and

<small>Illocutionary Force) của Manfred Bierwisch</small>

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Bài này bàn về quan hệ giữa cấu trúc ngữ nghĩa và lực ngôn trung. Phát ngônra một câu là thực hiện HĐNT tuân theo điều kiện, ví dụ: lời hứa, lời tiên đốn, lờicảnh báo. Trong những phát ngôn như vậy tồn tại những “phương tiện chỉ dẫn hiệu

lực ở lời”, viết tắt là IFID Cllocutionary force indicating device = IFIDs for short).

Đây là những yếu tố đánh dau lực ngôn trung cua HD đã được sử dung (bat luận là

ít hoặc nhiều). Theo Manfred Bierwisch, IFIDs có 2 loại. Loại thứ nhất ở dạng cơng

thức ngơn hành hiển ngơn (explicit performative formulas), ví du: I promise youto... “Tôi hứa với bạn sé...’ hay I request that... “Tôi yêu cầu là... [78, 1]. Loại thứ

hai được thấy ở những trường hợp xuất hiện một thức ngữ pháp (grammaticalmoods), hoặc một kiều cấu trúc làm hình thành những kiểu câu như câu mệnh lệnh

(imperatives) hoặc câu nghi vẫn (interrogatives), vi du: Could you come in theevening? “Bạn có thé đến buổi chiều được khéng?’ hay Come in the evening!

“Chiều hãy đến!' [76, 1]. Trong kiểu câu mệnh lệnh, IFID là thức mệnh lệnh(imperative mood), còn trong kiéu cau nghi van, IFID là cấu trúc đảo (inversion)

<small>của trợ động từ tình thái.</small>

- Bài: “Ngơn cảnh tình huống và hiệu lực của hành động tại lời” (Situational

<small>Context and Illocutionary Force) của Wolfgang Motsch</small>

Bài này bàn về quan hệ giữa ngữ cảnh va lực ngôn trung. Wolfgang Motschcho biết đối với việc nghiên cứu ngôn ngữ học, vấn đề ngôn cảnh tình huống được

Dé tra lời những câu hỏi này, Motsch đã phân tích lý thuyết của Austin và

<small>Searle theo các khía cạnh sau đây:</small>

a) Mỗi phát ngơn thực hiện trong tình huống là một kiểu HD.

<small>° Chúng tơi dùng cách gọi của Đỗ Hữu Châu và Bùi Minh Toán (2001, trang 92)15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

b) Mỗi kiểu phát ngơn, đặc biệt là lực ngơn trung, có thể kiểm tra bằng cách

<small>phân tích ngơn ngữ học.</small>

c) Đối với mỗi ngơn ngữ, có thể phân chia được những kiêu HĐNT. Cịn lýthuyết HĐNT thì phân chia được hệ thống của những HD. Tức là đối với mỗi ngơnngữ có thé phân biệt những kiêu HĐNT khác nhau. Đến lượt minh, mỗi kiểu HDNT

đó lại được chia thành những HĐ khác nhau, tạo nên một hệ thống những HĐNT

làm nền tảng cho hoạt động giao tiếp hàng ngày.

- Bài: “Một số nhận xét về câu ngôn hành tường minh, hành động tại lời gián

tiếp, ý nghĩa tạo lời và chân trị” (Some Remarks on Explicit Performatives, Indirect

<small>Speech Acts, Locutionary Meaning and Truth-Value) của Francois Recanati.</small>

Như tên gọi cho biết, nội dung của bài nay dé cập đến dấu hiệu trong câu ngôn

<small>hành tường minh (explicit), HDGT, ý nghĩa tạo lời và chân trị, đặc biệt là chân tri</small>

trong một số câu ngôn hành. Theo Recanati, đây là trường hợp những câu ngơn

hành có hình thức câu trần thuật, và câu trần thuật là câu được sử dụng theo lối điểnhình dé xác nhận hay ít nhất dé nói về cái gì đó. Ngồi ra, trường hợp này câu ngơnhành cũng tn theo nguyên tắc sau: phát ngôn nghiêm túc một câu trần thuật là nói

về một điều gì đó đúng hay sai thế nào. Recanati nêu ví dụ của Warnock (1973),

trong trường hợp khi có người nào nói “I promise” (Tơi hứa), nghĩa là anh ấy đãhứa. Vấn đề là vì sao không coi câu ngôn hành (performative utterances) là câu xác

nhận hiển nhiên (straightforward assertions). Van dé này hiện đang được nhiều nhàngôn ngữ học tranh luận. Đối với Recanati, điều quan trọng của câu ngôn hành

<small>trong trường hợp này van là: (1) hình thành một nhận định (results in a statement)</small>

<small>va (2) làm cho câu đó đúng (makes it true) [78, 205].</small>

- Bài: “Lơ gích của hành động tại lời và thất sách của hành động”

<small>(Illocutionary logic and Self-Defeating ) của Daniel Vanderveken</small>

Ở đây, Vanderveken bàn đến lơ gích của HD tại lời, liên quan đến cái gọi là“thất sách” của HD. Theo Vanderveken, lơ gích của HD tại lời là một chun ngành

của lơ gích về triết học, có liên quan đến HD tại lời (khang dinh, hoi, yéu cầu, hứa

hẹn, ra mệnh lệnh, tuyên bó, v.v.).

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Vanderveken cho rằng phương pháp phân tích lơ gích của triết học (đặc biệt làlý thuyết của Austin và Searle) đã chỉ ra tầm quan trọng của triết học trong cáchphân tích các HDNT. Thực vay, lực ngơn trung (illocutionary force) là một thành tốcần thiết và không thé thiếu (không thé bi coi nhẹ) trong ý nghĩa câu nói của ngơnngữ tự nhiên chứ khơng như một số nhà logic hình thức lầm tưởng (các nhà lơ gíchchỉ quan tâm đến nghĩa miêu tả, tức loại nghĩa liên quan đến hàm chân trị của câu).Một điều cực kì quan trọng là ta khơng thê hiểu được ý nghĩa thực sự của câu nếu

không hiểu được ngôn cảnh mà phát ngơn đó được dùng dé thực hiện một HD tai

<small>lời nào đó.</small>

13.2. Frans H. van Eemeren and Rob Grootendorest (1982) với cuốn “Speech

<small>Acts in Argumentative Discussions” (Hanh động ngôn từ trong thao luận lậpluận)</small>

Cuốn này chủ yếu bàn về khía cạnh lập luận (argumentation) của HĐNT, như

lập luận là một phức thé của HD tại lời, lập luận và sức thuyết phục của HD mượn

lời (perlocutionary act). Eemeren và Grootendorest cho rang lý thuyết HDNT đã

xác lập bộ khung có hiệu quả nhất dé phân tích chức năng của ngôn ngữ, nhưng cho

đến đầu những năm 80 lập luận vẫn chưa được phân tích như HĐNT. Van dé còn

phức tạp hơn nếu xét đến hiệu lực thực sự của lập luận. Điểm quan trọng là các HDthường được phân tích từ quan điểm của người nói có liên quan đến tình huống cótranh chấp, khác biệt giữa các bên. Ở đây hai tác giả quan tâm đến điều kiện đểngười nghe bị thuyết phục, dựa trên sự kết hợp chuỗi của các nhận định lập luận.Mục đích của hai tác giả là nhằm phân loại các HĐNT dùng trong lập luận và điều

