Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

mối quan hệ giữa miệt thị ngoại hình và các vấn đề hướng nội ở học sinh trung học phổ thông luận văn thạc sĩ sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.23 MB, 87 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Trong suốt

quátrình

tiến

hành thực

hiện và

hồnthiện

luận văn của mình, tơi đãnhận

đượcsựhỗ

trợ, giúp đờ

của

các

thầy

cô giáo, bạn

bè, đồng

nghiệp.

Vì vậy

tơi

xin gửi lờicảm

ơn chân thành

đến

những người

đã

giúp đờ và chỉ

dẫn

cho tôi

thựchiện

luậnvăn

này.

Tôi

xingửi

lời cảm ơn chân

thành

và sâu

sắc

đến

GS.TS Đặng Hồng Minh,

ngườiđã

tận

tìnhgiảng

dạy,

hướngdẫn,

nhờ

sự

tỉ mi và chỉn

chucủa

cơ mà tơi

đã

cónhiều bài

học

cho chính

mình.

động

viên và tạo cơ

hộithuận

lợi cho tơi

rấtnhiều

trong suốt q trình

học

tập,

thực

hiện luận

văn,

cũng như

định hướng xử lý

phân

tích

<i><b><small>ĩ </small></b></i>

Ạ 1

• Ạ sơ liệu.

Tơi

xin gửi

lời

cảm

ơn

đếncác quýthầy,

cô giáo

trong Khoa

các Khoa học Giáo

dụcvà phòng Đào

tạo trường

Đại

học

Giáodụcđã

tạo

điều

kiện

thuận

lợi và giúp

đỡ tôi

hoàn

thiện luậnvăn

này.

Một

lần nữa,

xin

cảm ơn

tất

cả

mọi

người

vìđãlnđồng

hành

giúp

đỡ tơi

theo

nhiều

cách khác

nhau

để tơi

thể

hồn

thành nhiệm vụ của

mình.

Xin

trân trọng cảm ơn

tất

cả

mọi người!

<i>Hà Nội, ngày ỉ 9 tháng ỉ 1 năm 2023</i>

Học viên

<b>vũ HOÀI LINH</b>

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI CẢM ƠN...</b>2

<b>MỞ ĐÀU...</b>

7

<b>CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN...</b>

11

<b>1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề...</b>

11

1.1.1.

Nghiên cứu về thực trạng

của

miệt thị ngoại hình

...

11

1.1.2.

Nghiên

cứu

về thực trạng các

vấn

đề

hướngnội ở học sinh...

15

1.1.3.

Nghiên cứu

về mối

quan

hệ giữa miệt

thị ngoại hình và

các

vấn

đề

hướng

nội

ởhọc sinh...

18

1.1.4.

Nghiên cứu về mối quan

hệ

giữa

miệt

thị

ngoạihìnhvà

lịng tự

trọng...23

<b>1.2. Cơ sở lý luận/ các lý thuyết liên quan...</b>25

1.2.1. Các

khái niệm

bản

...25

1.2.2. Các

yếu

tố nguy

cơảnhhưởng

đến miệt thị ngoại

hình...

39

1.2.3.

Đặc

điểmnhómkháchthể...

40

<b>Tiểu kết chương 1...</b>

42

<b>CHƯƠNG 2: TỎ CHÚC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu...</b>

43

<b>Tiểu kết chương 2...</b>

51

<b>CHƯƠNG 3: KẾT QUÃ NGHIÊN cứu...</b>52

3.1

Thực trạng về

trêu

chọc ngoại hình ở học

sinh trung họcphố

thông

... 52

3.2 Các yếu

tố

ảnhhưởng

tới

trêu

chọc ngoại hình ở học

sinh

trung học

phố

thơng theođặc

điểmcủanhómkhách

thể

...

58

3.3 Thực

trạng về vấn đề

hướng nộiở

học sinh

trung học phổ

thông

...65

3.4

Mối

quan hệ

giữa vấn

đề hướng

nội

thực trạng

trêu

chọc ngoại hình

học

sinh

Trung

họcphổthơng...

68

<b>Tiểu kết chương 3...</b>70

<b>KẾT LUẬN VÃ KHUYẾN NGHỊ...</b>72

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...</b>76

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>DANH MỤC TÙ VIÉT TẮT</b>

<b>Cụm từ viết tắt<sub>Nguyên Nghĩa</sub></b>

<b>APA</b>Hiệphội

Tâm

thần Hoa Kỳ

<b>SES</b>

Thang đo

lòng

tự trọng (Self-Esteem

Scale)

<b>PARTS</b>

<sup>Thang đo </sup>

<sup>trêu</sup>

<sup> chọc</sup>

<sup> liên </sup>

<sup>quan </sup>

<sup>đến </sup>

<sup>ngoại hình</sup>

<sup> (The </sup>

Physical Appearance Related

Teasing)

<b>CATS</b>

<sub>Thang đo </sub>

<sub>trêu</sub>

<sub> chọc trẻ</sub> <sub>em</sub> <sub>và </sub>

<sub>vị </sub>

<sub>thành </sub>

<sub>niên </sub>

(The

ChildAdolescent

Teasing

Scale)

<b>TQ</b>

Bảng

câu

hỏi

trêuchọc

TQ

(Teasing Questionnaire)

<b>TQ-R</b>

Bảng câu hỏi

trêu

chọc

đãđược

sửa

đối

(Revised TeasingQuestionnaire)

<b>CBCL</b>

Bảng liệt

hành

vi

trẻ em (Children

Behaviour

Checklist)

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>DANH MỤC BẢNG BIẺU THAM KHẢO</b>

<i>Bảng 2.7.1: Đặc điêm chung của khách thê nghiên cứu...50Bảng 3.1.1.1: Phân phối dựa trên phạm vi điểm số về tần suất</i>

<i>ở các hình thức trêu chọc ngoại hình của HS THPT...52Bảng 3.1.1.2: Điểm trung bình về tần suất ỏ’ các hình thức trêu</i>

<i>chọc ngoại hình của học sinh THPT... 54</i>

<i>Bảng 3.1.2.ỉ: Phân phối dựa trên phạm vi diêm số về mức độ ảnh hưởng </i>

<i>bởi các hình thức trêu chọc ngoại hình của HS THPT... 55</i>

<i>Bảng 3.1.2.2: Điểm trung bình về mức độ ảnh hưởng của trêu chọc </i>

<i>ngoại hình ở học sinh THPT...57</i>

<i>Báng 3.2.1: Sự khác biệt về tần suất trêu chọc và mức độ ảnh hưởng </i>

<i>của học sinh THPT theo giới tính...58Bảng 3.2.2: So sánh về tần suất trêu chọc và mức độ ảnh hưởng </i>

<i>của học sinh THPT theo khối lóp...</i>

<i>59Bảng 3.2.3: So sánh sự khác biệt về tần suất trêu chọc và mức độ ảnh hưởng </i>

<i>của học sinh THPT theo khu vực trường...</i>

<i>60Bảng 3.2.4.1: Thực trạng lòng tự trọng ở học sinh THPT...</i>

<i>61</i>

<i>Bảng 3.2.4.2: Sự khác biệt về tần suất trêu chọc và mức độ ảnh hưởng theo </i>

<i>phân loại lòng tự trọng ở học sinh THPT...</i>

<i>62</i>

<i>Bảng 3.2.4.3: Tương quan Pearson giữa tần suất, mức độ ảnh hưởng của </i>

<i>trêu chọc ngoại hình và lịng tự trọng ở học sinh THPT...</i>

<i>63Bảng 3.2.4A: Mơ hình hồi quỵ giữ lịng tự trọng và tần suất trêu chọc </i>

<i>ngoại hình của học sinh THPT...</i>

<i>63Bảng 3.2.4.5: Mơ hình hồi quy giữa lịng tự trọng và mức độ ảnh hưởng </i>

<i>của học sinh THPT...</i>

<i>64</i>

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>Bảng 3.3.1: Thống kê mô tả về thực trạng vấn đề cảm xúc</i>

<i>của học sinh THPT...65</i>

<i>Bảng 3.3.2: Phân phối điêm số về vấn đề cám xúc </i>

<i>ớ học sinh THPT... 66</i>

<i>Bảng 3.3.2.1: Sự khác hiệt theo nhóm giới tính về vấn đề cảm xúc</i>

<i>ở học sinh THPT... 66Bảng 3.3.3.1: Thắng kê mô tả vấn đề cảm xúc ở học sinh THPT </i>

<i>Theo nhóm khối lớp...</i>

<i>67</i>

<i>Bàng 3.3.4.1: Thống kê mô tả vấn đề cảm xúc ở học sinh THPT </i>

<i>theo khu vực trường... 67</i>

<i>Bảng 3.4.1: Tương quan Pearson giữa vấn đề hướng nội, tần suất và </i>

<i>mức độ ánh hưởng bởi trêu chọc ngoại hình ở học sinh THPT...</i>

<i>68Bảng 3.4.2: Mơ hình hồi quy tuyến tính giữa vấn đề hướng nội, tần suất và </i>

<i>mức độ ảnh hưởng hởi trêu chọc ngoại hình ở học sinh THPT...69</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>MỎ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài</b>

Bối

cảnh xã hội

hiện

đại

đang

trải qua

sự

phát triển

nhanhchóngnhờ

vào

sự tiến

bộ của

các

phương tiện truyền

thơng.

Truyền

hình,

mạng xã hội

các

nền

tảng

trực tuyếnđã

trở

thành

những công

cụquan

trọng đế chia sẻ

thông

tin

giao tiếp, tạo ra

sự

kết

nối

phổ

biến

hóa

những

thơng điêp,

hình ảnh từ nhiều cá

nhân

khác nhau.

Điều này

đã đưa ngoại

hìnhtrở

thành

một

yếu

tố

đáng

chúý và

nhận được

sự

quan

tâmlớn

hơn.

Cùng

vớisự

gia tăng

của

truyền

thôngxã

hội, những

tiêuchuẩn

về ngoại hình đãtrở nên

đadạng

thayđổitheo

thời gian.

Với viễn

cảnh trực

quan

sự

truyền đạt

dễ

dàng

qua

hình

ảnh vàvideo,

những

tiêu chuẩn

về vẻ

đẹp

ngoại hình đã trở nên rõ rànghơn và dễ

dàng

lan

truyền.Các

tiêu

chuẩn

về

vẻ đẹp khơng cịn bị

giới hạn

bởi

những

khn

mẫu cổ điển, mà

thayvàođó,chúng phảnánhsự đa dạng văn hóa và cá

nhân.Người ta dễ dàng nhìn thấy

so sánh

hình

ảnh

của

người khác, tạo ra một áp lực

không

nhỏ về

việc

đạt

được

các

tiêu chuấnđó.

Body

shaming” đượchiếulà Miệt thị ngoạihình,là

một

hành

động trong

đó

một

người

bày tỏ

ýkiếnhoặc

nhận xét

tiêucực

về cơ thể của

ngườikhác,

có thể

diền

ra

trên

cả

mạng xã

hội

trong thế giới thực

theo nghiên cứuvào

năm 2021 của tác giảConstanze

Schluter

và cộng

sự [21J.

Miệt thị ngoại hình có thể xảy ra

với

bất kỳ ai,

đặc biệtlà

nhóm

đối

tượng

vị thành

niên.

Đây là

tình trạng

diễn

ra

rất

nhiều quốc gia trên thế

giới,

trong đó bao gồm cảViệt

Nam.Theonghiêncứucủa

tác giả Rahul Taye

Gam và cộngsự

vào năm 2020 [72],

mức

độ

phố

biến

của

các hình

thức

miệt

thị

ngoại

hình

trên thế

giớiđượckhảo sát

nằmtrong khoảng từ 25-35%. Năm

2022,

trong

nghiên cứucủatác

giả

Nguyễn

Thị

Bích

Thuỷ về chủ

đề

bắt nạt

trực

tuyến

củahọcsinh tạiViệtNam

cũng chi ra rằng, miệt thịngoại hình là

một

trong những hình

thức

bắt nạt phổ

biến

nhất

lứa

tuổi

học

sinh

THPT

Độtuổi

học sinh THPT

làgiaiđoạn

quan trọng trong

sự

phát

triểntâm

sinh

của

mỗi

cá nhân. Trong

giaiđoạn

này,

họcsinh đang trải

qua nhiều thay đổi về cảm

xúc,

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tâm

trạng,

xác

địnhbản

thân. Đơng thời, ngoại hình cũng

đóng

vai trị quan trọngtrong việc

xácđịnhdanh tính

và tự hình dung

của học

sinh.

