Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.34 KB, 76 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA NGỮ VĂN

KHỐ 41

CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG THƠ NÔM

HỒ XUÂN HƯƠNG

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

I.Mở đầu

1.Vài nét về nhà thơ2.Sự nghiệp văn học2.1.Các sáng tác tiêu biểu

2.2.Nét đặc trưng trong thơ Hồ Xuân HươngII.Nội dung nhân đạo

1.Khái niệm chủ nghĩa nhân đạo

2.Nội dung nhân đạo trong thơ nơm Hồ Xn Hương

<i><b>2.1. Tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến thối nát với những tội ác xấu xa, xã hội</b></i>

mục nát, lên án bọn vua chúa quan lại.

2.2. Tiếng nói cảm thơng, u thương con người, đặc biệt là người phụ nữ.2.2.1.Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương được khắc họa với thân phận nhỏ bé, cuộc đời nhiều bất hạnh, đắng cay.

2.2.2. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng là những kiếp máhồng chịu nhiều nỗi đau trong đường tình duyên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

2.2.3. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương được đề cao và ca ngợi vớinhững vẻ đẹp thật sự chân chính.

<i><b>2.3. Khẳng định sự tồn tại con người cá nhân như một thực thể, đề cao quyền</b></i>

sống của con người, đi sâu vào thế giới nội tâm con người.3.Nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương

<i>“Nhiều người nói về Hồ Xuân HươngNhưng người đó là ai?</i>

<i>Thật mỉa mai khơng ai biết rõ</i>

<i>Như có như khơng , như khơng như cóNàng ở làng Quỳnh</i>

<i>Nàng lại ở làng Khánh XuânMờ mờ tỏ tỏ…” .</i>

Đoạn thơ trên được trích trong phần mở đầu bài thơ : “ Hồ Xuân Hương - ngườiđó là ai?” của cố nhà thơ, nhà nghiên cứu Hồng Trung Thơng - ngun việntrưởng Viện văn học Việt Nam. Quả vậy, trong làng văn học nước nhà,không thểphủ nhận sự nổi tiếng và sức ảnh hưởng của Hồ Xuân Hương. Đáng tiếc là vềcuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đếnnay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằngnhững bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sángtác, nghĩa là khơng có ai thực sự là Hồ Xn Hương. Đọc thơ bà, nếu cho làphóng đãng, thì phẩm - từ này chỉ là lối nói xi đỡ địn mà thơi. Sâu xa trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

câu từ ấy, là tinh thần nhân đạo của người phụ nữ sắc sảo này. Qua bài nghiêncứu này, chúng tơi mong đóng góp thêm một vài khía cạnh về cuộc đời ngườinữ sĩ tài hoa họ Hồ và nội dung nhân đạo thể hiện trong thơ bà.

<b><small>1.</small>Vài nét về cuộc đời nhà thơ:</b>

Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan và Hồ Xuân Hương là ba nữ sĩ nổ tiếngnhất trong làng văn học sử Việt Nam. Trong đó, tiểu sử Hồ Xuân Hương có thểnói là mơ hồ hơn cả. Tuy khơng tìm ra được bằng chứng xác thực về năm sinhcủa nữ sĩ, song cũng có một vài mốc giúp ta suy luận được: Xuân Hương sốngcùng thời với những người tiếng tăm, như Phạm Đình Hổ- tác giả nhiều sách giátrị và Nguyễn Huệ - bậc anh hùng đại thắng quân Tàu năm 1788. Nguyễn Huệsinh năm 1752, Phạm Đình Hổ năm 1768. Cho đến nay, bằng những tư liệu vănhọc và qua những nguồn thư tịch (tuy chưa có cơ sở chắc chắn), nhưng các nhànghiên cứu của nhiều thế hệ đã cố gắng vẽ nên hình dáng cuộc đời của nhà thơ,mặc dù giữa họ còn những dị biệt, nhưng cũng đã có nhiều điểm tương đồng:Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến,Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng Quỳnh Đơi,huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ơng thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê BảoThái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, đểkiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hươngra đời là kết quả của mối tình dun đó. Nhưng theo một tài liệu được cơng bốtrên tạp chí Văn học số 10-1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư TrầnThanh Mai, thì Hồ Xn Hương có cùng q qn, nhưng là con ơng Hồ Sĩ Danh(1706-1783), em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786).

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Trước khi nữ sĩ chào đời, gia đình thầy đồ Diễn dọn về ở phường Khán Xuân,huyện Vĩnh Thuận (gần Hồ Tây - Hà Nội bây giờ). Lúc Hồ Xn Hương đã lớn, giađình về thơn Tiên Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư -Hà Nội). Ở tuổi thành niên, nữ sĩ có một ngơi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tênlà Cổ Nguyệt đường. Đây có thể là phịng văn, cũng có thể là nơi dạy học. Điềuchắc chắn đó là nơi diễn ra các cuộc bình thơ, tiếp bạn bè.

Về năm sinh tháng đẻ, thật sự có rất nhiều tài liệu về điều này. Tuy nhiên, đó làmột mốc thời gian khá chung: “ bà sống khoảng cuối Lê, đầu Nguyễn”. Đây làmột quãng thời gian hết sức co dãn, rất rộng , cốt để dung hoà nhiều giả thiếtvề thời điểm sống của nhà thơ, trước khi chưa có một tài liệu đủ cơ sở chắcchắn khẳng định thời điểm sống của bà. Vì cuối Lê kéo dài 255 năm từ Lê DuyNinh niên hiệu Nguyễn Hồ (1533-1548) đến Lê Duy Kì niên hiệu Lê Chiêu Thống(1787-1788). Đầu triều Nguyễn là Gia Long (1802-181819). Nếu chưa kể đến đờisau thì giữa "cuối Lê" đến đầu Nguyễn cịn có triều Tây Sơn.

Cuộc đời Hồ Xn Hương cứ như huyền thoại. Thơ và đời gắn bó với nhau, đờilàm chất liệu cho thơ và thơ cứ thế thăng hoa. Hẳn trong chúng ta khơng ítngười thuộc lịng bài thơ “Khóc Tổng Cóc”. Cũng khơng ít người đã dựa vào câuchữ, ý thơ mà quy chụp Tổng Cóc ấy là tên trọc phú lắm tiền, nhiều của. Quađây, chúng tôi xin cung cấp thêm một vài tri thức về nhân vật trong bài thơ này,để mỗi người đọc có cái nhìn tồn diện hơn.

Hồ Xn Hương khóc Tổng Cóc:

<i>“Chàng Cóc ơi, chàng Cóc ơiThiếp bén duyên chàng có thế thơi</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Nịng nọc đứt đi từ đây nhéNgàn vàng khơn chuộc dấu bơi vơi”</i>

Tổng Cóc thực sự là một nho sĩ đàng hồng, từng có phen lều chõng đi thi vàgặp gỡ Hồ Xuân Hương từ chuyện chữ nghĩa chứ đâu phải chuyện tiền. bài thơnày bà viết khi ơng Tổng vẫn cịn sống, khơng phải khóc người quá cố. Có lẽ Hồkhóc cho thân phận mình. Tiếc một mối tình đã mất, hờn giận, nguyền rủa anhem họ nhà chồng cũng bằng cách nói chữ nghĩa ám chỉ dịng giống cóc, nhái.Tổng Cóc tên thật là Kình, vì làm chức Phó tổng nên gọi là Tổng Kình. Có lẽ ngàyxưa nhân dân ta hay quan niệm: đặt tên con càng xấu thì càng dễ ni, ma quỷkhơng quấy phá. Vậy mới có tên thằng Cóc!

