Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Môi trường thế giới docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 60 trang )










MÔI TRƯỜNG
THẾ GIỚI



TP.HCM ngày tháng năm
MÔI TRƢỜNG THẾ GIỚI


1. LỊCH SỬ NGÀY MÔI TRƢỜNG THẾ GIỚI 05 THÁNG 6

Đại Hội đồng Liên hợp quốc sáng lập Ngày Môi trƣờng thế giới vào năm 1972,
đánh dấu ngày khai mạc Hội nghị Stockholm về Môi trƣờng và Con ngƣời (5/6/1972).
Đây cũng là ngày Chƣơng trình Môi trƣờng Liên hợp quốc (UNEP) ra đời.
Hàng năm, vào Ngày Môi trƣờng thế giới 5/6, Đại Hội đồng Liên hợp quốc chọn
một thành phố làm nơi tổ chức lễ kỷ niệm chính thức với mục đích tập trung sự chú ý
của toàn thế giới vào tầm quan trọng của môi trƣờng, khuyến khích sự quan tâm chính
trị và hành động bảo vệ môi trƣờng. Chính phủ và thành phố nƣớc chủ nhà sẽ hợp tác
với UNEP để tổ chức trọng thể các hoạt động quốc tế về bảo vệ môi trƣờng. Chủ đề,
khẩu hiệu và logo của Ngày Môi trƣờng thế giới sẽ đƣợc chuyển tải thông qua các tài
liệu tuyên truyền cũng nhƣ các hoạt động hƣởng ứng sự kiện trên toàn cầu.
Các hoạt động tổ chức Ngày Môi trƣờng thế giới rất đa dạng, phong phú. Ngày


Môi trƣờng thế giới chính là “sự kiện của ngƣời dân” tham gia các hoạt động nhƣ tuần
hành, diễu hành bằng xe đạp; tổ chức các buổi hoà nhạc xanh, các cuộc thi viết, vẽ, tìm
hiểu về môi trƣờng; phát động chiến dịch trồng cây xanh, các chiến dịch khuyến khích
tái chế chất thải và làm sạch môi trƣờng; tổ chức các cuộc hội thảo, diễn đàn về chủ đề
gìn giữ sự trong lành của môi trƣờng vì lợi ích của các thế hệ mai sau
Ngày Môi trƣờng thế giới còn là cơ hội để ký kết hay phê chuẩn các công ƣớc
quốc tế về lĩnh vực môi trƣờng. Các công chức địa phƣơng, vùng và chính phủ, các
nguyên thủ quốc gia và các bộ trƣởng môi trƣờng sẽ đƣa ra các công bố và cam kết
chăm sóc trái đất của chúng ta.
Việt Nam tham gia hƣởng ứng Ngày Môi trƣờng thế giới từ năm 1982. Hàng
năm, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng phối hợp với các Bộ, ngành, địa phƣơng và các cơ
quan liên quan tổ chức trọng thể ngày lễ này ở tất cả các tỉnh thành trên phạm vi cả
nƣớc.
Chủ đề Ngày Môi trƣờng thế giới 5/6/2012 là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của
Bạn” (Green Economy: Does it include you?). Chủ đề này nhấn mạnh rằng, để xây
dựng nền Kinh tế Xanh thì chúng ta cần suy nghĩ lại về cách phát triển kinh tế nếu
muốn tạo ra một tƣơng lai tƣơi sáng.
Nhƣng quan trọng hơn, chủ đề này nhấn mạnh một thực tế là chính “bạn” là một
yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công của nền Kinh tế Xanh, bạn là ngƣời
tham gia vào quá trình đánh giá các bƣớc thực hiện của chính phủ, các khu vực tƣ
nhân, các tổ chức xã hội dân sự và cộng đồng trong khu vực của bạn, tức là bao gồm
“chính bạn”.
2. NGÀY MÔI TRƢỜNG THẾ GIỚI NĂM 2012 VỚI CHỦ ĐỀ KINH TẾ XANH


Chủ đề Ngày Môi trƣờng thế giới 5/6/2012 là “Kinh tế Xanh: Có vai trò của
Bạn” (Green Economy: Does it include you?). Chủ đề này nhấn mạnh rằng, để xây
dựng nền Kinh tế Xanh thì chúng ta cần suy nghĩ lại về cách phát triển kinh tế nếu
muốn tạo ra một tƣơng lai tƣơi sáng.
Nhƣng quan trọng hơn, chủ đề này nhấn mạnh một thực tế là chính “bạn” là một

yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công của nền Kinh tế Xanh, bạn là ngƣời
tham gia vào quá trình đánh giá các bƣớc thực hiện của chính phủ, các khu vực tƣ
nhân, các tổ chức xã hội dân sự và cộng đồng trong khu vực của bạn, tức là bao gồm
“chính bạn”.
Kinh tế Xanh đƣợc UNEP định nghĩa là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho
con ngƣời và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về môi trƣờng và
khủng hoảng sinh thái. Một nền Kinh tế Xanh đƣợc đặc trƣng bởi sự tăng trƣởng bền
vững của các hợp phần kinh tế có khả năng duy trì và gia tăng nguồn vốn tự nhiên của
trái đất. Các hợp phần này bao gồm năng lƣợng tái tạo, giao thông ít phát thải cacbon,
công nghệ sạch, hệ thống quản lý chất thải tiên tiến, tiết kiệm năng lƣợng, nông-lâm-
ngƣ nghiệp bền vững Nguồn lực đầu tƣ cho Kinh tế Xanh đƣợc thu hút, hỗ trợ bởi
chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia cũng nhƣ sự phát triển các chính sách
và hạ tầng thị trƣờng quốc tế.
Hiểu một cách đơn giản, Kinh tế Xanh là nền kinh tế ít phát thải cacbon, tiết
kiệm tài nguyên và tạo ra công bằng xã hội. Kinh tế Xanh không thay thế phát triển
bền vững mà là chiến lƣợc kinh tế để đạt đƣợc các mục tiêu phát triển bền vững. Các
quốc gia phát triển trên thế giới nhƣ Mỹ, Đức, Hàn Quốc đã đầu tƣ hàng trăm tỷ
USD cho chính sách Kinh tế Xanh, coi đó là sự đầu tƣ tốt nhất đối với phát triển bền
vững của quốc gia, vừa thúc đẩy kinh tế tăng trƣởng ổn định, vừa góp phần bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, môi trƣờng và tạo việc làm. Đối với các nƣớc đang phát triển
trong đó có Việt Nam, Kinh tế Xanh tuy còn khá mới mẻ song bƣớc đầu đã có sự
chuyển hƣớng đầu tƣ vào các công nghệ sản xuất sạch hơn, một trong các tiêu chí của
nền Kinh tế Xanh
Tại sao lại chọn chủ đề Kinh tế Xanh
Năm 2012 là một năm đặc biệt kề từ sau Hội nghị thƣợng đỉnh về Trái đất (gọi
tắt là Hội nghị Rio) năm 1992, các nhà lãnh đạo thế giới sẽ một lần nữa gặp nhau tại
Rio de Janeiro đề thảo luận về tƣơng lại của sự phát triển bền vững. Hội nghị Rio+20
sẽ bao gồm hai nội dung chính: Một nền Kinh tế Xanh trong bối cảnh phát triển bền
vững và xóa đói giảm nghèo và khuôn khổ thể chế cho phát triển bền vững.
Chủ đề Ngày Môi trƣờng thế giới năm nay cũng là một hoạt động hƣởng ứng

Năm Quốc tế về Năng lƣợng bền vững cho tất cả chúng ta 2012 do Liên hợp quốc lựa
chọn.
Ngày Môi trƣờng thế giới năm 2012 hƣớng tới chủ đề chung là Kinh tế Xanh, tuy
nhiên cũng không hạn chế các bạn tự tổ chức các hoạt động hƣởng ứng cũng nhƣ kỷ
niệm các thành tựu về môi trƣờng. Sau tất cả, mọi hành động tích cực vì môi trƣờng sẽ
có tác động và một phần sẽ sáng tạo ra một số cách để liên kết hoạt động của bạn với
tất cả mọi ngƣời, và từ đố sẽ có rất nhiều cách.
Nƣớc chủ Nhà Ngày Môi trƣờng thế giới năm 2012
Các sự kiện quốc tế kỷ niệm Ngày Môi trƣờng thế giới năm 2012 sẽ đƣợc tổ
chức tại Brazil và Brazil cũng là quốc gia đăng cai kỷ niệm kỷ niệm Ngày Môi trƣờng
thế giới năm 1992, bên lề Hội nghị Thƣợng đỉnh Trái đất ở Rio de Janeiro. Hội nghị
thƣợng đỉnh năm 1992 đã tập trung số lƣợng lớn nhất từ trƣớc tới nay các nhà lãnh đạo
toàn cầu để đƣa ra những quyết định quan trọng về trƣơng lai của Trái đất và về các
vấn đề phát triển.
Kỷ niệm Ngày Môi trƣờng thế giới 2012 không chỉ là hoạt động mang tính biểu
tƣợng mà nƣớc chủ nhà cũng hy vọng sự kiện này sẽ là hoạt động lớn nhất và đƣợc sự
hƣởng ứng rộng rãi nhất từ trƣớc đến nay.
Với hơn 200 triệu dân, Brazil là quốc gia đông dân thứ 5 trên thế giới sau Trung
Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Indonesia. Quốc gia này đang phải đối mặt với nạn phá rừng ở
lƣu vực Amazon, ô nhiễm không khí đô thị, suy thoái các vùng đất ngập nƣớc và
không đảm bảo an ninh lƣơng thực.
Chủ đề Ngày Môi trƣờng thế giới năm 2012 là một câu hỏi đặt ra cho tất cả mọi
ngƣời về đánh giá nền kinh tế xanh phù hợp trong cuộc sống hàng ngày của họ và
đánh giá việc phát triển thông qua một nền Kinh tế Xanh phục vụ cho nhu cầu cá nhân.
Ngày Môi trƣờng thế giới năm nay sẽ giúp nâng cao nhận thức về những tác
động nghiêm trọng của của các hoạt động sản xuất kinh doanh nhƣ cách chúng ta đang
làm. Thông qua sự tham gia của các chính phủ trong các hành động và sẽ có tác dụng
lan tỏa trên phạm vi toàn cầu sẽ đóng góp một tầm quan trọng của một nền Kinh tế
Xanh, nỗ lực tập thể này sẽ giúp bảo tồn thiên nhiên, trong khi vẫn đạt đƣợc sự tăng
trƣởng, và khuyến khích phát triển bền vững.