Sụ miệt

thị ngoại hình cóthể

dẫn

đến nhừng

cảm

xúc

tiêucực

và nhiều

hệlụy

về

tâm

lý. Tuy

nhiên

các

nghiên

cứu

Việt

Nam

hiện nay,

mới

chỉ tập trung và

chủ

yếu đưa ra

con

số

thực trạng

về

vấn nạnmiệtthị

ngoại hình

vàchưa

đề tàinghiên cứu nàothựcsự

chỉ ra

được

mối

quan

hệ giữa

miệt

thị ngoại hình

vớicácvấn

đề

hướngnội

trong sức khoẻ

tâm

thần ở

vị

thành

niên.Bởivậy,tôi

lựa chọn

thực

hiện

đề

tài

nghiên

cứu về “

Mối

quan hệ giữa miệt

thị

ngoại hình

các

vấn

đề hướng

nộiởhọc

sinh THPT”

.

<b>2. Câu hỏi nghiên cứu</b>

Nghiên

cứuđược thực hiệnnhăm

trả lời các câu

hỏi sau:

-

Thực

trạng

bị

miệt

thị

ngoại hình ở

học

sinh trung

họcphổ

thơng biếu

hiện như

thê nào?

- Miệt

thị

ngoại hình

và vấn

đề

hướngnộiở

học

sinh

trung

học

phố

thơng

có mối

quan

hệ

vớinhau

như thê nào?

<b>3. Giả thuyêt nghiên cứu</b>

- Thực trạng miệt

thị

ngoại

hình

ở học sinh THPT diễn ra

kháphổbiến

- Có mối

tương quan thuận

giữa miệt

thị ngoại

hình và các vấn

đề hướng nộiởhọc sinh trunghọc

phơ thơng

<b>4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu <sub>• </sub><sub>• </sub><sub>♦ o</sub></b>

<i><b>4.1. Mục đích nghiên cứu</b></i>

Mục đích

của

đê tài

nghiêncứu

nhăm

làm

sở lý luận và

thực

trạng

củavân

đề

miệt

thị ngoại hình,

cácvấn

đề

hướngnội

trong sức

khỏe tâm

thần

và mối

quan

hệ

giữa miệt

thịngoạihình

và các vấn đề

hướng

nội ở

họcsinhTHPT.

<i><b>4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</b></i>

Nghiên cứu

sở lý

luận

của đê

tài

thông

qua

quá trình

tơng

hợp, hệ thơng

một số vấn đề lý

luận

liên

quan đến miệt

thị

ngoại hình và mối quan hệ giữa miệt

thị

ngoại

hìnhcác

vấn đề

hướng

nội trong sức khỏe

tâm

thần của học

sinhTHPT.

8

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Tìm

hiểu

thực

trạng

vấn đề

miệt thị ngoại hỉnh

và mối

quan hệ giữa

miệt

thị

ngoại

hình

các vấn đề

hướng nộiởhọc

sinh

THPT.

<b>5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

• Đốitượng

nghiên cứu của đề tài:

Mối

quan hệ giữa

miệt

thị

ngoại

hình

vàcác vấn

đề

hướng nội ởhọc sinh

THPT.

• Phạm vinghiên

cứu

của

đề tài:

Đề

tài

nghiên cứuvới khách

thể là học sinh THPT khối

10,11và

12

thuộc

các trườngtại khu vực

HàNội

Đề

tài tập trung

nghiên

cứu

thực

trạng miệt thị ngoại hình về cân nặng và

sử

dụng

thang

đo

trêu

chọc ngoại hình để

thu thập

số liệu.

<b>6. Phương pháp nghiên cứu:</b>

<i><b>6,1, Thời gian nghiên cứu</b></i>

Từ

tháng

3

năm

2022

đếntháng

6 năm

2023

<i><b>6,2, Phương pháp nghiên cứu</b></i>

Đề

tài

sử

dung phối hơp

các

phương pháp

nghiêncứu:

<b>a. Phương pháp nghiên cún lý luận</b>

Bao

gồm:

đọc,phân

tích, tổng hợp,

hệ thốnghóa và khái

quát

hóa

những quanđiếm

cũng

như những cơng trình

nghiên

cứu

của cáctác

giả trong

và ngồinước

liênquan đến

miệtthịngoạihìnhvà

các

vấn đềhướngnội ở

học

sinh

THPT,

để

xây dựng

sở lý luận của

đềtài.

<b>b. Phương pháp điều tra</b>

Nghiên

cứusử

dụng phương

pháp

điều tra bằng thang

đo,

đây

cũnglà phương

pháp

nghiên

cứu chính

của đề tàinhàm mục

đích tim hiểu

cácthơng

tin về

thựctrạng

miệt thị ngoại hình và

làm

mốiquan

hệ giữa

miệt

thị ngoại hình

các

vấnđềhướng nội

học

sinh THPT. Nghiên cứu lựa chọn

ba

thang đo

đã đượckiếm

chứng qua

các nghiên

cứu

trên

thế

giới,

đó

là:

Thang

đánh

giá về

mức độ vàảnh hưởng củatrêu

chọcngoại hình (POTS - WT); Thang đo

lịng

tự trọng

(SES);

Thang đo điểm mạnh - khókhăn

(SDQ

- 25) nhằm xem xét

các

vấn đề

hướngnội nói

riêng.

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>c. Phuong pháp xử lý sơ liệu</b>

Đetrìnhbàyvà phântích

số liệu,

nghiên

cứu

sử

dụng

chương

trình

phầnmềm

thống kê SPSS

<b>7. Ý nghĩa của nghiên cứu7. /. Ỷ nghĩa lý luận</b>

Đề

tài

nghiên

cứu

tống

quan về các

nghiên

cứu liên quan

đến miệtthị

ngoại hìnhvà

các vấn đề hướng

nội trong sức

khoe tâm

thần

ởhọcsinh

THPT

trên

thế giới và tạiViệt

Nam,

từ đó bổ

sungvà xây

dựng

hệ

thống

sở

luận

về

miệt

thị

ngoại hình,

các

vấn đề

hướngnội.

Trong

đó,đặc

biệt tìm

hiểu

xác

định mối quan hệ

giữamiệt

thịngoại

hình và

các vấn đề

hướng nội

ở học sinh THPT tại

HàNội.

<b>7. 2. Ỷ nghĩa thực tiễn</b>

Nghiên

cứu

mongmuônnâng

cao

nhận

thức vê

thựctrạngmiệt

thị ngoại hìnhcũng như

ảnhhưởngcủavấnđề

miệt thị ngoại hình

đến

các vấn đề

hướngnội trong sức

khỏe

tâmthần ở

nhóm học

sinh

trung

học

phổ

thông.Nghiên

cứu cũng chỉ ra các yêu

tố

nguy cơ ảnh

hưởng

đến thực trạng cùa miệt

thị

ngoại hình và

mối

liên hệ giữa

miệt

thịngoại

hình với

các

vấn

đề

hướng

nội

ở học

sinh trung

học phổthông.

10

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN1.1 Tông quan nghiên cứu vân đê</b>

<b>1.1.1Nghiên cứu về thực trạng của miệt thị ngoại hình</b>

Tình

trạng miệt

thị

ngoại hình

đã và đang

xuất hiện

nhiều quốc gia trên thế

giới.Năm2020,

tác giả Rahul

Taye Gam

cộng

sự

đã

nghiên cứu

khảo sáttrên

800

họcsinh,

trong

đó

có tới

44,9%

(n=359)

các

em

tham

gia trả lời

rằng mình

đã từng bịmiệt

thị

ngoại hình

ít

nhất một lần trong

mộtnăm qua[72]. Tỷlệ

này đạt

mức cao

nhấtở nam sinh tại các trường có cả nam và nữ,

và ítnhất

nữ

sinh

ở các

trường đơn giới.Hầu hết các nạn

nhân chobiết

rằng mình

khơngthích

trường

học,

việc

miệt thị ngoại

hìnhđóng

vai trị

một trong những yếu tố chính dẫn đến

tình

trạng

các

em

ngại

đếntrường.

Trong số những

đối tượng

bị miệt

thị

ngoại hình, thanh thiếu niên

khơng

phải

ngoại lệ.

Năm 2022,theotác

giả Saifudin,

với sự

xuất hiện của những “

ngườinồi

tiếng

<i>(influencer)</i>trên

mạng xã hội và phổ biến

hóa tin

tức về ngoại hình

của

một

người,

theo đó

thanh

thiểu

niên ngày càng

rơi

vào sự ám ảnh về “thân hình lý

tưởng”

[59]. Điềunày

lndẫnđến

việc bất

kỳaikhơng

phù

hợpvới

hình ảnh này đều bị miệt thị vì ngoạihình

của mình.

Ảnh

hưởng

này có thể dẫn

đến

những kỳ

vọngkhơng

lành mạnh về

hình

dáng cơ thể

ởthanhthiếu

niên, trong

chính

họ và

những

ngườikhác,

từ đó có thể

dẫn

những

sự trêuchọc,chế

giễu

đốivới

những

người

trẻ

không phù

hợp

vớisự

tường đó,kể

cả những thanh thiếu

niêncó

tình trạng sức khỏe tốt.

Năm 2022, trong một khảo sát định

tínhđối với

81 học

sinh

trung

học

phố thôngtại vùng

Depok,Indonesia,65,4%

trong số các em cho

biết đã

từng có

trải nghiệmbị

miệt thị về

ngoại

hình của mình ở

mứcđộtrungbình,

bên cạnh đó có 17,3% số học

sinh chobiết mình

rất thường

xuyênbịmiệt

thị

[53].

Theo quan

sát của nghiên

cứu này, hình

thức miệtthịthường

xảy ra

ở học

sinh là

việc

bình

luận

về khiếm

khuyếtcơ

thế

của

bạnhọc

khác. Điều này rất

ảnhhưởng

đến

sự

phát triển

của

các em về mặt phát triển

hội vì

các

em

cảm

thấy minh

khơngđược bạn

chấpnhận

hình

thể

củamình. Do là nạn

nhân

của sự

miệt

thị

ngoại

hình,

một số em cảm thấy bất

anvà

trở

nên

ám ảnh

về

việc người khác

nghĩ gì

về

hình

thể

củamình,dẫn đến

việc cố

che

đậy

khuyết điểm

hìnhthể

của mìnhmột

cách

thái

quá.

Các

em sẵn sàng

làm

nhiều cách khác nhau

để

khiếnbản thân

trơng

hồn

hảo

hơn

để

có thể

được chấp nhậntrong

mơi trường

học

đường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Tại Việt Nam, tình

trạng miệt thị ngoại

hình

cũng xảy ra

khá phố

biến. Theo một

nghiêncứu

tại

thành

phố

Hồ

Chí Minh

đối

với sinh viên Đại học, của tác giả NguyễnThị Thanh Vân

(2021)

[5], có tới 75% trong số đối

tượngđượckhảosátcho câu

trả lời

rằng

mình

đãtừng lànạn

nhân của miệt thị ngoại

hình.Tác

giả

nhận

định,

thực tế hiện

nay

cho

thấy

tình

trạng miệt

thị

ngoại

hinh đang

lan rộng và trở nên

phố

biến

hơn

baogiờ hết trong

hội hiện đại. Sự lan truyền mạnh mè

của

truyền

thông và

mạng xã

hội

đã

đóng

một vai trị quan trọng trong việc tác động

đến

cuộc

sống của conngười

ngày

nay.

Các trang mạng xã hội

được sửdụngrộng

rãi

vàcác

phương

tiện

truyền

thông

đại

chúng

đang

thúc đẩy

một

tiêu chuẩn

vẻ

đẹp khơng thực

tế

và góp phầnvào

việc tạo

ra

áp lực

lớnđối

với

ngoạihìnhcủa

mọi

người.

Mộtnghiêncứu

thuộc trường

Đại

học Khoa

họcXã

hội

và Nhân văn

Hà Nội của

tác

giả Nguyễn Huyền Chi

(2020)

[3J,

tới 113

người

trong số 141

người được khảo

sát

đã

trả

lờirằngmìnhtừng

bị miệt

thị

ngoại hình. Cùng

vớitỉ lệ98%người trong

khảosát

cho

biết rằng mình

quen

thuộc

với cum từ “miệt thị

ngoại

hình

”,

những con

số nàyphảnánh sựphổbiến

cùa miệt

thị

ngoại hình trong

bối

cảnh

hội

hiệnđại.

Trong

số

những

người

cho

câu trả

lời đã từng bị miệt thị ngoại hình trong khảo sát khi nói

về cảm

xúc

của

họ

khi

bị nhận xét

tiêucực

về ngoại

hinh,

đa phần các câu

trảlời đều

sự bức

xúc,

khóchịu và

theo sau

bởi sự

tự

ti,

xấu

hố

về

bản

thân

mình.