Tích kể rằng, Tổng Cóc bén dun Hồ Xn Hương cũng từ văn chương. Dịp tếtnọ, Cóc và một số nho sinh đến mừng tuổi thầy. Hồ Xuân Hương ra một vế đốimời “các anh” đối: “Tối Ba Mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưaquỷ tới”. Trong khi các anh khóa đang cịn bí, Cóc ta đối: “Sáng Mồng Một mởthen tạo hóa để cho thiếu nữ rước Xuân vào”. Thầy đồ khen là có khiếu vănchương hàng đầu. Lời khen của cha đã làm Hồ Xuân Hương mến mộ chàng Cóc,giúp họ chóng nên duyên. Tổng Cóc cũng là tay chơi, đã cưới Xuân Hương làmvợ lẽ. Chàng dựng hẳn một căn nhà nhỏ giữa ao cho nàng ở và cũng là “Nhàthủy tọa” đàm đạo văn chương thơ phú. Nhưng rồi bởi những sinh hoạt của họkhông hợp ý của họ hàng, cuối cùng mối tình tan vỡ. Nàng bỏ đi. Chưa kịp concái gì.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Ngồi Tổng Cóc, bà Hồ con lấy một người chồng sau nữa là ông Phủ VĩnhTường. Cả hai lần kết hôn của bà đều dưới danh phận vợ lẽ. Phải chăng chínhnhững nỗi tủi hổ phải chịu đựng trong cuộc sống hôn nhân đã khiến ngòi bútcủa bà trở nên sinh động, sắc sảo và cảm thông hơn ai hết?!!

<b><small>2.</small>Sự nghiệp văn học<small>:</small></b>

<i><b>2.1. Các sáng tác tiêu biểu:</b></i>

Nói về sự nghiệp văn chương, trong cuốn “Tuyển tập Thơ Hồ Xuân Hương”bằng tiếng Pháp có tựa:“Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng”. Thơbà hầu hết bắt nguồn từ cuộc sống đời thường, có tính chất úp mở hai mặt,nước đơi, nghĩa đen phơ ra, nghĩa bóng nói về chuyện buồng the, tình yêu namnữ. Hồ Xuân Hương đã đưa cuộc sống và ngôn ngữ trần tục vào thơ một cáchđiêu luyện. Tác phẩm của bà bị thất lạc nhiều, những bài thơ còn lưu truyềnđến bây giờ chủ yếu là thơ Nơm được truyền miệng, cịn được hơn 40 bài. Năm1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trênbáo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đãdịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãnphóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ XuânHương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm1984. Ngồi ra, Hồ xn Hương cịn viết bài "Bánh trơi nước" rất nổi tiếng.Nổi bật có tập “Lưu Hương ký”- tập thơ thể hiện chủ đề tình yêu, gia đình, đấtnước của bà. Trong bài tựa tập thơ có viết: “ Tôi thường nghe người đất NghệAn thuần túy mà ham học. Đúng là thế thật. Đàn ông kiệt xuất thì có các bậc

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

khoa cử từ đời trước, đàn bà tinh anh thì có những người như Phan My Vân, HồXuân Hương. Người ta nói núi cao, sông sâu sinh ra nhân tài tuấn kiệt quảkhông sai. Bởi vậy, tập Lưu Hương ký tuy đầy vẻ gió mây trăng nước, nhưng đềulà đáy lịng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói lại cũng đều đúng với cái ý đã nóitrên kia là “xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên lễ nghĩa”. Trong “LưuHương ký”, ta bắt gặp tất cả sắc thái của tình yêu: thương nhớ, buồn vui, tươngtư, mơ mộng,.. và trên tất cả đó chính là sự thủy chung. Khơng bài thơ nào nỗikhắc khoải không hiện diện. chẳng biết những bậc tao nhân, mặc khách đượcnữ sĩ thổ lộ như thế nào, chỉ biết ngàng cho đi mà mấy khi được nhận lại. Đócũng là thứ tình u đầy phóng khống, tự do, mãnh liệt và tràn trề. Nó nói lênkhát vọng giải phóng tình cảm rất khơng gì cản trở nỗi, sẵn sàng chống đối lạiNho giáo, phong kiến.

<i><b>2.2. Nét đặc trưng trong thơ Hồ Xuân Hương:</b></i>

Nhắc đến thơ Hồ Xuân Hương, vấn đề tranh cãi muôn thuở vẫn là cái “dâm” vàcái “tục” trong thơ bà.Làm thế nào để chứng minh được thơ Hồ Xuân Hươngvừa thiêng vừa tục, vừa thanh vừa tục, hay đúng hơn thiêng tục là một, thanhtục là một?

Nghiên cứu Hồ Xuân Hương, bởi vậy, trước hết ta chú ý đến hệ thống biểutượng phồn thực rất phong phú và đa dạng trong thơ bà. Biểu tượng gốc nhưhang, động, khe, giếng, hầm… (âm vật); sừng, chày… (dương vật); đánh đu, giãgạo… (hành động tính giao) liên quan đến siêu mẫu, mang ý nghĩa phồn thực cảtrong văn bản thơ Hồ Xn Hương lẫn trong ngơn ngữ thường ngày. Đó là khotrời chung mà nữ sĩ lấy làm vô tận của mình riêng. Biểu tượng phái sinh như cái

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

quạt, miệng túi càn khôn… (âm vật); con suốt, đầu sư, cán cân, dao cầu…(dương vật); dệt cửi, (ong) châm, (dê) húc… (hành động tính giao) là sáng tạoriêng của cá nhân Hồ Xuân Hương. Biểu tượng phái sinh chỉ có ý nghĩa phồnthực trong thơ Hồ Xn Hương, cịn ngồi vùng phủ sóng ấy, trong lời ăn tiếngnói hằng ngày, nó khơng hề gợi đến cái ấy, chuyện ấy. Vậy thì, rốt cuộc thơ nữ sĩhọ Hồ này có tục khơng? Vấn đề ấy khơng quan trọng, quan trọng chính là cáchbà dùng nó như một lưỡi dao sắc bén đả kích tầng lớp thống trị, nói lên khátkhao giải phóng tình cảm cho người phụ nữ, địi hỏi quyền hạnh phúc lứa đôi.Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vô cùng nhỏ bé, cuộc đờicủa họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội lạc hậu, trọngnam khinh nữ, người phụ nữ khơng có chỗ đứng và địa vị trong xã hội.Vì vậy,những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hương thường không được coi trọngđồng thời việc làm của một người vợ thường ít được người chồng cảm thông,dù cho quanh năm lam lũ vất vả ni chồng ni con chăm sóc cho gia đìnhln được n ấm dù mình có phải chịu thiệt thịi. Hồ Xn Hương có tài, và cáitài ấy đã khơng uổng phí. Bà dùng thơ mình, dùng tiếng cười nhạo báng vàonhững kẻ tự xưng là đại diện cho nền nếp đạo đức của xã hội.

Ngoài ra, sức sống mãnh liệt, lịng u cuộc sống tha thiết là một nơi dung nổibật nữa trong thơ bà. Tiếng nói ấy khơng phải tiếng nói của cách mạng, vì bàchẳng phải là nhà tư tưởng. xét cho cùng, Xuân Hương vẫn là đàn bà, một ngườiđàn bà sống trong thời đại cần xóa bỏ cái cũ, kiến thiết nên cái mới. Tìm đâu ramột cô gái dám ngỏ lời: “Qủa cau nho nhỏ miếng trầu hơi/ Này của Xn Hươngmới quệt vào/ Có phải dun nhau thì thắm lại..”. Thi sĩ cịn truyền cả sức sống

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

mãnh liệt của mình vào thiên nhiên, hoa cỏ. Trong thơ bà, mọi vật đều sốngđộng, nảy nở sinh sôi. Đá cũng “biết xuân già dặn”, cỏ thì “lún phún héo”, vầngtrăng biết người hò hẹn nên ướm hỏi “năm canh lơ lửng chờ ai đó?”

<b>II.Nội dung nhân đạo:</b>

<b>1. Khái niệm chủ nghĩa nhân đạo</b>

Chủ nghĩa nhân đạo (Tiếng Anh: humanism), còn gọi là chủ nghĩa nhân văn, làtoàn bộ những tư tưởng quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của conngười như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân đạokhông phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần , mà còn bao hàm cả cách nhìnnhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trị, khả năng, bản chất…)trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại.

Thế giới sáng tạo ra trong văn học và bằng văn học nghệ thuật từ xưa đến nay làmột thế giới mà trong đó con người ln đấu tranh chống lại mọi thế lực thùđịch ln xuất hiện dưới mọi hình thức, để khẳng định chính mình, khẳng địnhquyền năng và sức mạnh của mình, đồng thời thể hiện khát vọng làm ngườimãnh liệt và cao đẹp của mình. Lịng u thương, ưu ái đối với con người vàthân phận của nó từ trước đến nay vẫn là sự quan tâm hàng đầu của các nhàvăn, nhà nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo của nghệ thuật.

