Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tóm tắt: Xác định và xây dựng quy chế pháp lý đối với dữ liệu có tính chất tài sản trong pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.95 KB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT </b>

<b>Luật dân sự và tố tụng dân sự 9380101.04 </b>

<b>TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC </b>

<b>Hà Nội – 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Cơng trình đã hoàn thành tại: </b>

<b>Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội </b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngơ Huy Cương PGS.TS Trần Kiên </b>

<b>Có thể tìm hiểu luận án tại: </b>

<b>- Thư viện Quốc gia Việt Nam; </b>

<b>- Trung tâm Thư viện và Tri thức số, ĐHQGHN </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN </b>

1. Đỗ Giang Nam, Đào Trọng Khôi (2023) "Xây dựng quy chế quyền tài sản cho dữ

<i>liệu: Nhu cầu và thách thức pháp lý", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 09/2023.</i>

2. Đỗ Giang Nam, Đào Trọng Khôi (2023), "Tort Law Reform in Vietnam: Unveiling

<i>the Dialogue between the Courts and the Legislature", Tort Law Review, Volume</i>

29, Number 2.

3. Nguyễn Thị Phương Châm, Đào Trọng Khôi (2023), "Expanding the scope of

<i>precedents in Vietnam: from the area of vicarious liability law", Tunghai University</i>

5. Đỗ Giang Nam, Đào Trọng Khôi (2022), “Bàn thêm về bản chất pháp lý của “tiền

<i>ảo” dưới góc nhìn của luật tài sản so sánh”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN – Luật</i>

<i>học, 37(4), tr. 68-80.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài</b>

Trong xu thế phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0, dữ liệu nổi lên trở thành một loại “dầu mỏ mới”, là nguồn tài nguyên quý giá với giá trị không nhỏ và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển chung của rất nhiều cơng nghệ có liên quan trong nền kinh tế số. Do đó, có ý kiến cho rằng, cần thay đổi cách tiếp cận từ chỗ coi các loại dữ liệu chỉ có thể là đối tượng của quyền nhân thân thuần túy, sang việc khai thác giá trị kinh tế từ dữ liệu. Dưới góc nhìn này, quyền đối với dữ liệu có thể được coi là một loại quyền có tính chất tài sản mới, một loại tài sản phi truyền thống,. Các tranh luận về tài sản hố dữ liệu khơng chỉ là vấn đề thuần tuý về pháp luật thực định, mà còn đặt ra nhu cầu sửa đổi, xây dựng quy chế pháp lý mới với mục tiêu tối ưu hoá loại tài nguyên mới và đầy giá trị này.

Tuy nhiên, dữ liệu tỏ ra là một trong những vật phức tạp và tranh cãi bậc nhất mà pháp luật về tài sản phải xem xét. Nhiều học giả và các luật gia vẫn chưa thực sự nhận thức được rõ nét bản chất của dữ liệu và phân tích được những đặc điểm và tính chất khác lạ mà dữ liệu sở hữu. Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới dù đã nhận thức được tầm quan trọng của dữ liệu nhưng vẫn đang giữ thái độ hết sức thận trọng trong việc coi dữ liệu là tài sản hoặc đối tượng

<i>của các quyền tài sản. Từ nhu cầu lập pháp đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Xác định và </i>

<i>xây dựng quy chế pháp lý đối với dữ liệu có tính chất tài sản trong pháp luật Việt Nam”. </i>

<b>2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>

Mục đích nghiên cứu của luận án là:

<i>- Thứ nhất, hoàn thiện nền tảng lý luận về tài sản như khái niệm, thuộc tính, phân loại </i>

tài sản, xây dựng nền tảng lý luận pháp luật tài sản về dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản như xác định bản chất pháp lý, định nghĩa, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa và phân loại của dữ liệu

<i>và dữ liệu có tính chất tài sản. </i>

<i>- Thứ hai, tổng hợp, xây dựng, mô tả và đánh giá ưu nhược điểm các mơ hình pháp </i>

luật tài sản áp dụng cho dữ liệu có tính chất tài sản trên thế giới

<i>- Thứ ba, đề xuất định hướng, các tiêu chí quan trọng, các bước để hồn thiện pháp </i>

luật tài sản Việt Nam về dữ liệu có tính chất tài sản, với định hướng vừa góp phần bảo vệ được các giá trị nhân thân quan trọng gắn liền với dữ liệu, vừa phân bổ công bằng các lợi ích có liên quan đến dữ liệu có tính chất tài sản và tối ưu hoá chúng nhằm phát triển nền kinh tế

<i>số. </i>

Luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:

<i>- Thứ nhất: hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tài sản như khái </i>

niệm, nguồn gốc, thuộc tính, các học thuyết và phân loại cơ bản của tài sản trong khoa học pháp lý, pháp luật nước ngoài và pháp luật tài sản Việt Nam.