Mộtnghiên

khảo

sát nhómđối tượng là

học sinh THPT tại thành phố

Hồ

Chí

Minh của tác giả

NguyễnThị

Bích Thủy

(2022),

miệt thị ngoại

hình

hànhvi cóđiểm

trung bình cao thứ hai trong số

các

bắt

nạt,

cụ thế là việc bị “

nhận

những bình luận

chế giễu, cợt

nhả

về

hình

ảnhcủa

bản thân

trên

mạng xã hội

“nhận

nhừng tin

nhắn

nội

dung

xấu,

quấy

rối

từ ai

đó

[4].

Đây là

hìnhthức

dùng

ngơn ngữđếchê

bai

hay

chế

giễu

ngoại hình

người

khác,

làmchonạn

nhân

cảm

thấy tốn thương

bị xúc

phạm.

Học sinh lại

những đối

tượng

tham gia và hoạt

động

trên

mạng

hội nhiều,

khiến các em

càng

dễ trở thành

nạn

nhân

của

việc “tấn

cơng

bằng

ngơn

từ.

Việc học

sinh

nhận

những

bình

luận

chếgiễu,

cợt

nhả

về hình ảnh

củabản

thân

trên

mạng

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Các

nghiên

cứu

được tổ

chức trên thế giới

nói chungvà

Việt

Nam nói riêng

đangđều nêu

lên

tình

trạng xuất hiện

ngày

một gia tăng

của

miệt

thị

ngoại

hình.

Hànhđộng

này

diễn ra cả trong

đời sốngthực tể và

trên

không

gian

mạng.

Đặc

biệt

trong bối

cảnh

các phương tiện truyền thông

vàmạng

xã hội ngày

càng

phố

biến,

những hình

thức

bắt

nạt, trêu

chọc

miệt

thị

về ngoại hình càng ngày

càng

xuhướng

gia

tăng.Bên

cạnh

đó,

nghiên cứu của

ConstanzeSchluter vàcộngsự (2021)[21] đã nghiên

cứu về

mối tương quan

giữa

miệt

thị ngoại hình và

trêu chọc

ngoại hình, trong

đómiệt

thị ngoại hình

một khía cạnh cụ thế

hơn

của

trêu

chọc ngoại

hình.Miệt

thịngoại hình có những điểm

tương

đồng

với

trêu chọc ngoại hình

ở khía

cạnh

đềulàphản hồi tiêu

cực về các thuộc

tính

vật lý

của

một

người.

Trong

khi đó,

trêu chọc ngoại

hình

có thể bao gồm từ những nhận xét

tích cực

từ một

người bạnthânđến

những

phản

hồi

ác ý

từ những

người

lạ hoặc những kẻ bắt

nạt. Theođó, nhóm

tác giả

nhận

định hành vi

miệt

thị ngoại

hình là

một tập hợp

concủa

một

khái

niệm

bao

quát hơn, đó

làtrêu

chọcngoại

hình. Vì vậy,việc

nghiên cứu về thực trạng

chêu

trọc

ngoại hìnhlà cần

thiết

trong khnkhố nghiên

cứu

cùađềtài.

Bên cạnh thực

trạng

về miệt thị ngoại

hình,

thì các

nghiên

cứu về

thực

trạng

trêu

chọc ngoại hình cũng cho thấy những nét

tươngđồng

về các

hành

vi,

lời nói gây

ranhững tác

động, ảnhhưởng

tiêu cực tới

cho

mỗi

nhân.

Trêu

chọc về ngoại

hình là

một

hiện tượng phốbiến

trong các

loạitương

tác xã

hội

mà một

sốlượnglớn

trẻ em

và thanhthiếuniên

gặp phải.

thường xảy ra dướihình

thức

quấy rối và

khiêu

khích

bằnglờinói,

từ việc

gọi

bằng những cái tên và

biệt

danh

đến

những

nhận

xét

ác ý

(theo

Martin

và cộng

sự,

2019) [47].

Trên

thế giới

đãcó

nhiều

nghiên cứu khảo

sát và

cho

ra nhiều

số liệu phong phú

về

mức

độ

phố biến,

giới

tính,

độ

tuổivà

ngoại hình.

Trong

nghiên

cứu

của

Tổ

chức

Y tế thế

giới

(WHO - 2017) về Khuynh hướng

cânnặng

sự

thị

đối

vớingườibéo phiđượcthực

hiện bời

văn phòng WHO

tại

châu Âu

[94], nghiên cứu

được tổng

hợp từ các nghiên

cứu

khác

nhau trên

thế giới cho

thấy 47%

trẻ em gái

34% trẻ em

traithừa cânbáo

cáo

là nạn

nhân của

sự

trêu chọc

về

ngoại hình từ

các

chính

thành viên

trong gia đình. Trẻ em và thanh

niên

mắc bệnh

béo

phì có thể bị

trêuchọc,

đe dọa bằng

lời

nói và hành hung thể

xác(ví dụ:

bị đánh

Cắp

13

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hoặc

làmhư

hỏng tài sản hoặc

bịlàm

bẽ

mặt

nơi

công

cộng).

Trẻ cũng có thê

bịbạn

cùng

lớp

phớt lờ, cơ lập

với xã

hội do

bị loại khỏi

trường

học

các

hoạt

động

hội.

Theo một

nghiên

cứu năm 2002 diện

rộng

tại

Mỹ

của tác giả

Sztainer

cộng sự

[281,

đã

khảo

sát 4746

thanh

thiếu

niên từ 31 trường trung

họccơ sở và trung học

phổthông từ các

khu

nội

thành

ngoạiôở khuvực

St Paul/Minneapolis

của Minnesota. Những người

tham gia

đượcchia

đều theo giới

tính

(50,2%

nam,49,8%

nừ),

vớituổi

trung bình

củahọc

sinh

đượckhảo sát

14,9tuổi,

xấp xỉ

1/4thanh

niên

cho

biết

họ bị trêu

chọc

về

cân nặng

ít

nhất vài lần

trong năm.

Mặc dù

nghiêncứukhảo

sát

cả

hai giới,các

gái

thườngbịtrêu

chọc

nhiềuhơncácbétrai,

điển

hình

về

cân

nặng. Tỷlệ

trẻem gái bị trêu

ghẹo

(nhiều hơn một vài lần trong

năm) cao

hon một

chút

so

với

trẻ em

trai.

Ở các em

gái,

tần suất

bịtrêu

chọc về cân

nặng

như sau:

không

bao giờ (57,2%);

dưới 1lần/năm(17,3%);

một nàm vài lần (11,8%);

tháng

vài lần

(6,9%);và

ít

nhất 1

lần/tuần (6,8%).

các em trai, tần

suấtbịtrêu

chọc về

cân

nặng là:

không bao

giờ(64,6%); dưới 1

lần/năm

(13,2%); một năm vài lần (11,8%); tháng vài lần

(5,8%); và

ítnhất 1

lần/tuần

(4,6%). số

lượng

các

gái

bị bạnbè và các thành

viên trong gia

đình trêu

chọc

về

cân nặng

nhiều

hơn

đáng

kể so với các

bétrai.

Mộtnghiên

cứu

đã

chỉ ra mức độ

trêuchọc

ngoại

hình

rất cao

tại

Cộng

hịa Séc

của tác giả

CarlosA.

Almenara

(2014)[65],

trong đó mẫu

khảo

sát bao gồm

570thanh thiếu niên

ở độ

tuổi 13

(trong

đó 47,9%

học

sinh

nữ)

từ

khu vực nội

đô Bmo, thành

phốlớn

thứ hai ở Cộng

hòa

Séc.

Đối tượng được đánh

giá ở tuối

13,

nằm trong

khuôn khố Nghiêncứu theo chiều dọc

của

Châu Âu

về

Mang thai

và Thời thơ ấu.

Các tác

giả

đã

cho thấy

một

tỷ lệ

lớn

thanh thiếu

niên

bị trêu chọc.

Cụthể,76%

thanh

thiếu

niêntrong

khảo

sát

nàycho

biết

mìnhđã

từng bị

trêu

chọc liên

quanđến

vẻ bề

ngoài.Gần 50%chobiết bịtrêu

chọc liên

quan đếncơ

thể, trong đó có hơn

33%

cho

biết bịtrêu

chọc về hình

dáng vàtrọng lượng

cơ thể. Nguồn trêu chọc

được

chỉ ra là nhiều

nhất

từcác bạn

nam cùng lớp.Các

học

sinh nữthường hay bị

trêu chọc về ngoại hình

hơncác học

sinh nam. Thanh thiếu niên thừa

cân,

cả

nam

và nữ, có nhiều

khảnăngbịtrêuchọc

hơn

so với

thanh

thiếu

niên

không

thừa

cân.

Những

học

sinh thừa

cân đã

báo

cáo mức độ

tác

độngcủa

việc

bị

trêu

chọcliên

quan

đến

cơ thể

caohơnsovới

các bạn

khơng

thừa

cân.

Nhìn chung,

thanhthiếu

niên

tại

Cộng

hòa

Séc tiếp tục áp dụng

cáctiêuchuẩn

14

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

xã hội

của

cácnước

phương

Tây,

trong đó có việc kỳ thị những

bạn

bè có

tìnhtrạng

thừa

cân.

Tại

khu

vực châu

Á,

một

nghiêncứu

về

trêu

chọc ngoại hình

tại

Nhật

Bản

củaChisuwa

Hayamivà cộngsự(2016)

[411, đà tiến hành

khảosát

ẩn danh đối

với 1172 học sinh

trung

học

cơ sở

tại thànhphố

Higashi-Osaka, tỉnh

Osaka, Nhật

Bản.

Các mục

khảo sát

bao

gồm

chiều

cao

cân nặng

đượchọc

sinh tự

báocáo.

Nghiên cứu nhằm

mục

đích tìm hiểu

lịchsử và nguồngốccủa

chế

giễu,trêuchọc, sự

tự ý

thức

về hình

ảnh

cơ thể và hành vi ăn

kiêng. Nghiên

cứu chỉ ra kết quả

rằng

hành vi trêu chọc

liên

quanđến ngoại

hìnhđượcbáo

cáo

bởi

16,4%

học

sinh nam và

32,5%

học sinh nữ. Câu trả lời

phổ

biến nhất

cho

những

ngườithực

hiện

hành

vi

trêu

chọc là bạn bè

(84,7%người

thựchiện hành

hành

vi

trêu chọclàcon

trai,

67,1%ngườithực

hiện

hành

vi trêu chọc là

con

gái).

Nhữnghọcsinh

thừa

cân,cótình

trạng cân nặng trên mức

binhthường

tự

nhận

mình

là "béo"

nguy

bị

trêu

chọc cao hơn.

Ngồi ra, những

họcsinh

có tiền

sử bị trêu

chọc liên quan

đến

ngoại

hình

xuhướng

thể

hiện

hành

vi

ăn

kiêng

cao hơn

đáng

kể.

<b>-1.1.2 Nghiên cứu vê thực trạng các vân đê hướng nội ờ học sinh</b>

Theo

sốliệu

năm 2021 của

của

Tồ

chứcY

tế

Thế

Giới [931, trên toàn

cầu,

cứ

bảy

trẻ từ 10-19

tuổithìcó

một trẻ bị

rối

loạn tâm thần, chiếm

14%

gánh nặng

bệnh

tật

nhóm

tuổinày. Độ

tuổi

này

chiếm một phần sáu

dân

số thế

giới,

độtuối diễn

ra nhữngthay

đổi về

thể chất, cảm

xúc

và ngoại

cảnh xãhội,khiến đây làthời

điểm quan trọngvà

độcđáo

trong việc

hình

thành

tínhcách

ở lứa tuối học

sinh,

nhưng cũng

đồng

thời

<b><small>1• A </small></b><i><b><small>_ S _</small></b></i> <b><small>_____.1ơ ___z ___________ ____ A-4. A___ Ạ _ 11- 2 ____ 11rp—.A. _J__K _ A __ __ ____> • J _ __</small></b> <i><b><small>f _</small></b></i> <b><small>1</small></b>

khien cac em de măc cac

vande ve

sức khoe

tarn

than. Trên

tồn

câu,

ngườita

ước

tínhrằng

có 14% các thanh

thiếu niên

trong

độ

tuổi này

gặpphải

các

tình

trạng

sứckhỏe

tâmthần và

điềnhìnhlà

các

rối

loạn cảm

xúc, tuynhiên

những

tình

trạng

này phầnlớn vẫn

chưa

đượcpháthiện

điều

trị. Các

thanhthiếuniêncó

nhừng

vấn

đề

sứckhỏetâm thần

rất dễ

bị

định

kiến

từ xã hội,

phânbiệt

đối

xử vàkỳ

thị.

Điềunày

ảnh

hưởng đến khảnăngcác

em

tìm

kiếm

sự

giúp đỡ,

khiến

các em gặp

khó

khăn trong

học

tập, cónhững hành vi gây hại và

ảnhhưởng

xấu đến

sứckhỏe

thế chất.