Ở Việt Nam, thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX, kinh tế hàng hoá và tiền tệ phát triển.Đây là một yếu tố quan trọng không thể không nhắc đến trong lúc nghiên cứucác tác phẩm văn học. Tuy giai cấp tư sản chưa có điều kiện thành hình nhưng ởcác trung tâm thương nghiệp lớn, tầng lớp thị dân đã xuất hiện. Quan hệ phongkiến lạc hậu, phản động, trong đó có những đạo đức, lễ giáo giả dối, khắc

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nghiệt, và trái tự nhiên khơng cịn thích hợp vối xu thế tiến triển của lịch sử. Dođó các tác phẩm văn học của thế kỷ XVIII phần nhiều đều là những tiếng nóichống đối lễ giáo phong kiến, đề cao quyền làm người, quyền được hưỏng hạnhphúc.Sự sụp đổ của giai cấp phong kiến và Nho giáo. Nhờ vào sự tiếp sức củaphong trào nông dân khởi nghĩa; Sự ảnh hưởng của yếu tố dân chủ với vai trịcủa tầng lớp thị dân.Tất cả những điều đó đã làm nên một thời đại văn học rựcrỡ với sự cảm thơng và tình u thương con người sâu sắc.

Đây là thế kỉ của Nguyễn Du, của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Gia Thiều, ĐoànThị Điểm,…những con người tài hoa ấy đã đại diện cho vô vàn những con ngườikhác, viết nên những tác phẩm với tinh thần nhân đạo cao cả, sức lan tỏa vượttầm thời đại.

Riêng với “bà chúa thơ Nôm”, chủ nghĩa nhân đạo trong thơ bà đầy đủ, sâu sắcvà gần gũi hơn ai hết. Bà đã nói lên tiếng nói nhân đạo, vẽ ra trước mắt ngườiđọc số phận của những người bất hạnh, để rồi trái tim ta ngân lên cùng nhịpđập với số phận đau thương của họ.

<b>2. Nội dung nhân đạo trong thơ nơm Hồ Xn Hương:</b>

<i><b>2.1. Tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến thối nát với những tội ác xấuxa, xã hội mục nát, lên án bọn vua chúa quan lại:</b></i>

Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ tiêu biểu và là nữ sĩ hiếm hoi đạidiện cho chủ nghĩa nhân đạo của văn học Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII đếnnửa đầu thế kỉ XIX. Thơ bà không chỉ là những vần thơ viết về thân phận ngườiphụ nữ, xót thương cho kiếp bé nhỏ hèn mọn của họ mà cịn là tiếng nói mạnhmẽ chống lại những thói xấu xa trong xã hội lúc bấy giờ - nguyên nhân của sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

bất hạnh của người phụ nữ. Vì nhân đạo không chỉ dơn thuần là yêu thươngcon người, trân trọng con người, tạo điều kiện cho con người phát triển mà cịnphải lên tiếng chống lại những gì đã gây ra bất hạnh cho con người, những gìxấu xa trong xã hội cần phải bày trừ. Hồ Xuân Hương đã làm được điều đó. Đọcthơ của bà, ta thấy đằng sau những tiếng cười là sự châm biếm, cười vào nhữngthói xấu xa của bọn vua chúa quan lại, bà dùng chính tiếng cười và vần thơ làmcơng cụ chống lại bọn cường hào ác bá, chống lại cái xã hội đang ngày càngxuống cấp, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ bị coi khinh, khơng có giá trị củamình.

Trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, đứng đầu là những vua những chúa –những người đáng ra phải vì dân mà chăm lo, vì dân mà xây dựng đất nước,những người được dân một quỳ hai tâu. Những tưởng đâu đó là những kẻphẩm chất cao quý hơn người, nhưng bằng con mắt sắc sảo của mình Hồ XuânHương đã nhìn sâu vào sau lớp áo bào kia là bản chất phàm tục vốn có, bà dùngnhững vần thơ của mình để tạo nên tiếng cười châm biếm, cười vào những kẻtưởng mình là cao quý thanh liêm nhưng thực chất là phàm phu tục tĩu. Đối vớibậc vua chúa, bà là một nữ nhi thường tình, nào dám phản kháng mạnh mẽ. Cóchăng cũng là tiếng cười đau đớn, chua xót, cười cho cái thân phận nhỏ bé củangười phụ nữ, được “chúa dấu vua yêu” nhưng đâu lấy gì làm sung sướng:

<i>“Mười bảy hay là mười tám đâyCho ta yêu dấu chẳng rời tayMỏng dầy chừng ấy, chành ba gócRộng hẹp dường nào, cắm một cay,Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i>Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,Chúa dấu vua yêu một cái này.”</i>

<i>(Vịnh cái quạt)</i>

Mười bảy hay mười tám, đó là số nan quạt hay cũng là tuổi đời của người phụnữ. Cuộc đời người phụ nữ thật ra cũng chẳng khác nào cây quạt, được “chúadấu vua yêu” vì “cái này” chứ khơng phải vì bất cứ cái gì khác. Bài thơ nghe nhưmột sự tự chua xót cho bản thân, cho những người phụ nữ xung quanh mìnhnhưng lại chính là một tiếng nói đả kích rất lớn vào thói trăng hoa, ham mê sắcdục của bọn vua không ra vua chúa không ra chúa. Ở thời của Hồ Xuân Hương,chưa ai có tiếng nói đả kích mạnh mẽ như bà, đừng nói là một nữ nhi. Bà chothấy sự phản kháng mạnh mẽ trước những thói xấu, hả hê sung sướng khi vạchtrần được sự xấu xa đó. Khơng chỉ một mà đến hai lần bà dùng hình tượng cáiquạt để châm biếm thói hư tật xấu của những kẻ “anh hùng”:

<i>“Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừaDuyên em dính dán tự bao giờChành ra ba góc da cịn thiếu,Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.Mát mặt anh hùng khi tắt gió,Che đầu quân tử lúc sa mưa.</i>

<i>Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,Phì phạch trong lịng đã sướng chưa?”</i>

<i>(Cái quạt giấy)</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Lần này, đối tượng châm biếm của Hồ Xuân Hương không chỉ là vua chúa là cònlà những bậc hiền nhân quân tử - những người được cả xã hội ngưỡng mộ,trọng vọng. Họ là những người được kì vọng sẽ làm những việc chánh nhân,cơng lí, giữ gìn sự thanh cao đức độ để xứng với cái danh “quân tử”, “anhhùng”. Nhưng qua con mắt tinh tường và sự lột trần của Hồ Xuân Hương chỉcòn lại là sự giả dối, đạo đức giả.

Hồ Xn Hương quyết khơng bỏ qua bất kì việc làm xấu xa nào trong xã hội.Đến vua chúa bà còn mạnh mẽ đả kích thì nói gì đến bọn quan lại, bọn ngườimà trước giờ thường được nhắc đến với cái thói ỷ quyền cậy thế, ức hiếp dânlành, tham lam độc ác. Đây là loại người đáng bị lên án và phải lên án mạnh mẽđể xã hội bày trừ.

<i>“Mười hai bà mụ ghét chi nhau?Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?Rúc rích thây cha con chuột nhắt,Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.</i>

<i>Đố ai biết được vông hay trốc,Cịn kẻ nào hay cuống với đầu.Thơi thế thì thơi, thơi cũng được,Nghìn năm khỏi bị tiếng nương dâu.”</i>

<i>(Quan thị)</i>

Ngồi những thói hư tật xấu mà bọn quan lại vốn có, Hồ Xn Hương cịn thấyđược ở bọn chúng thói ham hư vinh mà coi thường tình cảm. Là một người phụnữ bà cảm thấy xót thương, đau đớn cho những phận nữ nhi khác bị coi rẻ. Bọn

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

quan lại vì chút địa vị, hư vinh mà qn đi tình nghĩa, coi người phụ nữ nhưmón đồ muốn vứt bỏ là vứt bỏ.