<i>- Thứ hai: hệ thống hoá và phân tích các vấn đề lý luận pháp luật về dữ liệu và dữ </i>

liệu có tính chất tài sản, như xác định khái niệm, bản chất pháp lý, đặc điểm, phân loại, giá trị, ý nghĩa và khả năng dữ liệu trở thành tài sản.

<i>- Thứ ba: tổng hợp, hệ thống hố, xây dựng và phân tích đánh giá các mơ hình pháp </i>

luật tài sản đối với các dữ liệu có tính chất tài sản hiện hành trên thế giới. Làm rõ chủ thể, phạm vi điều chỉnh, nội hàm của các quyền tài sản đối với dữ liệu có tính chất tài sản trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

từng mơ hình, đánh giá tình hình áp dụng pháp luật, những ưu điểm và nhược điểm của các mơ hình lên dữ liệu có tính chất tài sản.

<i>- Thứ tư: Luận án đề xuất một số hướng tiếp cận cơ bản, các bước thực hiện và giải </i>

pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật tài sản Việt Nam áp dụng cho dữ liệu có tính chất tài sản; kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể của pháp luật tài sản Việt Nam liên quan đến dữ liệu có tính chất tài sản.

<b>3. Đối tượng nghiên cứu </b>

Luận án tập trung nghiên cứu:

- Các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng, hồn thiện pháp luật về tài sản, dữ liệu nói chung và dữ liệu có tính chất tài sản nói riêng.

- Nghiên cứu lý luận, các tài liệu, quan điểm khoa học, các quy định đã ban hành hoặc đang được đề xuất của pháp luật tài sản nước ngồi và Việt Nam có liên quan đến đối tượng là dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản.

- Nghiên cứu lý luận, các tài liệu, quan điểm khoa học liên ngành như công nghệ, kinh tế và thực tiễn vận hành của chuỗi cung ứng dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản nhằm kế thừa các kết quả nghiên cứu về dữ liệu và kinh nghiệm quản lý tài nguyên này.

- Nghiên cứu các mơ hình áp dụng pháp luật, các bản án, kinh nghiệm áp dụng pháp luật tài sản của nước ngoài và Việt Nam với dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản.

- Nghiên cứu, đánh giá các chính sách, hướng tiếp cận, tiêu chí xây dựng pháp luật cho dữ liệu có tính chất tài sản tại nước ngồi để phân tích, chọn lọc giải pháp phù hợp nhất nhằm hoàn thiện pháp luật tài sản Việt Nam đối với đối tượng đặc thù này.

<b>4. Phạm vi nghiên cứu </b>

<b>4.1. Phạm vi nghiên cứu về nội dung </b>

Luận án tập trung nghiên cứu quan hệ pháp luật tài sản áp dụng cho dữ liệu có tính chất tài sản và các quyền tài sản có đối tượng là dữ liệu. Đối với các quyền nhân thân có đối tượng là dữ liệu và các dữ liệu thuần tuý gắn liền với nhân thân, luận án có bàn đến nhưng chỉ với mục đích hỗ trợ việc xác định phạm vi của dữ liệu mang tính chất tài sản và các quyền tài sản, chẳng hạn như sử dụng phương pháp loại trừ, đối sánh.

<b>4.2. Phạm vi nghiên cứu về không gian, thời gian </b>

<i>- Về không gian: Luận án tiến hành rà sốt, tìm kiếm, nghiên cứu các tài liệu, thơng </i>

tin có liên quan đến pháp luật về tài sản áp dụng cho dữ liệu tại Việt Nam và một số nước Thông luật (Anh, Mỹ), Dân luật (Pháp, Đức trong Liên minh Châu Âu) điển hình nhằm kế thừa kinh nghiệm xây dựng pháp luật từ các nền tài phán này.