Rốiloạn

cảm xúc

làtình

trạng

phổ

biến

ởthanh thiếuniên

độ tuổi này, trong đóđiển hình

rối

loạnlo

âu

trầm cảm

(WHO,2021)

[931. Rối loạn

lôu(có

thể

bao

gồm

hoảng

loạn hoặc lo lắng thái q) là tình trạng

phổ

biến

nhất

nhóm

tuổi

này

15

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

phổ

biến hơn ở nhóm những thanh thiếu niên

lớntuổi

hơn. Người

ta ướctínhrằng

3,6%

số

trẻ em từ 10-14 tuổi và 4,6% trẻ em từ

15-19

tuổi mắc chứng rối loạn lo âu. Đặc

trưng

của

lo

âu

là sự

lo

lắngvàsợ

hãi

dữ dội,

quá mức và dai

dẳng(theoWoodward,

2001)

[48]. Tuy trẻ vị

thànhniên

đều có lúc

căng

thẳng

lo lắng, nhưng những

ngườitrẻmắc

chứng

rối

loạn lo âu

sẽ gặp

phải tình trạng

đaukhổnghiêm

trọng

về

cảm xúc, thể chấtvà nhận thức và

khó

tập trung

vào

những

việc

khác ngồi mối lo hoặc

sựsợ

hãi của

mình.

Rối

loạnlôu

là ngun

nhânthứchín

gây ra bệnh tật và khuyết tật cho trẻ

vị

thành

niên

từ 15-19 tuổi

thứ sáu đối

với

nhưng

người

từ 10-14

tuổi.

Rối

loạn lo âu ờ

trẻ em gái

cao

hơn trẻ em

trai

phổ

biến hơn

giai đoạn sau

của độ

tuổi thanh thiếu

niên.

Trẻ vị

thành

niên

mắc

chứng rối loạn lo

âu

nguycơcaomắc

chứng lo âu,

tràm

cảm,

lạm dụng

ma túy

và khôngthànhcông

trong

học

tập khi trưởng

thành.

Trầm

cảm

được ước

tính

xảy

ra ở 1,1%

thanhthiếu

niên từ 10-14

tuổi

2,8%ở

thanh niên

15-19tuổi

(WHO, 2021) [93].

Trầm

cảm

vàlolắng

chung

một

số

triệu

chứng, bao gồm

những

thayđối tâm

trạng

mộtcách

đột ngột

bất ngờ.

Rối

loạn lo âuvà trầm cảm có thể

ảnhhưởng

sâu

sắc đến

việc

đihọc vàhọc tập.

Sự

tránh giao tiếpxã hội có thể

làm

trầm trọng thêm

sựcô

lập

cô đơn.

trạng

thái nặng,

trầm

cảmcó

thể

dẫn đến

hành

vi

tự sát.

Theobáo

cáo của

WHOvào năm 2021

trên toàn thế giới [93],tự tử

nguyên

nhân

thứ tư

gây

tử

vongở

lứa

tuổi

15-19. Ước tính

cókhoảng

62.000 trẻvị

thànhniênchết trong

năm 2016

do

tự

làm

hại

bảnthân.

77% số

vụ

tự tử

trêntồn

thế

giớixảy

ra ở

cácnướccóthunhập

thấp và

trungbình.

Trong

khitỉlệtrẻ

em gái có

ý định

tự tử

cao

hơn, thì

tỉ lệ

trẻ em

trai chết

do tự tử

lại

nhiều hơn (12,6

trên100.000trẻ

em

trai

so với

5,4trên

100.000 trẻ em

gái).

Tại khu

vực Đông Nam Á,

Tổ chức

Y

tế

Thế giới

nhận định

rằng,

mặc

dù thanhthiếu

niên là

độ

tuổi

thường

được

coi

khoe

mạnh,

nhưng

tỷ lệ

tử vong

vàbệnh tật ở

nhóm

tuổi nàyđược

nhìn

nhận

mức

đáng kể

(WHO,

2018) [97J. Ước

tính

khoảng 1,7

triệu ca tử vong ở thanh thiếu

niên

trong

năm2015

tại Khu

vựcĐông Nam

Á,

trong đó

tự làm hại (tự tử)

làmộttrong

những nguyên

nhângây

tử

vonghàngđầu.

Theo

thơng

tin hiện

có đối

với các

tình

trạng

liên

quan

đến

sức khỏe

tâmthần

về

lo

âu, trầm

cảm và“khơng

có bạn

” do GSHS

thực

hiện

nhiều quốc gia khác nhau

(WHO, 2018) [97],

tỷlệcủa ba tình

trạng

này đượcbáocáolà

cao

nhấtở Maldives (lần

lượt

15,1%, 15,5%

và 8,7%),tiếp

theo là Timor-Leste (11,5%, 14,0% và

4,4%),với

16

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

tỷlệ

trung bình ở

Thái Lan, Ản Độ vàBhutan, vàtỷlệthấp

hơn

ởIndonesia,

Sri Lanka

Nepal. Tỷ

lệ

thấp nhất

được

tìm

thấy

ở Myanmar

(3,9%,8,8%và 3,7%).Tỷ

lệ

nam trênnữchothấy

các

gái vị

thành

niên hầu như

bị ảnhhưởngnhiều

hơn

sovới

các

bé trai.

Tỷ lệ tự tử ước tính

trên100.000

dân số trong độ tuổi

15-29chothấy,

ngoại

trù' Ấn Độ và

Bangladesh, tỷ

lệ

tử

vong liên

quan

đến

tự tứ ở nam thanh niên

cao

hơn

nữgiới.

Tỷ

lệthanh

thiếu niên tự tử

cao

nhất là

ở Ần

Độ, Nepal, Sri

Lanka,

Bhutan

và Myanmar (lần

lượt

35,5;

25,8;

23,7; 15,7 và 15,7

trên100.000

em)

và thấpnhất

ở Maldives và

Indonesia

(lần

lượtlà 4,1 và3,6/100.000em).

Các vấnđề

về sức khỏe

tâm

thần

tình trạng phổ biến ở

hầukhắpquốc

gia

trên

thế giới

cũng

như ở Việt

Nam.

Nghiên cứu

của

Tố

chức

Unicef

Việt Nam(2022)

[7],

giới

trẻ Việt Nam

phải trải

qua những gánh

nặng

đáng kể về rối loạn tâm thần.

Nghiên

cứu về

tỉ lệ

các

vấn

đề sức khoe

tâm

thần

của

trẻ

vị

thành niên ở Việt Nam

cho thấysự

khác nhau. Theo Weiss

và cộngsự đã

thực

hiệnmột nghiêncứu

dịch

tễhọc

về

sứckhỏe tâm thần

đại diện toàn

quốc vào

năm

2014,

trên 1.314

trẻ

em từ 6 đến 16

tuổi

tại 60 địa

điểmởkhắpViệtNam

[19].

Ước

tính rằng

12%dân

số nhóm trẻ em và vị

thành niên (trên

3

triệu người)có

nhu

cầu

về vấn đề

sức khỏe tâm

thần cần dịch vụ

chăm

sóc.Nghiên cứu này

cho thấy

tỉ lệ các

vấn

đề về cảm xúc ở

trẻ

em gái cao hơn so

với

trẻ em

trai

trong khi

tỉ

lệ các

vấnđề

về

hành

vi ở trẻ em

trai

lại cao hơn.

Trong

mộtnghiêncứu

về

phongcáchcủacha

mẹ và các vấn đề sức

khoetâm

thần

của

học sinh

trunghọc

Việt

Nam ởHàNội,

Huế và Thành phố

Hồ Chí

Minh (ThuThuy Thi La,

2020)

[89],

nghiên

cứu

đã

chỉ ra 16,4% trong số

757người

tham gia có

báo

cáo các

vấnđề về

sức khoe

tâm

thần.

Kếtquảcho

thấy

rằng

là trẻ em

gái,đang

học

lớp

12

phụhuynh

bảo

bọc quá

mức

những

yếu tố nguy

cơ dẫn

đến

các vấn đề

tâm

thần.

Mộtnghiên

cứu

trên1.161học sinh

từ 15-19 tuổi

đà

xem xét gánh

nặng củacác

vấn đề sức khoe

tâm

thần

học

sinh

trung

họcở

thành

phốcần

Thơ, Việt

Nam.Tỉ

lệcó

các

triệu chứng

trầm cảmvà

lo âu rõ rệt về

mặt

lâm

sàng

lần lượt

là 41,1% và22,8%

(theo Dat Tan

Nguyen,

2013) [30]. Nghiên

cứu cũngđã

chỉ ra

rằng học sinh nữ

tỉ lệ mắc các triệu

chứng lo âu cao

gấpba

lần so

với

học sinh

nam.

Các nghiên cứuđượctrích dẫn

cho thấy vấn đề sức khoe

tâm thần cùa

học

sinh làmột

thực trạng

đáng

lo

ngại

cả

trên

phạm vi

toàn

cầu

tại Việt

Nam. Ó

độ tuổi

quan

17

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

trọng trong việc học tập

vàhình

thành

tính

cách, các vấn đề về sức khỏe

tâmthầnđã

đang

gây ảnh

hưởng

rất

lớn

đến quá

trình

phát triển

lứa

tuổi

học

sinh.

<b>1.1.3 Nghiên cứu về mối quan hệ giữa miệt thị ngoại hình và các vấn đề hướng nội ở học sinh</b>

Miệtthịngoại

hình hoặc những bình

luậntiêu

cực

về

ngoại

hình

của

ngườikhác thườngđược thực

hiện một cách vơ

thức.

Hành vi miệt

thị

ngoại hình

thế khiến

nạn

nhân ngày càng trở nên bất an,

khơng

hài lịng về chính ngoại hình

củamình,

xu hướng

trở nên

khép

mình, hạn chế

tương

tác

vớingười

khác

trong

mơi trường xungquanh.

Miệt

thị

ngoạihình

ảnh

hưởngrất

nhiều trong độ tuổi

pháttriển

của vị

thành

niên.

Hình

thức miệt

thị

ngoại hình có thể đến dễ dàng từ mơi trường sống xung quanh,

chẳnghạn

như từ bạn

bè,

gia đình

hay

trên

cácnền

tảng mạng

xãhộitrực tuyến.

Trong nghiên

cứu

của nhóm tác giả Alexandra

A.Brewis

và Meg Bruening

(2018)

[8], có 1.443

khách

thế là

sinh

viên năm nhất tham gia

nghiêncứu. Kết

quả

chothấy, phụ

nừ

vừa

là nạn

nhân

của miệt

thịngoạihình,

vừa

lànhóm

dễ bị tổn thương

vàcó các

triệu chứng trâm

cảm,lo

âu

cao

hơn

so vớinam

giới. Nghiên

cứu cũng

chỉ

ra,môi

liênhệ giữa

việc

thừa cân,

béo phìvà

trầm

cảm

ở phụ nữ cao hơn so

với

nam giới. Ớ cả 2

giới được

xác định lâm

sàngrăng

đơi

tượngbéophì,

thừa

cân

nguy

trâmcảm cao

hơn40%.

Một lý do

chínhđược

đặt ra là trọng

lượngcơ

thê

cao, của

trẻ em

vị

thành

niên bị xã

hội kỳ

thị, và dẫn đến việc họ

phải tiếp

xúc với nhiều hình

thức

phân

biệtđối xử

và ngược đãi

liênquan đến

cân nặng

(chẳng

hạn như

bịtrêuchọcvà

bắt

nạt). Những điều

này có thế xuất

hiện

ngay từ

khihọc

mẫu

giáo.Việc

phải

trải

nghiệm nhừng

điều này,

xuhướngthúc đẩycảm giác

vơ giá trị và do đó

dẫnđến

tổn thương

tâm lý

dưới

các

hình

thức liên

quan đến trầm cảm hoặc

lo

âu xã

hội

ngày càng trầm trọng.

Trong nghiên

cứu cùa

Daye và cộng

sự (2014)[20],một người

bị những

người

xung

quanh

chỉ

trích,

miệt thị về hình dáng cơ thế, khiến

nạn

nhân có

xu hướng nghĩ ràng

mình

khơngđáp

ứng

được

các

tiêu

chí

vềcáiđẹp,

hay đạt

tiêuchuẩn

hình

mẫu

cùaxã hội, điều

này

có thể

dẫn

đến những cảm xúc, nhìn nhận tiêu cực,

sự

tự

ti

và từ chối

tương

tác giữa các cá nhân trong xã hội.