<small>kiện nao đã làm cho những HD đó được thực hiện.</small>

Đối với Eemeren và Grootendorest, thực chất lập luận là một loại HD tại lời

phức tạp. Thành tố của HD tại lời này dựa trên nguyên tắc của phạm trù khang định

(assertives), cùng với sự kết hợp chuỗi tại lời nhăm biện minh hoặc BB (a justifying

or refuting), hoặc dé bày tỏ ý kiến nói chung. Hai tác giả thấy rang việc phân tíchHD lập luận có liên quan đến cơ sở lý thuyết về HD tại lời của Searle vì HD lậpluận cũng tuân theo điều kiện. Tuy vậy, hai tác giả không đồng ý với Searle khi cho

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

rang Searle đã không chú ý đúng mức đến HD mượn lời. Theo hai tác giả HD lậpluận cũng liên quan đến HD mượn lời, đặc biệt là HD mượn lời có mục đích thuyếtphục. Theo hai tác giả, lập luận tại lời (illocution argumentation) có liên quan đếnsự thuyết phục mượn lời vì việc lập luận của một người và sự thuyết phục đối vớingười khác phải gắn kết với nhau, không thê thiếu nhau được. Đây là lý do vì sao

<small>hiệu lực tại lời và hiệu lực mượn lời phải hoà hợp với nhau và lực mượn lời thực</small>

hiện thông qua lực tại lời. Rõ ràng, tại lời và mượn lời đều là hai bình diện khác biệt

<small>(distinct aspect) của một HDNT trọn vẹn (complete speech act). Tại lời liên quan</small>

đến bình diện giao tiếp được thé hiện trong có găng dé thơng hiểu. Cịn mượn lờiliên quan đến bình diện tương tác được thê hiện trong có gắng dé đạt được sự chấp

Trong cơng trình này, Eemeren và Grootendorest cịn trình bày thêm về suđồng tình (agreement) và khơng đồng tình (disagreement) vì chúng liên quan đếnlập luận. Theo chúng tơi, HĐBB có thé được xếp vào loại “khơng đồng tình” theo

quan điểm của Eemeren và Grootendorest.

13.3. Michale L. Geis (1995) với cuốn “Speech Acts and Conversational

<small>Interaction” (Hanh động ngôn từ va tương tác hội thoại)</small>

Trong cuốn này Geis tập trung bàn về HĐNT gián tiếp (Indirect speech act),tương tác hội thoại, cấu trúc của tương tác hội thoại và ảnh hưởng của tương tác

<small>trong hội thoại.</small>

Về HDNT gián tiếp, Geis đã viện quan điểm của Searle (1975). Searle chorằng HDGT được thực hiện trong một phát ngôn mà phát ngơn này đã có lực ngơn

<small>trung (illocutionary force) là một loại của HD tại lời nao đó khác. Ví dụ như trong</small>

phát ngôn sau, HD hứa hẹn là sự b6 sung vào lực ngơn trung sẵn có của phát ngơnvốn chỉ là lời khang định: I will be in my office. “Tơi sẽ có mặt ở văn phịng' [68,123]. Ngồi ra, Geis cịn dẫn một số nhà ngơn ngữ học khác như Sadock (1970,

<small>1972), Gordon and Lakoff (1971), Morgan (1975), và Green (1975). Các nhà ngôn</small>

ngữ học này cho rằng chúng ta khơng thể tính tốn chính xác được lực ngơn trungcủa phát ngơn (vì đại lượng này biến đổi theo những tham số ngữ cảnh).

<small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

1.3.4. Susan M. Gass and Joyce Neu (Chủ biên, 1996) với cuỗn “Speech Acts

<small>Across Cultures: Challenges to Communication in a Second Language” (Hanh</small>

động ngơn từ qua các nền văn hóa: Thách thức cho việc giao tiếp bang ngôn ngữ

<small>thứ hai)</small>

Cuốn sách dày dặn, vạm vỡ này là tập hợp những bài viết rất thú vị liên quan

đến lý thuyết về HDNT cua Austin va Searle cũng như nội dung của luận án. Sau

<small>đây là một vài tóm lược của chúng tơi:</small>

<small>- Bài: “Khảo sát việc sản sinh các hành động ngôn từ” (Investigating the</small>

<small>production of speech act set) của Andrew Cohen</small>

Bài này nhấn mạnh đến những khía cạnh và phương pháp nghiên cứu của

<small>HĐNT như sau đây:</small>

1) Van dé lý thuyết. Phan này Cohen nói đến quan điểm của minh và của

Olshtain (1983) về chiến lược giao tiếp đối với chuỗi HĐNT. Ơng nhân mạnh trước

khi phân tích chuỗi HĐNT, thì phải xác định được mục đích, cũng như những tiềnđề ngữ nghĩa-ngữ dụng cho sự hiện thực hóa chuỗi HĐ đó. Đối với phần này có 3

<small>nội dung liên quan như sau:</small>

<small>1.1) Năng lực văn hóa xã hội và ngơn ngữ học xã hội (Socioculture and</small>

sociolinguistic abilities). Người nói và người nghe thành cơng khi giao tiếp vì họđều có thể kiểm sốt được chuỗi HĐNT trong ngơn ngữ mà họ dùng khi giao tiếpvới nhau. Khả năng kiểm soát này liên quan chặt chẽ đến năng lực văn hóa xã hội

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

- Bài “Chiến lược phép lịch sự trong tiếng Pháp và tiếng Anh” (Politeness

<small>strategies in French and English) của Michael L. Geis và Linda L. Harlow.</small>

Bài nay các tác giả trình bày về chiến lược lich sự trong tiếng Pháp va tiếngAnh. Đây là một nghiên cứu có tính chất thử nghiệm (pilot study). Về đối tượngnghiên cứu, các tác giả đã chọn người Anh, người Pháp và người Pháp nói tiếngAnh dựa trên hai tiêu chí chính: giới tính và tuổi tác. Về phương pháp nghiên cứu,các tác giả tiễn hành thí nghiệm dựa trên những ngơn cảnh hội thoại khơng chính

thức. Hai tác giả đã nói đến quan điểm của Brown và Levinson (1987) về thể diện

tích cực (positive face), thể diện tiêu cực (negative face) và áp dụng trong báo cáo

của mình. Kết quả thu được từ báo cáo này đã góp phần làm sáng tỏ những hình

thức được sử dụng dé thé hiện phép lịch sự trong tiếng Anh và tiếng Pháp.

- Bài “Văn hóa, thương lượng và hợp tác quốc tế” (Culture, negotiations and

<small>international cooperative ventures) của John L. Graham.</small>

Theo Graham, khó có thé đưa ra một quan niệm nhất quán (consistent) về văn

hóa. Graham đã lấy xuất phát điểm là quan điểm về văn hóa của Linton. Linton

<small>(1945:5) cho rằng “văn hóa là cấu hình của những hành vi có giáo dục và kết quả</small>

của những hành vi mà thành tố của nó được áp dụng và truyền đạt giữa các thànhviên của một xã hội cụ thể” [68, 319-320].