Lời thơ của Hồ Xuân Hương còn là thanh kiếm sắc bén, chém tan những tượngđài giả dối, những bậc tự xưng mình là “qn tử” nhưng lại có hành động chẳngkhác gì “tiểu nhân”. Hồ Xuân Hương thể hiện rõ mình là người căm ghét thóiđạo đức giả, nguỵ quân tử. Thà rằng một kẻ tiểu nhân thật sự còn cao quý hơnmột kẻ chẳng khác gì tiểu nhân núp sau cái bóng của quân tử ảo. Vì lỡ mangtrên mình cái danh anh hùng nên những hành động xấu xa của bọn chúng chỉdám lén lút, sợ xã hội nhìn thấy nhưng cũng khơng thể nào thốt khỏi con mắtcủa nữ sĩ Xuân Hương. Thật đáng xấu hổ cho chúng khi bị bà phát hiện ra bộmắt giả dối, đem ra ánh sáng:

<i>“Mùa hè hây hẩy gió nồm đơng,Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.Lược trúc lơi cài trên mái tóc,</i>

<i>Yếm đào trễ xuống dưới nương long.Đơi gị Bồng đảo sương cịn ngậm,Một lạch Đào nguyên suối chửa thôngQuân tử dùng dằng đi chẳng dứt,Đi thì cũng dở ở khơng xong.”</i>

<i>(Thiếu nữ ngủ ngày)</i>

Bài thơ lấy hình ảnh người thiếu nữ ngủ qn nhưng lại để cười vào cái thóithập thị, lén lút, khơng đàng hồng của người “qn tử”. Chẳng có người quântử nào lại đi nhìn trộm người con gái trong tình trạng ngủ quên, “yếm đào trễ

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

xuống” như vậy trừ khi có ý xấu. Đã vậy là còn “dùng dằng đi chẳng dứt”, rõràng là có ý đồ xấu xa, thật mất mặt quân tử. Những hành động đáng hổ thẹnđó khơng thể nào qua mắt được Hồ Xuân Hương. Bằng những lời thơ rất nhẹnhàng nhưng hiệu quả đả kích đem lại thì vơ cùng lớn. Người đọc có thể hìnhdung được cái bộ dạng lén lút, bất chính của những kẻ tự xưng là quân tử, cảmthấy bất bình, cảm thấy phẫn nộ và càng thấy đáng cười vào những kẻ như thế.Không chỉ có tác dụng tố cáo những kẻ nguỵ quân tử thời đó mà ở thời bấy giờ,những kẻ có tâm địa khơng đàng hồng chắc hẳn sẽ cảm thấy rất xấu hổ khithấy mình trong bài thơ của Hồ Xuân Hương. Cái tài của Xuân Hương là ở đó,tuy nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc.

Một đối tượng mà chẳng ai nghĩ sẽ xuất hiện trong những bài thơ châm biếm,đả kích, ấy vậy mà lại xuất hiện trong những bài thơ của “bà chúa thơ Nơm” khinói về những thói hư tật xấu trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ - đó là nhữngnhà sư. Những kẻ mang danh nhà sư, mang danh đệ tử của đức Phật.

<i><b>2.2. Tiếng nói cảm thơng, u thương con người, đặc biệt là ngườiphụ nữ:</b></i>

<i>Có nhận định cho rằng: “Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người trước</i>

<i>một thực tại chưa bao giờ bằng lòng”. Chức năng của văn học là phản ánh</i>

những tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người. Một tác phẩm sống và đi vàotrái tim người đọc bao thế hệ phải là tiếng lòng, là máu thịt của người thi nhânđược vắt ra từ chính thực tại đau đớn, từ cuộc sống thực của bản thân mình.Hồ Xuân Hương được biết đến như là một nhà nhân đạo chủ nghĩa của thời kìvăn học nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, bởi thơ bà trước hết là

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tiếng nói tâm tình của người phụ nữ. Đó khơng phải là người phụ nữ lầu son gáctía, chinh phụ hay cung tần, mà là những nữ nhi rất mực thường tình, chúng tacó thể dễ dàng bắt gặp trong thời phong kiến. Người phụ nữ trong thơ bà đượcthoát thai từ chính đời sống thực của bà, là chính bà, là những số phận bất hạnhmà bà đã được chứng kiến. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trên văn đàn ViệtNam, người phụ nữ bước vào trong thơ ca với một diện mạo riêng biệt, lần đầutiên người phụ nữ được cất lên tiếng nói một cách mạnh mẽ và đa sắc thái, đacung bậc: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và nhữngtiếng châm biếm sâu cay.

Thơ Hồ Xuân Hương viết về phụ nữ chan chứa tinh thần nhân đạo bởi nó đâuphải là tiếng nói riêng tư mà là tiếng nói chung cho những phận hồng nhan sốngtrong kiếp bị đọa đày bởi những lễ giáo phong kiến, bởi thân phận bị phụ thuộc,

<i>bị chà đạp. Nhà văn Banzac trong Miếng da lừa đã nói: “Trên đời khơng có gì</i>

<i>trọn vẹn hơn sự bất hạnh”, ơng trời vốn thường hay ích kỉ, con tạo vốn thường</i>

khéo trêu đùa con người, đặc biệt là những con người tài hoa, có nhan sắc, tàinăng, nhân cách. Họ thường là đối tượng phải hứng chịu nhiều đau đớn, thiệtthòi, đặc biệt là sinh vào thời buổi đảo điên, bên trọng bên khinh của thời kìphong kiến mục ruỗng, thối nát.

2.2.1.Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương được khắc họa với thân phận nhỏ bé, cuộc đời nhiều bất hạnh, đắng cay:

Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vừa có tài, vừa có sắc nhưng cuộc đờilại lận đận, số phận nhiều bi đát:

<i>Thân em vừa trắng lại vừa tròn</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>Bảy nổi ba chìm với nước non(Bánh trơi nước)</i>

Người con gái được khắc họa thơng qua hình ảnh ẩn dụ là “bánh trơi nước”. Cơgái “vừa trắng lại vừa trịn”, đó là vẻ đẹp phúc hậu, duyên dáng, vẻ đẹp truyềnthống, mang tính cổ diển của người phụ nữ Việt khiến bao người say mê, quyếnluyến. Tuy nhiên, thân phận của nàng lại hết sức long đong, lận đận, khôngđược viên mãn, trịn đầy như vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho nàng. Thànhngữ “Bảy nổi ba chìm” ngắn gọn, súc tích nhưng bao chứa cả cuộc đời củangười con gái. Họ đâu tự quyết định được số phận của mình, họ sống, hay nóicách khác là họ tồn tại trong tâm thế bị phụ thuộc, mặc kệ để cho người khácxoay chuyển. Số phận họ bấp bênh, cheo leo như chính cái trơi nước mà họđược ví, lúc chìm, lúc nổi, lúc nguyên vẹn, lúc rắn nát… đầy đáng thương. Cadao văn học Việt Nam cũng đã tốn khơng ít giấy mực khi nói về số phận chìmnổi của người phụ nữ:

<i>Thân em như hạt mưa rào</i>

<i>Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoaThân em như hạt mưa sa</i>

<i>Hạt vào đài các, hạt ra ruộng càyHay:</i>

<i>Thân em như tấm lụa đào</i>

<i>Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai</i>

Trong bài thơ Tự tình III, nằm trong chùm thơ Tự tình của Bà chúa thơ Nơm.Một lần nữa ta lại có dịp ngao ngán trước thân phận nhỏ bé, nhiều đắng cay của

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

người phụ nữ mà chính bản thân bà đã bị nếm trải mùi vị ấy, để rồi, viết nênnhững dòng thơ làm lay đọng lịng người:

<i>Chiếc bách buồn vì phận nổi nênhGiữa dịng ngao ngán nỗi lênh đênhLưng khoang tình nghĩa dường lai lángNửa mạn phong ba luống bập bềnhCầm lái mặc ai lăm đổ bến</i>

<i>Dong lèo thây kẻ rắp xuôi duềnhẤy ai thăm ván cam lịng vậyNgán nỗi ơm đàn những tấp tênh</i>