<i>- Về thời gian: Luận án được thực hiện từ cuối năm 2020 và dự kiến kết thúc vào cuối </i>

năm 2023. Các tài liệu, thông tin liên quan đến những vấn đề lý luận về tài sản và dữ liệu được thu thập tối đa từ trước đến nay. Các tài liệu, thơng tin liên quan đến các mơ hình và thực tiễn áp dụng pháp luật tài sản nước ngoài và Việt Nam cho dữ liệu có tính chất tài sản được thu thập từ khoảng thời điểm sau năm 2000, khoảng thời gian được coi là mở đầu kỷ nguyên công nghệ số.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài, gồm phương pháp luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin, phương pháp phân tích, phân loại pháp lý, phân tích quy phạm, phương pháp tổng hợp, phương pháp trừu tượng hố, mơ hình hố, phương pháp luật học so sánh, và các phương pháp khác.

<b>6. Tính mới </b>

<i>Một, làm rõ khái niệm, các học thuyết căn bản và các thuộc tính chung để một vật được </i>

coi là tài sản theo pháp luật Thông luật (Common Law) và Dân luật (Civil Law), trong quá

<i>trình lịch sử từ thời La Mã đến nay. Hai, so sánh sự khác biệt giữa các khái niệm và các thuộc </i>

tính của tài sản trong pháp luật nước ngoài (Common Law và Civil Law) với pháp luật Việt

<i>Nam. Ba, tổng hợp, phân tích, bình luận các những bước phát triển mới nhất trong lý luận về </i>

khái niệm và nội hàm của tài sản cũng như thực tiễn xét xử liên quan đến vấn đề này trong

<i>pháp luật tài sản nước ngoài và Việt Nam. Bốn, xem xét khả năng các quy định về tài sản </i>

nước ngồi và Việt Nam thích ứng được với các thách thức từ các loại tài sản phi truyền thống

<i>nói chung. Năm, luận án là cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính tồn diện và </i>

chuyên sâu đầu tiên tại Việt Nam về các vấn đề lý luận liên quan đến dữ liệu, như khái niệm,

<i>đặc điểm, phân loại, các quan hệ pháp lý có liên quan, giá trị, ý nghĩa của dữ liệu. Sáu, phân </i>

tích và bình luận khả năng coi dữ liệu là đối tượng của quyền tài sản và các hậu quả pháp lý

<i>có thể xảy ra từ việc tài sản hoá dữ liệu. Bảy, tổng hợp, khái quát và phân tích các mơ hình </i>

xác lập quyền tài sản lên dữ liệu hiện nay trong pháp luật nước ngoài và Việt Nam, đánh giá

<i>điểm mạnh, điểm yếu của từng mơ hình tài sản hố dữ liệu. Tám, đánh giá khả năng pháp luật tài sản Việt Nam có thể áp dụng lên đối tượng mới là dữ liệu có tính chất tài sản. Chín, đề </i>

xuất hướng tiếp cận chung, những điểm quan trọng cần lưu ý, các bước cơ bản cần thực hiện khi xây dựng và hồn thiện pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và pháp luật tài sản nói

<i>riêng liên quan đến dữ liệu có tính chất tài sản. Mười, lựa chọn và xây dựng mơ hình phù hợp nhất để pháp luật tài sản Việt Nam áp dụng cho dữ liệu có tính chất tài sản. Mười một, đưa ra </i>

các kiến nghị và đề xuất sửa đổi quy định chi tiết trong Bộ luật Dân sự và pháp luật chun ngành áp dụng với dữ liệu có tính chất tài sản.

<b>7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án </b>

Luận án có ý nghĩa khoa học, đóng góp vào việc hệ thống hố các nền tảng lý luận pháp luật về tài sản và dữ liệu trong pháp luật Việt Nam và nước ngồi, có ý nghĩa thực tiễn trong việc định hình cách tiếp cận của pháp luật tài sản Việt Nam đối với dữ liệu nói riêng và các loại đối tượng khác có khả năng là tài sản phi truyền thống trong tương lai, đặt nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo về tài sản với dữ liệu, đề xuất sửa đổi quy định pháp luật cụ thể, có thể được các nhà lập pháp, hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật tham khảo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

<b>8. Kết cấu của luận án </b>

Luận án bao gồm các chương cơ bản sau đây:

<i>Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và các cơ sở lý thuyết nghiên cứu; Chương 2: Những vấn đề lý luận tổng quát về tài sản, dữ liệu và dữ liệu có tính chất </i>

tài sản;