Bên cạnh việc khám phá những sự khác biệt về văn hóa trong các hành vithương lượng, giá trị của bài viết này còn nằm ở việc giải quyết vấn đề “nội dunghay ngôn cảnh” (content versus context). Nếu như các nhà tâm lí học xã hội đề caonội dung ngơn từ (verbal content), thì các nhà ngơn ngữ học xã hội lại cho rằng nếuchỉ chú trọng vào những phan phơ diễn trên ngơn từ thì sẽ khơng thé hiểu được khíacạnh tương tác liên nhân của văn bản một cách thấu đáo. Cũng giống như các nhàngôn ngữ học xã hội, Graham đặc biệt nhắn mạnh tầm quan trọng của ngôn cảnhtrong cả giao tiếp ngôn từ cũng như giao tiếp phi ngơn từ (nonverbal).

Những trình bày tóm lược của chúng tôi về những nghiên cứu tiêu biểu, mangtính thời sự về lí thuyết HĐNT trên đây đã cho thấy những khía cạnh phức tạp, tinhtế có được thể hiện trong hoạt động nói năng của con người. Sự trình bày này góp

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

phần làm nên cái nền tảng (background) cần thiết để chúng tôi triển khai đề tàinghiên cứu của mình, đó là tìm hiểu và so sánh HĐBB trong tiếng Thái và tiếng

<small>1.4. Khái niệm “Hành động bác bỏ” (The Speech Act of Denial)</small>

- Theo “Tir điển tiếng Việt” (1997) của Hoàng Phê (Chủ biên), BB là: “...bac

đi, gạt đi không chấp nhận” [40, 22].

- Theo “Từ điển tiếng Việt” (2001) của Bùi Quang Tịnh, BB là lời nói: “khơng

<small>nạp, khơng nhận” [57, 30].</small>

- Nguyễn Thị Thìn (2003) mở rộng, cụ thể hóa BB, đó là: *.,.phủ định mộtlời khẳng định, đốn định, phê phán buộc tội trước đó của người đối thoại” [55,

- Trong cuốn “English Speech Act Verbs” của Anna Wierzbicka (1987), tácgiả cho rang BB (deny) là không đồng ý với ý kiến của người đối thoại vì cho rangý kiến này khơng đúng (This is not true). Ví dụ, khi tơi nói điều đó khơng đúng (Isay it is not true), đích tại lời là tơi khơng muốn người ta nghĩ rằng là điều đó đúng

<small>(I don’t want people to think that it is true) [82, 134].</small>

Theo chúng tôi “Hanh động bác bỏ ” là HD mà người nói thể hiện sự khơng

chấp nhận điều mà người nói đã nghe trước đó, hoặc có thé suy luận từ những gì đãcó trước đó. Trong trường hợp những đặc trưng hình thức của câu nói dùng để BBlà 6n định, có thé thấy quan hệ giữa BB (một HDNT) và câu PD (một kiến trúcngôn ngữ). Cũng như nhiều HDNT khác, BB có trường hợp trực tiếp và gián tiếp.

<small>1.4.1. Hành động bác bó trong tương quan của cặp thoại xác tín-bác bo</small>

Lý thuyết HĐNT của Austin chỉ xem xét các HDNT một cách riêng biệt và

độc lập với những HD khác. Nhưng trong hội thoại, mỗi phát ngôn đều có quan hệ

trực tiếp đến những phát ngơn đi trước nó hoặc bản thân nó định hướng cho những

phát ngơn tiếp theo sau. Và hệ quả là những HĐNT này sẽ kéo theo những HĐNTkhác. Một HĐNT A có thể kéo theo HĐNT B, lượt lời này cũng có thể kéo theolượt lời khác. Trong những trường hợp như thế, chúng ta nói đến khái niệm “cặp

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

thoại”. Các cặp thoại được tô chức theo một quy cách chặt chẽ và tuân theo nhữngquy tắc chi phối hội thoại.

<small>BB là một HD phát sinh từ một HD xác tín khác đi trước. Tuy nhiên, nội dung</small>

xác tin đi trước đó có thé là hiển ngơn hoặc hiểu ngầm ấn (là dẫn ý, TGD, hàm ngôn

<small>qui ước hoặc hàm ngôn hội thoại).</small>

<small>Vi dụ (dẫn theo Nguyễn Đức Dân, 1999):</small>

“A: Lay cơm ra mà ăn!

<small>B: Có com đâu ma ăn!</small>

<small>C: * Khơng có cơm mà ăn”. [11, 395]</small>

Câu A thể hiện một mệnh lệnh. Mệnh lệnh này (lay cơm ra ma ăn!) co tiền giảđịnh là “Còn cơm”. Còn câu B là câu mà người ta dùng dé chất van về sự tồn tại củađiều kiện cho phép thực hiện mệnh lệnh đó. Nghĩa là chất van TGD của mệnh lệnh

đó. Dé phê phán một hiện tượng người ta có thé dùng cả sự PD miêu ta và chat vấn.

Chang hạn, có thể phê phán về sự lãng phi theo hai cách: 1) “Lang phí như vậy rồiđến lúc khơng có cơm mà ăn”, 2) “Lãng phí như vậy rồi lắy cơm đâu ra mà ăn”.

Từ ví dụ trên, chúng ta có thể nhận ra một HĐ ngơn ngữ gián tiếp khác, được

tạo thành từ các HĐ chất vấn, từ chối và thanh minh với một hiệu lực tại lời nảo đó.

<small>Theo Nguyễn Đức Dân (1999), đây là HD được nay sinh từ lơ gích nội tại của ngơn</small>

1.4.2. Đặc điểm của “Hành động bác bỏ”

“HĐBB” đã được nhiều người nghiên cứu, chỉ ra đặc điểm của nó:

Nguyễn Đức Dân (1983) cho rằng “Trong quá trình giao tiếp, nếu một người

khẳng định, trực tiếp hay gián tiếp, về một thuộc tính A của sự vật, nhưng nếungười khác cho rằng ý kiến đó khơng đúng và BB ý kiến đó, như thế người thứ hai

<small>đã thực hiện một hành vi PD, hay là hành vi BB. Ví dụ:1.) X: Ngơi nhà kia cao.</small>

<small>Y: (a) Ngơi nhà kia dau có cao!(b) Ngôi nhà kia không cao!</small>

<small>2.) X: Ngôi nha kia không cao.</small>

<small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>Y: (a) Ngôi nhà kia ma không cao!</small>

<small>(b) Ngôi nhà kia cao!</small>

Ở những đoạn hội thoại trên đây, lời đáp của Y (với hai biến thể) đều lànhững hành vi PD. Hành vi nay được thé hiện bằng những câu có dạng thức khácnhau, hoặc là PD, hoặc là khang định (như 2b). Những câu PD ứng với hành vi PDnày gọi là những câu PD BB. Về hình thức, có thé thay rằng dé tạo những câu PD-BB người ta có thé dùng các từ kèm khơng, chẳng, chưa nhưng cũng có thé dùng

<small>những từ sao, nao, đâu, gi,... [5, 28].</small>

Nguyễn Thị Thìn (2003) cho rằng “Câu BB có dấu hiệu riêng, chuyên dụng

(CD) dé biểu thị hành vi BB. Những dấu hiệu chuyên dùng biểu thị hành vi BB:

- Cặp tiểu từ tình thái: có...đâu.