Điềunày đượcủng

hộ trong một

nghiên

cứukhác của Alexandra A. Brewis

vàcộng sựvàonăm 2018

[8],

khi nghiêncứuđược thực

hiện

nhằm làm

rõ bối

cảnhxã

hội phương Tây có nhừng

chuẩnmực

phi thực

tế

về ngoại

hình,

nhừng

cảm xúc tiêucực

sự xấuhổ vềcơ

thể

của

chính

mìnhđược bốicảnh

hóa

18

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

bằng những

lời miệt

thị,

trêu

chọc về ngoại

hình;

khiến cho

nạnnhân

có cảm

giác

vơvọng,

giá

trị,

muốn

trốn

khỏi

ngườikhác

hoặc thu

mìnhlại. vềmặtlý

thuyết

thực

nghiệm, đâyđược

xác

định

là yếu tố

dựbáo cơ

bản

của

bệnh trầm

cảm

nói riêng

vàcác

vấn

đề

liên

quan tới

sức

khoẻ tâm thần nói

chung.

Cụ

thế, những mơi trường có xu

hướng kỳ

thị người

béo

hoặc thừa

cân

như ở Hoa

Kỳ và

các quốc gia

cơngnghiệphóa

khác, có

xu hướnglàmtrầmtrọng

hóa

hơnvề

ngoại hình. Một

ngườikhơng đápứng đượccác chuẩn

mực

hội

bao

gồm cả những

gìđược

coi là

chấp nhận được,

là điều

đáng xấu hổ vàdo

đó có thể

góp phần

gây ra

tâm

trạng

chán

nản

ởnạn

nhân bị miệt thị. xấu

hổ là

một cảm xúc mạnh mẽ, đau

khốđặc

biệt

đau

đớn và

khi được nội tâmhóa,hồntồn

có thể là một cảm xúc có

khả nănggây

trầm cảm.

Trong

nghiên

cứu

của

Kelsey Sick

cộng

sự(2020)[781,miệt

thị ngoại hình

một nhân tố

chính

gây ra những vấn

đề

về

tâm

lý, khiến

nạnnhâncảm

thấy bất

mãn,

tự

ti, xấu

hồ về

hình ảnh

cơ thể

củachính mình.

Nghiên

cứu

đã

xác địnhrằng

những

cảm

xúc, trải

nghiệm xấu

hổ liên

quan

đến ngoại

hìnhgóp

phần đáng kể vào

sự

gia tăng của

các

triệu chứng

trầm

cảm. Nghiên cứu này đã xem xét mối

quan hệ

chéo giữa miệt

thị

ngoại hình và các triệu chứng

trầm cảm

giữa

phụ nữ

nam

giới.

Dữliệu

từ

một

mẫugồm

520người

trưởng thành (42,3

%phụnữ;57,7%nam

giới) chỉ ra rằng,

cảm

giác

xấuhốbởi

miệt

thị

ngoại hình có liên quan

đáng

kể

với

tần suất

củacác

triệu chứngtrầm

cảm.

Trong một

nghiêncứu

khác

củaRahul và cộng

sự

(2022)

[9],

miệt

thị ngoại hìnhcó thể

dẫn đến

rối loạn ăn

uống, trầm

cảm, lo âu, lòng tự trọng thấp và mặc

cảmngoại

hình .. .Trong

sốđó,thanh

thiếu

niênbị

miệt

thịngoại

hình

cókhả

năng

bị

trầm cảm

cao

hơn,

kết quả có thể

dẫnđến lịng

tự trọng thấp,

chất lượng

cuộc sống

giảm sút,

căng

thăngtâm lý

nguycơ

tự

làm

hại bản

thân và

tự tử

caohơn.

Trong

nghiên

cứu của Jean

M.Lamont(2015)

[45]

về

ảnh

hưởng của

miệt thịngoại

hình

tới phụ nữ,

nghiên

cứu chỉ ra ràng, những

phụ nữ

bị chỉ trích và miệt thị

về

ngoại hình có biếu hiện

giảm

sức

khỏe,

gia

tăng cácbệnh

nhiễm trùng, tự xấu hố về

hình

thể bắt

đầu

từ độ tuổi vị thành niên. Nghiên

cứucủa

tác

giả, chothấy

rằng nhừng người

lànạn nhân của

miệt

thịngoại hình, họ

ngày càng ít quan

tâm đến

các tín hiệu tự nhiêncủa cơ thể mình,

chẳng hạnnhư cơn đói”.

Điều này có

nghĩa

họ

coi trọng sức

khỏe

của

họ íthơn vàdẫn

tới việc kết

quả

sức khỏe ngày một kém hon,

nghĩa

là họ

bịtác

19

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

động

ảnhhường

nhiêu

hơn,

tự đánh giá

kém khỏe mạnh hơn và

trảiqua

nhiêu

triệu chứng,

cụ thể là:

Ảnh

hưởng đến

sức

khoẻ tâm thần

:

miệt

thị ngoại hình có thể

gây

ra rốiloạn ăn

uống,

trầm cảm, lo

âu

Ánhhưởng

về

mặttâm lý:nạn nhân của miệt thị

ngoại hình có thế

bị

ám

ảnh bởi

lời nói

của

những kẻ chỉ trích,

họtrở

nên

thiếu

tự tin,

rụt rèvới

xãhội.

bản thân họ tự biến mình trờ thành những con

người

bắt buộc phải

theo

những

khuôn

mẫu

chuẩnmựccùaxãhội

về cái

đẹp.

Nghiên

cứucủa

Natasya

Dwina Sukoco

và cộng

sự(2022)[29], hành

vi miệt

thị

ngoại

hình

có thể

gây racho nạnnhân

những vấn đề

hướng

nội

như:

cảm

giác xấu hổ,

áp lực, tự

đánh

giá

hìnhảnh bản

thân

thấp,

cãng

thẳng,

tuyệt vọng. Một

sốngườitrải qua việc

bị miệt thị ngoại

hình,gần

như

khơng

thể làm

gìđể

phản

kháng và chủ

độngim lặng, giữ

kín cho

riêng mình, có xu

hướng

đầu hàng những

gìmình nhậnđược

từ

sự

miệt

thịbởingười

khác. Điều này

sẽlàmnảy sinh

quan niệm, nhận thức

tiêucựcvề

bản

thân,

tự

đổ lỗicho

bản thân và gây ra cảm giác bất an, căng

thẳngcho

chính

cánhân về

ngoại hình

của

mình.

Kết

quả này

cũng tương đồng với

một

nghiên

cứu khác

của

Roberts

Goldenberg

(2007)

[88], khi chỉ ra

nạnnhâncủa

miệt thị ngoại hình, có xu

hướng nảy

sinh nhừng vấn đề về

cảm

xúc

nhưđau

khố, lo

lắng, vì

sợ

bị

từ

chối, bị

cô lập, tách

biệthoặc khôngđược

chấp nhận trong môi trường tập thế,

xãhội.

Trong

một nghiên cứu của

Nasution và

Simanjuntak (2020)

[35],

thựchiện trên

242

khách

thể,

60

sinh

viên

(24,8%)phảnhồimình

từng

trải

qua miệt thị

ngoạihình,

trong đó có 37

khách

thể

(61,7%)phảnhồi mình

từng

trảiqua

miệt

thị

ngoại

hìnhở

mức

độ caodẫn

đến việc

mất

tự tin về bản

thân. Dữ

liệu

củanghiên

cứu chỉ ra

nạn

nhân

của

miệt

thị

ngoại hình, có xu

hướng

đánh giá thấp

về

ngoại hình của

chínhmình. Điều

nàylà do nạn nhân

trảiquamức

độ

miệtthị

ngoại

hình

càng

nhiều

thì tác

động

nạn

nhân

phải

trải

qua

càng cao,

do

đó

nạn

nhân đánh giá

ngoại

hình

của

chính mình

càng thấp,

gây ra tác

động

ảnh

hưởng

tới cảm

xúc

hìnhthành

những suy

nghĩ tiêu

cực

Trong

quá

trình tổng quan

tài

liệu,

nghiên

cứu viên

xem

xét mối

liên

hệ

vàsự tươngđồng

giữa ảnh

hưởng

của

miệtthị

ngoại hình và

trêu

chọc ngoại hình tới

các vấn

đề

hướng nội,nghiên

cứu

củaHilary

Weingardena và

cộng

sự

(2015)[42],

đã xem xét

việcbị trêu

chọc ngoại hình

vai trị gì trong nguy

cơlàm

suy giảm

chức

năng

vàlàm

20

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

tăng

các

triệu chứng trầm cảm.

Kếtquả

từ khảo sát

435

sinh

viên

đại

học

từ Đại họcGeorge

Mason,

Hoa

kỳ đã

chỉ ra

việc trêu

chọc

dựatrên

ngoại

hình

liên

quan rõ rệt

vớitình

trạng trầm

cảmnặnghơn

trong những sinh viên

đượckhảo sát. Tình

trạng trầmtrọng

hơncùacác

chứng

suy

giảm

chức năngvà

trầm cảm

được nhậnthấy

nhiều hơn

những sinh viên

mắc

chứng BDD (rối

loạndạng

thế).

Trong

khi

trọng

tâm

cúa

nghiên cứu

này chỉ ra những

ngườimắc

chứng

BDD

bị tác

động

mạnh mè

hơn bởitrêu

chọcngoại

hình,nghiên

cứu

cũng đã

chỉ ra những

thơng

tin mới về

việctrêu

chọc

ngoạihình làmột

yếu tố

rủi

ro

tiềm ẩn

dẫn đến các

sựsuy

giảm

chức

năng

và trầm

cảm.

Theo nghiên

cứu

của Erica Szwime và

cộng

sự

(2020)[36],

về một hình thức cụthể của trêu chọc ngoại hình

trêu chọc

dựa

trên cân

nặng, hànhđộng

trêu

chọcnàycó liênquan đáng kế

đến

các

triệu chứng trầm cảm trong cả

ngắnhạn

và dài hạn.

Nghiên

cứu chỉ ra rằng, những lời trêu chọc đến từ gia

đìnhvàbạn

đồng

trang lứa tác động

đến

trẻ em gái

nhiềuhơn

so

với

trẻ em

trai, vàđềuđóng

vai

trị đáng kể trong việc

giatăng

các

triệu chứng trầm cảm ở cả hai giới.

Trêu

chọc về

cân

nặng

sẽ

mang hàm ý

rằng

kích

thước,

hình dáng

ngoại hình của

người bị trêuchọc

đi

chệch khỏi

các

chuẩn

mựcđược

hội

chấp nhận,và sựphânbiệtnàyđóng

vai trị là tác

nhân

gây

ra

trầm

cảm ở

những thanh thiếu niên

đó. Các

triệu chứng trầm

cảmtrong

thời niên

thiếucó

thể

đặc biệt

có hại vì mong

muốn đượcxã

hội

chấpnhậncủa

những

thanh

thiếu niên

nàyvà

gây

áp lực

to lớn cho

các em

khi

phải tuân

theo

các

chuẩnmực

hội

về

sự

hấp

dẫn.Đặc biệt,

những thanh

thiếuniên

thừa

cânthườngxuyên

bị

trêu

chọc về cân

nặng

hơn nhữngđứa trẻ có

cânnặng

bình

thường,

điều

này

có thể ảnh

hưởng

nghiêm

trọngđến

sức

khỏe tâmlýcủa

các em. Trẻ thừa cân

hoặc

béo

phìđã

có tỷ lệ mắc các

triệu

chứng trầm

cảm cao

hơn và nghiên cứu

củanhóm

tác giả

đãtìm

thấy

mối

liên

hệ

chặt chể

giữa trải nghiệmbị

trêu chọc và các triệu chứng

trầmcảm

so

với

trẻ có

cânnặng

bình thường.

Những

phát hiện

của đề

tài còn

chothấyrằng

ngay cả khi

tình

trạng

trêu

chọc

khơng

xảy ra thường

xun

cóxuất

phát từ nhiều

nguồn

như

nhiềuthành

viên gia đình vàbạn

bè,đứatrẻbị

trêu chọc sẽ có

nhiềunguycơ gặp

phải các triệu chứng trầm

cảmhơn.

Nghiên cứu nhận đinh

rằngkhông phải số lượng

những

lời

trêu chọc mà là số

lượngcác nguồntrêu

chọc có

mối liên

hệ mật thiết hơn

vớicác

triệu chứng trầm cảm.

Trong

nghiêncứu

của Christy

Greenleaf

cộngsự (2012)[66],_cho thấy

kết quả

có ý nghĩa

về

mốiquan

hệ giữa

trêu

chọc ngoại hình

về

cân

nặng với

sức

khoẻ

tâm lý

21

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

của thanh

thiêu

niên. Nghiên cứu

thực hiện

trên 1419

học

sinh vị thành

niên

tại

khu

ngoại thành tiếu

bang

phía nam

cùanước

Mỹ, trong đó có

đến

245

học

sinh (17%) báocáo

họbịtrêu

chọc

ngoạihìnhbởi

tình trạng thừa cân

củamình.Cụ

thể,

dựatrênphản hồicủa

các

khách

thể

nghiên

cứu

chothấy

kết quả, những

học

sinh vị thành niên bị

trêu

chọc

ngoại

hình về

cân

nặng có mức độ sức

khoẻ

tâm lý kém

hơn,lịng

tự

trọngthấp

hơn và có

mức

độ

của

các

triệu

chứng trầm

cảm caohơn

so

với

nhóm

khơng

bị

trêuchọc

ngoại hình.