3. NĂM 2012: NĂM QUỐC TẾ VỀ NĂNG LƢỢNG BỀN VỮNG CHO TẤT
CẢ CHÚNG TA
Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã tuyên bố năm 2012 là Năm Quốc tế về Năng
lượng bền vững cho tất cả chúng ta, trong đó ghi nhận “việc tiếp cận với các dịch vụ
năng lượng hiện đại với giá cả phải chăng ở các nước đang phát triển là điều cần thiết
cho việc đạt được các mục tiêu phát triển toàn cầu, trong đó có các Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ và Phát triển bền vững. Những mục tiêu này sẽ giúp xóa bỏ đói
nghèo và cải thiện điều kiện và chất lượng cuộc sống của phần lớn dân số thế giới”.
Nghị quyết số 65/151 của Đại Hội đồng
Liên hợp quốc yêu cầu Tổng thƣ ký Ban Ki
Moon tổ chức và phối hợp tổ chức các hoạt
động trong năm 2012 nhằm “nâng cao nhận
thức về tầm quan trọng của việc giải quyết các
vấn đề năng lƣợng”, bao gồm việc tiếp cận, duy
trì nguồn năng lƣợng với giá cả hợp lý và nâng
cao hiệu quả sử dụng năng lƣợng ở các cấp địa
phƣơng, quốc gia, khu vực và quốc tế.
Để đáp lại, Tổng thƣ ký Liên hợp quốc đã
đề xuất sáng kiến toàn cầu “Năng lƣợng bền
vững cho tất cả chúng ta - Subtainable Energy
for All”, đƣợc trình bày tại Đại Hội đồng vào
tháng 9 năm 2011. Sáng kiến này vận động các
chính phủ, khu vực tƣ nhân và các tổ chức xã
hội dân sự trên toàn cầu cùng hành động vì môi
trƣờng. Tổng thƣ ký đã thiết lập 3 mục tiêu liên
kết, bao gồm tiếp cận phổ cập với các dịch vụ năng lƣợng hiện đại, cải thiện khả năng
sử dụng năng lƣợng hiệu quả và mở rộng sử dụng các nguồn năng lƣợng tái tạo.

Năm Quốc tế về Năng lƣợng bền vững cho tất cả chúng ta sẽ cung cấp một nền
tảng quan trọng để nâng cao nhận thức của mọi ngƣời về thách thức trong vấn đề năng
lƣợng.
Những mốc thời gian quan trọng của năm 2012
Ngày 16 - 18/1/2012
Khởi động “Năm Quốc tế về Năng lƣợng bền vững cho tất cả chúng ta” (gọi tắt
là Năm Quốc tế Năng lƣợng bền vững) trên toàn cầu tại Hội nghị cấp cao “Năng lƣợng
tƣơng lai thế giới” tại Abu Dhabi, Các Tiểu vƣơng quốc Ả Rập Thống Nhất.
Ngày 1/2/2012

Khởi động Năm Quốc tế Năng lƣợng bền vững khu vực Châu Á tại New Delhi,
Ấn Độ
Ngày 8/2/2012
Khởi động Năm Quốc tế Năng lƣợng bền vững khu vực Châu Âu tại Brussels, Bỉ
Ngày 21/2/2012
Khởi động Năm Quốc tế Năng lƣợng bền vững khu vực Châu Phi tại Nairobi,
Kenya (là nơi đặt trụ sở Hội đồng UNEP)
Tháng 3/2012
Khởi động Năm Quốc tế Năng lƣợng bền vững tại khu vực Châu Mỹ,
Montevideo, Uruguay (UNDP)
Ngày 20 - 22/6/2012
Hội nghị Thƣợng đỉnh Liên hợp quốc về Phát triển bền vững (Rio+20), tại Rio de
Janeiro, Brazil
Tháng 9/2012
Báo cáo của Tổng thƣ ký Ban-Ki-Moon về Năm Quốc tế Năng lƣợng bền vững
tại Trụ sở Liên hợp quốc
Tháng 12/2012
Lễ bế mạc Năm quốc tế về Năng lƣợng bền vững cho tất cả chúng ta

4. HỘI NGHỊ RIO+20: KINH TẾ XANH VÀ KHUÔN KHỔ THỂ CHẾ

CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Hội nghị thƣợng đỉnh Rio +20
Hội nghị Liên hợp quốc về Phát triển bền vững (gọi tắt là Rio+20) sẽ diễn ra từ 20 - 22
tháng 6 năm 2012 tại Rio de Janeiro, Brazil. Hội nghị đánh dấu 20 năm diễn ra sự kiện Hội
nghị Liên hợp quốc về Môi trƣờng và Phát triển (1992). Rio+20 sẽ là Hội nghị ở cấp độ cao
nhất, với sự có mặt của ngƣời ngƣời đứng đầu các Chính phủ và các tổ chức liên quan.
Mục tiêu của Hội nghị là đảm bảo cho các cam kết chính trị về phát triển bền vững đã
đề ra, đánh giá những tiến bộ và hạn chế trong việc triển khai các nội dung của các Hội nghị
thƣợng đỉnh trƣớc về phát triển bền vững trƣớc đây, đặc biệt là Rio 1992, đồng thời xác định
và tìm cách giải quyết cho những thách thức mới nổi trong thời gian gần đây.
Hai nội dung chính của Hội nghị là: Kinh tế Xanh trong bối cảnh phát triển bền vững và
xóa đói giảm nghèo và khuôn khổ thể chế cho sự phát triển bền vững.
Tại sao Rio+20 quan trọng?
Thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công, khủng hoảng tài chính toàn
cầu, khủng hoảng lƣơng thực, giá dầu biến động, suy giảm đa dạng sinh học nghiêm trọng và
sự gia tăng các hình thái thời tiết khắc nghiệt do biến đổi khí hậu gây ra. Sự nhân rộng và tính
liên đới của những cuộc khủng hoảng đã và đang đặt ra một câu hỏi lớn: với tốc độ gia tăng
dân số nhƣ hiện nay, liệu con ngƣời có thể chung sống một cách hòa bình và bền vững trên
hành tinh này? Tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề đòi hỏi sự quan tâm của các quốc gia
và mọi ngƣời dân trên toàn thế giới.
Do đó, Rio+20 là cơ hội để các vấn đề này đƣợc đƣa ra thảo luận và giải quyết, trên tinh
thần đồng thuận của các cấp lãnh đạo cao nhất.
Bạn có thể làm gì?
Nhiều ngƣời nghĩ Rio+20 chỉ dành cho các nhà lãnh đạo và do đó cho rằng họ nằm
ngoài sự kiện này. Trái ngƣợc với quan điểm trên, Rio+20 liên quan mật thiết đến bạn và
tƣơng lai của bạn và do vậy, không gì có thể ngăn cản bạn tham gia vào quá trình ra quyết
định này. Bạn có thể không đƣợc mời tham dự Rio+20, nhƣng bạn hoàn toàn có thể tác động
đến những nhà lãnh đạo, những ngƣời đại diện cho bạn tham gia Hội nghị này.
Hãy trở thành tác nhân thay đổi cộng đồng! Hãy lên tiếng bằng cách hành động cho môi
trƣờng! Hãy ảnh thể hiện sự ảnh hƣởng đến các nhà lãnh đạo bằng cách tham gia vào các hoạt

động kỷ niệm Ngày Môi trƣờng thế giới 05 tháng 6 với chủ đề “Kinh tế Xanh: Có vai trò
của Bạn” và tận dụng lợi thế của sức mạnh tập thể, hoặc bắt đầu sự kiện của riêng mình và
mời những ngƣời khác cùng tham gia.

5. NHỮNG CÂU HỎI LIÊN QUAN ĐẾN KINH TẾ XANH
5.1. Kinh tế Xanh là gì?
Theo Chƣơng trình Môi trƣờng Liên hợp quốc (UNEP), Kinh tế Xanh là nền kinh
tế nâng cao đời sống của con ngƣời và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm
đáng kể những rủi ro môi trƣờng và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách đơn giản,
nền Kinh tế Xanh có mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hƣớng tới
công bằng xã hội.
Trong nền Kinh tế Xanh, sự tăng trƣởng về thu nhập và việc làm thông qua việc
đầu tƣ của Nhà nƣớc và tƣ nhân cho nền kinh tế làm giảm phát thải cacbon, giảm thiểu
ô nhiễm môi trƣờng, sử dụng hiệu quả năng lƣợng và tài nguyên, ngăn chặn sự suy
giảm đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái. Nhƣ vậy khác với trƣớc đây, trong
“nền kinh tế nâu”, đầu tƣ công cần phải có sự điều chỉnh cơ bản thông qua những
chính sách mới đƣợc cải thiện của các quốc gia, ƣu tiên cho duy trì và phát triển nguồn
vốn tự nhiên, nhất là những nguồn tài sản thuộc sở hữu chung mang lại lợi ích cho mọi
ngƣời. Sự đầu tƣ đó cũng cần chú ý tới nhóm ngƣời nghèo, bởi sinh kế và an sinh của
họ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và họ là những đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng do tác
động của thiên tai cũng nhƣ sự biến đổi khí hậu.
Kinh tế Xanh phải là nền kinh tế con ngƣời là trung tâm trong đó các chính sách
tạo ra các nguồn lực mới về tăng trƣởng kinh tế bền vững và bình đẳng. Thúc đẩy nền
Kinh tế Xanh và cải tổ quản lý môi trƣờng là hai nhân tố căn bản đảm bảo tiến trình
phát triển bền vững của mỗi nƣớc nói riêng và trên phạm vi toàn cầu nói chung.
5.2. Kinh tế Xanh được đo lường như thế nào?
Một loạt các chỉ số có thể giúp đo lƣờng các quá trình chuyển đổi hƣớng tới một
nền Kinh tế Xanh. UNEP phối hợp với các đối tác nhƣ OECD và WB để phát triển
một bộ các chỉ tiêu mà từ đó các chính phủ có thể lựa chọn các chỉ tiêu phù hợp tùy
thuộc vào tình hình của mỗi quốc gia, chẳng hạn nhƣ cấu trúc của nền kinh tế hay

nguồn vốn tự nhiên. Các chỉ số đang đƣợc phát triển này có thể đƣợc tạm chia thành
ba nhóm sau đây:
1) Các chỉ số kinh tế: chỉ số về tỉ lệ đầu tƣ, tỉ lệ sản lƣợng và việc làm trong
các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững, chẳng hạn nhƣ GDP xanh.
2) Các chỉ số môi trƣờng: chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô nhiễm ở
mức độ ngành hoặc toàn nền kinh tế (ví dụ nhƣ hệ số sử dụng năng
lƣợng/GDP, hoặc hệ số sử dụng nƣớc/GDP).
3) Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ và phúc lợi xã hội: ví dụ nhƣ các chỉ số
tổng hợp về kinh tế vĩ mô, bao gồm ngân sách quốc gia về kinh tế và môi
trƣờng, hoặc những chỉ số đem lại cái nhìn toàn diện hơn về phúc lợi, ngoài
định nghĩa hẹp của GDP bình quân đầu ngƣời.
5.3. Tại sao Kinh tế Xanh lại đóng vai trò quan trọng trong Phát triển bền
vững?
“Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện
tại mà không ảnh hưởng hay làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ tương lai”. Từ cuối những năm 80, thuật ngữ này đã gây đƣợc sự chú ý từ dƣ luận
quốc tế sau khi xuất hiện trong bản báo cáo “Tƣơng lai chung của chúng ta”, một báo
cáo mang tính bƣớc ngoặt của Ủy ban Brundtland; và tiếp tục gây đƣợc tiếng vang tại
Hội nghị Thƣợng đỉnh Trái đất năm 1992 (Rio 1992), đƣợc coi nhƣ là một nguyên tắc
quyết định về phát triển bền vững. Phát triển bền vững đòi hỏi sự tiến bộ và tăng
cƣờng sức mạnh của cả ba yếu tố có tính chất phụ thuộc và tƣơng hỗ: Kinh tế - Xã hội
- Môi trƣờng.
Chuyển đổi sang nền Kinh tế Xanh có thể là một động lực quan trọng trong nỗ
lực này. Thay vì bị coi nhƣ là nơi hấp thụ chất thải tạo ra bởi các hoạt động kinh tế
một cách thụ động, thì trong nền Kinh tế Xanh môi trƣờng đƣợc xem là nhân tố có tính
quyết định đến tăng trƣởng kinh tế, cải thiện chuỗi giá trị, đem lại sự ổn định và thịnh
vƣợng lâu dài. Nói cách khác, nhân tố môi trƣờng thực sự đóng vai trò nhƣ là chất xúc
tác cho tăng trƣởng và đổi mới trong nền Kinh tế Xanh.
Trong nền Kinh tế Xanh, nhân tố môi trƣờng có khả năng tạo ra tăng trƣởng kinh
tế và phúc lợi xã hội. Ngoài ra, khi mà sinh kế của một bộ phận ngƣời dân có mức

sống dƣới mức nghèo khổ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, hơn nữa họ là những đối
tƣợng dễ bị tổn thƣơng do tác động của thiên tai cũng nhƣ sự biến đổi khí hậu, việc
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cũng góp phấn cải thiện sự công bằng xã hội, và có
thể đƣợc xem nhƣ là một hƣớng đi tốt để phát triển bền vững. Cách thức để áp dụng
mô hình Kinh tế Xanh đối với một quốc gia phát triển hoặc đang phát triển có thể rất
khác nhau; điều đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chắng hạn nhƣ đặc điểm địa lý, tài
nguyên thiên nhiên, tiềm lực con ngƣời - xã hội và giai đoạn phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, những nguyên tắc quan trọng bao gồm đảm bảo phúc lợi cao nhất, đạt mục tiêu
công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro cho môi trƣờng và hệ sinh thái
thì vẫn luôn luôn không thay đổi.