<i>Chương 3: Các mơ hình tài sản hố dữ liệu; </i>

<i>Chương 4: Xây dựng quy chế pháp lý cho dữ liệu có tính chất tài sản trong pháp luật </i>

Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU </b>

<b>1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngồi </b>

<i><b>1.1.1. Lý luận về tài sản, dữ liệu, dữ liệu có tính chất tài sản </b></i>

Tài sản là một trong những đối tượng nghiên cứu căn bản của pháp luật tư trên thế giới, do đó các nghiên cứu về tài sản trên thế giới có số lượng lớn và hết sức đa dạng. Trước hết, bàn về nguồn gốc và khái niệm về tài sản, tiêu biểu là các công trình "Origin of property" trên

<i>tờ Journal of Comparative Legislation and International Law của giáo sư Edward Jenks, "Property in Prehistory", trong cuốn Comparative Property Law: Global Perspectives, của giáo sư Timothy Earle, "An Introduction to Roman Law" của Barry Nicholas và Ernest </i>

Metzger (2008) và "The Roman Law Concept of Dominium and the Idea of Absolute Ownership", năm 1985 của Peter Birks. Tới thời hiện đại, nội hàm của khái niệm tài sản, đặc điểm và các thuộc tính quan trọng của tài sản trong pháp luật Dân luật và Thông luật tiếp tục

<i>được phân tích và so sánh trong các sách chuyên khảo "Droit civil: les biens", Dalloz, của Franỗois Terrộ v Philippe Simler nm 2010, "An Introduction to Property Law in Australia" (2013) của giáo sư Chambers, “Principles of property law” của Samantha Hepburn (2013) và "Personal Property Law" (1996) của Michael Bridge; trong các giáo trình “Principles of </i>

<i>property law” của Alison Clarke (2020); “Principles of Intellectual Property Law” của </i>

<i>Catherine Colston, (1999); "Cases, Materials and Text on Property Law", (2012) của Sjef </i>

van Erp, Bram Akkermans, và Dimitri Droshout; "Objects of property rights: old and new", của Sabrina Praduroux; "Theories of private property in modern property law" trong sách

<i>chuyên khảo General Principles of Property Law (2001) của Sukhninder Panesar. </i>

Tại Việt Nam, các cơng trình phổ biến và căn bản nhất về tài sản có thể kể đến như

<i>Giáo trình "Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế”, NXB Hồng Đức (2017); Luật dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (2014); Giáo trình luật dân </i>

<i>sự 1 của PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện (2018); “Dân luật, tài sản” của giáo sư Nghiêm Xuân </i>

Việt (1974); bài viê t“Tổng quan về luật tài sản” của PGS.TS. Ngô Huy Cương (2003);

<i>“Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự Việt Nam” (Nxb. Trẻ TP.HCM, 1999) của PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện; "Vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại" (2018) của PGS.TS Nguyễn Minh Oanh; "Tài sản và Vật quyền" (2021) của PGS.TS Phùng Trung Tập, </i>

TS Kiều Thị Thuỳ Linh, luận án "Hệ thống các vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam" (2018) và "Thế chấp quyền tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam" của TS. Nguyễn Hoàng Long (2023) đều tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Các cơng trình này tập trung làm rõ một cách toàn diện hệ thống khái niệm, đặc điểm, nội dung, phân loại cơ bản của tài sản.

Liên quan đến các vấn đề lý luận về dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản, từ lâu dữ liệu và thông tin đã được nhiều ngành khoa học nghiên cứu, mà tiêu biểu các cơng trình như bài viết “Từ Dữ liệu đến Trí tuệ” (1988) của Ackoff; "Data, Information, and Knowledge in

<i>Visualization," của Min Chen (2008); nghiên cứu “The economics of ownership, access and </i>

<i>trade in digital data” của Trung tâm Nghiên cứu của Uỷ ban Châu Âu (2017) tập trung làm </i>

rõ các khái niệm hết sức căn bản như dữ liệu, thông tin, phân loại dữ liệu, khái lược tổng quát các vấn đề chung về dữ liệu và tài sản hoá dữ liệu dưới góc nhìn kinh tế và pháp lý. Các luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

gia dần ghi nhận và phát triển các nghiên cứu trên, chẳng hạn như bài viết “Eigentum an Daten” (2014) của Hoeren và Völken; ‘No One Owns Data’ (2018) của Determann; "Owning Data via Intellectual Property Rights: Reality or Chiemera?" của Pihlajarinne và Ballardini; ‘Regulating data as property: A new construct for moving forward’ của Jeffrey Ritter và Anna