Mượn chiếc thuyền nhỏ (chiếc bách) trơi nổi giữa dịng sơng khơng biết về đâuđể nói lên thân phận bấp bênh, bèo nổi của mình, hình ảnh quen thuộc ấy làmngười đọc dễ cảm thông, dễ xúc động.Nguyễn Du cũng dùng hình ảnh này khiThúy Kiều nghĩ đến thân phận trơi dạt, khơng có ngày mai của mình.Cái tài củaXn Hương là dùng vần, nhạc, kết hợp với hình ảnh tạo cho người đọc mộtcảm giác bấp bênh, chời với.Vần “ênh” trong các từ “nổi nênh”, “lênh đênh”,“bập bềnh”… sao mà nhỏ bé trước thế lực dịng sơng, thế lực cuộc đời. Nghĩ vềthân phận mình như thế, nhiều người cho rằng bài thơ được sáng tác lúc nhàthơ đang ở giữa hai đời chồng.Đây quãng thời gian sống bàng hồng, phân vân,khơng tìm được lời giải đáp cho cuộc đời, cho thân phận của mình. Kể cũngđúng, nhưng cái chính vẫn là cảm nhận, tiên đốn về thân phận, số kiếp củamình. Một nhà thơ có bản lĩnh như vậy, một con người yêu đời như thế, cái xãhội phong kiến phản động, khắt khe kia sao dung nổi, sao hòa hợp được. Nỗibuồn bắt nguồn từ sự xung đột gay gắt giữa con người và xã hội. Càng cảm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

thông nỗi buồn ấy ta càng thấu hiểu lòng Xuân Hương và cái xã hội đã khước từcái trách nhiệm của mình, khiến trăm phần cuộc đời trở nên đau khổ.

Lời thơ thật thảm thương, thấm thía “Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh”. Chiếcthuyền nhỏ kia tự mình thương xót cho số phận nhỏ bé của mình. Trước cuộcđời ghẻ lạnh, tan tác, Xn Hương càng thấy thương mình, xót xa cho mình.Khát vọng hạnh phúc chân chính của mỗi một con người, thật xa vời, thật tantác… nếu chiếc thuyền nhỏ kia trơi dạt gần một bến bờ nào, chắc cịn một tia hivọng, nhưng ở đây “Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”. Nhà thơ Huy Cận,thời hiện đại, trước cảnh nước mất nhà tan đã từng viết “Củi một cành khơ lạcmấy dịng”, đó cũng là một thân phận trước cuộc đời chưa tìm ra lối thốt.Nhưng thật tội cho Xuân Hương, con người đâu hề nhạt nhẽo với đời:

<i>Lưng khoang tình nghĩa dường lai lángNửa mạn phong ba luống bập bềnh</i>

Đem cái tình lai láng làm bạn với phong ba thật là chua xót! Có kẻ lăm le “lămđổ bến” và thói đời lại cũng “thăm ván bán thuyền”, thì thơi… đành mặc để chosố phận bng trơi! Nhưng nghĩ lại nỗi đau lại đày đọa thêm cõi lịng.XnHương trước sau vẫn muốn trọn tình vẹn nghĩa nhưng nghĩ rồi lại không khỏilâm vào cảnh “ôm cầm thuyền ai”, nghĩ mà thêm ngán ngẫm “Ngán nỗi ôm đànnhững tấp tênh”. Một con người tự tin, nóng bỏng khát vọng với đời như XuânHương mà cũng có lúc hóa ra chán ngán. Một câu hỏi về tội lỗi, về nguồn gốccủa những đau khổ trong cuộc đời người con gái cứ xốy mãi trong lịng ta, ámảnh ta day dứt khôn khuây.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Ở một thi phẩm khác, nữ sĩ đã đem đến cho bạn đọc một cái nhìn đầy đủ nhất,sâu sắc nhất, thấm thía nhất, cảnh cơ đơn, bất hạnh của thân phận mình:

<i>Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn</i>

(Tự tình II)

Đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn tỉnh thức, vì khơng ngủ được hay không muốnngủ? Ngồi lắng nghe tiếng trống cầm canh nơi một đồn ải nào vẳng lại, nhắcnhở một cách quái ác thời gian dường như cứ dồn đuổi nhau trôi đi, trơi đi mộtcách uổng phí và vơ nghĩa lí trên thân phận trớ trêu của một người đàn bà vớisố phận hẩm hiu, bi đát:

<i>Trơ cái hồng nhan với nước non</i>

Chữ nghĩa của Xuân Hương bao giờ cũng trần trụi đến tàn nhẫn như thế. Khinhà thơ dung đến hai chữ “hồng nhan” thì có nghĩa là chỉ người con gái đẹp,người thiếu phụ xuân sắc vẫn còn, xuân tình vẫn chưa cạn, vậy mà cứ phải “trơ”ra đó, khơng kẻ đối hồi. Có người hiểu chữ ‘trơ” theo nghĩa trơ lì, khơng cịn

<i>cảm giác: “Đau thương, ê chề ngấm sâu dần, sâu dần vào xương cốt, biến con</i>

<i>người thành vật vơ tri” (Lê Trí Viễn). Đây là cách hiểu chữ “trơ” trong thơ Bà</i>

Huyện Thanh Quan “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”.Tuy nhiên, trong bài Tựtình II, người đàn bà đúng là đã nếm trải nhiều bất hạnh, nhưng tâm hồn vẫnluôn sôi sục, cháy bỏng, bồn chồn khơng n. Bởi vì thế mà nỗi đau càng dânglên thật nhiều, càng cào xé thật nhiều.

Ở những thi phẩm khác, Xuân Hương đã mang đến cho người đọc một tiếngcười nhẹ nhàng, châm biếm nhưng thực ra ẩn đằng sau câu chữ là cả một số

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

phận, một cuộc đời nhiều đau khổ. Bà ví người phụ nữ như “ốc nhồi” - một mónăn bình dân của mọi tầng lớp:

<i>Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hơi.Qn tử có thương thì bóc yếm,Xin đừng ngó ngốy lỗ trơn tơi.(Ốc nhồi)</i>

Hay là bà tự ví von mình như quả mít trên cây:

<i>Thân em như quả mít trên cây Da nó xù xì múi nó dày </i>

<i>Qn tử có u xin đóng cọc Đừng mân mó nữa nhựa ra tay</i>

(Quả mít)

Vẫn là cái mở đầu bằng công thức muôn thuở của các bài ca dao, với hai từ:"thân em", nhũn nhặn, mộc mạc, rất nhún nhường, e lệ mà không kém phầnduyên dáng. Chỉ bằng hai từ đó thơi, các cụ ta xưa đã tôn vinh cái phẩm hạnhcao quý của người phụ nữ lên cao muôn phần. Không kiêu sa, hãnh diện, khơngthách thức mang tính nữ quyền, chỉ là "thân em" khép nép, dun dáng và cóphần tủi phận.Quả mít, vỏ ngồi xù xì, nhưng múi dày và ngọt. Người phụ nữđược so như quả mít, chắc là những người phụ nữ thôn quê, cần lao vất vả, vẻđẹp bên ngồi mộc mạc, thơn dã, nhưng cái khí chất nội tại bên trong chắc phảilàm người ta say đắm mê mẩn như khi tận hưởng những múi mít ngọt lành vậy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Và có lẽ người phụ nữ tủi cho cái phận mình từ ấy, nên đã nhẹ nhàng cầu xin,những đấng quân tử quang minh ngay thẳng:

<i>Quân tử có yêu xin đóng cọcĐừng mân mó nữa nhựa ra tay</i>

Xuân Hương tài tình là vậy, vẫn là tiếng cười đó, vẫn là sự bỡn cợt đó… nhưngsao đau quá, sao nghẹn ngào, thương thay cho phận người con gái quá đỗi!