5.4. Kinh tế Xanh có thể giúp xóa đói giảm nghèo như thế nào?
Hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn đƣợc sử dụng nhƣ là cách thức phổ
biến nhất để đánh giá một nền kinh tế. Tuy nhiên, sự tăng trƣởng đó thƣờng đƣợc tạo
ra thông qua việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên là tài sản
“chung” nhƣ tài nguyên nƣớc, rừng, không khí là nguồn cung cấp cần thiết cho sự
sống. Để có tăng trƣởng (theo định nghĩa này), chúng ta phải trả giá rất đắt trên cả hai
phƣơng diện kinh tế và xã hội, đặc biệt là một bộ phận những ngƣời mà sinh kế của họ
phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn lực môi trƣờng. Suy giảm đa dạng sinh học và suy
thoái các hệ sinh thái đang ảnh hƣởng rất lớn đến các ngành nông nghiệp, chăn nuôi,
đánh bắt cá, lâm nghiệp - sinh kế của đa số dân nghèo trên thế giới phụ thuộc hầu hết
vào các ngành này.
Một điều quan trọng nữa là với mục đích tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ
bản và cải thiện cơ sở hạ tầng. Hƣớng tới nền Kinh tế Xanh đƣợc coi nhƣ là một trong
những phƣơng thức nhằm xóa đói giảm nghèo và cải thiện tổng thể chất lƣợng cuộc
sống. Chẳng hạn nhƣ cung cấp các nguồn năng lƣợng có khả năng hỗ trợ cho 1,4 tỷ
ngƣời hiện đang thiếu điện và cho hơn 700 triệu ngƣời khác hiện đang không đƣợc
tiếp cận với các dịch vụ năng lƣợng hiện đại. Công nghệ năng lƣợng tái tạo, nhƣ năng
lƣợng mặt trời, năng lƣợng gió và các chính sách hỗ trợ năng lƣợng hứa hẹn sẽ đóng

góp đáng kể cho việc cải thiện đời sống và sức khỏe cho một bộ phận ngƣời dân có thu
nhập thấp, đặc biệt là cho những ngƣời hiện đang không có khả năng tiếp cận với năng
lƣợng.
Một điều khác mà chúng ta cần cân nhắc là việc ngừng hoặc chuyển hƣớng các
khoản trợ cấp cho việc hủy hoại môi trƣờng. Trên thực tế, khoảng 700 tỷ USD đƣợc
chi ra mỗi năm bởi các chính phủ trên khắp thế giới để trợ cấp cho việc sử dụng nguồn
nhiên liệu hóa thạch; khoản chi này lớn gấp năm lần tổng số tiền dành cho hỗ trợ phát
triển. Phần lớn nguồn trợ cấp đƣợc phân bổ đến chính phủ các nƣớc đang phát triển,
trong nỗ lực làm dịu cú sốc tăng giá nhiên liệu đối với ngƣời nghèo. Tuy nhiên, nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng trợ cấp nhiên liệu hóa thạch là không hiệu quả đối với ngƣời
nghèo, thƣờng họ đƣợc hƣởng lợi không tƣơng xứng so với các nhóm có thu nhập cao
hơn. Gỡ bỏ các khoản trợ cấp gây hại môi trƣờng hoặc thay thế bằng các loại hỗ trợ
hƣớng đến các mục tiêu cụ thể hơn, chẳng hạn nhƣ hỗ trợ bằng hình thức chuyển tiền
mặt, là cách tốt để góp phần thực hiện mục tiêu xã hội, đồng thời nới lỏng các hạn chế
về mặt tài chính và cải thiện môi trƣờng.
5.5. Kinh tế Xanh và hai quan niệm về sản xuất và tiêu dùng bền vững có liên
quan đến nhau như thế nào?
Kinh tế Xanh cùng với sản xuất và tiêu dùng bền vững có thể đƣợc ví nhƣ hai
mặt của một đồng xu: cả hai đều cùng hƣớng tới mục tiêu chung là đẩy nhanh quá
trình tiến tới phát triển bền vững, áp dụng lên các chính sách công, các quy định, các
hoạt động kinh doanh và hành vi xã hội trên cả hai phƣơng diện vi mô và vĩ mô. Sản
xuất và tiêu dùng bền vững tập trung chủ yếu vào việc tăng hiệu quả của việc sử dụng
tài nguyên trong quá trình sản xuất và tiêu thụ. Thêm vào đó, các hoạt động của Kinh
tế Xanh xem xét các xu hƣớng kinh tế vĩ mô và các công cụ điều tiết mà chính phủ có
thể sử dụng, thông qua các chính sách kinh tế và các loại hình chính sách khác nhằm
thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế và tạo việc làm, đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa nền
kinh tế.
Trên thực tế, để đạt đƣợc mục tiêu trên, cần có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa một bên là
nền Kinh tế Xanh và bên kia là sản xuất và tiêu dùng bền vững. Sự hỗ trợ đó đƣợc thể
hiện qua các hình thức can thiệp mang tính vĩ mô và vi mô, hay các yêu cầu thay đổi

trong chính sách và quy định về đầu tƣ và hoạt động kinh doanh, cũng nhƣ thay đổi
hành vi trong xã hội.
Cả hai yếu tố trên đều đóng vai trò quan trọng trong chƣơng trình nghị sự quốc
tế. 10 năm Chương trình khung về sản xuất và tiêu dùng bền vững (10 YFP) là một
trong những chủ đề chính của Chương trình nghị sự Ủy ban về Phát triển bền vững
(CSD), đƣợc tổ chức nhƣ một thành quả của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát
triển Bền vững (Johanesburg, 2002). Xây dựng nền Kinh tế Xanh trong bối cảnh phát
triển bền vững và xóa đói giảm nghèo là một trong hai chủ đề chính của Hội nghị Liên
hợp quốc về Phát triển Bền vững (Rio +20) diễn ra vào tháng 6 năm 2012 tại Rio de
Janeiro.
5.6. Kinh tế Xanh có thể tạo ra việc làm như thế nào?
Nền Kinh tế Xanh có khả năng tạo ra việc làm trong một loạt các lĩnh vực mới
nổi và nhiều tiềm năng, chẳng hạn nhƣ nông nghiệp hữu cơ, năng lƣợng tái tạo, giao
thông công cộng, cải tạo các khu công nghiệp, tái chế
Một công việc tốt đƣợc hiểu nhƣ là công việc có năng suất lao động cao, cùng
với hiệu quả về cải thiện môi trƣờng sinh thái và ổn định lƣợng khí thải ra ở mức thấp,
sẽ góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trƣởng và giúp bảo vệ môi trƣờng - khí hậu.
Đã có rất nhiều những việc làm xanh nhƣ vậy đƣợc tạo ra, đặc biệt là trong ngành năng
lƣợng tái tạo.
Tuy nhiên, để đảm bảo một quá trình chuyển đổi nhịp nhàng sang nền Kinh tế
Xanh, cần thiết phải có nỗ lực phối hợp trong việc tạo ra việc làm. Các chính sách về
xã hội sẽ cần phải đƣợc phát triển cùng với các chính sách về môi trƣờng và kinh tế.
Để đảm bảo một quá trình chuyển đổi nhịp nhàng, nhà nƣớc cần tập trung vào các vấn
đề quan trọng và cấp thiết, nhƣ đầu tƣ vào những kỹ năng mới, không thể thiếu cho
một nền kinh tế toàn cầu, các-bon thấp; hay nghiên cứu các chính sách cần thiết để
điều chỉnh việc làm trong các lĩnh vực chủ chốt nhƣ năng lƣợng và giao thông vận tải.
5.7. Kinh tế Xanh bảo vệ sự đa dạng sinh học như thế nào?
Suy giảm đa dạng sinh học làm giảm phúc lợi của một bộ phận dân số thế giới,
trong khi một bộ phận dân số khác gặp phải những vấn đề trầm trọng hơn vì đói
nghèo. Nếu tình trạng này tiếp tục, nó có thể gây ảnh hƣởng đến sự hoạt động của các

hệ sinh thái điều hoà khí hậu trong dài hạn và có thể dẫn đến những biến đổi không thể
lƣờng trƣớc và có thể không đảo ngƣợc trong hệ thống trái đất và những thay đổi trong
các dịch vụ hệ sinh thái. Hơn nữa, hệ sinh thái là nguồn cung chủ yếu các nguyên liệu
phục vụ cho phát triển kinh tế. Bởi những lý do này mà việc gìn giữ và bảo vệ các hệ
sinh thái là trọng tâm của Chương trình nghị sự Kinh tế Xanh. Ngoài ra, đầu tƣ xanh
cũng nhằm giảm những hệ quả tiêu cực do các yếu tố bên ngoài gây ra bởi việc khai
thác nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Ví dụ, đầu tƣ vào bảo vệ rừng không những duy trì một loạt các ngành và sinh kế
của con ngƣời mà còn bảo tồn 80% các loài trên cạn. Bằng cách thúc đẩy đầu tƣ vào
lâm nghiệp xanh, Chương trình nghị sự Kinh tế Xanh sẽ góp phần ổn định đời sống
kinh tế của hơn 1 tỷ ngƣời hiện đang sinh sống bằng các sản phẩm từ gỗ, giấy và chất
xơ, với tổng thu nhập chỉ chiếm 1% GDP toàn cầu.
5.8. Kinh tế Xanh có thể đem lại điều gì cho các nước đang phát triển?
Chính sách Kinh tế Xanh có thể giúp các nƣớc đang phát triển đạt đƣợc các lợi
ích kinh tế và xã hội về nhiều mặt, chẳng hạn nhƣ thông qua việc triển khai các công
nghệ năng lƣợng sạch và cải thiện tiếp cận với các dịch vụ năng lƣợng; nâng cao hiệu
quả sử dụng tài nguyên thông qua đầu tƣ và áo dụng sản xuất sạch hơn; đảm bảo an
ninh lƣơng thực thông qua việc sử dụng nhiều phƣơng pháp nông nghiệp bền vững và
tiếp cận với các thị trƣờng mới nổi nhờ các hàng hóa và dịch vụ “xanh” của họ. Những
tiến bộ trong khai thác hiệu quả tài nguyên và đa dạng hóa các nguồn năng lƣợng sẽ
góp phần giảm chi phí nhập khẩu và đảm bảo an ninh năng lƣợng cho các quốc gia,
tránh những biến động của giá cả thị trƣờng; đồng thời hạn chế các ảnh hƣởng môi
trƣờng và chi phí liên quan đến sức khỏe từ những hoạt động sản xuất. Tất nhiên, mỗi
quốc gia phải tự đánh giá các nguồn cung cấp vốn của mình và xem xét khả năng để có
thể tối ƣu hóa cơ hội cho sự tăng trƣởng kinh tế bền vững.
Trong bản báo áo cáo gần đây của UNEP có tựa đề: "Những câu chuyện thành
công của các nƣớc đang phát triển", nhờ có sự hỗ trợ từ các chính sách và các khoản
đầu tƣ xanh, hàng loạt các sáng kiến đã đem lại những lợi ích tích cực cho các nƣớc
đang phát triển; và nếu đƣợc mở rộng và tích hợp vào chiến lƣợc toàn diện, có thể tạo
ra một con đƣờng phát triển bền vững, mà ở đó sự phát triển - việc làm và ngƣời nghèo