<i>Mayer (2017); luận án "Property rights in personal data: a European perspective" của </i>

Nadezhda Purtova (2011) tại Đại học Tilburg; "Ownership of personal data in the Internet of Things" của Václav Janecek tại Đại học Oxford; “Who owns enterprise information? Data

<i>ownership rights in Europe and the U.S.” của Elad Harisona (2010); “Data ownership and </i>

<i>access to data” năm 2016 của Josef Drexl; bài viết “Data ownership and consumer protection” </i>

của Eric Tjong Tjin Tai; "Data Ownership" (9/2018) của giáo sư Teresa Scassa, "Own data: Ethical Reflections on Data Ownership” của Patrik Hummel; và “Ownership of data and the numerus clausus of legal objects” của giáo sư Sjef van Erp (2017). Các bài viết và cơng trình này bước đầu xây dựng và phân tích các vấn đề lý luận về dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản như khái niệm, đặc điểm, phân loại, vòng đời, vai trò, ý nghĩa, dưới góc nhìn của luật tài sản tại nhiều nền tài phán lớn trên thế giới.

Trong khi đó, tại Việt Nam, các nghiên cứu chung về dữ liệu vẫn chủ yếu tập trung vào phân tích các dạng thức và ứng dụng của dữ liệu, hoặc tập trung vào nghiên cứu về "cơ sở dữ liệu" thay vì làm rõ bản chất của dữ liệu, chẳng hạn như sách chuyên khảo ‘Cơ sở dữ

<i>liệu lý thuyết và thực hành ’của tác giả Nguyễn Bá Tường, NXB Khoa học & Kỹ thuật (2001), </i>

hay Giáo trình ‘Cơ sở dữ liệu', ĐH Huế (2011) của tác giả Nguyễn Thế Dũng. Đối với các nguồn tài liệu pháp lý trong nước có liên quan đến đối tượng là dữ liệu, các nghiên cứu tại Việt Nam hiện chủ yếu tập trung vào một loại dữ liệu phổ biến là dữ liệu liên quan đến cá

<i>nhân, tiêu biểu là các cơng trình như sách chun khảo "Quyền về sự riêng tư" của PGS.TS. </i>

Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS. Vũ Công Giao (2018); ‘Bảo vệ quyền đối với dữ liệu cá nhân trong pháp luật quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và giá trị tham khảo cho Việt Nam’ của PGS. Vũ Công Giao, Lê Trần Như Tuyên (2020); "Pháp luật về bảo hộ dữ liệu cá nhân trong bối cảnh phát triển trí tuệ nhân tạo và các công nghệ số mới nổi khác" của ThS. Nguyễn Quỳnh Trang (2022), nhưng hầu như chưa đề cập nhiều đến khía cạnh tài sản của dữ liệu này.

<i><b>1.1.2. Lý luận và thực tiễn về mơ hình tài sản hố dữ liệu </b></i>

Dù dữ liệu tỏ ra là một đối tượng hết sức phức tạp, thiếu rõ ràng và mơ hồ, pháp luật tài sản hiện hành tại các quốc gia trên thế giới có một số chế định có khả năng áp dụng được hoặc có liên quan mật thiết đến đối tượng này, chẳng hạn như các quy định về quyền tác giả đối với chương trình máy tính (computer program), sưu tập dữ liệu (database), bí mật kinh doanh (trade secret/ confidential information), và thậm chí cả các vật quyền như quyền sở hữu. Các nhà lập pháp và các học giả tại nhiều quốc gia đã bước đầu nghiên cứu và xây dựng một số mơ hình nhằm mục đích tài sản hoá dữ liệu. Việc áp dụng các quyền tài sản kể trên được phân tích trong nghiên cứu “Sui Generis Database Legislation: A Critical Analysis” của Samuel Trosow (2005), “Sui Generis Database Protection: Second Thoughts in the European Union and What It Means for the United States” của Phillips Cardinale từ 2007; “Từ “sưu tập dữ liệu” đến “quyền sui generis”: Cơ chế nào để bảo hộ cơ sở dữ liệu kỹ thuật số?” (2021)