Nhómđối tượngbị trêu

chọc cũng cho thấy xu

hướng

gia tăng

nguycơ

mắcmột

số

vấn

đề

nghiêm

trọngnhư giảmkhả năng

tự nhận thức về thể

chất và năng

lựccủa

bảnthân,

xuất

hiện

các

hành

vi gây hại

cho

sức

khoẻ

như

sử

dụng chất kích thích, ý

tưởng

tự sát,

cảm

xúc

tiêucựcvề

hình ảnh bản

thân,

tự đánh giá

mình kém cởi

hơn

nhóm đối tượngkhơng

bị

trêu

chọc ngoại hình.

Theo

nghiên

cứu

của

Emanuele Maria Merlo và

cộngsự (2018) L32J,nhằm

tìm

mối

liên hệ giữa

các

dấu

hiệu của

trầm cảm

với

trêu chọc ngoại hình

vàlịng

tự

trọng

của nhóm

đốitượngnữ

độ

tuối vị

thành niên

trong

khoảng từ 12 đến 18 tuối. Từ kết quả

nghiên cứucho

thấy, nhóm đối

tượng bị trêu

chọc ngoại hình có

xu hướng dễ gặp các vấn

đề tâm lý nghiêm trọng

hơn,

cụ thề

là cáctriệu

chứng

của

trầm

cảm

sự khơng

hàilịng về

thể. Nhóm

đối tượng này

dễ bị gạt ra ngoài lề xã

hội,cảm

giác

bị

tách

biệt,

lập,đặc

biệt

làvềmối

quan hệ

tình

bạn hoặc việc tham gia

các

hoạt động thế

thao,

họthường

là mục

tiêu

của

sự

trêu chọc và đánh giá tiêu

cực bởi thanhthiếu niên

cân nặng

bình thường.

Vìlý

do này, sự cơ lập với các mối quan

hệ

xung quanh,

với

hội không

chỉ củng cố trạng thái

cảm

xúc

tiêu cực,

hay

sự

bất

mãn

về

thề mà còn củngcố những

hậu

quả về mặt

sứckhoẻtâm lý

như

mất

tinh thần

xuất hiện các

hành

vi

bốcđồng,

thiếu tự

chủ,

ý

định tự tử trong nhừng trường hợp cực

đoan.

Nhìn

chung, có rất

nhiềunghiêncứu

khác

cũngđã

chỉ ra

rằng

trêu

chọc

ngoại

hình,

rộnghơnlàmiệtthị

ngoại

hình,

mốiliênhệtiêucựcvới

các chỉ

số

sức

khỏe

tâm thần

của họcsinh

trung

học

phổ

thông,

bao gồm trầm cảm, lo âu,

dẫn đến

các vấnđề

như

tự đánh giá

tiêucực

về

hình

ảnh

của bảnthân,cảmgiác

xấu

hổ,lịng

tự

trọng

thấp, cơ

đơn,

tự

ti,nặng

hơn là xa

lánh,

tránh

tiếp

xúc

xãhội

và tự sát...

Tóm lại,miệt thịngoại

hình nói

chung vàtrêu chọc ngoại

hình

nóiriêng

có mối liên

hệmạnh

mẽ

với

các

vấn

đề

hướng nội

trong sức

khỏetâm thần

của

học sinh

trung

học

phổ

thơng. Dođó nghiêncứu

đề tài

nhằm mục

đích xác định mối quan hệ giữa miệt

thị

ngoại hình

vàvấn

22

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

đê

hướngnội,

từ kêt

quảnghiêncứuđêxuâtcácgiảiphápcải

thiện

sức

khoẻ

tâm

thân cho

độ

tuôi

vịthànhniên.

<b>1.1.4 Nghiên cứu về mối quan hệ giữa miệt thị ngoại hình và lịng tự trọng</b>

Nghiến

cứucủa Nur

Melizza và

cộng sự vào

năm 2023

[561,

đã thực hiện

nghiên cứu

để xác

định

mối

quan

hệ giừa miệt thị ngoại hình

vàlịng

tự trọng của

sinh

viên.Nhóm tác giả

cho

rằng, tiêu

chuẩn vẻ đẹplàhình

dáng

thế lý

tưởng của

một

người, cho

dù thuộc

giớitínhhayở

bất kế độ

tuốinào,miệt

thị ngoại hình thường xảy

ra đối

với những người

khôngtuân

thủ những

tiêuchuẩn

tưởngnày.

Nếu miệt thị ngoại

hình

tiếp tục

duytrì

trong

một

thời gian

dài,nósẽ

ảnh

hưởng

đến

lòng

tự trọng hoặc

sự

tự tincủa

ngườiđó.Nghiêncứusử

dụng

khảo

sát

phântíchvới

phương pháp chéo.

Đốitượng là

535

sinh

viên Khoa

Y

tế

tạiĐại

học Muhammadiyah

Malang,với

mẫu là 143

sinh

viên đã trải qua

miệt

thị ngoại

hình.Dừliệu được thu

thập

thơngqua

một

bảng

câu

hỏi

về

miệt

thị ngoại hình

thang

đo

lịng tự trọng Rosenberg

Self EsteemScale

(RSES)

[58], để đánh giá về

mức

độ tự tin

của

bản thân.

Kết

quả

củanghiêncứu

cho

thấy

nhóm

ngườitương

ứng

vớimức

độ

trảinghiệm miệt thị

ngoại

hìnhở mứcthấp là134

(93,7%),

nhừng

ngườicó

lịng tự

trọngcaolà

141

(98,6%). Kết

quả

củathử

nghiệm Spearman

cho thấy

giá trị p

là 0,000 <a

0,05

với

giá trị hệ số

0,460

và mức

độ tương

quan

đủ mạnh. Kết

quả

nghiêncứuchothấymốitươngquan nghịch

giữa miệt

thị

ngoại

hình

lịng

tựtrọng.

Khi

nạn

nhân càng

gia tăng trải nghiệm

bịmiệt

thì ngoại

hình,thì

lòng tự trọngcủa

bản

thân

sẽcàng

giảm

xuống

ngược

lại..

Nghiên

cứu

của Rita

Narsulvà cộngsự (2020)[71],

chỉ ra

rằng

một

người

nào

đó trải

qua việc

bị

miệt thị ngoại

hình,sè

khiến việc tự

đánh

giá

bản

thân

xu

hướng

trở nên

tồi

tệ, điều

này

có thể ảnh

hưởng

đến sức

khỏe

thể chất

củahọ

khiến

nạnnhân cóxu hướng

cố

gắnglàm

theo những gì

người

khác

nóivềtình trạngcơ

thể

lý tưởng

nên

như

thế nào,

dẫn đến các

hành

vi

ăn

uốngthất thường,cảm

xúc

chán

nản, trầm cảm.

Kết quả

của nghiêncứutrên,được

ùng

hộ

bởi một

nghiên

cứu khác của Aini và

cộng sự (2018)

[15], khi

việc xử

các

trường

hợp

bị miệt thị

ngoại hìnhcó

thế

được

ngăn

chặn

từ

các

cá nhân và

môi

trường

củahọ.Một trong

số

cách

ngăn ngừa

làtăng cường lòng

tự trọng

ởmồi

nhân.Điều

này

giúp

cải thiện

tương tác

hội,

tăng

dần sự

tự

tin

vàgiúp họ

chù

động

hoà

nhập.

23

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Trong một

nghiên

cứu

của

Maulayani

vàcộng sự (2021)

[55],

thực

hiện

trên

75

khách

thể

là họcsinh từng trải

qua miệt thị ngoại hình, tác giả đã thu thập

dừliệu

trênhai thang đo về

sự chấp

nhận

bản thân và

thang đo lòng tự trọng.

Kết

quả

cho

thấy ý

nghĩa

về

mặt

thống

kê,

chỉ ra

cómối

quan hệ cùng chiều giữa

sựchấp

nhận bản thân vàlòng tự trọng của các nạn

nhântừng trảiqua

miệt thị ngoại

hình.Điều này

nghĩa

ràng,

sự

chấp

nhậnbản

thân càng cao

thì

học

sinh

càng có

lịng

tự trọng tốt và

ngược lại.

Nghiên cứu

còn

chỉ ra bằng

cách

chấp

nhậnbảnthân

tốt,

hay

lịng

tự trọng cao,

sẽ

giúp

mộtngười

có khả

năng

tự

đánh

giá,

nhìn

nhận

bản

thân

cao hơn,cho

ngườiđó có làđốitượngbị

nhám tới

haytừnglà

nạn

nhâncủaviệc

bị

miệt

thị ngoại hình.

Ngược lại,nghiên

cứu

cũngcho

thấy kết

quả

khi cá

nhân khơng

thể

chấp

nhận

tốt

bản

thân,

haycó

lịng

tự trọng thấp.

Điều

này có thể khiến cá nhân

cảm

thấy

khơng được

chào đón,

cảmgiác

bất lực,

khơng

khả

năng

làm

những

mình

muốn,vàkhơngđược

chấpnhận trong một

nhóm,cộng đồngvà có

xu

hướng nảysinh

những suy

nghĩ tiêu cực

khác.Một

sốnghiên

cứu khác cũng cho thấy

mối liên hệ

giữa

trêu

chọc ngoại hình và

lịng

tự trọng ở thanh thiếu niên.

Cụthể,

trong

nghiêncứu cùaAmy

M. Lampard vàcộng

sự (2014)

[14], thực hiện

khảo sát với 2793 khách

thề

làhọc

sinh

trung học

cơ sởvà trung

học

phồ

thông đang

theo học tại hai mươi trường tại

Hoa

Kỳ. Nghiên cứu đãchỉ ra mối

liên hệ

giữa

trêu

chọc ngoại

hình

về cân

nặngvới

lịng tự trọng

học sinh.

Sự khơng

hài lịng về

thế, có

cáchànhvi

cố gắng kiếm

soát

cân

nặng,các

triệu chứngcủa trầm

cảm

và lịng tự

trọngthấp

xuất hiện

phổbiến

hơn ở nhóm học

sinh

nữ. Tuynhiên nhóm

học sinhnam

bị

trêu

chọc ngoại

hình

về

cân

nặng

cho

thấy có

mối

liên quanvới

trầm

cảm

lớn

hơn so

với

nhóm

học

sinh nữ.

Theo

nghiên

cứu

của nhómtác

giả Timothy

p.Mottet

Katherines.Thweatt (2009)

[87]

nhàm

xem xét

mốiquan hệ

giữa

trảinghiệm từng bị trêu

chọc

thời

còn

là họcsinh

trung

học

sở,

trung

học phố

thông

với

hai biến

được

chứng

minh là

ảnh hưởng đếnlịng

tự

trọng vàkhả

năng

học

tập. Có

288

sinh viên đại học

đà

hồn thành

một

cuộc

khảo

sát

bao

gồm các

thước

đo về

mứcđộtrêu

chọc

của

bạn

bè,

lòng tự

trọng

và ảnh

hưởngđốivới

trường học.

sốliệu nghiên

cứu

cho

thấy,

trêu

chọc ngoại hình

về

cân

nặnglà

một trong số nhừng hình

thức

trêu chọc

phổ

biến nhất mà rất

ítngười thốt khỏi

trong những năm

họctrên

trường

lớp.

Loại hình trêu chọc

này được

chứng

minhlà có

tác

động tâm lý

lâu dài hơn so

với

những tổn

thương

gây ra

bởi

sự gây

hấn,

bắt nạt

24

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

tác

động

tới

thể chất.

Cụ

thế là

gây

ra những

nhậnthứctiêu

cực,

khiến

nạn

nhâncảm thấyxấuhổ, Kết

quả

nghiêncứuchothấy,

mối

tương

quan thấp nhưng

cóý

nghĩa

thống

kê giữa việc

trêuchọc bạn

bè với lòng tự trọng.

Trong

nghiên

cứu

của Janet

H. Sent'

PhDvà cộngsự (2009)

[69], nhằm

làm

rõtác

động

của các yếu tố

liênquanđến lòng

tự trọng.

Khách

thề

nghiêncứu

gồm

656nữ

sinh trong khoảng từ tiểu

học đếnlớp trung học cơ sở,cụ

thể từ

lớp 4

đến

lớp8

tại

13

trường

ở Hoa

Kỳ. Khảo

baogồm 103

câu

hỏiđánh

giá lịng tự trọng, ngoại

hình,ảnh hưởng cùa

những

thay đổi

về cơ thể,

tâm

trạng chán nản,

trêu

chọc, kết

quảhọc

tập vàcác

yếu tố

khác. Ngoài ra,

chiều

cao

vàcân nặngcủa ngườitham

gia cũng

được đo.