đều đƣợc quan tâm và coi trọng.
5.9. Liệu Kinh tế Xanh có dẫn đến chủ nghĩa bảo hộ hay không?
Nhiều ngƣời cho rằng việc chuyển đổi sang một nền Kinh tế Xanh có thể dẫn đến
bảo hộ thƣơng mại và gia tăng các điều kiện về viện trợ phát triển. Nhằm khuyến
khích việc áp dụng các giải pháp bền vững, nhiều biện pháp thƣơng mại đã đƣợc sử
dụng nhƣ các hạn ngạch tiêu chuẩn, trợ giá, đầu tƣ công… thƣờng bị cho là có khả
năng dẫn đến bảo hộ xanh. Có ý kiến cho rằng, các tiêu chuẩn về môi trƣờng – mặc dù
đem lại hiệu quả trong việc kích thích thị trƣờng hàng hóa và dịch vụ bền vững – có
thể bị coi nhƣ một rào cản cho các nhà xuất khẩu đến từ các nƣớc đang phát triển, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa – những đối tƣợng thƣờng thiếu các nguồn lực
cần thiết để đáp ứng các tiêu chuẩn.
Vì vậy, cần xem xét, cân nhắc để tìm ra giải pháp hợp lý, vừa đảm bảo khả năng
tiếp cận thị trƣờng, vừa bảo vệ sức khỏe và môi trƣờng. Ở cấp độ quốc tế, một trong
những cách thức nhằm giảm nhẹ nguy cơ này là đảm bảo sự tham gia của các nƣớc
đang phát triển trong các cuộc đàm phán - thiết lập tiêu chuẩn và quy trình có liên
quan. Ở cấp độ quốc gia, cần xem xét các tác động của việc xây dựng các chính sách
xanh đến hoạt động thƣơng mại với các nƣớc khác, đặc biệt là với các nƣớc có thu
nhập thấp.
5.10. Chính phủ có thể làm gì để hỗ trợ cho việc chuyển đổi sang Kinh tế
Xanh?
Để kích thích đầu tƣ xanh và hỗ trợ cho việc chuyển đổi sang nền Kinh tế Xanh,
chính phủ có thể xem xét đẩy mạnh việc áp dụng một số chính sách, từ các công cụ
điều tiết kinh tế, các quan hệ đối tác công - tƣ đến các sáng kiến tự nguyện. Sự phù
hợp và tính hiệu quả của việc áp dụng một chính sách lên một quốc gia thƣờng phụ
thuộc rất nhiều vào các nguồn lực hiện có và năng lực của quốc gia đó.
Chính phủ có thể áp dụng thông qua các chính sách tài khóa và tài chính công. Ví
dụ, đầu tƣ công cho nghiên cứu và phát triển là một giải pháp hiệu quả nhằm khuyến
khích sự đổi mới cần thiết sang một nền Kinh tế Xanh. Đối với nhiều quốc gia đang
phát triển, việc tiếp cận với nguồn vốn còn nhiều hạn chế, thì đầu tƣ công cho Kinh tế
Xanh đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Thông qua các nỗ lực về đầu tƣ công bền vững,

chính phủ cũng có thể kích cầu cho thị trƣờng các sản phẩm và dịch vụ xanh.
Ngoài ra, chính phủ cần điều chỉnh các tác động ngoại lai tiêu cực, bằng cách
đảm bảo rằng giá cả phản ánh chi phí thực tế của hàng hoá và dịch vụ, bao gồm cả chi
phí môi trƣờng – điều mà thị trƣờng thƣờng không nắm bắt đƣợc; sử dụng công cụ
thuế – chẳng hạn nhƣ thuế về ô nhiễm – cũng là những can thiệp về chính sách quan
trọng cần đƣợc chính phủ quan tâm nhiều hơn.
Một khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động Kinh tế Xanh
và xử lý nghiêm các hình thức sản xuất và tiêu dùng gây hại cũng rất cần thiết. Nâng
cao năng lực của chính phủ và các bên liên quan, cũng nhƣ kêu gọi sự hỗ trợ từ phía
cộng đồng có thể đóng góp vào quá trình chuyển đổi sang nền Kinh tế Xanh.

6. KINH TẾ XANH - CHÌA KHÓA CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Kinh tế Xanh - mục tiêu hƣớng tới
Phát triển Kinh tế Xanh đang trở thành mối quan tâm của cộng đồng quốc tế và
lựa chọn chính sách phát triển của nhiều quốc gia hƣớng tới mục tiêu chuyển đổi mô
hình phát triển kinh tế theo hƣớng bền vững , đi đôi với duy trì và nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia . Gần đây nhất , tại Hội nghị Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dƣơng (APEC) bế mạc ngày 13/11 tại đảo Hawai (Mỹ), các nhà la
̃
nh đa
̣
o
APEC đã xác định cần pha
̉
i gia
̉
i quyết ca
́
c tha
́

ch thƣ
́
c môi trƣơ
̀
ng va
̀
kinh tế cu
̉
a khu

̣
c bằng ca
́
ch hƣơ
́
ng đến nền kinh tế xanh , có hàm lƣợng carbon thấp , nâng cao an
ninh năng lƣơ
̣
ng va
̀
ta
̣
o nguồn mơ
́
i cho tăng trƣơ
̉
ng kinh tế va
̀
viê
̣

c la
̀
m.

Trung Quốc đã dành khoảng 40% gói kích thích kinh tế vào các ngành Kinh tế
Xanh, tập trung vào năng lƣợng tái tạo và hiệu quả năng lƣợng, cam kết tăng tỷ lệ sử
dụng năng lƣợng tái tạo lên 16% vào năm 2020. Một số quốc gia Đông Nam Á có quy
mô nền kinh tế nhƣ Việt Nam cũng đã đƣa Kinh tế Xanh vào các kế hoạch và chƣơng
trình phát triển quốc gia trung và dài hạn. Philippines đã ban hành Chƣơng trình phát
triển xanh, tranh thủ hỗ trợ của ADB để phát triển các dự án tái chế và phát thải CO2
thấp. Malaysia đã đƣa ra chính sách phát triển công nghệ xanh với bốn trụ cột chính là
năng lƣợng, môi trƣờng, kinh tế và xã hội.
Chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế từ “nâu” sang “xanh”
Mặc dù đã đạt đƣợc những thành tựu đáng khích lệ trong phát triển kinh tế nhƣng
Việt Nam cũng đã bộc lộ rõ những yếu tố chƣa thực sự bền vững. Theo bà Nguyễn Lệ
Thủy, Phó Chánh văn phòng phát triển bền vững - Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, hiện Việt
Nam có chất lƣợng tăng trƣởng kinh tế thấp, chƣa hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu.
Tăng trƣởng kinh tế mới chỉ dựa vào khai thác tài nguyên với cƣờng độ cao, trong khi
trình độ công nghiệp còn lạc hậu, lại chậm đổi mới nên mức độ tiêu tốn năng lƣợng,
nƣớc, nguyên vật liệu lớn. Bên cạnh đó tình trạng suy kiệt nguồn nƣớc đang diễn ra,
nhiều loại khoáng sản đang dần dần bị cạn kiệt và chƣa đƣợc quản lý tốt. Đa dạng sinh
học bị suy giảm và môi trƣờng tiếp tục bị xuống cấp trong khi các thảm họa do thiên
tai và những diễn biến về thay đổi khí hậu toàn cầu đang tăng nhanh. Biến đổi khí hậu
đang trở thành một thách thức lớn đối với Việt Nam trong thế kỷ 21. Chính vì vậy phát
triển Kinh tế Xanh đƣợc xem là một chiến lƣợc cần thiết để đạt đƣợc phát triển bền
vững. Phát triển Kinh tế Xanh không những giảm phát thải khí nhà kính, giảm nhẹ
biến đổi khí hậu mà còn nâng cao chất lƣợng của tăng trƣởng, thay đổi cơ cấu sản xuất
và tiêu dùng theo hƣớng bền vững và cải thiện đời sống con ngƣời.
Tại Việt Nam, tăng trƣởng xanh đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Tại Diễn
đàn “Kinh tế Xanh trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam”, Bộ Kế hoạch và

Đầu tƣ đã đƣa ra Khung Chiến lƣợc tăng trƣởng xanh của Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020 và Tầm nhìn đến 2050. Trong Khung chiến lƣợc, ba mục tiêu chính đƣợc nhấn
mạnh nhƣ giảm phát thải khí nhà kính, xanh hóa sản xuất và xanh hóa lối sống và tiêu
dùng đƣợc đặc biệt quan tâm. Trong đó, một số chỉ tiêu cụ thể nhƣ giảm chất lƣợng
phát khí thải nhà kính trong các hoạt động năng lƣợng từ 10% đến 20% cho giai đoạn
2011 – 2020 và từ 35% - 45% cho giai đoạn 2020 – 2030; giá trị sản phẩm các ngành
công nghệ cao trong GDP đạt khoảng 42% - 45% trong giai đoạn 2010 – 2020 và 80%
trong giai đoạn 2020 – 2030. Ngoài ra, 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành
lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất
thải
Để thực hiện các mục tiêu trên, ông Phạm Hoàng Mai, Vụ trƣởng Vụ Khoa học
Giáo dục, Tài nguyên và Môi trƣờng - Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, cho rằng cần thực hiện
đồng bộ và hiệu quả một số giải pháp. Đó là xây dựng và hoàn thiện thể chế; tăng
cƣờng vai trò quản lý của Nhà nƣớc; tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi tầng
lớp nhân dân; nghiên cứu ban hành và sử dụng các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật và xây
dựng hệ thống thông tin tƣ liệu về tăng trƣởng xanh. Việc huy động nguồn vốn và cơ
chế tài chính; chủ động tiếp cận các nguồn tài chính khí hậu; đào tạo và phát triển nhân
lực; tăng cƣờng nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng là giải pháp đƣợc ông Phạm
Hoàng Mai đề cập.
Những thách thức phía trƣớc
Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Tài, Viện trƣởng Viện Chiến lƣợc chính sách tài
nguyên và môi trƣờng - Bộ Nông nghiệp và Nông thôn, xây dựng chiến lƣợc phát triển
Kinh tế Xanh ở Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức. Đó là ngành sản xuất năng lƣợng
sạch chƣa phát triển; thiếu vắng những ngành kinh tế hỗ trợ, giải quyết hậu quả về môi
trƣờng; đa dạng sinh học bị suy giảm mạnh, diện tích các hệ sinh thái tự nhiên bị thu
hẹp.
Ông Chung Heuk-Jin, chuyên gia Viện Chiến lƣợc Chính sách, Tài nguyên và
Môi trƣờng Hàn Quốc, cho rằng một trong những thách thức đối với Hàn Quốc cũng
nhƣ Việt Nam trong việc phát triển Kinh tế Xanh hiện nay là cần phải có sự ủng hộ và
tham gia của công chúng cũng nhƣ sự tham gia của các ngành công nghiệp. Giáo sƣ