<i>của Nguyễn Lương Sỹ; “Does Copyright Protection Under the EU Software Directive Extend </i>

to Computer Program Behaviour, Languages and Interfaces?” của Pamela Samuelson (2012);

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

"Data ownership in the data economy: a European dilemma" (2018) của Francesco Banterle; bài viết của Tanya Aplin "Confidential information as property?" và nghiên cứu "Information as Property" của giáo sư Herbert Zech (2014); "Data Ownership and Data Access Rights Meaningful Tools for Promoting the European Digital Single Market?" của Florent Thouvenin và Aurelia Tamò-Larrieux (2021); "Who owns data in the enterprise? rethinking data ownership in times of big data and analytics" (2020) Martin Fadler và Christine Legner.

Tại Việt Nam, các cơng trình gần đây có liên quan bao gồm ‘Bảo hộ chương trình máy tính theo pháp luật Việt Nam: Thực tiễn và thách thức’, của TS. Trần Kiên (2018), sách

<i>“Quyền tác giả ở Việt Nam” của PGS.TS Trần Văn Nam (2014); “Một số vấn để vể bảo hộ </i>

bí mật kinh doanh và hồn thiện pháp luật bảo hộ bí mật kinh doanh ở Việt Nam” TS. Nguyễn Thị Quế Anh, (2004), “Pháp luật Việt Nam về bảo hộ bí mật kinh doanh: Thực trạng và một số kiến nghị” của Nguyễn Lê Thành Minh năm 2020, “Điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh”

<i>của Nguyễn Phương Thảo trên Tạp chí Tồ án số 4/2019 đều đã khái qt và làm rõ các khía </i>

cạnh cả về khung lý thuyết và thực tiễn áp dụng của các chế định trên, nhưng không trực tiếp bàn về tác động với dữ liệu. Các cơng trình về luật tài sản vào đối tượng mới (dữ liệu) rất ít, chẳng hạn như bài "Vật quyền dữ liệu số" của Huỳnh Thiên Tứ (9/2022).

<b>1.2. Những thành tựu nghiên cứu mà luận án kế thừa và những vấn đề cần nghiên cứu phát triển trong khuôn khổ luận án </b>

<i><b>1.2.1. Những thành tựu nghiên cứu mà luận án kế thừa </b></i>

Các kết quả nghiên cứu có thể kế thừa bao gồm: (1) các kết quả nghiên cứu về lý luận khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa của dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản trong khoa học pháp lý và khoa học liên ngành có liên quan; khái niệm, nguồn gốc, các học thuyết, thuộc tính, đặc điểm, các phân loại tài sản cơ bản trong pháp luật tài sản nước ngoài và Việt Nam; (2) kế thừa kinh nghiệm thực nghiệm áp dụng pháp luật tài sản và pháp luật chuyên ngành có liên quan tại các quốc gia trên thế giới lên đối tượng là dữ liệu, các bất cập, vướng mắc cụ thể khi tài sản hoá dữ liệu; và (3) kế thừa các kiến nghị hoàn thiện pháp luật tài sản của các nghiên cứu nước ngoài với mục tiêu đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội và sức ép đến từ dữ liệu có tính chất tài sản.

<i><b>1.2.2. Những vấn đề cần nghiên cứu phát triển trong khuôn khổ luận án </b></i>

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các cơng trình trong q khứ, luận án sẽ tập trung nghiên cứu phát triển các vấn đề sau đây:

<i>Thứ nhất, về tài sản và khung pháp lý về tài sản, luận án cần tiếp tục nghiên cứu hoàn </i>

thiện hệ thống lý luận và phân tích pháp luật thực định của cả hai hệ thống Dân luật và Thông luật và pháp luật Việt Nam để xây dựng được một định nghĩa chung về tài sản, làm rõ nguồn gốc của khái niệm tài sản, các học thuyết, phân loại tài sản, các thuộc tính được thừa nhận tại nhiều quốc gia để một vật được coi là tài sản.

<i>Thứ hai, về dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản, luận án cần xây dựng khái niệm </i>

pháp lý, đặc điểm, phân loại dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản, khả năng đối tượng này thoả mãn các điều kiện để trở thành tài sản, từ góc nhìn của khoa học pháp lý trong sự tham khảo các nghiên cứu từ các ngành khoa học khác.