- Tổ hợp tình thái từ: khơng phải, đâu có, nào (có) phải, làm gì có, đâu (có)

phải ở đầu câu hoặc xem giữa chủ ngữ — vị ngữ. “Khơng phải” có thể một mình làm

<small>câu BB.</small>

- Qn ngữ tình thái thi có cuối câu, kiêu “P thì có!”.

Căn cứ vào phương thức BB có thể phân chia hai kiểu câu BB.

1) Câu PB - BB. Thực hiện hành vi BB bằng phương thức PD tính chân lý,tính đúng của mệnh đề trong câu. Nội dung của mệnh đề này phản ánh ý kiến tráingược với ý kiến trước đó của người đối thoại. Ví dụ:

A: Bác ơi, cho em xin tiền gạo hôm trước.

B: Cái nhà chị này nhằm rồi. Tơi dau có mua gạo nhà chị.

<small>Có hai hình thức phủ định-bác bỏ:</small>

- PĐ-BB có chứa phủ định từ khơng phải đầu câu hoặc một mình làm thành

- PD-BB có chứa đại từ khơng xác định: đầu, nào, gì. Chang hạn: nào có, lam

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

A: Chị lấn sang đất của tơi rồi đây này.

B: Chính nhà ơng lấn sang đất nhà tơi thi có. Khơng tin tôi do lại cho ông

<small>xem. [55, 174-177]</small>

Đặng Thị Hảo Tâm (2003) cho rằng “Đề làm rõ đặc điểm của hành vi BB cầncó sự phân biệt với hành vi PÐ-miêu tả. Mục đích của PD miêu tả là chi nhằm xác

định đối tượng được nói tới khơng có thuộc tính p mà khơng nhằm BB một ý kiến,

quan diém trước đó. Ngược lại hành vi BB chỉ nảy sinh khi trước đó đã có một sựkhẳng định. Hành vi BB được thực hiện bằng 2 chiến lược: (a) chiến lược trực tiếp(CLTT), (b) chiến lược gián tiếp (CLGT).

Với (a) hiệu lực BB được đánh dấu bằng những từ ngữ CD như: khơng, thế

<small>nào được, sao được, lam gì có, đâu (có / nào), có phải... đâu, nào... đâu, có</small>

Với (b) thì hỏi là một cơ chế đặc trưng dùng dé BB (Theo Nguyễn Đức Dân).

Tuy nhiên chiêu theo cách thức tạo lập nội dung (p), theo từng ngữ cảnh giao tiếp,

đặc biệt với hai thông số: khoảng cách quyền lực, quan hệ xã hội thì cấu trúc ngữ vi

<small>hỏi có thé mang đến những hiệu lực BB khác nhau” [51, 5].</small>

Sophana Srichampa (2004) khơng nói đến HĐBB nhưng đề cập đến các lốinói PD va khang định trong tiếng Việt và tiếng Thái trong bài viết “Các lối nói phủ

định và khăng định trong tiếng Việt và tiếng Thái” (Vietnamese and Thai negativeand affirmative styles). Sophana cho rằng mô hình PD chung của tiếng Thái vatiếng Việt là (S) + NEG + V. + O. Đây là mơ hình điền hình trong nhiều ngơn ngữSVO. Ngồi ra ở các ngơn ngữ này cịn có những mơ hình cấu trúc khác, đó là các

câu khẳng định và câu hỏi có giá tri PD, và ngược lại các từ PD kép và các câu

hỏi-PD lại có ý nghĩa khang định. Các sắc thái ý nghĩa thay đổi theo ngữ điệu, thức

cũng như thái độ của người nói. Ví dụ, đối với các lối nói PD trong tiếng Việt và

tiếng Thái, thi trong tiếng Việt, bên cạnh mơ hình PD bình thường bằng cách dùngmột từ PD đứng trước động từ, cịn có một lỗi PD phơ biến khác là dùng các từ nghivấn hoặc các thành tố nghi vấn khác trong câu hỏi. Như trong tiếng Việt, các từ

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

nghi van như ai, gì, đâu được dùng trong câu hỏi dé biéu thị ý PD hoặc không nhất

<small>trí, ví dụ:</small>

(1a) Hình như anh cầm quyền sách của tơi phải khơng?

Câu (1a) là ví dụ về một câu hỏi mở đầu. Ba câu sau đây cho thấy những cáchPD của tiếng Việt:

(1b) Ai cam!

(1c) Tao cầm đầu!

(1d) Tao cầm bao giờ! [48, 2]

Theo Sophana, trong tiếng Thái cũng như tiếng Việt, có cách nói PD gián

tiếp. Các sắc thái nghĩa cũng thay đối theo ngữ điệu, thức (mood) va thái độ của

“Cô ấy là năng Phi Sua Samut!’ (“năng” trong tiếng Thái nghĩa là “con”,

<small>dùng khi gọi đứa con gái mà mình khơng thích)</small>

Câu (11b)-(11c) là câu PD. Còn câu (11đ)-(11e) là câu khang định.

Cuối cùng Sophana đi đến kết luận là câu PD và câu khang định trong tiếngThái và tiếng Việt có nhiều sắc thái khác nhau. Sự thé này cho thấy xu hướng thiên

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

về gián tiếp của người Việt và người Thái trong chiến lược BB. Đơi khi, người nóikhơng dám diễn đạt ý PD trực tiếp, không muốn làm tôn thương tình cảm của ngườinghe. Đó là lí do giải thích tại sao việc vận dụng những cách nói gián tiếp như vậy

là rất phô biến, đặc biệt trong khẩu nØữỮ, nơi có giao tiếp mặt đối mặt.

Nguyễn Thị Kim Dung (2006) đã bước đầu nghiên cứu “hành động phản

bác” trong luận văn thạc sĩ “Hành động phản bác trong tiếng Việt”. Luận văn này sử

dụng hai nguồn cứ liệu chính: cứ liệu là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người Việt,được quan sát và ghi lại trung thành và cứ liệu được trích từ các tác phẩm văn học.Lí thuyết sử dụng trong luận văn là: lí thuyết HĐNT của Austin và Searle, lí thuyết

<small>phép lịch sự của Leech, Brown và Levinson.</small>

Nguyễn Thị Kim Dung cho rằng “HĐ phản bác liên quan đến sự phản ứng đốilập của người nói về một điều gi đó, có thé đúng hay sai. HD phản bác thuộc nhóm

<small>hành vi xác nhận / nhận định. Phan bác bao giờ cũng giả định một HD nhận định di</small>

trước. Vì vậy, muốn làm rõ bản chất của HĐ phản bác, phải đặt phản bác trongtương quan, trong thế song hành với HD nhận định đi trước. Muốn phản bác thànhcơng, cần có những luận cứ và các lập luận thích hợp. Lí thuyết lập luận sẽ giúp soisáng bình diện nội dung và hình thức của HĐ phản bác (bản chất các luận cứ, việc

<small>sử dụng những tác tử lập luận trong HD phan bác v.v.)” [14, 31-32].</small>

<small>Cũng như các tác giả đi trước, Nguyễn Thị Kim Dung phân chia 2 loại HD</small>

phan bác trong tiếng Việt: HD phản bác trực tiếp và HD phan bác gián tiếp.