<i>Quả là đúng khi nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Những nhà trào phúng vĩ đại</i>

<i>không nhe răng ra mà cười, khơng chửi bằng lời nói, họ nén cả trái tim của họ,nén cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trongxã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đóthơi”.</i>

Trong giai đoạn này, ta cũng đã bắt gặp vô số bài thơ nói về số phận hẩm hiucủa người phụ nữ.Họ là những người có phẩm chất cao đẹp như bà Tú trong“Thương vợ” của Tú Xương:

<i>Quanh năm buôn bán ở mom songNuôi đủ năm con với một chồng</i>

Hay là tiếng nấc nghẹn của Nguyễn Du thương thay cho số phận người phụ nữtrong Văn Chiêu Hồn và Truyện Kiều:

<i>Đau đớn thay phận đàn bàKiếp sinh ra thế biết là tại đâu</i>

(Văn chiêu hồn)

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i>Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét: “Xuân Hương là nỗi bức</i>

<i>bối, là sự ấm ách của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, muốn tìmmột lối thốt mà chưa tìm được”. Nhận định trên thật sâu sắc khi bao chứa</i>

những nét riêng trong tính cách của nữ sĩ họ Hồ, của thơ ca chính bà và của cảbối cảnh lịch sử đen tối dai dẳng. Do sống trong một xã hội phong kiến, một xãhội coi thường phụ nữ và luôn bị lễ giáo trói buộc, khơng được hoạt động xãhội, khơng được học hành thi cử, chịu nhiều thiệt thịi cả ngồi xã hội cũng nhưtrong gia đình. Chính vì vậy, người phụ nữ là nạn nhân phải hứng chịu nhiều nỗiđau trong đường tình dun. Có lẽ phải chịu nhiều đắng cay, lận đận khi phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hai lần làm lẽ nhưng cả hai lần đều ngắn ngủi nên Hồ Xuân Hương rất hiểu vàđồng cảm với thân phận của những phụ nữ khơng may mắn trong đường tìnhdun… đó là nỗi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ nữ khôn chồng màchữa, người phụ nữ chết chồng… Điều đáng nói ở đây là bà dám lên tiếng tố cáogay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng mà ai cũng phải cúiđầu tuân mệnh. Bằng ngòi bút của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, bà đã cho tathấy được phận khổ nhục của biết bao người con gái, đau đớn, bất hạnh trongđường tình duyên đầy sóng gió, đầy trúc trắc.

<b>Người phụ nữ làm lẽ, năm thì mười họa mới được gần chồng, họ là thứ làm</b>

mướn không công để thỏa mãn nhục dục của bọn nhà giàu:

<i>Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.Chém cha cái kiếp lấy chồng chungNăm thì mười họa hay chăng chớMột tháng đơi lần có cũng khơngCố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm</i>

<i>Cầm bằng làm mướn, mướn không công,Thân này ví biết dường này nhỉ</i>

<i>Thà trước thơi đành ở vậy xong</i>

(Làm lẽ)

Xuân Hương bị kiếp làm lẽ làm cho dồn nén và ấm ức quá thể nên ngay từ câuthơ mở đều, lời lẽ đã bung nổ, nó rơi thẳng vào sự bất cơng trong hơnnhân.Hình ảnh thơ gợi ngay đến cảnh buồng the chăn gối, hạnh phúc lứa đôi vợchồng và sự bất công giữa vợ lẽ và vợ cả như núi đôi vực thẳm.Kẻ “đắp chăn

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

bơng” ấm áp bao nhiêu thì kẻ nằm sng ngồi nhà lại lạnh lẽo, cơ quạnh bấynhiêu.Mà cái lạnh của thể xác nó chưa thấm sâu vào như cái lạnh của tinh thần,lạnh trong lòng, “lạnh lùng”. Bà chửi thẳng vào cái kiếp lẽ mọn chung chạ bằngcâu thơ sắc như gươm “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”. Nhưng chửi rồivẫn còn nguyên nỗi đau, đã là “kiếp” thì suốt đời phải gắn chặt với nó rồi, phảichung cái khơng thể nào chung được, thật đáng nguyền rủa, thật xa xót cõilịng! Ca dao Việt Nam bao đời đã luôn cự tuyệt cảnh ngộ trái ngang này:

<i>Đói lịng ăn nắm lá sung</i>

<i>Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng</i>

Những câu thơ tiếp theo, bà vẽ nên một bức tranh với gam màu chủ đạo là sự uám, ảm đạm của cuộc sống chung chạ, của cuộc đời người thiếp mọn. Chỉ cóXuân Hương mới đủ can đảm và đủ tài hoa để vớ một thành ngữ mà lí giải hànhvi dẫn đến bi kịch hơn nhân . “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”, từ hành vi vật chất,hiện tượng vật chất, tác giả gợi đến hành vi tinh thần, tâm trạng của một kẻ lẽmọn. Từ cái mùi “ hẩm” đến “ buồn nôn” của xôi, nhà thơ đã gợi đến sự hẩmhiu của cảnh “chồng chung”. Cách cụ thể hóa cái trừu tượng như vậy rất gần vớithi pháp dân gian. Vì khát vọng một chút hạnh phúc lứa đôi nhỏ nhoi mà ngườiđàn bà phải hạ mình “cố đấm ăn xơi”, nhưng nhập cuộc rồi, người vợ lẽ mớinhận ra bản chất xấu xa của chế độ đa thê: “Cầm bằng làm mướn, mướn khôngcông”. Vợ lẽ chẳng qua là một người “làm mướn”, một người ở, mà còn tệ hơnngười làm mướn là “mướn không công”.Thật là hẩm hiu, tủi nhục. Ca dao cũngđã hơn một lần viết về cảnh sống đọa đày như địa ngục này của người vợ lẽ:

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i>Lấy chồng làm lẽ khổ thayÐi cấy, đi cày chị chẳng kể côngÐến tối chị giữ lấy chồng</i>

<i>Chị cho manh chiếu nằm khơng nhà ngồiCanh Tư chị gọi: Bớ Hai!</i>

<i>Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm bèoVì chưng bác mẹ tôi nghèo</i>

<i>Cho nên tôi phải băm bèo thái khoai</i>

Kết thúc bài thơ là một lời tự nhủ đầy chua chát, bà nhủ với bản thân mình, vớinhững cơ gái đang cùng chung cảnh ngộ như mình:

<i>Thân này ví biết dường này nhỉThà trước thơi đành ở vậy xong</i>

Đây là một cách nhận thức lại, khơng hình ảnh, khơng bóng bẩy, chỉ phơ diễntrực tiếp ý tưởng của một đời làm lẽ. Người đàn bà thuộc vào hàng trí giả nhưXn Hương cũng khơng thể hình dung hết những điều cay nghiệt của “kiếp lấychồng chung”. Bà ngậm ngùi mà nghĩ rằng “Thà trước thôi đành ở vậyxong”.Người đàn bà với thiên chức làm vợ, làm mẹ mà “ở vậy” là bi thảm nhất,vậy mà làm lẽ lại còn bi thảm hơn. Thế mới càng thấy “kiếp lấy chồng chung”cay nghiệt đến chừng nào!

<b>Chưa dừng lại ở đó, nội dung nhân đạo trong thơ Hồ Xn Hương cịn làsự cảm</b>

<b>thơng, khoan dung, độ lượng, thấu hiểu với những biến cố, những bất hạnhcủa cuộc đời người con gái. Trong bài Không chồng mà chửa, nhà thơ đã viết</b>

về cảnh ngộ của một người, cảnh ngộ của một cơ gái khơng may có mang với

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

người yêu của mình nhưng đã bị chàng ta quất ngựa truy phong, bị cả xã hộiruồng rẫy, khơng chấp nhận:

<i>Cả nể cho nên hố dở dang,</i>

<i>Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,Phận liễu sao đà nảy nét ngang.Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?Mảnh tình một khối thiếp xin mang.Quản bao miệng thế lời chênh lệch,Khơng có, nhưng mà có, mới ngoan!</i>

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tội tày đình, thời Hồ

<i>Xuân Hương sống và sáng tác, Bộ Luật Gia Long ghi rõ: “Nam nữ đã đính hơn</i>

<i>với nhau, nhưng chưa cưới mà đã thơng gian thì phải phạt một trăm trượng”.</i>

<i>Và chú thêm: “Người đàn bà phạm tội gian dâm thì hết cả lêm sỉ, nên bắt cởi áo</i>