<i>Thứ ba, về các mơ hình tài sản hố dữ liệu, luận án cần xem xét khả năng các chế định </i>

của pháp luật tài sản hiện hành trên thế giới và tại Việt Nam có thể được sử dụng để xác lập

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

các quyền tài sản lên dữ liệu, hệ thống hoá, đánh giá và phân tích được các mơ hình tài sản hố dữ liệu cùng ưu điểm và nhược điểm của từng mô hình.

<i>Thứ tư, về các kiến nghị hồn thiện pháp luật Việt Nam, luận án sẽ tập trung xây dựng </i>

quy chế pháp luật tài sản Việt Nam với dữ liệu có tính chất tài sản, đề xuất cách tiếp cận phù hợp nhất cho Việt Nam, các bước thực hiện, lựa chọn các mơ hình tài sản hố dữ liệu phù hợp theo ưu nhược điểm của từng mô hình, và đề xuất việc sửa đổi các quy định của luật tài sản Việt Nam với dữ liệu có tính chất tài sản.

<b>1.3. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu </b>

<i>Cơ sở lý thuyết: </i>

Các lý thuyết được áp dụng bao gồm: Lý thuyết chung về tài sản và nguồn gốc của tài sản; Lý thuyết về vật quyền, trái quyền.

<i>Câu hỏi nghiên cứu: </i>

- Tài sản là gì? Đâu là nguồn gốc khái niệm tài sản? Có những học thuyết chính về tài sản nào, vai trị của các học thuyết đó? Các thuộc tính cơ bản một tài sản cần có bao gồm những gì? Phạm vi quyền tài sản trong sự phân biệt với các quyền nhân thân?

- Dữ liệu là gì? Bản chất của dữ liệu là gì dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, tham khảo khoa học công nghệ dữ liệu, thống kê? Phân biệt giữa dữ liệu với thơng tin và các khái niệm có liên quan? Các đặc điểm cơ bản của dữ liệu? Các phân loại dữ liệu căn bản là gì? Các quan hệ pháp lý căn bản có liên quan đến dữ liệu bao gồm những quan hệ nào? Giá trị và vai trị của dữ liệu? Dữ liệu có tính chất tài sản là gì? Dữ liệu có thoả mãn các thuộc tính của tài sản hay khơng? Phân biệt giữa dữ liệu có tính chất tài sản với dữ liệu có tính nhân thân?

- Trên thế giới và tại Việt Nam đã có mơ hình lý luận nào về pháp luật tài sản đối với dữ liệu có tính chất tài sản? Thực tiễn áp dụng luật tài sản với dữ liệu có tính chất tài sản diễn ra như thế nào? Pháp luật tài sản thích nghi được với các tài sản phi truyền thống như dữ liệu hay khơng? Các mơ hình tài sản hố dữ liệu cơ bản và phổ biến trên thế giới hiện nay là gì? Ưu, nhược điểm của từng mơ hình tài sản hố dữ liệu đó?

- Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về dữ liệu và dữ liệu có tính chất tài sản là gì? Việt Nam đã xây dựng định hướng phát triển, mục tiêu chính, các giải pháp cơ bản cho việc thu thập, khai thác, làm giàu, chuyển giao dữ liệu chưa? Xây dựng pháp luật tài sản Việt Nam cho dữ liệu có tính chất tài sản cần lưu ý những gì, theo những bước căn bản nào? Việt Nam nên chọn mơ hình tài sản hố dữ liệu nào, điều chỉnh quy pháp nào để hoàn thiện luật?

<i>-Giả thuyết nghiên cứu: </i>

Pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa hoàn thiện cơ sở lý luận về tài sản, các học thuyết áp dụng, chưa chỉ ra được thuộc tính căn bản của tài sản; chưa xây dựng được mơ hình lý luận về dữ liệu, dữ liệu có tính chất tài sản; chưa xây dựng được mơ hình pháp luật tài sản với đối tượng là dữ liệu có tính chất tài sản. Trong khi đó, thực tiễn đặt ra nhu cầu tài sản hoá dữ liệu bởi chúng đang thực tế được coi là tài sản trên thị trường. Do đặc tính của đối tượng phi truyền thống này, dễ xảy ra những vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình xây dựng và áp dụng luật tài sản với dữ liệu có tính chất tài sản (lý luận và thực tiễn).