1) Phản bác trực tiếp: là hình thức phản bác có chứa những từ ngữ biểu thị ýnghĩa phản bác, phủ định như: đâu, gi, sao, nào, bao, không, chẳng... Những từ

ngữ này được sử dụng trong những khn cú pháp thích hợp, có thể xem là dấu hiệu

ngôn hành của HD phản bác trong tiếng Việt. Phan bác trực tiếp có 5 loại sau đây:

1.1) Cấu trúc dùng từ, ngữ phiếm định. Dùng từ đâu, gì, nào, bao và sao.

1.2) Cau trúc dùng từ, ngữ PD. Dùng từ không, chẳng và chưa.

1.3) Một số cau trúc phản bác CD: theo cau trúc : P thi có, Còn P chán, P đấy

<small>chứ, P chứ, Ai lai C và Với, với cha</small>

<small>7 Hệ ký hiệu ngữ âm trong tiếng Thái dùng theo Kanchana Naksakun (1977).26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

1.4) Cấu trúc dùng từ mà: Ai mà, Thế mà cũng và Có B gì mà A1.5) Phản bác trong phương ngữ. Ví dụ: phương ngữ miền Trung.

<small>- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím</small>

Em lay chồng rồi trả yém cho anh

<small>- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh</small>

Yém em em mặc, yếm chi anh anh đòi (Ca dao).

2) Phản bác gián tiếp: là phản bác thường không thể hiện bằng một hình thức

nhất định do đó nó có nhiều cách thé hiện. Ý nghĩa phản bác chỉ hiểu được nhờ vào

tình huống giao tiếp và những quy ước của cộng đồng. Phản bác gián tiếp có 5 loại

<small>sau đây:</small>

<small>2.1) Phản bác thông qua các HDGT.</small>

2.2) Phản bác bang hình thức đánh giá ngược lại.

<small>2.3) Phản bác thơng qua HY.</small>

<small>2.4) Sử dụng hình thức phản lập luận.2.5) Phản bác thơng qua thái độ.</small>

Có thể nói luận văn của Nguyễn Thị Kim Dung là cơng trình đi sâu nhấtnghiên cứu HĐBB (mà tác giả gọi là “phản bác”) trong tiếng Việt, và đã nêu rađược nhiều phương tiện BB. Tuy nhiên, những phương tiện này vẫn còn thiên vềliệt kê, chưa thực sự được phân tích sâu sắc, và nhất là chưa có độ khái qt thíchhợp, cách phân loại phương thức BB còn nhiều chồng chéo. Chăng hạn cái gọi là

<small>phương thức “phản bác trong phương ngữ” thực ra là một dạng của những phương</small>

thức phản bác gián tiếp mà thôi. Khi người con gái trong ca dao nói “m em emmặc, yếm chi anh anh địi” thì cô đã phan bác bằng cách chat vấn TGD của việc địim (muốn địi ai cái gi thì phải có TGD là người ấy đã mượn minh cái đó).

<small>Đặc biệt, trong nội dung của luận văn nay có những ví dụ phân tích câu BB</small>

mà chúng tơi khơng đồng ý, chăng hạn:“Thằng anh quát lên:

- Cầm đi đồ mat dạy. Bồ mà ở nhà bồ sẽ giết mày.

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

- Mất dạy hả? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất (Mùa hoa cải bên sơng- Nguyễn Quang Thiéu)” [14, 34].

<small>Nguyễn Thị Kim Dung phân tích câu BB trên đây (in đậm) như là cách người</small>

nói chất van sự tồn tại cua A, mà A là điều kiện tồn tại của B theo luật suy diễnlơgích “khơng A thì khơng B” để BB B. Đây là lối phản bác trực tiếp nội dung của

nhận định trước đó, phủ định hồn tồn tiền ngơn của người đối thoại. (Anh nói tơi

là đồ mất dạy, nhưng thực tế là khơng có đứa nao được day dỗ gì cả, cho nên nhận

định của anh là không đúng với thực tế, là vô lý. Tôi khang định với anh là tôi

không được dạy dỗ chứ không phải là người được dạy dé mà “mat dạy” như anh

<small>nói). Theo chúng tơi, những trường hợp như trên đây chỉ là những trường hợp phản</small>

<small>bác mang tính siêu ngơn ngữ, chơi chữ.</small>

Cuối cùng Nguyễn Thị Kim Dung đã trình bày về “Đặc trưng văn hóa của HDphản bác trong tiếng Việt”. Nguyễn Thị Kim Dung cho rằng “Người Việt có câu:

“Lời nói khơng mat tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”. Đó chính là sự théhiện của lối ứng xử trong tình, tế nhị, ý tứ của người Việt. Bởi họ ý thức được rất rõsức mạnh của lời nói: “Lời nói đọi máu”, “Được lời như cởi tắm lịng”... Cho nênngười Việt rất chú ý đến lời ăn tiếng nói, nói làm sao cho phải, cho thấu tình đạt lýlà cả một nghệ thuật trong giao tiếp. Phản bác trực tiếp là HĐNT rất dễ làm mat thédiện của người đối thoại. Nếu như buộc phải phản bác trực tiếp thì người nóithường sử dụng kèm theo những biểu thức điều biến dé làm giảm nguy cơ làm matthé diện người nghe. Chang hạn, có thé dùng các lời rào đón, các qn ngữ tình tháinhư: Nói khi vơ phép, Nói bác đừng giận... Việt Nam là một nước nông nghiệp, tổ

chức xã hội truyền thống chịu nhiều ảnh hưởng của Nho Giáo, một xã hội rất tôn

trọng tôn ti trật tự. Điều đó thé hiện rất rõ trong văn hóa ứng xử của người Việt.

<small>Chính vì vậy mà họ ln “lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau”, đặc biệt là khi phảinói những lời phản bác [14, 102-104]. Những nhận xét như vậy, theo chúng tôi, là</small>

đúng, nhưng cần được khảo sát sâu hơn nữa thì mới thật sự thuyết phục.

Nguyễn Quang Ngoạn (2007) có bài viết “Một số chiến lược phản bácthường dùng trong tiếng Việt”. Đối với Nguyễn Quang Ngoạn, “phản bác xảy ra khi

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

một người không đồng ý với nhận xét, đánh giá của một người khác về một vấn đềnào đó và phản bác cũng xảy ra khi một người không chấp nhận đề xuất mà mộtngười khác đưa ra. Phản bác một người nghĩa là ta có thé đã xúc phạm đến nhu cầuđược thừa nhận bởi người khác hoặc nhu cầu được tôn trọng quan điểm riêng củahọ. Do vậy, phan bác là một HD có nguy cơ đe doa thé dién cao” [38, 39].

Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết này, Nguyễn Quang Ngoan chỉ trìnhbày một số chiến lược phản bác thơng dụng hàng ngày trong tiếng Việt theo phươngthức liệt kê, giải thích ngắn gọn kèm một vài dẫn chứng minh họa. Thực ra bài viết

<small>này khơng phân tích phản bác thơng qua HY và TGD như nội dung trong luận án</small>

của chúng tôi, mà chỉ liệt kê các chiến lược của phản bác và trình bày cách sử dụng

nhiếc, lặp lại, khen ngợi hay cảm ơn, sử dụng yếu tố nhấn mạnh và một số chiến

<small>lược khác.</small>

Ví dụ chiến lược phản bác sử dụng yếu tố nhắn mạnh:

“Người nói có thê làm cho sự phản bác của mình rõ ràng hơn bằng những yếutố nhắn mạnh. Dĩ nhiên là nhiều từ nhấn mạnh như “hoan toàn”, “nhất thiết”...,trong nhiều trường hợp, cũng có thể được dùng như là những dấu hiệu rào đón. Cáccụm từ nhấn mạnh khác mà ta thường gặp là: khá, rất, vơ cùng, cực kì, chẳng... tí

<small>nào, khơng... ti nào, còn lâu, còn khuya... Thi dụ:</small>

(25) - (Chỉ nói lung tung thơi. Chị già rồi mà.)

<small>- Khơng gia tí nào dau chị ơi”. [38, 44]</small>

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Như ví dụ trên, Nguyễn Quang Ngoạn chỉ phân tích là theo cấu trúc “không...ti nào” là chiên lược phản bác sử dụng yếu tố nhấn mạnh nhưng không phân tíchthêm là câu đó người phản bác nhân mạnh về cái gì.

Cuối cùng Nguyễn Quang Ngoạn đưa ra một số nhận xét và lưu ý khi vậndụng các chiến lược phản bác, đồng thời nhắn mạnh “tuy giới thiệu được một sỐ

chiến lược giao tiếp và một số đặc điểm nhận diện các chiến lược đó nhưng chúng

tơi chưa có điều kiện nói rõ hơn và cũng khó lịng nói rõ hơn ai hay dùng chiến lược

nào và dùng khi nào với mục đích gì vì việc sử dụng ngơn ngữ trong giao tiếp, như

chúng ta đều biết, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như tình huống giao tiếp (ởđâu, khi nào), khơng khí giao tiếp (trang trọng hay thân mật), khoảng cách giữa cáctham thể giao tiếp (thân, quen hay xa lạ), vị thế giao tiếp của mỗi người (thấp hơn,ngang bằng hay cao hơn). Do đó việc sản sinh và diễn giải một phát ngôn như thế

nào phụ thuộc rất nhiều vào từng cảnh huống giao tiếp cụ thể” [38, 45].

Những nhận xét trong bài viết trên đã đưa ra một số gợi ý cho chúng tơi trongviệc phân tích bác bỏ gắn với ngữ cảnh giao tiếp.

1.4.3. Hai chiến lược: bác bỏ trực tiếp và bác bỏ gián tiếp

Như trên đây đã có dip đề cập một cách khái quát, HDBB được thực hiện bằng2 chiến lược: “CLTT và CLGT” [50, 5]. Sau đây là những phân biệt của NguyễnĐức Dân (2000) về BBTT và BBGT:

a) “P thì có”. Đây là cach khang định P dé bác bỏ một khang định Q trước đó;

<small>P trai với Q.</small>

b) “Không A mà lại bảo là A”. Đây là cách trực tiếp BB A.

c) “A mà lại B (w)?” Đây là cach BB theo luật suy diễn modus tollens: chấtvấn hệ qua dé BB tiền đề.

d) “Có B gì đâu mà A?” Đây là cách BB theo suy diễn HY: chat vấn về điều

<small>kiện cân của A.</small>

<small>Š Theo lý thuyết “Hành động ngôn từ” của John L. Austin (1965) và John R. Searle (1969) nghĩa là “direct</small>

<small>speech” (nói trực tiêp) và “indirect speech” (nói gián tiêp).</small>

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

e) “P đấy chứ” [Phương ngữ Nam Bộ: “P chứ bộ”]: Khăng định P để BB mộtkhang định Q trước đó.

ø) “B chán!” Đây là cách dé BB về mức độ đối với một phát ngôn trực tiếp

khẳng định A hoặc có hiệu lực tại lời là A trước đó. Ở đây B được xếp cao hơn, tốt

<small>hơn A.</small>

Ví dụ: - A. Thang con tôi dạo này hur qua.

<small>- B. Nó cịn ngoan chán.</small>

<small>(Trong câu trả lời trên, người nói khơng khen đứa bé ngoan, mà là BB mức độ</small>

“hư quá”. Có thé nó hư nhưng chưa phải “hư quá”).- A. Nhanh lên kẻo hết giờ.

<small>Nguyễn Đức Dân (1983) đã nêu ra quan hệ giữa HDBB và câu PD sau đây:</small>

- Hai kiểu câu phủ định: sự phú định miêu tả và sự phủ định bác bo

1) “Trong quá trình ngơn ngữ, khi tư duy về các sự vật, các hiện tượng và mốiquan hệ giữa chúng, người ta có thể xây dựng các phán đốn khăng định về thuộctính và mối quan hệ của sự vật với nhau. Ví dụ:

<small>“Căn phịng trang trí đơn giản, trên tường khơng có tranh, trên bàn khơng cóhoa,...”</small>

Các câu PD trên là hành vi khẳng định một thuộc tính khơng A của sự vật.

Câu PD kiểu này gọi là “câu PD miêu tả”.

2) Trong quá trình giao tiếp, nếu một người khăng định, trực tiếp hay giántiếp, về một thuộc tính A của sự vật, nhưng nếu người khác cho rằng ý kiến đókhơng đúng và BB ý kiến đó, như thế người thứ hai đã thực hiện một hành vi PD,

<small>hay là hành vi BB. Ví dụ:</small>

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>(1) X: Ngôi nhà kia cao.</small>

<small>Y: (a) Ngôi nhà kia đâu có cao!(b) Ngơi nhà kia khơng cao!(2) X: Ngơi nhà kia không cao.</small>

<small>Y: (a) Ngôi nhà kia mà không cao!</small>

<small>(b) Ngôi nha kia cao!</small>

(3) X: Anh Bốn tốt hon anh Ba.

Y: (a) Anh Bốn tốt hơn anh Ba thế nào được!(b) Anh Bốn không tốt hơn anh Ba!

Trên đây, lời đáp của Y đều là những hành vi PD. Hành vi này được thé hiện

bằng những câu có dạng thức khác nhau, hoặc là PD, như 1 và 3, hoặc là khẳngđịnh như 2b. Những câu PD ứng với hành vi PD này gọi là những câu PD BB. Về

hình thức, dé tạo những câu PD BB, người ta có thé dùng các từ kèm khơng, chang,

chưa nhưng cũng có thé dùng những từ sao, nào, đâu, gi,...