Kết quả

cho

thấy,

yếu

tố

liênquan,dự

đoán quan trọng nhất về

lịng

tự trọng chính

biến

trêu

chọc

ngoại hình

liên quan

tới

cân

nặng.

Tóm

lại,

kết quả

của nghiên cứu

nàychỉ ra

rằng bản

thân trọng

lượng

cơ thể

khơng

ảnh

hưởng đếnlịng

tự

trọng

cùa

các

nhóm

học sinh

nữ. Thay vào

đó,

việc

bị

bạn

trêu chọc về trọng

lượng

cơ thế, cân nặng củahọ có

liên quan

đến lòng tự trọng tiêu cực, ngay cả

những

học

sinh

nữ cho biết ràng việc

trêu chọc như

vậykhơngảnh hưởng đến cảm

nhận

của mình

về bản

thân.

Nghiên

cứu nhấn

mạnh tác

động

mạnh mẽ

củaviệctrêu

chọc về

cân

nặng

đối

với

lịng

tự trọngcủa nhóm

học

sinh nừ.

Nhìn chung, đã có

nhiều nghiên cứu trên

thế giới

cho thấy

mối

quan

hệ

giữamiệt

thị ngoạihìnhhay

trêu chọc ngoại hình

với lịng

tự trọng ở

họcsinh

trong độ tuối

vịthànhniến,

và xem xét

lòng

tự trọng như một

yếu

tố

ảnh hưởngtới

miệt thị,

trêuchọc

ngoại hình.

<b>1.2 Co’ sở lý luận/ các lý thuyêt liên quan</b>

<b>1.2.1.1 Khái niệm về miệt thị ngoại hình</b>

Theo

định

nghĩa

Từ điển

tiếng

Anh Oxford, miệt thị ngoại hình là

“hànhđộng đưa

ra những

lời

bình

luận

tiêu

cực vềhình

dạng và

kích thước

cơ thể của

người

khác.

Theo

cách

hiểu này, miệt thị ngoại hình là một hình

thức

bắt nạt

nhàm

vào ngoại hìnhcủa

nạn

nhân.

Hình

ảnh cơ thể hay

ngoại

hình

một chủ đề đặc biệt nhạy

cảm

đối

với

tất cả mọi

người,

dù già

hay

trẻ. Ngoại

hình

có thể đề cập

đến

trọng

lượng,

hình dáng,

kích

cỡ,

phong

cách, lựa chọn quần áo, kiểu

tóc,

trang

điểm

(trang điểm quá

nhiều,trang điểmq

ít). Bản

thân

miệt

thị

ngoại

hình

đề cập

đến

một hình

thức

chỉ trích

hoặc nhận

25

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

xét về thế chất

của người

khác theo

nghĩa tiêucực,dùng

những

lời lẽxúcphạmhoặc

chế

giễu nhắmđến

hình

dạng

cơ thể của

người

khác.

Nhữngnghiên

cứu

khác đãđịnhnghĩa

miệt

thị

ngoại hình theo những

khíacạnh

riêng.

Theođịnhnghĩacủa

Milla Evelianti

và cộngsự(2020) [531,thuật

ngữ miệt thịngoại

hình

chỉ hành

động

chỉ trích

hoặc

chế

nhạo

những

người

ngoại

hình

được cho

làkhông tương

xứng

vớitiêu chuẩn chung của xãhội.

Đây

làhànhđộngđưa

ra nhừng

lời

nhận xét tiêu cực về ngoại hình của

người

khác

vàthường được

thực

hiện một

cách

vô thức bởi

những

ngườiđưa

ra những bình luận

đó.

mộtnghiên cứu khác

tạiIndonesia của Saifudin và

cộng sự(2022)

[59],

nhóm

nghiên

cứugộpchung

ba

khái niệm miệtthị

ngoại hình, miệt thị cân nặng

vàsự

quấy rối

dựa

trên ngoại hình

tả chúnglà

những hành

động

chế giễu hoặc xúc

phạm ngườikhác

dựa

trên

ngoại

hình

của

họ. Bêncạnh

định

nghĩa

này,

Agarwal

T và cộng sự

(2018)

[83], đã chỉ ra

trongnghiên cứucủamìnhrằngthái

độ

tiêucực đối với

hình

ảnhcơ

thế

chínhlà

miệt thị ngoại hình.

Miệt thịngoạihình

có thế

đượcmơ

tả

biểu hiện hoặc hành

độngkhông

phù hợp và

tiêucựcđối với

ngoại hình

củabản thânhoặcngười khác.

Theo

nghiêncứu

tống

hợpcủa Constanze Schluter và

cộng

sự(2021)

[21], nhàmđưa

ra

định

nghĩa của miệt

thị ngoại hình ở một

mức

độ tống

qt,

nhóm tác giả định

nghĩa

miệt

thị

ngoại

hình

là một hành

động cótínhkhơng

lặp lại

của

một

người bày tỏ ý

kiến

hoặc

nhận xét

tiêu

cực một cách tự

phát

về

thể của

người khác

(ví

dụ:

kích

thước,

hình

dạng,

cân

nặng,

các

bộ phậncơ

thể,

vẻ

bề ngoài

của

cơ thể, tay

chân, V.V.),

trong

khi

những bình luận này

là không

mong muốn

đốivới

những

người

bị đem

ra bình

luận. Người

đưa

ra những

bìnhluận

đó

khơngnhất

thiết

ý đồ tiêu cực, nhưng

đối tượngnhận

những

lời

nhận xét đó cảm thấy

đó

là những

bìnhluậntiêucực,

xúc phạmhoặc gây

xấu

hổ

cho họ.Dođó,miệt

thị ngoại hình

thể bao

gồm

cả những lời

khun

mang

hàmý tốtchođến

nhừng lời

lăng

mạ

ác

ý.

Một

chi tiết

đánglưu ý được

nhóm tác giả nhận định rằng, miệt

thị

ngoại hình

khơng

phải là hành

động

tự hướng vào bản thân (Constanze Schluter,

2021)

[21]. Mặc

một

người

có thể tự

đưara

những lời

nhận

xét

tiêu cực vềbản

thân mình,

nhóm nghiên

cứu

khơng

coi

đây

miệt

thị ngoại hình mà thay vào đó nhận định

hiệntượng này là sựxấu hồ

về

thể

(body shame).

Nghiên

cứu

của Gilbert

cũngđã

ủng hộ nhậnđịnh

này

khi chỉ ra sự

xấu

hổ về

ngoại

hình

làhiệntượng

một

ngườikhơngcho

rằng cơ

26

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

thể

của

họ là

hấp dẫn

hoặc

khơng

đánh giá

tích cực

về

thể

củahọ, và

coi

thể của

mìnhlà nguồn

gốc

củasự

xấu hơ

của bảnthân.

Đây

được

nhìn

nhận

một

hình

thức

tựchỉ trích cơ thể thay vì

hànhđộngmiệt

thị ngoại hình.

Những

định

nghĩa

từ những

nghiên

cứu

được tríchdẫn đều cho

thấy

điểmtương

đồng ở việc

nhận

định

rằng

miệt

thị

ngoại hình là những lời bình luận tiêu

cực

về

đặc

điểm

thể

của người

khác. Trong

đó,

nghiên

cứu

tổng

quát củaConstanze Schluter

vàcộng

sự(2021)

[21],

được

nhận định là đã

đưa

ra

khái niệm

chi tiết

tổng quát nhất

về

miệt thị ngoại

hìnhkhi nêu

chi tiết

vềcác

khía

cạnh

của hành

độngnàyở tínhkhơng

lặp

lại,tính

tự

phát

và sự

phân biệt

giữa miệt thị

ngoại

hình

<i>(body shaming)</i>

xấu hổvề

cơ thể

(body shame).

Theo

đó,địnhnghĩanàyđược đề

tài lựa chọn sử

dụngvà

làm

sở

nghiên cứu

ở những phần

tiếp

theo.

<b>1.2.1.2 Các hình thức của miệt thị ngoại hình</b>

Như

đã chỉ ra

phần khái niệm, miệt thị

ngoại hình là

hành

động

hoặc

hành

vikhi

một ngườikhác

chỉ

trích,

phê

bình,

chê bai, hoặc

đánh

giá

xấu

về ngoại hình củamột

người

khác.

Điều

này có thể bao gồm nhiều

hình thức

khác

nhau, baogồm

miệt thivề

cân

nặng,

chiều cao,

màu

da,

dáng vóc,

kiếu

tóc,

mặt mũi,

các

đặc

điếmngoạihình

khác.

Các

hình thức

của miệtthị

ngoại hình có thể

xảy

ra trong

nhiều tình huống

khácnhau,

bao

gồm trong bối

cảnh

gia đình, trường

học,nơilàm việc

điến

hình là

trêncác

phương

tiện

truyền

thơng

hội.

Miệt

thị ngoại hình có nhiều hình thứckhác

nhau,

trong đó phố

biến baogồm:•

Body shaming

(miệt

thị

về

vẻ bề

ngồi):

đây

làhìnhthức phố

biến nhất của

miệt thị

ngoại

hình, khi mà một

người

khác

phêbình,

chỉ trích,

hoặc châmbiếm

về ngoại hình.

Fat shaming

(miệt

thị về

cân nặng):

đây là hình

thứcphổ

biến

của

miệt thị

ngoại

hình, trong đó

người

khác chỉ

trích,

châm biếm, hoặc phê bình về

tình

trạng

thừa

cân vàbéophì.

Skinny shaming

(miệt

thị về vóc dáng gầy):

đây là

hình thức miệt

thị

trong đóngười khác chỉ

trích,

châm biếm,

hoặcphê

bình về

sự

gầy gị

hay vóc

dáng gầy.

• Heightshaming (miệtthịvềchiềucao):đây

là hình thức miệt thị

trongđó

người

khác chỉ

trích, châm

biếm, hoặc

phê

bình về chiều

cao.27

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Hair

shaming (miệt

thị về tóc, lơng cơ thể):

đây

hình

thức miệt thị trong đó

người

khác chỉ

trích, châm

biếm, hoặc phê

bình

về kiểu tóc,

sự

xuất

hiện

củalơng

trêncác

bộ phận

thể.

Skin tone shaming

(miệt

thị về màu da):

đây

là hỉnh

thứcmiệt

thị trong

đó người

khác chỉ

trích,

châm biếm, hoặc

phê

bình về màu da

củangười

khác.

Trên

đây

là những hình thức phố biến

của

miệt

thịngoại

hình, trong

đó

tất

cả đều

có thể gây ra những tác

độngtiêu cựcđến

tâm lý,

cảm

xúc, thề

chất

và sức

khoẻ

của người bị

miệt thị.

<b>1.2.1.3 Khái niệm về trêu chọc ngoại hình</b>

Trêu chọc về ngoại

hình

một

hiện

tượng phô

biến mà một số

lượnglớn

cá nhântiếp

xúc

trong

thời

thơ

ấu

thanh

thiếu niên. Trong

nghiêncứuxuấtbản năm 1995, Cash

định

nghĩatrêu

chọc ngoại hình là

một

loại

tương

tác

xãhội

dưới hình

thức

sự

phản

hồitiêu cực

về các đặc

điểmngoại

hình

của

một người [84]. Hành

động

này

thường

xảy

ra

dưới hình thức quấy rối và

khiêu khích bằng

lời

nói,

từ

việcgọinạn

nhân

bằng

những

cái

tên hoặc

biệt

danh

cho

đến những

lời

nhận xét

ác

ý.

Sự phản hồi

liên

quan đến ngoại hinh

dướidạngnhận

xét

tiêucực

về

vẻ bề

ngồilà một

hìnhthức

quấy rối bằng lời

nóiphổ

biến trong trường

học. Cụ

thể, những

bình luậntiêucựcnày

thường

đượcnghiêncứu

dưới tên

trêu chọc ngoại hình,

đượcCarlos

A. Almenara và cộng

sự (2014) [65],

định

nghĩalà

một hành

động

bình

luận

khiêu

khích

chùý

về

mộtđặcđiểm

ngoại

hình

của

đốitượng

bị

trêuchọc, mang

tính hài hước và

tính ác

ý.

Cụ

thể tính hài

hước, bơng

đùa về ngoại hình

định

nghĩa

này có thể

được ví dụ bằng

việc

trêuchọc,

tán

gẫu

để đơn thuần tạo

ra

tiếng

cười

hay

làm

tăng

sựvui

vẻ đểkết

nốimọingườivới

nhau

trong

giao

tiếpxãhội.