Nguyễn Quang Thái, Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, chia sẻ cần phải nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về vấn đề này, đặc biệt là nhận thức của các doanh nghiệp vì các
doanh nghiệp là những nhân tố chính đóng góp vào quá trình tăng trƣởng xanh.
Đại diện Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam cũng cho rằng vai trò của
doanh nghiệp trong phát triển Kinh tế Xanh là rất quan trọng. tuy nhiên cần có cơ chế
rõ ràng để các doanh nghiệp tham gia hiệu quả hơn. Theo vị đại diện này, hiện một số
ngành kinh tế thân thiện với môi trƣờng nhƣng khó khăn về vốn, đầu ra của sản phẩm
thiếu ổn định, lợi thế cạnh tranh thấp.
Một thách thức không nhỏ trong việc thực hiện Kinh tế Xanh ở Việt Nam hiện
nay là vấn đề huy động nguồn vốn. Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi ngƣỡng của nƣớc
nghèo nhƣng tích lũy quốc gia so với các nƣớc đã phát triển còn quá thấp, điều này
ảnh hƣởng không nhỏ tới quá trình triển khai hƣớng tới “Nền Kinh tế Xanh”. Hiện,
mức thu nhập bình quân đầu ngƣời ở Việt Nam còn thấp (hơn 1.000 USD), chỉ bằng
1/10 so với mức trung bình của thế giới (10.000 USD). Bà Setsuko Yamazaki, Giám
đốc quốc gia UNDP Việt Nam, cho rằng, vai trò và sự đóng góp của các tổ chức quốc
tế trong việc tăng cƣờng năng lực thực hiện Kinh tế Xanh cho Việt Nam là rất cần
thiết. Theo bà, “tăng trƣởng xanh cần có một khung tài chính/tài khóa xanh để xây
dựng cơ chế chung cho các nguồn tài chính khác nhau và giúp triển khai thực hiện cơ
chế đối tác công tƣ”.
Ngoài ra, theo nhiều chuyên gia, thực tế công nghệ sản xuất ở Việt nam hiện nay
so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lƣợng lớn. Việc thay đổi công
nghệ mới phù hợp với nền Kinh tế Xanh là thách thức không nhỏ nếu không có trợ
giúp của các nƣớc có công nghệ cao trên thế giới. Nhiều vùng nông thôn và khu vực
miền núi, sinh kế ngƣời dân còn gặp nhiều khó khăn cũng là những trở ngại với Việt
Nam trong việc hƣớng tới nền Kinh tế Xanh.

7. KINH TẾ XANH: NHỮNG CÂU CHUYỆN THÀNH CÔNG TRÊN THẾ
GIỚI
Kinh tế Xanh có thể đƣợc định nghĩa là một trong những biện pháp giúp nâng
cao đời sống của con ngƣời và thúc đẩy công bằng xã hội, trong khi làm giảm thiểu

đáng kể rủi ro cho môi trƣờng và cạn kiệt tài nguyên.
Nền Kinh tế Xanh đặc trƣng bởi mức tăng đáng kể đầu tƣ vào các lĩnh vực kinh
tế, chú trọng xây dựng và bảo tồn các nguồn vốn tự nhiên của Trái Đất hoặc giảm
thiểu các rủi ro môi trƣờng và cạn kiệt tài nguyên. Những lĩnh vực này bao gồm năng
lƣợng tái tạo, các phƣơng tiện giao thông, các tòa nhà thân thiện với môi trƣờng, công
nghệ sạch, cải thiện phƣơng pháp xử lý chất thải, cung cấp nƣớc sạch, phát triển nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản bền vững. Những khoản đầu tƣ này đƣợc thực hiện
dƣới sự hỗ trợ, thúc đẩy của việc cải cách chính sách quốc gia và phát triển hệ thống
chính sách quốc tế cũng nhƣ cơ sở hạ tầng.
Sáng kiến Kinh tế Xanh của UNEP, đƣợc đƣa ra vào cuối năm 2008 mục tiêu
chính là cung cấp các phân tích và hỗ trợ về xây dựng chính sách đầu tƣ phát triển các
lĩnh vực xanh cũng nhƣ chính sách giúp “xanh hóa” nền kinh tế. Sáng kiến sẽ phân
tích, đánh giá xem làm cách nào các lĩnh vực nhƣ năng lƣợng tái tạo, công nghệ sạch
và nông nghiệp bền vững lại có thể góp phần vào tăng trƣởng kinh tế, tạo ra công ăn
việc làm, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo trong khi giải quyết những thách
thức khí hậu và sinh thái.
Sáng kiến Kinh tế Xanh bao gồm bộ ba các hoạt động:
1. Xuất bản Báo cáo Kinh tế Xanh và những tài liệu nghiên cứu liên quan trong đó
phân tích những tác động của đầu tƣ xanh trong các lĩnh vực từ năng lƣợng tái tạo đến
nông nghiệp bền vững đến kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo;
đồng thời cung cấp các hƣớng dẫn về xây dựng chính sách để thúc đẩy đầu tƣ trong
các lĩnh vực đó.
2. Cung cấp dịch vụ tƣ vấn về cách thức tiến tới xây dựng nền Kinh tế Xnh tại
những quốc gia cụ thể.
3. Kết nối một hệ thống lớn bao gồm các cơ quan nghiên cứu, tổ chức phi chính
phủ, các đối tác kinh doanh và đối tác của Liên hợp quốc vào quá trình thực hiện Sáng
kiến Kinh tế Xanh.
Những câu chuyện thành công
Các phân tích kinh tế trong Báo cáo Kinh tế Xanh đƣợc xây dựng dựa trên kết
quả của những sáng kiến trên toàn thế giới. Một số đến từ các nƣớc đang phát triển,

bao gồm cả các nền kinh tế mới nổi, cho thấy những tác động tích cực của các khoản
đầu tƣ và chính sách xanh; cho thấy nếu đƣợc mở rộng và tích hợp thành một chiến
lƣợc toàn diện thì sẽ tạo ra một con đƣờng phát triển mới, vì sự phát triển, việc làm và
vì ngƣời nghèo.
Dƣới đây là những câu chuyện đƣợc lựa chọn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tất cả các câu chuyện đều cho thấy lợi ích kinh tế, xã hội và môi trƣờng của Kinh tế
Xanh. Cho dù ở mức độ quốc gia hay địa phƣơng, chỉ cần có sự lãnh đạo đúng đắn và
tầm nhìn, chúng ta có thể tạo nên sự thay đổi. Tám câu chuyện là những minh chứng
cho sự quan tâm ngày càng tăng của các nƣớc đang phát triển đối với Kinh tế Xanh.
1. Năng lƣợng tái tạo ở Trung Quốc
2. Thuế tái tạo ở Kenya
3. Nông nghiệp hữu cơ ở Uganda
4. Quy hoạch đô thị bền vững tại Brazil
5. Cơ sở hạ tầng sinh thái ở nông thôn Ấn Độ
6. Quản lý rừng tại Nepal
7. Dịch vụ sinh thái ở Ecuador
8. Năng lƣợng mặt trời tại Tunisia

1. NĂNG LƢỢNG TÁI TẠO Ở TRUNG QUỐC
Trung Quốc đang thực hiện những bƣớc tiến đáng kể để chuyển sang một chiến
lƣợc tăng trƣởng sạch dựa trên sự phát triển các nguồn năng lƣợng tái tạo. Kế hoạch 5
năm lần thứ 11 cho thấy một sự tăng đáng kể đầu tƣ vào các lĩnh vực Kinh tế Xanh,
đặc biệt là năng lƣợng tái tạo và hiệu quả năng lƣợng. Kế hoạch cũng đề xuất tới năm
2010 giảm lƣợng tiêu thụ năng lƣợng xuống 20% GDP so với năm 2005. Thêm vào
đó, chính phủ Trung Quốc cam kết, đến năm 2012 năng lƣợng tái tạo sẽ chiếm 16%
tổng năng lƣợng tiêu thụ.
Luật Năng lƣợng tái tạo của Trung Quốc (thông qua năm 2005) đƣợc coi là bộ
luật định hƣớng cho sự phát triển của ngành này. Bộ Luật này cung cấp một loạt các
ƣu đã tài chính, chẳng hạn nhƣ một quỹ quốc gia để thúc đẩy phát triển năng lƣợng tái
tạo, cho vay, ƣu đãi về thuế cho các dự án năng lƣợng tái tạo; yêu cầu các nhà khai

thác lƣới điện mua các nguyên liệu từ các nhà sản xuất năng lƣợng tái tạo đã đăng ký.
Sự kết hợp giữa đầu tƣ và các chính sách ƣu đãi tạo điều kiện cho những bƣớc
tiến lớn trong việc phát triển năng lƣợng gió và năng lƣợng mặt trời của Trung Quốc.
Năng lượng gió
Từ năm 2005 - 2009, tốc độ tăng trƣởng hàng năm công suất phát điện từ năng
lƣợng gió đều hơn 100%. Cùng với việc lắp đặt thêm (năm 2009) nâng tổng công suất
thêm 13,8 GW, Trung Quốc đã trở thành nƣớc dẫn đầu thế giới về công suất bổ sung
và thứ 2 thế giới (sau Mỹ) về công suất lắp đặt. Tham vọng phát triển ngành này còn
thể hiện ở mục tiêu tăng công suất lắp đặt từ 30 GW lên 100 GW năm 2020 của chính
phủ.
Để trực tiếp khuyến khích sản xuất tua-bin gió ở các địa phƣơng, Trung Quốc đã
thực hiện chính sách khuyến khích liên doanh và chuyển giao công nghệ trong công
nghệ tua-bin gió lớn và bắt buộc sử dụng các sản phẩm tua-bin gió của địa
phƣơng trong các công trình. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng trợ cấp chi phí R&D
(nghiên cứu và phát triển) cho việc sản xuất năng lƣợng gió, đặc biệt năm 1996 đã
thành lập Quỹ năng lƣợng tái tạo. Các nhà sản xuất tua-bin gió địa phƣơng nhƣ
Sinovel Wind, Goldwind Science và Technology, and Dongfang Electric, tới năm
2008, đã chiếm hơn một nửa thị trƣờng, vốn bị chi phối bởi các nhà cung cấp nƣớc
ngoài.
Năm 2006, Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia Trung Quốc đã ban hành các
biện pháp tạm thời về quản lý thuế và phân bố phí năng lƣợng tái tạo. Cùng với Luật
Năng lƣợng tái tạo, các quy định khuyến khích giảm giá năng lƣợng gió quy định rằng
một mô hình giá cả cạnh tranh đấu thầu đƣợc sử dụng cho thị trƣờng điện gió ở Trung
Quốc.
Điện mặt trời
Trung Quốc là nhà sản xuất pin (PV) năng lƣợng mặt trời lớn nhất của thế giới,
đáp ứng 45% nhu cầu PV năng lƣợng mặt trời toàn cầu (năm 2009). Thị trƣờng trong
nƣớc về năng lƣợng mặt trời đã bắt đầu phát triển những năm gần đây, với khoảng 160
MW PV năng lƣợng mặt trời đƣợc cài đặt và kết nối với lƣới điện trong năm 2009.
Nhƣng cùng với 12GW ở các dự án lớn, Trung Quốc có thể nhanh chóng trở