<small>3) Với sự phân biệt trên, các từ sao, nao, đâu, gì,... là những từ đặc trưng cho</small>

<small>dạng thức BB, trong khi đó các từ không, chăng, chưa được dùng với hai chức</small>

<small>năng: PD miêu tả và PD BB.</small>

<small>Ví dụ: X: Màu này đẹp quá.Y: Màu này ma đẹp!</small>

Ở câu đáp người đã dùng từ mà dé thé hiện một dạng thức BB; khơng thể nói

rằng ở đây đã dùng ngữ điệu đề thay cho từ không trong cách bày tỏ ý phủ định.- Những đặc điểm của câu phủ định bác bỏ

Theo Nguyễn Đức Dân, có thé phân biệt câu PD miêu tả với câu PD BB ở 4

điểm sau đây:

1) Trong câu PD miêu tả , không thé dùng các từ đâu, nào, sao, gì,...

2) Sự PD miêu tả có thé xuất hiện trong bất cứ một thời điểm nào của qtrình giao tiếp, trực tiếp hay gián tiếp, thậm chí đó là sự khang định phi ngơn ngữ.

<small>32</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

3) Sự BB và TGD. Một câu nói, ngồi thơng báo hiển ngơn cịn thường mangnhững thơng tin khác nữa không hiện ra trực tiếp ở câu chữ; trong nhiều trường hợp

<small>thơng tin đó là TGD của câu đã cho.- Con anh Ba đã đi bộ đội.</small>

Ít nhất, câu trên có hai TGD là: a) Anh Ba đã có con.

b) Con anh Ba ít ra đã 18 tuổi.

TGD của một câu là điều kiện dùng của câu đó. Khi điều kiện dùng mà sai thì

<small>câu trở thành vơ nghĩa, nó khơng có giá tri đúng mà cũng khơng có giá tri sai.</small>

Trong trường hợp này, người ta không PD câu mà chỉ PD điều kiện dùng của nó:

Người ta BB TGD của một câu, nếu TGD của nó sai. Ví dụ, với câu “Con anh Ba

đã đi bộ đội” nếu TGD của nó bị sai, thì người ta BB bằng cách BB hay chất van

<small>TGD của nó: c) Anh Ba đâu đã có con.</small>

d) Con anh Ba nào đã được 18 tuổi (mà đi bộ đội).

4) Sự BB và su PD các tính từ đối lập.

Chúng ta xét cặp tính từ đối lập: tốt / xấu

a) Anh Ba khơng tét.b) Anh Ba xấu.

c) Anh Ba không xấu.d) Anh Ba fốt.

Trên đây, câu a) gần như đồng nghĩa với câu b), nhưng câu c) lại không thécoi là đồng nghĩa với d). Thật vậy, a) và b) có thể thay thế cho nhau trong các câuchứa chúng mà nghĩa của câu về cơ ban không thay đổi” [8, 27-34].

1.4.5. Phân biệt hành động từ chối và hành động bác bỏ

M.A.K. Halliday (1985) đã có một chương nói về nghĩa liên nhân của câunói, là “Clause as exchange” (Cú như là sự trao đổi) trong cuốn “An Introduction to

<small>Functional Grammar” (Dẫn luận ngữ pháp chức năng). Theo chúng tơi, những gì</small>

được trình bày trong chương này có thể giúp phân biệt từ chối và BB. Trongchương này, Halliday nói đến một bình diện ý nghĩa khác của tiểu cú (another

aspect of the meaning of the clause), đó là như một sự trao đổi (as exchange). Tiểu

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

cú cũng được tô chức như là một sự kiện tương tác gồm có người nói hay người viếtvà người nghe. Halliday dùng thuật ngữ “người nói” để chỉ chung cả người nói lẫnngười viết. Trong HĐ nói năng, người nói và người nghe chấp nhận cho mìnhnhững trị diễn cụ thể, trong những lượt lời thích hợp. Ví dụ, khi đặt một câu hỏi,người nói nhận vai trị người tìm thơng tin và yêu cầu người nghe nhận vai trò

người cung cấp thơng tin. Có hai kiểu vai diễn ngơn (speech role) đứng đằng sau

các kiêu trò dién cụ thé hơn, đó là cho (giving) và yêu cầu (demanding). Người nói

cho người nghe một cái gì đó (ví dụ: một vài thơng tin) hoặc u cầu ở người nghe

một cái gì đó. “Cho” có nghĩa là “mời nhận” (inviting to receive), và “yêu cầu” có

<small>nghĩa là “mời cho” (inviting to give). Người nói khơng chỉ làm một cai gì đó cho</small>

minh mà cịn u cầu ở người nghe một cái gì đó. Như vậy, HD (act) nói năng cóthê được gọi một cách phù hợp hon là một sự tương tac (interact). Có hai thứ có thểtrao đơi, đó là trao đổi thơng tin (exchanging information) và trao đổi hàng hóa- &

<small>-dịch vụ (exchanging goods- & -services).</small>

Halliday đã nêu ra vi dụ về vai trị của người nói va người nghe như sau:

<small>Người nói (Speaker): Người nghe (Listener): [trở thành</small>

người nghe khi đến lượt lời mình]

<small>“Would you like this teapot? ” “Yes, I would. /No, I wouldn't.”</small>

‘Anh có thích chiếc ấm tra này khéng?’ “Vâng, tơi thích. /Khơng, tơi khơng thích.”

<small>“Give me that teapof!” “All right, I will. /No, I won’t.”’</small>

“Đưa cho tơi chiếc ấm tra đó.” “Được, tơi sẽ đưa. /Không, tôi không dua.’

<small>“He % giving her teapot.” “Oh, is he?/ Yes, he is. /No, he isn’t.”</small>

‘Anh ay dang đưa cho cô ấy chiếc ấm tra.’ ‘O! thé à? /Đúng rồi. /Khơng phai.’

<small>[72, 69]</small>

Trong trường hop trên đây, người nói khơng những có thé đưa ra bat kì mộtphạm vi rộng lớn những câu trả lời khác nhau cho các câu hỏi, hay tiến hành mộtmệnh lệnh theo các cách khác nhau; mà anh ta cịn có thể từ chối (refuse) hồn tồnkhơng trả lời câu hỏi, hay cung cấp những hàng hóa- & -dịch vụ.

<small>34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Theo Halliday, trao đôi thông tin (exchanging information) phức tạp hơn traođổi hàng hóa- & -dịch vu (exchanging goods- & -services), bởi vì trong trao đổithơng tin người nghe khơng phải chỉ thuần túy nghe mà còn bị / được yêu cầu đóngmột vai trị trong diễn ngơn để khăng định (affirm), BB (deny), hay cung cấp(supply) phần thông tin bị mat. Ví dụ: “Hơm nay là thứ ba - O, khơng thé thé được”.

Những vi dụ trên có thé giúp phân biệt HD từ chối và HDBB. Đối với trường

hợp “từ chối”, phát ngôn đi trước là một yêu cầu HD như “Give me that teapot!”,

phát ngơn đi sau có thé là chấp thuận (All right, I will) hoặc từ chối (No, I won’t).

Còn đối với trường hợp “BB”, phát ngôn đi trước là một nhận định, như “Hôm nay

là thứ ba”, cịn phát ngơn đi sau đó (Ơ, khơng thê thế được) là phát ngơn BB. Người

nói cho rằng hôm ấy không thể là thứ ba được.