<i>cánh, để choo mặc váy mà gia hình; cịn tội khác, khi phạt cũng được mặc cảáo”. Đấy là tội của những người phụ nữ đính hơn nhưng chưa cưới đã ăn nằm</i>

với nhau. Chứ nghững người phụ nữ khơng có đính hơn, “khơng chồng màchửa” thì khơng thể hình dung được.Thật khơng có sự lệ thuộc nào bằng sự lệthuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Pháp luật, lễ giáo, tập tục,những Tam cương ngũ thường, Tam tòng tứ đức đã hoàn toàn biến phụ nữthành một thứ sở hữu của người gia trưởng, của đàn ông. Họ biết tước hết mọiquyền lợi, kể cả quyến được yêu, và quyền đối với con cái của họ.Trong hoàncảnh ấy, quan hệ vợ chồng chưa chắc đã là quan hệ yêu đương, và việc không

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

chồng mà chữa chưa hẳn là chuyện bừa bãi, trong bộc trên dâu, mà nhiều khilại là kết quả của một tình yêu thực sự. Người phụ nữ không chồng mà chữatrong bài thơ của Nữ sĩ họ Hồ là trường hợp ấy, nàng nói với người tình củamình, nửa như trách móc, nửa như tâm sự:

<i>Cả nể cho nên hoá dở dang,</i>

<i>Nỗi niềm nàng có biết chăng chàng.</i>

Khơng coi việc làm của nàng là tội lỗi, đó chỉ là chuyện “cả nể” đối với ngườitình, và vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy. Lễ giáo phong kiến khắc nghiệtlàm cho người tình khơng dám nhận kết quả tình u của chàng.Chỗ nhút nhátấy của bạn tình, người phụ nữ của Xuân Hương cũng rất độ lượng “Nỗi niềmchàng có biết chăng chàng”.Nàng chỉ yêu cầu một điều là phải nhìn nhận sự việccho đúng đắn.đây là chuyện tình chuyện nghĩa chứ không phải là chuyện bướmong trong chốc lát “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?”. Còn kết quả của nó,chàng khơng dám nhận, nàng xin đảm đương tất cả “Mảnh tình một khối thiếpxin mang”. Cuối cùng,người phụ nữ của Xuân Hương thấy không thể khuất phụcđược, nàng đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, bằng nhữnglời lẽ hung hồn, đanh thép:

<i>Quản bao miệng thế lời chênh lệch,Khơng có, nhưng mà có, mới ngoan!</i>

Thái độ của Xuân Hương đã có sự gặp gỡ với thái độ của quần chúng nhân dân trong ca dao:

<i>Không chồng mà chửa mới ngoan</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<i>Có chồng mà chửa thế gian sự thường</i>

<i>Lẳng lơ cũng chẳng có mịn</i>

<i>Chín chun cũng chẳng sơn son để thờ</i>

Cố nhiên quần chúng nhân dân cũng như Hồ Xuân Hương không phải bênh vựccho quan hệ bừa bãi giữa nam nữ, mà ở đây là cách nói ăn miếng trả miếng cótính cách đốp chát trong lối đối thoại của nhân dân với giai cấp phong kiếnthống trị. Xuân Hương là nhà thơ yêu con người, yêu cuộc sống, tình cảm chânthành làm cho thơ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che dấu bên trong mộtnụ cười. Điều đó làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn của các thi phẩm, hơn cả, chochúng ta thấy được tấm lòng nhân hậu, nhiều tình thương của bà chúa thơNơm.

Khơng chỉ cảm thơng với thân phận làm lẽ, người phụ nữ không chồng mà chữa,Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ, muốn an ủi họ, muốn dịu dàng đùa với họ để

<b>cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại với cuộc sống bình thường. Đó là lời</b>

<b>khun dành cho những quả phụ trẻ, những cô gái vừa bị mất chồng:</b>

<i>Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gìThương chồng nên khóc tỉ tì ti.Hay:</i>

<i>Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồngNín đi kẻo thẹn với non sông.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i>Ai về nhắn nhủ đàn em bé,</i>

<i>Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung</i>

Đối với Xuân Hương, nụ cười có ý nghĩa nhiều hơn những giọt nước mắt.Tấtnhiên nói thế chẳng phải nước mắt khơng có ý nghĩa, nhất là đối với những giọtnước mắt hết sức chân thành và thơng cảm thì đó vẫn là niềm an ủi lớn nhấtđối với mỗi con người. Song, dù sao cũng phải nói rằng, cuộc sống cũ nước mắtđã đọng lại thành song thành biển, khóc thêm vài giọt nữa phỏng có ích gì?Xn Hương khơng muốn khóc, Xn Hương khơng muốn phủ một màu đen lêncuộc đời vốn đã đen ngòm của những con người đau khổ, mà muốn đem đếncho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lục để sống và chống chọi với cuộc sống.Chính những lời động viên phát xuất từ tận đáy lòng ấy sẽ đem đến chút ánhsáng của một lịng tin vào lẽ phải cơng bằng và nhân đạo hơn để cho họ có thểtiếp tục sống, tiếp tục làm người.

Trong văn học phong kiến của ta, hiếm có nhà thơ nào độc đáo mà nhân tìnhđến thế.Có thể nói từ chỗ ý thức sâu sắc về giá trị của phụ nữ và cảnh ngộngang trái của họ trong cái xã hội “Nhai thịt người ngọt xớt như đường”.HồXuân Hương đã trở thành tiếng nói đại diện cho người phụ nữ, chống lại những

<b>thứ hỗn tạp đã chà đạp lên con người.Nhưng ở bài Tự tình II,tác giả lại nghẹn</b>

<b>ngào chua xót cho tình dun hẩm hiu của mình:</b>

<i>Ngán nỗi xn đi xn lại lạiMảnh tình san sẻ tí con con</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Tiếng lòng than thở của nhà thơ vang lên qua từ “ngán” được rõ nét hơn. Mùaxuân có di rồi cũng sẽ đến ngày được quay về với thiên nhiên nhưng cịn tìnhdun thì bao giờ mới được trở lại với con tim chung tình đang chịu nỗiđau.Tuổi xuân người phụ nữ trôi nhanh nhưng cũng khơng bằng cuộc tình dangdở, hạnh phúc ngắn ngủi để rồi bây giờ chỉ còn nhà thơ quạnh hiu trong nỗi cơđơn đang ngấm buốt tê lịng. Tình dun lỡ làng tan vỡ như mảnh vụn chỉ dànhcho nhà thơ được một chút nhưng rồi cũng phải san sẻ, để cịn trong nhà thơ là“tí con con”. Buộc lịng cam chịu cảnh ngộ đơn chiếc đang ngày đêm trải qua sựđợi chờ mỏi mòn. Nỗi đau như thế chưa đủ hay sao mà cịn tình cảm nhậnđược chẳng những q ít mà cịn q vơ tình, q hờ hững.

Câu thơ tả thực nỗi chua chát ngấm từ trong lòng. Nỗi trống trải cô đơn làm tácgiả chán nản với những mong chờ mà đáp lại chỉ là sự lạnh lùng tàn nhẫn. Mỗitừ như một giọt nước mắt rưng rưng chỉ trực trào ra theo những tủi hờn tráchmóc. Có mấy ai hiểu được những gì đang hành hạ tâm hồn mỏng manh củangười, thấu chăng nơi đây đang có bóng hình chờ và đợi.Đau lắm nhưng cũngphải tự nén lòng và nuốt nghẹn đắng vào trong. Cuộc đời thì cứ đùa cợt trêuđùa với những người làm vợ lẽ, phải chịu bao phân biệt và bất cơng có ai thấuhiểu:

<i>Thân em như chổi đầu hè</i>

<i>Phòng khi mưa nắng đi về chùi chân.</i>

(Ca Dao)

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Sự sống của đất trời vẫn cứ vận hành như muôn thưở vậy, cịn riêng mình thìvẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình dun, tình dun đã ít lại

<b>còn phải chia ba sẻ bảy nữa… Ở một thi phẩm khác, tác giả lại tái hiện lại tâm</b>

<b>trạng tủi hận về tình duyên, thách thức cùng duyên số của một phụ nữ quálứa lỡ thì:</b>

<i>Tiếng gà văng vẳng gáy trên bomn hận trơng ra khắp mọi chịm.Mõ thảm khơng khua mà cũng cốc.Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?...</i>