thành một thị trƣờng lớn ở châu Á và trên thế giới. Đối với pin mặt trời, Chính phủ
cũng đã chỉ ra rằng các mục tiêu cho công suất lắp đặt vào năm 2020 có thể đƣợc tăng
từ 1,8GW đến 20GW.
Trung Quốc hiện là thị trƣờng lớn nhất thế giới về năng lƣợng nƣớc nóng mặt
trời, chiếm gần hai phần ba tổng lƣợng tiêu thụ toàn cầu. Hơn 10% hộ gia đình ở
Trung Quốc sử dụng thiết bị đun nƣớc nóng mặt trời với hơn 160 triệu m2 diện tích
lắp đặt. Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp sản xuất bình nƣớc nóng
năng lƣợng mặt trời mang lại lợi nguận cho cả các nhà sản xuất lẫn các hộ gia đình.
Nhiều hộ gia đình đƣợc sử dụng nƣớc nóng hơn, kéo theo các lợi ích về sức khỏe và vệ
sinh.
Trong chính sach pháp triển, việc lắp đặt các hệ thống năng lƣợng nƣớc nóng mặt
trời đƣợc ƣu tiêu cho các lĩnh vực tiêu dùng, chẳng hạn nhƣ bệnh viện, trƣờng học,
nhà hàng, hồ bơi…
Việc làm
Đến hết năm 2009, lĩnh vực năng lƣợng tái tạo tại ra sản phẩm trị giá 17 tỷ USD
và sử dụng khoảng 1,5 triệu lao động, trong đó 600 nghìn lao động trong ngành nhiệt
mặt trời, 266 nghìn trong ngành năng lƣợng sinh học, 55 nghìn trong ngành điện mặt
trời và hơn 22 nghìn trong ngành năng lƣợng gió. Chỉ trong năm 2009, ƣớc tính có trên
300,000 việc làm mới đã đƣợc tạo ra.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy một ví dụ về tăng trƣởng trong lĩnh vực
năng lƣợng tái tại, có thể tạo ra công ăn, việc làm và tạp thu nhập trong ngành công
nghiệp xanh.
2. THUẾ TÁI TẠO Ở KENYA
Tình trạng sử dụng năng lƣợng của Kenya vốn đƣợc biết đến phụ thuộc nặng nề
vào xăng dầu nhập khẩu; chính vì vậy đất nƣớc này đang phải đối mặt với những thách
thức liên quan tới việc sử dụng không bền vững năng lƣợng. Tháng 3 năm 2008, Bộ
Năng lƣợng Kenya đã thông qua Thuế tái tạo đồng thời nhận định “Các nguồn năng
lƣợng tái tạo bao gồm mặt trời, gió, nƣớc, sinh học và chất thải có đầy đủ tiềm năng
tạo ra lợi nhuận và công việc; và hơn hết cả, góp phần vào việc đa dạng hóa các nguồn
cung năng lƣợng”.

Thuế tái tạo (Feed in Tariff - FIT) là một công cụ chính sách bắt buộc các công ty
năng lƣợng hoặc các bộ phận chịu trách nhiệm vận hành lƣới điện quốc gia
mua điện từ các nguồn năng lƣợng tái tạo tại một mức giá đƣợc xác định
trƣớc đó là đủ hấp dẫn để kích thích đầu tƣ mới trong tái sản xuất ngành năng lƣợng
tái tạo. Điều này đảm bảo cho những ngƣời sản xuất điện từ các nguồn năng lƣợng tái
tạo nhƣ mặt trời, gió có một thị trƣờng và nguồn thu cố định để tiếp tục sản xuất.
Các quy định khác của FIT bao gồm đấu nối vào mạng lƣới điện, thỏa thuận mua bán
điện dài hạn và giá cả thiết lập cho mỗi kilowatt giờ (kWh).
Chính sách FIT của Kenya hƣớng đến những mục tiêu:
a. Kích thích đầu tƣ vào ngành sản xuất điện từ các nguồn năng lƣợng tái tạo
bằng cách tạo ra thị trƣờng ổn định và an ninh đầu tƣ;
b. Giảm giao dịch và chi phí hành chính bằng cách loại bỏ quá trình đấu thầu
thông thƣờng
c. Khuyến khích các nhà đầu tƣ tƣ nhân vận hành các nhà máy điện hiệu để tối
đa hóa lại nhuận, Bằng chác tại ra một cam kết lâu dài về phát triển các
nguồn năng lƣợng tái tạo và quy định độ dài tối thiểu của một thỏa thuận
mua điện là 20 năm, Chính phủ Kenya đã thực hiện một bƣớc quan trọng
trong việc phát triển tiềm năng đáng kể của đất nƣớc về sản xuất năng
lƣợng tái tạo, trong khi vẫn theo đuổi các lợi ích kinh tế quan trọng, các
mục tiêu chính sách môi trƣờng và xã hội.
Những lợi ích
a. Tính toàn vẹn môi trƣờng, bao gồm việc giảm lƣợng khí thải gây hiệu ứng
nhà kính
b. Tăng cƣờng an ninh năng lƣợng, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập
khẩu và đối phói hiệu quả với sự khan hiếm cũng nhƣ biến động giá cả của
nguồn nguyên liệu hóa thạch trên toàn cầu; và
c. Tăng cƣờng khả năng cạnh tranh kinh tế và tạo việc làm.
Tiềm năng năng lƣợng tái tạo lớn nhất tại Kenya là ở vùng nông thôn nên ảnh
hƣởng của chính sách FIT sẽ làm giảm giá thành điện cho ngƣời tiêu dùng đồng thời
kích thích lao động nông thôn. Điều này không chỉ xảy ra thông qua việc xây dựng

các nhà máy điện, mà còn trong sản xuất nông-công nghiệp, đặc biệt trong ngành công
nghiệp mía đƣờng, vốn là ngành công nghiệp mũi nhọn trong nƣớc.
Có thể thấy Kenya đã cung cấp một ví dụ về phát triển hƣớng tới tƣơng lai thông
qua chính sách năng lƣợng, cải thiện dòng lợi nhuận cho nhà sản xuất
nhỏ ở nông thôn, và tăng cƣờng phát triển địa phƣơng.
3. NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ Ở UGANDA
Uganda đã có những bƣớc tiến quan trọng trong quá trình chuyển đổi sản xuất
nông nghiệp thông thƣờng thành một hệ thống canh tác hữu cơ, với những lợi ích đáng
kể cho kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Nông nghiệp hữu cơ (Organic Agriculture - OA)
thúc đẩy và tăng cƣờng sức khỏe, hệ sinh thái nông nghiệp, bao gồm cả đa dạng sinh
học, chu kỳ sinh học và hoạt động sinh học đất. Ngăn cấm việc sử dụng các yếu tố đầu
vào tổng hợp, chẳng hạn phân bón và thuốc trừ sâu. Uganda là một trông số những
nƣớc sử dụng phân bón nhân tạo ít nhất thế giới, ƣớc tính ít hơn 2% (hoặc 1kg/ha).
Việc không sử dụng phân bón nhƣ là cơ hội để theo đuổi hình thức sản xuất nông
nghiệp hữu cơ, một hƣớng chính sách đƣợc chấp nhận rộng rãi bởi Uganda.
Lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường của nông nghiệp hữu cơ ở Uganda
Tại Uganda 85% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp, đóng góp 42% vào GDP
của cả nƣớc và 80% thu nhập xuất khẩu trong năm 2005/2006. Ngay từ năm 1994 một
số ít các công ty thƣơng mại đã bắt đầu tham gia nông nghiệp hữu cơ. Cùng thời gian
đó xuất hiện một phong trào phát triển hƣớng tới nông nghiệp bền vững để nâng cao
đời sống của ngƣời dân.
Năm 2003, Uganda đứng thứ 13 thế giới và đứng đầu châu Phi về diện tích đất
sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đến năm 2004, Uganda đã có khoảng 185 nghìn ha đất
thuộc phạm vi canh tác hữu cơ, chiếm hơn 2% đất nông nghiệp, với 45 nghìn nông dân
đƣợc chứng nhận. Đến năm 2007, là 296,203ha đất sản xuất nông nghiệp hữu cơ với
206.803 nông dân đƣợc chứng nhận.
Là một nhà sản xuất lớn các sản phẩm hữu cơ, Uganda thu đƣợc lợi ích quan
trọng từ kim ngạch xuất khẩu và doanh thu cho nông dân. Xuất khẩu các sản xuất hữu
cơ tăng từ 3,7 triệu USD năm 2003/2004, 6,2 triệu USD năm 2004/2005, trƣớc khi
tăng lên 22,8 triệu USD năm 2007/2008.

Thông qua canh tác hữu cơ, Uganda không chỉ thu lợi ích về kinh tế, mà nó
cũng góp phần giảm nhẹ biến đổi khí hậu, giảm lƣợng khí thải nhà kính (ƣớc tính
lƣợng khí thải ra từ các trang trại hữu cơ ít hơn 64% so với lƣợng khí thải ra từ các
trang trại thông thƣờng). Các nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra rằng nông nghiệp truyền
thống thải ra nhiều hơn so với nông nghiệp hữu cơ mỗi năm là 3 - 8 tấn carbon mỗi ha.
Chính sách và thay đổi hệ thống góp phần thay đổi nông nghiệp của Uganda
Tháng 7 năm 2009, chính phủ phát hành một dự thảo về chính sách nông nghiệp
hữu cơi của Uganda. Dự thảo chính sách mô tả tầm nhìn, sứ mệnh, mục tiêu và chiến
lƣợc để hỗ trợ sự phát triển nông nghiệp hữu cơ, mô tả đây là “một trong những con
đƣờng cho sự tự phát triển vì nó cung cấp cơ chế cho từng hộ nông dân để nâng cao
năng suất, tăng lợi nhuận, góp phần đạt đƣợc các mục tiêu trong Kế hoạch hành động
xoá đói giảm nghèo”. Dự thảo đƣợc đƣa ra dựa trên các biện pháp can thiệp ở 9 lĩnh
vực:
- Thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ là một hệ thống sản xuất nông nghiệp bổ sung;
- Phát triển một hệ thống chứng nhận, tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ;
- Xúc tiến nghiên cứu và phổ biến các công nghệ phát triển;
- Hỗ trợ phát triển thị trƣờng địa phƣơng, khu vực và quốc tế cho các sản hữu cơ
- Phổ biến thông tin, kiến thức và kĩ năng thông qua giáo dục và đào tạo;
- Cải thiện việc xử lý sau thu hoạch, bảo quản, lƣu trữ;
- Sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự tham gia của các
nhóm lợi ích đặc biệt nhƣ phụ nữ, thanh niên và ngƣời nghèo.
Tóm lại, Uganda đã biến việc sử dụng ít hóa chất trong nông nghiệp đã trở thành
một lợi thế so sánh để phát triển nông nghiệp hữu cơ, tạo ra doanh thu và thu nhập cho
nông dân sản xuất nhỏ.
4. QUY HOẠCH ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TẠI BRAZIL
Sự gia tăng nhanh chóng của các khu đô thị đã đặt ra nhiều thách thức về môi
trƣờng và kinh tế - xã hội cho ngƣời dân, doanh nghiệp và đô thị. Kế hoạch quy hoạch
không đầy đủ cùng với sự gia tăng của dân số thành thị kéo theo sự mở rộng khu vực
thành phố và ngoại ô, làm tăng lƣợng phƣơng tiện cá nhân tham gia giao thông.
Brazil có số dân số đô thị lớn thứ tƣ thế giới (sau Trung Quốc, Ấn Độ, và Hoa