Nguyễn Phương Chi (2004) đã viết luận án “Một số đặc điểm ngôn ngit-van

hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với tiếng Anh)”.

Theo Nguyễn Phuong Chi, HD từ chối là “Một hành vi phản ứng, có hiệu lực tại lờivà vì thế là một hành vi tại lời: từ chối. Hành vi từ chối được người nói dùng đề đáp

<small>lại một hành vi nào đó trong số các hành vi có hiệu lực tại lời là: đề nghị, yêu cầu,</small>

<small>ra lệnh, mời, xin... của một người khác đã thực hiện trước đó. Theo đó, hành vi từ</small>

chối, cũng như hành vi trả lời, hành vi đồng ý... có thé xem như là những hành vihậu vị (post-event-acts), còn hành vi đề nghị, cũng như hành vi hỏi, hành vi đềxuất... có thê xem như là những hành vi tiền vị (pre-event-acts). Về mặt ngữ nghĩa,theo sự xác định của Wierzbicka (1987) thì việc tir chối có nghĩa là “khơng, tơi sẽ

<small>khơng làm việc đó” khi trả lời một phát ngôn của một người khác mà trong phát</small>

ngôn này anh ta đã thông báo cho chúng ta biết rang anh ta muốn chúng ta làm một

việc gì đó và rằng anh ta chờ đợi chúng ta làm việc đó. Ví dụ:1. - Con lên nhà khách, bác Bảng muốn hỏi gì con đấy.

<small>- Thơi con chả lên.</small>

2. - Thế thì ơng dé con dắt ơng vậy.

<small>- Thôi anh ở đây đợi các ông kia”. [7, 40-41]</small>

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Trong luận án này, Nguyễn Phương Chi cịn nói đến quan hệ giữa HDBB vàHD từ chối. Nguyễn Phuong Chi cho răng “Chiến lược BB được xây dựng trên cơsở sự đánh giá của người từ chối đối với giá trị nội dung của lời yêu cầu, đề nghi.Hành vi từ chối bằng cách sử dung chiến lược này được sử dung trong trường hopngười từ chối nhận thấy nội dung đề nghị, yêu cầu... là vô giá trị, hồn tồn vơ ích,khơng thực tế, vơ nghĩa, có hại... Ví dụ:

<small>- Em báo cảnh sát nhé.</small>

- Đừng nói linh tỉnh, đây là việc chính đáng, anh đã nhận lời người ta rồi.

Hành vi sử dụng chiến lược BB có mức độ đe dọa thể diện cao. Có thể xemnhư nó nằm ở phạm vi chót của các hành vi sử dụng chiến lược “tính vơ ích” và“tính bất cập”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hành vi từ chối BB không xuấtphát từ sự đánh giá nội dung đề nghị, u cầu... là có hại, vơ giá tri... mà xuất phát

từ thái độ bất chấp của người từ chối. Ví dụ:

- Dậy đi mày! Trưa lắm rồi !

- Mày làm gì mà nhắng lên thế? Trưa thì trưa, tao cần gì.

Do đó chiến lược BB được thường được sử dụng khi người từ chối có vai xãhội cao hơn vai người đề nghị, yêu cầu” [7, 84].

Theo quan sát của chúng tơi, Nguyễn Phuong Chi có vẻ đã xem từ chối là mộtdạng của BB, cụ thé đã xem từ chối là dạng thức BB đối với những hành vi đề nghị,yêu cầu đi trước. Như đã có địp trình bày ở trên, chúng tơi chủ trương phân biệt từchối và BB, theo đó từ chối là khước từ thực hiện HD được dẫn xuất bởi nhữngHĐNT thuộc nhóm điều khiển đi trước, cịn BB là phủ nhận thông tin được nêu ra ở

những HĐNT thuộc nhóm xác tín hay biéu kiến đi trước.

Trần Chi Mai (2005) cũng viết luận án về từ chối với đề tài “Phương thứcbiểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (Liên hệ với tiếng Việt)”.Trần Chi Mai cho rằng “Hành vi từ chối trong giao tiếp là một trong những cáchứng xử thường nhật nhằm không thực hiện một việc nao đó mà người cùng đốithoại yêu cầu, đề nghị, khuyên bảo... Do là lượt lời thứ hai trong đối thoại vàthường là sự tiếp nhận có khuynh hướng tiêu cực, có nguy cơ cắt đứt hoặc gián

<small>36</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

đoạn cuộc thoại. Hành vi từ chối thường là lượt lời không được ưa dùng. Loại hànhvi ngơn ngữ này thường có cấu trúc phức tạp và chỉ xuất hiện trong những điệu kiệnnhất định. Các nguyên nhân gây nên một hành vi từ chối rất đa dạng. Mọi yếu tốtrong ngữ cảnh đều có thé là những yếu tổ gây nên hành vi từ chối” [37, 30-31].

Trong luận án này, Tran Chi Mai còn nói đến HDBB dé phân biệt với HD từchối. Trần Chi Mai cho rang “Hành vi BB thuộc nhóm hành vi phủ định và BB, làhình thức đối lập với nhận định, đánh giá. Ví dụ:

<small>- Cơ mặc áo đỏ xinh thật.</small>

- Thế mà bảo là xinh, mặt gì mà dài như cái bơm ấy.

Dạng thức của BB có thé dùng hình thức của những PD thơng thường, nhưngcũng có những hình thức đặc chuyên dùng để BB. Tác giả Nguyễn Đức Dân (1999)đưa ra giả thuyết cho con đường hình thành hành vi BB: “Sự BB là một hành viphái sinh của một hành vi khác. Đó là một hành vi ngôn ngữ gián tiếp, tức là mộthiệu luc tại lời, được tạo thành từ các hành vi chat van, từ chối, thanh minh... Điều

<small>này được nay sinh từ lơgích nội tại của ngơn từ” [11, 395]. Những từ như đâu, sao,</small>

được là “những từ phiém định có chức năng tạo câu BB. Chúng trở thành các tác tửBB” [11, 396]. Những từ phiếm định tạo thành câu BB mang HY từ chối như: nào,

<small>gi đâu, (có) bao giờ, có đâu, nao có, sao, sao được... Ví dụ:</small>

- Mẹ ơi, lay ho con cai khan trén ban voi.

- Mẹ lay sao được. Mà con tự làm lay đi chứ”. [37, 32-33]

Nói tóm lại, tuy có những điểm giao nhau (BB và từ chối có thé dùng chungmột số từ ngữ có ý phủ định) hoặc gan gũi nhau (BB và từ chối có thé được hiểu lànhững HD phái sinh của nhau), nhưng sự phân biệt giữa BB và từ chối là khá rõràng: BB là phủ nhận thông tin từ một xác tín trước đó (hiên ngơn hoặc hàm ngơn),

cịn từ chối là khơng chấp thuận một HĐ thuộc nhóm khuyến lệnh (trực tiếp hay

gián tiếp) trước đó. Sự phân biệt quan trọng này là một trong những cơ sở quantrọng dé chúng tôi chon tu liệu và triển khai những nghiên cứu của mình trong luận

1.4.6 Cặp thoại xác tín / bác bỏ trong lí thuyết hội thoại

<small>37</small>

</div>

×