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ TÀI SẢN, DỮ LIỆU VÀ DỮ LIỆU CĨ TÍNH CHẤT TÀI SẢN </b>

<i><b>2.1. Những vấn đề lý luận tổng quát về tài sản 2.1.1. Nguồn gốc của khái niệm tài sản </b></i>

Không dễ để khẳng định ý niệm về tài sản đã được hình thành ở đâu và từ bao giờ, mà có thể đã nhen nhóm từ nhiều vạn năm TCN, khi con người có ý định tư hữu, tách các vật "của riêng" khỏi "của chung", "của người khác" trong tự nhiên. Minh chứng rõ nhất có thể là quy định độc quyền món ăn tại Sybaris (Ý) (500 TCN) và tranh luận của Plato và học trị Aristole (428-347 TCN). Sau đó, người La Mã khái quát và xây dựng hệ thống tài sản tương

<i>đối hoàn chỉnh trong bộ Corpus Juris Civilis, bàn về tài sản qua khái niệm vật (res) trong mối quan hệ với hai từ propriet và dominium. Theo đó, vật (res) là vật hữu hình hoặc quyền vơ hình mà có dụng ích, là đối tượng của dominium (gần nghĩa với quyền sở hữu ngày nay), trong khi propriet (ngày nay dịch là tài sản) có lúc được dùng tương đương với vật (res), lúc lại hiểu là đồng nghĩa với dominium. Thành tố propriet- bắt nguồn từ proprius với nghĩa "khác thường", "thuộc về ai đó", đối lập với communis với nghĩa "thông thường" và "của chung" hoặc alienus tức là "của ai đó". Như vậy, người La Mã hiểu tài sản (propriet) là sự tách biệt giữa riêng - chung, là sở hữu (dominium) hoặc là vật - đối tượng của sở hữu đó. </i>

<b>2.1.2. Khái niệm của tài sản </b>

Đến thời hiện đại, tài sản vẫn được hiểu với nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo góc nhìn hoặc trường hợp cụ thể. Khơng có một cách tiếp cận đơn nhất hay một khái niệm nào về tài sản mà được tất cả các nền tài phán cùng thừa nhận. Tài sản có thể được định nghĩa theo ba cách hiểu chính: (1) tài sản là vật là đối tượng của quyền, (2) tài sản là "bó quyền", một quan hệ giữa hai chủ thể liên quan đến một vật có giá trị kinh tế (Thông luật); trong khi (3) tài sản vừa là vật vừa là quyền (Dân luật và Việt Nam). Tóm lại, tài sản là "một quan hệ pháp lý mà trong đó một chủ thể được tác động lên một vật vì lợi ích của mình và loại trừ mọi chủ thể khác có hành vi tương tự". Bản chất tài sản là một quan hệ giữa một chủ thể với mọi người khác, trong đó, một chủ thể được (i) trực tiếp có hành vi hợp pháp (kiểm sốt, khai thác) lên một đối tượng (vật) và (ii) cấm mọi chủ thể khác không được thực hiện các hành vi tương tự. Đối tượng liên quan đến quan hệ này là vật (nghĩa rộng - hữu hình và quyền vơ hình.

<b>2.1.3. Các học thuyết chính về tài sản </b>

<i>Dù có nhiều học thuyết về tài sản, có bốn học thuyết cơ bản và ảnh hưởng nhất. Thuyết </i>

<i>chiếm giữ (occupancy) xác định mọi vật mặc định là "của chung", nhưng vật sẽ thuộc một </i>

người nhất định nếu điều này được tất cả mọi người thừa nhận minh thị qua thoả thuận phân

<i>chia hoặc ngầm định, mặc định rằng ai chiếm giữ trước thì vật thuộc về người đó. Thuyết lao </i>

<i>động (labor) cũng coi mọi thứ là do tự nhiên ban tặng, nhưng mỗi người có quyền tự sở hữu </i>

<i>chính mình và tồn quyền hưởng lợi vật mà mình tạo ra bằng cơng lao động. Thuyết vị lợi </i>

(ultitarian) lại khẳng định rằng tài sản là thứ do con người tạo ra, là quyền pháp định, "tài sản và luật sinh ra và chết đi cùng nhau". Ghi nhận tài sản bằng luật có lợi thế, bảo vệ hạnh phúc chung: giảm phí phạm tài nguyên và nỗi lo giấu tài nguyên sợ bị cuớp công, hỗ trợ cải tạo xã

<i>hội, bảo vệ người yếu thế. Thuyết kinh tế (economic) cho rằng ghi nhận tài sản làm giảm chi </i>

</div>

×