Kỳ), với tốc độ gia tăng hàng năm là 1,8% (từ năm 2005 tới 2010). Thành phố
Curitiba, thủ phủ vùng Parana ở Brazil đã giải quyết thành công thách thức nói
trên bằng cách thực hiện hệ thống sáng tạo trong những thập kỷ gần đây; tạo cảm hứng
cho nhiều thành phố khác ở Brazil. Đặc biệt nổi tiếng với hệ thống Xe
buýt nhanh, Curitiba cũng cung cấp một ví dụ về quy hoạch đô thị và công nghiệp tích
hợp cho phép ra đời nhiều ngành công nghiệp mới và tạo ra công ăn việc làm.
Quy hoạch bền vững cho sự tăng trưởng ở Curitiba
Thông qua phƣơng pháp tiếp cận sáng tạo của mình trong quy hoạch đô thị, quản
lý thành phố và quy hoạch giao thông đi lại, từ những năm 60, Curitiba đã có thể phát
triển dân số từ 361.000 (năm 1960) lên 1,828 triệu (năm 2008), mà không phải chịu
tác động của ô nhiễm môi trƣờng, tắc nghẽn giao thông và suy giảm không gian công
cộng. Mật độ dân số trong thành phố đã tăng gấp ba lần từ 1970 đến 2008. Nhƣng
cùng thời gian đó, diện tích không gian xanh trung bình cho mỗi ngƣời cũng tăng từ
1km
2
trên 50km
2
.
Một trong những yếu tố chính của việc quy hoạch thành phố Curitiba là việc xây
dựng hệ thống giao thông làm sao để giải quyết đƣợc cả hai vấn đề mật độ và không
gian xanh. Hệ thống giao thông sẽ đƣợc xây dựng - bằng cách tạo ra các vùng giao
thông và đƣa các cơ sở hạ tầng giao thông công cộng vào sử dụng - đảm bảo cho các
luồng phƣơng tiện tập trung quá nhiều ở trung tâm thành phố đồng thời phát triển nhà
ở, dịch vụ và các địa điểm công nghiệp dọc theo các tuyền đƣờng quan trọng.
Lợi ích kinh tế và môi trường
Thành phố tạo ra các biện pháp hiệu quả để giảm lƣợng khí thải CO
2
đặc biệt
trong giao thông vận tải và trong các tòa nhà, vốn là hai trong số các nguồn thải ra
nhiều khí nhất. Nhƣ một kết quả của quy hoạch đô thị tích hợp, Curitiba có tỷ lệ cao

nhất về sử dụng phƣơng tiện giao thông công cộng ở Brazil (45%), và một trong
những tỷ lệ thấp nhất về ô nhiễm không khí đô thị của đất nƣớc.
Những hiệu quả về kinh tế cũng rất đáng kể. Sử dụng nhiên liệu của Curitiba là
30%. thấp hơn so với ở các thành phố lớn khác của Brazil. Tổn thất nhiên liệu do tắc
nghẽn giao thông nghiêm trọng tại Curitiba năm 2002 là khoảng 1 triệu USD, chỉ bằng
1/13 của Sao Paolo và 1/4 của Rio de Janeiro.
Chính sách và quy hoạch thành phố cho cơ sở hạ tầng sinh thái và hoạt công
nghiệp
Bằng cách biến các khu vực dễ bị lũ lụt thành các khu công viên cây xanh, và tạo
ra các hồ nhân tạo để giữ nƣớc lũ, Curitiba đã giải quyết vấn đề lũ lụt, kiểm soát lũ
lụt và thoát nƣớc của mình. Chi phí của chiến lƣợc này, bao gồm cả chi phí di dời cƣ
dân khu ổ chuột, đƣợc ƣớc tính ít hơn 5 lần so với việc xây dựng kênh mƣơng bê tông.
Ngoài ra, nhƣ là một kết quả của quá trình này, giá trị tài sản của các khu vực lân cận
đƣợc đánh giá cao hơn và doanh thu thuế cũng tăng.
Chính quyền địa phƣơng đã thành lập Thành phố Công nghiệp Curitiba ở phía
Tây của thành phố nhằm tránh gây ô nhiễm ảnh hƣởng vùng trung tâm. Khu vực này
có quy định nghiêm ngặt về môi trƣờng và các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi
trƣờng không đƣợc phép hoạt động tại đây. Sau ba thập kỷ, tại đây hiện nay có hơn
700 công ty, bao gồm cả hãng sản xuất hệ thống xe bus nhanh của thành phố và nhiều
công ty công nghệ thông tin khác. Nơi đây đã tạo ra khoảng 50.000 việc làm trực
tiếp và 150.000 việc làm gián tiếp, đóng góp vào 20% tổng sản phẩm xuất khẩu của
Brazil.
Curitiba cũng tích cực thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng quản lý chất thải và nâng
cao nhận thức công chúng về phân loại và tái chế rác thải. Với 70% cƣ dân của thành
phố tích cực tái chế, 13% chất thải rắn đƣợc tái chế ở Curitiba, trong khi tỷ lệ này ở
Sao Paulo chỉ là 1%.
Tóm lại, Curitiba đã cho chúng ta một ví dụ về làm thế nào quy hoạch đô
thị thông minh có thể giúp tránh đƣợc chi phí lớn trong tƣơng lai và nâng cao hiệu quả,
năng suất và chất lƣợng cuộc sống cho các cƣ dân của nó.
5. CƠ SỞ HẠ TẦNG SINH THÁI Ở NÔNG THÔN ẤN ĐỘ

Đạo luật quốc gia về đảm bảo việc làm ở nông thôn Ấn Độ năm 2005 (NREGA)
là chƣơng trình việc làm với mức lƣơng đảm bảo nhằm tăng cƣờng an ninh sinh kế cho
các hộ gia đình bị thiệt thòi ở các vùng nông thôn. Đƣợc thực hiện bởi Bộ Phát triển
nông thôn, NREGA trực tiếp tác động tới cuộc sống của ngƣời nghèo, thúc đẩy tăng
trƣởng toàn diện, và cũng góp phần vào việc khôi phục và duy trì cơ sở hạ tầng sinh
thái.
Ngoài việc bổ sung lao động làm công ăn lƣơng, mục tiêu thứ cấp của NREGA là
tăng cƣờng quản lý tài nguyên thiên nhiên nông thôn. Điều này đƣợc thực hiện bằng
cách hỗ trợ các công trình nông thôn vốn là nạn nhân của hạn hán, phá rừng và xói
mòn đất, từ đó khôi phục lại cơ sở hạ tầng tự nhiên.
Là một trong những nhà sản xuất nông nghiệp hàng đầu của thế giới, Ấn Độ đã
nhận thấy một sự đột biến về lƣợng nƣớc tiêu thụ cho lĩnh vực nông nghiệp trong
những năm qua. Ƣớc tính lƣợng nƣớc tiêu thụ sẽ tăng gấp bốn lần từ năm 2000 đến
năm 2050, lƣợng nƣớc dự trữ tại 4 con sông lớn có khả năng sẽ cạn kiệt vào giữa năm
2050. Tình trạng khan hiếm nƣớc là một hạn chế lớn đối với sản xuất nông nghiệp và
chăn nuôi, ảnh hƣởng đến sinh kế của ngƣời dân và an ninh lƣơng thực. Chính vì thế,
chiếm một nửa các dự án do NREGA hỗ trợ chính là các dự án về nƣớc (850.000 dự
án đƣợc tài trợ từ năm 2006 đến 2008). NREGA đào tạo và cung cấp việc làm cho các
dân làng để họ tự phát triển các giải pháp xử lý nƣớc, giải quyết tình trạng khan hiếm
nƣớc tại nơi họ sống. Năm 2007 - 2008, hơn 3.000 giếng nƣớc cùng với máy bơm tay
đã đƣợc xây dựng. NREGA cũng hỗ trợ phục hồi một mạng lƣới các bể chứa nƣớc có
niên đại hơn 500 năm tại một khu vực khô cằn chủ yếu. Điều này không chỉ có ý nghĩa
đối với việc sản xuất cây trồng, vật nuôi, mà còn đã đóng góp vào bổ sung lƣợng nƣớc
ngầm.
Chỉ trong một thời gian ngắn, NREGA đã thành công trên khắp đất nƣớc. Trong
việc thúc đẩy tăng trƣởng toàn diện và phục hồi cơ sở hạ tầng sinh thái, chƣơng trình
còn có một tác động mạnh đối với việc trao quyền cho nhóm ngƣời nghèo hoặc bị thiệt
thòi. Trong vòng 3 năm, chƣơng trình đã góp phần tăng mức lƣơng trung bình cho
ngƣời lao động nông nghiệp hơn 25%.
6. QUẢN LÝ RỪNG Ở NEPAL

Cộng đồng lâm nghiệp ở Nepal đã đóng góp vào việc khôi phục tài nguyên rừng
ở đây. Rừng chiếm 40% diện tích đất. Mặc dù diện tích này bị giảm đi 1,9% hằng năm
trong những năm 90, tình thế này đã đƣợc đảo ngƣợc thành 1,35% tăng hằng năm
trong các năm 2000 - 2005.
Cộng đồng lâm nghiệp là mấu chốt trong việc quản lí rừng ở Nepal. Những
ngƣời sử dụng tài nguyên rừng ở đây hợp lại thành 1 cộng đồng ( CFUGs) để quản lí
tài nguyên, còn chính phủ thì ủng hộ và tạo điều kiện. Quản lí rừng là hoạt động cộng
đồng và cần rất ít hỗ trợ ngân sách từ chính phủ.
Từ năm 1980, khoảng hơn 14.000 CFUGs đã đƣợc thành lập. Khoảng một phần
tƣ diện tích rừng đƣợc bảo vệ bởi 35% dân số. Hiện nay, cộng đồng lâm nghiệp chỉ
đứng thứ 2 sau chính phủ về việc bảo vệ rừng.
Các nhóm sử dụng rừng lập ra kế hoạch riêng của họ, đề ra qui định thu hoạch,
giá thành sản phẩm và mục đích sử dụng của những khoản lợi nhuận đạt đƣợc. Tăng
trƣởng rõ rệt trong việc bảo vệ rừng đƣợc nhận thấy qua các dẫn chứng, nguồn nƣớc
và đất đai cũng đƣợc quản lý.
Lợi ích của cộng đồng lâm nghiệp
Bảo vệ rừng tăng cơ hội việc làm và thu nhập. Các lợi ích kinh tế khác gồm có
năng lƣợng bền từ gỗ. Quản lí rừng còn đóng góp vào việc bảo tồn thiên nhiên. Cộng
đồng lâm nghiệp phát triển còn đƣa ra chƣơng trình học bổng cho các hộ gia đình khó
khăn và cho vay để phát triển thu nhập.
Các chính sách bảo vệ và ngăn chặn phá rừng
Bộ bảo vệ rừng và đất đai đƣa ra 2 chính sách. Chính sách thứ nhất giúp Nepal
gặt hái nhiều thành công trong việc bảo vệ rừng và môi trƣờng. Chính sách thứ 2 đƣợc
đƣa ra để giúp đỡ các cộng đồng lâm nghiệp. Chính sách này cung cấp giấy tờ cho
CFUGs công nhận là họ có quyền sử dụng và quản lý rừng.
Điều ấn tƣợng trong việc quản lí rừng ở Nepal là rất nhiều những lợi ích đƣợc
mang lại cho các cộng đồng nhƣ bảo vệ môi trƣờng, dịch vụ môi trƣờng và sự phát
triển phúc lợi.
7. DỊCH VỤ SINH THÁI Ở ECUADOR
Thành phố Quito là ví dụ tiên phong trong thị trƣờng các nƣớc đang phát triển về