(Tự tình I)

Bài thơ tái hiện tâm trạng của người đàn bà thao thức suốt cả một đêm dài,lòng bồn chồn nghe tiếng gà gáy văng vẳng trên bom, từ một con thuyền trênmặt hồ đưa tới.Nữ sĩ ngồi dậy nhìn ra bốn phía thấy khung cảnh hết sức mịtmùng, cơ liêu mà lịng càng thêm ốn hận - ốn hận về con đường tình duyên.Hai câu thực của bài thơ đăng đối, phủ định với hai hình ảnh “mỏ thảm” và“chuông sầu” cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của người đàn bà đã quá lứa. Nỗi đaubuồn ấy như thấm sâu vào đáy lịng, tỏa rộng trong khơng gian, kéo dài theothời gian suốt bao đêm dài…

<i>Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,Sau giận vì dun để mõm mịm…</i>

“Trước nghe những tiếng” là những tiếng gì? Tiếng gà gáy trên bom, tiếngchuông sầu, mỏ thảm dội vào lịng mình. Càng nghe càng thêm rầu rĩ, buồn tủi,càng nghe càng giận, càng hờn về tình dun lỡ làng. Tình dun được ví với trái

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

cây, khơng cịn “non xanh má phấn” mà đã chin “mõm mòm”, nghĩa là đã quáchin, đã nẫu đi. Trong câu thơ có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, than thân tráchphận, buồn tủi cho duyên phận, cho số kiếp. Hồ Xuân Hương đang tự thươngminh… và thương cho những người đàn bà có cùng chung cảnh ngộ. Thật chuaxót biết nhường nào:

<i>Đàn bà như cánh hoa tươiNở ra chỉ được một thời mà thôi</i>

(Tục ngữ)

Ai cũng biết, trong cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai,nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là người phụ nữ và nỗi đau củahọ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tê tái riêng. Hồ Xuân Hương là nhà thơcủa phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộcđời chung và cuộc đời riêng tan tác của mình, bằng tiếng thơ, muốn nói lênnhững tiếng nói sẻ chia với họ. Vì vậy, thơ Hồ Xn Hương ln là tiếng kêu xélịng của những người con gái nhẹ dạ. Đó cũng chính là mục đích cao nhất củachủ nghĩa nhân đạo, tiếng thơ cất lên cũng là tiếng lịng, là tiếng khóc than củabao phận người, những phận hồng nhan dường như chưa một lần nhận diệnđược hạnh phúc.

2.2.3. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương được đề cao và ca ngợi vớinhững vẻ đẹp thật sự chân chính.

Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ dừng lại ở sự thôngcảm và bênh vực mà hơn cả là nhà thơ đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp từ nhan

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

sắc, tài năng và đặc biệt là tâm hồn của người phụ nữ.Hồ Xuân Hương bày tỏniềm kiêu hãnh, tự tin của mình khi đứng trước những vẻ đẹp đó.

<b>Đầu tiên là vẻ đẹp về hình thức, trong bài Đề tranh tố nữ, nhà thơ ca ngợi tuổi</b>

trẻ tươi mát, trắng trong của cô gái đang xuân:

<i>Hỏi bao nhiêu tuổi hỡ cơ mình?Chị cũng xinh mà em cũng xinhĐơi lứa như in tờ giấy trắng.</i>

<i>Nghìn năm cịn mãi cái xn xanh.Xiếu mai chi dám tình trăng gió,Bồ liễu thơi đành phận mỏng manh,Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,</i>

<i>Trách người thợ vẽ khéo vơ tình.</i>

Bài thơ khơng phải ca ngợi vẻ đẹp của phụ nữ nói chung, hay ca ngợi tuổi trẻ,mà ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của một cô gái trẻ tuổi. Nhà thơ đã công khai cangợi vẻ đẹp về hình thể của cơ gái mà khơng cần dung đến những ngón ngơnngữ tượng trưng ước lệ hay những hình tượng đã trở thành chuẩn mực. Bà chúý đến những bộ phận thân thể thường được dấu kín của con người.những bộphận đó, văn học thời đại thường né tránh. Riêng bà lại nhìn thấy đó như là mộttrong những biểu hiện đáng ca ngợi nhất của cơ thể người con gái. Cách miêu tảcủa bà cụ thể, không chung chung mờ nhạt:

<i>Trưa hè hây hẩy gió Nồm đơng, Thiếu nữ nằm chơi q giấc nồng. Lược trúc lỏng cài trên mái tóc, ...</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i>Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Đơi gị Bồng Đảo hương còn ngậm, Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt, Đi thì cũng dở, ở khơng xong.</i>

(Thiếu nữ ngủ ngày)

Đây là sự trinh trắng, ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn.Cách miêu tả của nhàthơ khơng có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niutrân trọng.Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạpbị giày xéo, nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ. Nhà thơ giữ cho mình cặp mắtnguyên vẹn, trong veo đề nhìn đời nhìn người, để thấy hết mọi giá trị của vẻđẹp con người.Cũng vì thế mà thơ Xn Hương có giá trị nhân đạo vô cùng sâusắc.

<b>Thứ hai, người phụ nữ trong thơ Xuân Hương còn được ca ngợi ở phương diện</b>

<b>tài năng, trí tuệ:</b>

<i>Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?Lại đây chị dạy cho làm thơÔng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc giậu thưa</i>

Khi chứng kiến những đám nho sĩ dốt nát, huênh hoang, hợm mình là con quan,cậu ấm, là rường cột nước nhà nên ngổ ngáo, xem dưới gầm trời khơng có ai.Học khơng ra gì khơng lo học lại đi ghẹo gái, đi làm thơ và lại dám đề thơ ở chùa

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

miếu, bà gọi chúng là “phường lòi tói”, “lũ ngẩn ngơ” và xưng “chị” địi dạychúng làm thơ. Xuân Hương hạ lệnh cho lũ đàn em hư hỏng, lỡ dại “Muốn sốngđem vối quét trả đền”.

Hay trong bài “Đề đền Sầm Nghi Đống”, tác giả thể hiện được sự tự ý thức vềmình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ:

<i>Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,Kìa đền thái thú đứng cheo leo.</i>

<i>Ví đây đổi phận làm trai được,Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!</i>

Đi qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã khơng chịu cấtnón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại cịn bng lời chê cười mỉa mai: “ghé mắt”tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt; “kìa” là chỉ trỏ, khơng đáng chú ý;“đứng cheo leo” chỉ thế đứng bấp bênh, buồn tẻ, khơng có gì là vững chai. Đặcbiệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói lên một điều táo bạo nhất.Cái ý nghĩa đổiphận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hộiphong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thể hiệnnhu cầu đổi phận, khơng chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổilại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coithường vị nam nhi họ Sầm. Câu kết “há bấy nhiêu” có thể nghĩ rằng Hồ XuânHương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của Sầm, songđúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ơng có bấy nhiêu thơi ư,nó q ít đối với một đấng nam nhi đấy!

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, khơng chỉ đẹp vềhình thể mà cịn là những con người có trí tuệ, tài năng không thua kém cácđấng nam nhi, trượng phu.

Thứ ba, bên cạnh tài năng và nhan sắc thì người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân

<b>Hương được đề cao hơn cả là ở vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách.</b>

Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những ngườicon gái dở dang, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy tắc đi ngược lạikhuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó chỉ có ở bản lĩnh, mộttrái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm hồn nghệ sĩ.

Từ những tiếng nói cảm thơng ấy, Xn Hương cịn lên tiếng đề cao ca ngợi họ,tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình tượng nói về sốphận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc bánh trơi” “bảy nổi bachìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm ngày lăn lóc đám cỏ hơi”...nhà thơ ln chú trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quảmít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó dày”.Trong bài Bánh trơi nước, nhà thơ đãca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sốngtrong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son sắt:

<i>Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son</i>

( Bánh trôi nước)

Giọng thơ dù thể hiện nỗi đau, sự tủi nhục, cam chịu của người phụ nữ nhưngvẫn giữ thái độ kiên trì, bền vững “tấm lịng son” – một biểu hiện tượng trưng

</div>

×