việc chuyển nƣớc lên vùng cao. Lƣợng nƣớc cung cấp cho 1,5 triệu ngƣời ở Quito phụ
thuộc vào lƣợng nƣớc đƣợc cung cấp từ 2 vùng bảo tồn thiên nhiên Cayambe-Coca và
Antisana. Quỹ bảo tồn nguồn nƣớc (FONAG) đƣợc thiết lập năm 2000 bởi chính
quyền địa phƣơng kết hợp cùng một tổ chức phi chính phủ, là quỹ tín thác do ngƣời sử
dụng nƣớc đóng góp. FONAG dùng ngân sách để cấp vốn cho những dịch vụ sinh thái
cần thiết, bao gồm cả việc mua lại đất để phục vụ cho các chức năng thủy điện.
Cung và cầu
Ngƣời sử dụng bao gồm nông dân, các công ty thủy điện, các ngành công nghiệp
và hộ gia đình. Họ trả số tiền khác nhau, phụ thuộc vào mục đich sử dụng, trong đó
EMMAP-Q đóng góp nhiều nhất với 1% lƣợng tiền nƣớc hàng tháng. Các công ty
thủy điện và Cerveceria Andiana trả 1 số tiền nhất định hàng tháng. Quỹ này có hơn 7
triệu USD (cuối năm 2009). Phí quản lí đƣợc giữ khoảng 10 - 20% tổng chi. FONAG
cấp vốn cho chƣơng trình quản lí nƣớc đầu nguồn ở thung lũng có sông nhỏ và các
chƣơng trình dài hạn (ít nhất 20 năm) hƣớng đến thông tin, giáo dục về môi trƣờng,
rừng và huấn luyện quản lí sông ngòi. Nhiều cơ quan và tổ chức tham gia vào các kế
hoạch và chƣơng trình này.
Lợi ích
FONAG đang đóng góp vào việc bảo vệ nguồn nƣớc hiện tại và tƣơng lai cho
Quito. Hơn 65.000 ha nƣớc đầu nguồn đƣợc bảo vệ. Nông dân thƣợng nguồn nhận hỗ
trợ về việc bảo vệ nguồn nƣớc thƣợng nguồn thay vì tiền mặt. Hơn 1800 ngƣời sẽ nhận
đƣợc nhiều lợi ích kinh tế đi đôi với việc quản lí và bảo vệ nguồn nƣớc thƣợng nguồn.
FONAG phát động việc phát triển các chƣơng trình tƣơng tự ở Châu Mỹ La tinh
và nhiều nơi khác. Nam Phi, nơi mà nƣớc là cản trở lớn nhất trong việc phát triển của
đất nƣớc, mới đây cho ra đời Maloti Drakensberg Mountains để cấp vốn cho chƣơng
trình bảo vệ nƣớc thƣợng nguồn, với sự hỗ trợ từ UNEP và BASF. Chƣơng trình này
nhằm giảm lƣợng nƣớc lắng đọng và tăng chất lƣợng nƣớc. Nó cũng tạo công ăn việc
làm cho nhiều hộ gia đình.
Tóm lại, FONAG là một trong những sáng kiến lớn liên kết nhiều thành viên lại
cùng giúp sức gây dựng nên cơ chế thông minh để mang nguồn nƣớc đến vùng quan
trọng cho việc phát triển kinh tế, và cùng lúc đó cung cấp việc làm và đầu tƣ vào dịch

vụ sinh thái
8. NĂNG LƢỢNG MẶT TRỜI Ở TUNISIA
Để giảm thiểu sự phụ thuộc vào gas và dầu, Tunisia đã và đang áp dụng nhiều
biện pháp để khuyến khích sự phát triển và sử dụng các nguồn năng lƣợng tái tạo. Một
điều luật về quản lí năng lƣợng năm 2005 đƣợc theo sau bởi sự ra đời của cơ chế tài
trợ và nguồn tài trợ quốc gia cho quản lí năng lƣợng, qua đó ủng hộ việc sử dụng nhiều
hơn nguồn năng lƣợng tái tạo và tăng năng suất. Nguồn tài trợ này đƣợc lấy ra từ tiền
đăng ký lần đầu của xe cá nhân, xe chạy bằng xăng, dầu và thuế nhập khẩu hoặc thuế
sản xuất trong nƣớc của các thiết bị điều hòa (trừ những thiết bị sản xuất phục vụ xuất
khẩu).
Từ 2005 đến 2008, Tunisia đã tiết kiệm đƣợc 1,1 tỷ USD nhờ vào các nhà máy
năng lƣợng sạch khi đầu tƣ chỉ 200 triệu USD. Năng lƣợng sạch này ƣớc tính chiếm
20% tổng năng lƣợng tiêu thụ trong năm 2011.
Tháng 12/2009, chính phủ đã cho ra đời nhà máy năng lƣợng mặt trời đầu tiên
cùng với nhiều nhà máy khác phục vụ cho mục đích tăng năng lƣợng sạch từ 1% lên
4,3% trong năm 2014. Kế hoạch này bao gồm việc sử dụng hệ thống quang điện mặt
trời, bình nƣớc nóng mặt trời và máy phát điện năng lƣợng mặt trời.
Tổng chi phí của kế hoạch này đƣợc ƣớc tính là 2,5 tỷ USD, bao gồm 175 triệu
từ nguồn tài trợ chính phủ, 530 triệu từ nhân dân, 1,660 triệu từ các tổ chức - cá nhân,
24 triệu từ các tổ chức quốc tế và sẽ đƣợc chi đến năm 2016 cho 40 dự án
Năng lƣợng tiết kiệm có thể lên tới 22% trong năm 2016 với lƣợng CO
2
giảm 1,3
triệu tấn mỗi năm.
Chƣơng trình năng lƣợng mặt trời Tunisia cung cấp một ví dụ về sự phát triển
của thị trƣờng năng lƣợng nhiệt. Sự ủng hộ về tài chính bảo đảm việc cắt giảm thuế giá
trị gia tăng, cắt giảm thuế và lãi suất thấp.
Chính phủ cung cấp 20% vốn hoặc là 75 USD/m
2
và khách hàng phải trả 10% giá

thành bình nƣớc nóng năng lƣợng mặt trời. Hơn 50.000 hộ gia đình ở Tunisia đang
dùng bình nƣớc nóng năng lƣợng mặt trời với chính sách khuyến khích đƣợc áp dụng.
khi mà diện tích của chƣơng trình đã tăng lên đến 400.000m
2
, chính phủ đƣa ra mục
tiêu mới là 750.000m
2
trong năm 2010 - 2014. trong năm 2008, Tunisia cắt giảm
214.000 tấn CO
2
. Chƣơng trình này ở Tunisia đã mở ra nhiều công việc mới cho ngƣời
dân và đã khuyến khích việc phát triển năng lƣợng tái tạo cũng nhƣ giảm sự phụ thuộc
vào năng lƣợng nhập khẩu

8. 10 LĨNH VỰC VÌ MỘT HÀNH TINH XANH HƠN

Xây dựng
Việc xây dựng gây ảnh hưởng rất lớn đế tài nguyên và khí hậu toàn cầu - chúng
ta hãy cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn!
• Kiểm toán năng lƣợng của các tòa nhà hoặc cơ sở kinh doanh có thể làm giảm
thiểu dấu vết các-bon gây ra bởi công việc xây dựng và nhờ đó bạn có thể tiết kiệm
đáng kể các chi phí về năng lƣợng.
• Bạn muốn đầu tƣ cho việc cải thiện cảnh quan ngôi nhà của mình? Hãy góp
phần giảm tác động của bạn lên môi trƣờng bằng cách tìm kiếm các công ty xây dựng
ít gây tác động đến môi trƣờng
• Bạn có thể hỗ trợ nền Kinh tế Xanh bằng cách sử dụng hiệu quả các nguồn tài
nguyên, tham gia vào việc quản lý năng lƣợng của tòa nhà nơi bạn sống. Cùng chung
tay vì một hành tinh xanh!
Thủy sản
Hải sản là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe - nhưng đừng làm

suy giảm trữ lượng cá!
- Việc đánh bắt quá mức ở nhiều nơi trên thế giới làm tăng nguy cơ cạn kiệt
nguồn cá trong tƣơng lai. Chúng ta có thể tránh điều này bằng các hình thức tuyên
truyền, vận động và giáo dục để thúc đẩy các hoạt động khai thác bền vững.
- Nghiên cứu về nhãn sinh thái tại địa phƣơng, hãy mua những sản phẩm thủy
sản đƣợc chứng nhận khai thác một cách bền vững.
- Bằng cách chọn sản phẩm thủy sản bền vững, bạn đã gửi một thông điệp đến
nhà sản xuất rằng bạn ủng hộ một nền Kinh tế Xanh cho ngành thủy sản. Cùng chung
tay vì một hành tinh xanh!
Lâm nghiệp
- Gần 20% lƣợng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên toàn thế giới là do nạn phá
rừng.
- Quản lý rừng bền vững có thể hỗ trợ quần xã sinh vật và các hệ sinh thái mà
không gây tổn hại đến môi trƣờng - khí hậu.
- Sử dụng thƣ điện tử để giảm nhu cầu sử dụng giấy hoặc sử dụng các sản phẩm
từ gỗ và giấy lấy từ rừng đã đƣợc chứng nhận thân thiện môi trƣờng.
- Khi bạn hỗ trợ các sản phẩm rừng đƣợc chứng nhận bền vững là bạn đã ủng hộ
việc phát triển một môi trƣờng lành mạnh và sinh kế bền vững. Cùng chung tay vì
một hành tinh xanh!
Giao thông vận tải
Tắc nghẽn, ô nhiễm, tai nạn giao thông. . . cần có một giải pháp tốt hơn!
- Đi một mình một xe không chỉ ảnh hƣởng đến môi trƣờng và kinh tế mà còn rất
cô đơn! Dùng chung xe với bạn bè hoặc sử dụng các phƣơng tiện giao thông công
cộng sẽ góp phần làm giảm tác động đến môi trƣờng và các chi phí kinh tế, đồng thời
làm tăng tính cộng đồng.
- Đi bộ hoặc dùng xe đạp cho các chuyến đi ngắn vừa tốt cho sức khỏe vừa bảo
vệ môi trƣờng.
- Khi bạn chọn các phƣơng tiện giao thông thay thế, bạn đang hỗ trợ một nền
Kinh tế Xanh trong lĩnh vực giao thông vận tải. Cùng chung tay vì một hành tinh
xanh!

Nƣớc
Sử dụng nước một cách hợp lý!
- Hàng tỷ ngƣời trên toàn thế giới không đƣợc tiếp cận với nƣớc sạch hoặc các
dịch vụ vệ sinh tiên tiến, gia tăng dân số sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề. Từng bƣớc
hƣớng tới việc sử dụng nƣớc hợp lý có thể giúp gìn giữ tài nguyên quý giá này.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×