Mặt

khác,

sự

ác

ý hoặc

hung

tínhđược thể hiện khi những

lời

nhận xét về

ngoại

hình

này

mang

tínhkhiêukhíchhoặc

cómục

đích

nhằm

gâyra sựkhó

chịu

đau khổ cho

đối tượng

bị

trêu

chọc. Vì thế, hànhvi

trêu

chọc có thể

được

biếu hiện dưới khía

cạnhtích

cực

vàtiêu cực

tùy vào kết quảcủa những

sự

trêu

chọc

đó

gây

ra.

Qua các

nghiêncứuđược trích

dẫn, khái

niệm cùa

trêu chọc ngoại hình có điếm

tương

đồng với

miệt

thị ngoại hình

việc cả hai đều

những hành

động

bình

luận,

phảnhồi tiêu cực có

tính ác

ý về ngoại hình

của người

khác.

Nghiên

cứu tổng quát về

miệt

28

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

thị ngoại hinh

đã được

nhăc

đêncủa

Constanze

Schlutervà

cộng

sự (2021)

[21],

cũng

đồng tình với nhận định

này khi

chỉ ra điểm

tương đồng

giữa

hành

vi miệt thị ngoại

hình vớihànhvitrêuchọcngoại

hình, biểu hiện ở

phản

hồi

tiêu

cực về

các

đặc điểm thể

chất củamột

nhân (ví dụ:cân

nặng, đặc

điểm khn

mặt hoặc

tóc).

Tuy nhiên,

theo

định nghĩacủa Carlos

A. Almenara và

cộngsự(2014)

[65],

trêu

chọc ngoại

hình

ngồi

sắc thái tiêucực cịncó

thể mang

sắc thái tích

cực và

lành tính ở

khả

năng

tạo

khơng

khí

vuivẻ

thơng

quasự

hài

hướcvà bơngđùa.Theođó,

định nghĩanày có

sự

bao

hàm

rộng

hơn về khíacạnh

so với định

nghĩa

của Cash

đưa

ra vào

năm

1995 [84].

Bên

cạnhđó,ngồi

việc chỉ ra sự

tươngđồng

giữa miệt

thịngoại

hình

và trêu

chọc

ngoại

hình, nghiên cứu của

Constanze

Schliiter và

cộngsự (2021)

[21],

đã

chỉ

ra

những

sự

khác biệt nhất

định

giữa hai

khái

niệm

này.

Trong

khikhái niệm

miệt thị ngoạihình

là hành độngnhận

xét tiêu

cực

về các thuộc tính vật lý

của

một

người

khác,

thìtrêu

chọc ngoại hình lại

xuấtphát

có thể từ những

nhận

xét

tíchcực

từ một

người

bạn

thân

đến những

phản hồi ác ý

từ những

người lạ

hoặc những kẻ bắt nạt. Theo nhận định

này,

miệt

thịngoại hình là

một

hình thức cụ

thể và là một

khía

cạnh bao hàm và

khái quát

rõnét hơn của

trêu chọc

ngoại hình,

khi

khái niệm trêu

chọc

ngoại hình đơn

thuần là

baogồm cả nhừng

nhận

xét

tích

cực

vàtiêu cực, thì

khái niệm miệt

thị ngoạihình

cho

thấy

các nhận xét tiêu cực qua

lời nói và

hành động

một

cách rõ ràng.

Qua

những

nghiến

cứu

được

trích dẫn, trêu chọc ngoại hình là

một

khái

niệm nhở hơn

khái niệm miệt thị ngoại hình. Hay theo cách khác miệt thị ngoại hình

mang

ý

nghĩa

rộng

hơnvà

bao hàm

trêu

chọc ngoại

hình. Dođó, trêu

chọc ngoại

hình

có thể

được

kếtluận

làmột

tập

con và

nằm trong khái

niệm

miệt

thịngoạihình.

29

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b>1.2.1.4 Cơng cụ đánh giá trêu chọc ngoại hình</b>

Trên thế giới có một số cơng

cụ nổi

bật và

phổbiến

dùng để đo

lường

vấn đề trêuchọc ngoại hình giữa

các

nhóm

khách

thể trong độ tuổi

khác

nhau. Mồi cơng cụ được

thiết kế cho

những

mục

đích cụ thể

có giới hạn về

phạm

vi

ứng

dụng trong

thực

tế

nghiên

cứu.

Sau

đây

những công cụ

được sử

dụng

rộngrãi

trong các

nghiêncứutrên

thế giới, để

đo lườngvàđánh

giá về

vấn

đề

trêu

chọc ngoại hình.

<i>• </i>

<i>Thang đo trêu chọc trẻ em và vị thành niên CATS (The Child-Adolescent </i>

<i>Teasing Scale)</i>

Thang

đo trêu

chọc trẻ em-vị

thànhniên

(CATS)

được

phát triển

bởiVessey

vàcộng

sự(2008)thuộcnhóm Dự

án CATS

để đolường hành

vi

trêuchọccủa trẻ

em trung

học

sởtại

Hoa

Kỳ

từ

11-14

tuối

hồn

cảnh

xuất

thân

khác

[91]. Mụcđích

của

nghiên

cứu nhằm

xác

định những học sinh có

nguy

mắc

các

vấn

đề

tâm

xãhội do bị

trêu chọc

ngoại hình.

Theo

khung

lý thuyết của CATS, tần suất bị trêu chọc

không

chỉ thể

hiệnsựđau

khổ do

bịtrêu

chọc gây ra.

đó

cịnlà

tần suất trêu chọc kết hợp

với

mức độ khó chịu

tươngứng

của việc

bị trêu

chọc. CATS sau đó được phát

triển

vàthử

nghiệmtrên

tổng số 764

học sinh

trung học

cơsở

từ

11-15tuồi

ở các

lớp 6,

7 và

8. Phiên bản

cuối

cùngcủa

CATS bao gồm 32 mục

đưa ra điểm số

cho

Thang tần

suất trêu

chọc và Thang mức độ

ảnh hưởng bởitrêu

chọc. Mỗi mục

được

đặt

theo thang điểm

bốn:

1 = Không

bao

giờ,

2

=Đôi khi,

3

=Thường xuyênvà 4=Rất

thường xuyên. Một

loạt hướngdẫnngắngọn hướng

dẫn

người thực

hiện

khoanh

tròn con số

phùhợp

của

bản

thân về

mức

độ bị trêu chọc và

mức

độ

khó

chịu

khi

bị trêu chọc về

đặc

điểm

đó.

CATS tính điểm

cho bốnthangđiểm phụ:

Trêu chọc về

tính

cách và hành

vi(14

mục),Trêu chọc

liên

quan đến trường

học

(9 mục), Trêu chọc gia đình

mơi trường (7 mục)

và Trêu

chọc về cơ thể

của

tôi (2

mục). Độ

tin

cậy

nhất quán

nội

tại

của

CATS

cóalpha

bằng 0,94

đối

với

tổng sốđiểm

CATS; có

alpha

bằng

0,90đối

với Trêu chọc Tính

cách

và Hành vi; có

alpha

bằng

0,83

đối

với

Trêu chọc

Gia

đình

vàMơi

trường; có

alpha

bằng

0,85

đối

với

hành

vitrêuchọc

liên

quan đến

trường

học;

và có

alpha

bằng 0,84

với

FT* _ Ă

xi Ậ_nrơ

Trêu chọc vê

thê của Tơi.

Do đó,tổng

điểm CATS

gồm

32 mục và

bốn thang

đo CATS

đượcđánh

giá

là có độ

tin

cậy

nhất

quánnội

bộ đủ

cao để đượcsửdụng

làm

thangđo

độc lập trong

các

phân

tích nghiên

cứu.

30

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<i>• </i>

<i>Bảng cảu hỏi trêu chọc TQ (Teasing Questionnaire) và bủng câu hỏi trêu </i>

<i>chọc đã được sửa đôi TQ-R (Revised Teasing Questionnaire)</i>

Bảng

câu

hỏi trêu

chọc

(TQ)

được

phát

triển bởi

Roth

và cộngsự(2002) [75J, thang

đo Likert

gồm

20 mục, yêu cầu

người

trưởng thành

(trên

18

tuồi)

nhớ

lạitrải

nghiệm bị

trêuchọc

trong thời thơ ấu.

Roth vàcộngsựđãkiểm

tra

thangđo

TQ

về

các

đặc tínhtâm lý

bằng

cách sử

dụng mẫu gồm

514 sinh

viên đại

học.Theo

Roth

cộng

sự,

trêu chọc là một hình

thức

bắt nạt.

Trêu

chọc

được

định

nghĩa là

trải

nghiệm nhậnđược từ những

lờichế

nhạo

bằng lời nói

về

ngoạihỉnh, tínhcáchhoặc

hành vi

. Thang

đo

TQ kiếm tra mức độ mà

mọingười

nhớ lại

việctịng bịtrêu

chọc về 20 mục khácnhau

ngồi

cân

nặng

các

khía cạnh

khác

về ngoại

hình.

Thang

đonày

cũng

đolường

tần suất

bị

trêu chọc

về các

chù

đềđược nêu

rõ trong

bảnghỏi.

Các

đối tượng

phản

hồi theothang

Likert 5

điểmvới các

câu

trả

lời

nằm

trong

khoảng0=

“Tôi

chưa

bao

giờbị

trêu

chọcvề

điều này,”

1

=

“Tôihiếm

khi

bịtrêuchọc về

điều

này,”

2

=

“Đôi khi tôi bịtrêu chọc về điều này,” 3

=

“Tôi thường bị

trêu

chọc

về điềunày

4

=

“Tôi

luôn

bịtrêu chọc

về

điều này

”.Điểm

của

thang

đo TQ có độ tin cậy

với alpha

bằng

0,84.

Tuy

nhiên

thang

đo

TQ

có những điểm

hạnchế

nhất

định,cụ

thể

thang

đo này

không

đo

lườngphản ứng

hoặc

cảm xúc

cùa

ngườitrảlờikhi

bị trêu chọc ngoại hình.Bảng câu

hởi

trêu chọc

sửa

đổi

(TQ-R)

sau đó

được phát triển

từ Bảng câu

hởitrêu

chọc

(TQ).Bởivì

phân

tích nhân

tố

khámphá

cho ràng TỌ

được

giải

thích

tốt

nhất

là thước

đo

đơn

yếu tố.

Nhóm tác giả

Strawser, Storchvà

Robert!

(2005)

[82], sau đó đã thêm

các

mục mới

vào

TQ đề

phát triểnthànhthước

đo đa

yếutố.

Bảng

câuhởi

trêu chọc sửa

đổi

(TQ-R) ban

đầu được

thiết

kế

dưới

dạng

thang đo Likert gồm 35 mục. Thang đo baogồm 20

mục

như

ban

đầu của

thang

đo TQ, cũng như bổ sung 15 mục mới để tạo

racác

lĩnh

vựctrêu chọcngoại

hình đa

dạng.

Thang đo TQ-R

đượcdùngchomột

mẫu gồm414

sinhviên

đại học để

kiểm

tra cấu

trúc

nhân tố của

nó.Sau

khi

phân

tích nhân

tố,

phiên bản

cuối cùngcủa

thagn đo TQ-R

đãđượcphát

triển.

Phiênbản

này bao

gồm

27

mục.

Mỗi mục được chia

theo

thang

điểm

5:0=“Tôi

chưa

bao giờ bịtrêuchọc

về điềunày,

” 1=“Tôi

hiếm kill bị

trêu

chọc về điều

này,”

2

=

Đôi

khi tôi bị

trêu

chọc

vềđiều này,”

3

=

“Tôi

thườngxuyênbịtrêu

chọc

vềviệc

này,

4=

Tôi

luôn

bị

trêu chọc

về

việc

này

.

Thang đo TQ-R tạo ra điểm

sốcho

năm thang đo

phụ:Yếu tố

Hiệu

suất (3

mục),

Học thuật

(6 mục), Hành

vi xà

hội (7 mục),

Gia đình(3

mục)

Ngoại

hình

(8mục).

Độtin

cậy nhất

quán

nội

bộ

của

thang đo

TQ-R cuối

cùng

alpha

bằng

0,89

cho

31

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

tổng

số

điểm

TQ-R;

alpha

bàng 0,87

với

Hiệu

suất;

có alpha

bằng0,50 đối với

học

thuật;

alphabằng 0,71đốivới

Hành vi

xãhội;

có alpha

bằng

0,59

đối vớiGiađinh;

có alpha bằng

0,80 cho

Ngoại

hình.

<i>• </i>

<i>Thang đo trêu chọc liên quan đến ngoại hình PARTS (The Physical Appearance Related Teasing)</i>

Thang đo trêu

chọc liên

quan

đến

ngoại

hình

PARTS

được phát triển bởi Thompson

và cộng sự

(1991) [90],

để

đánh

giá

hồitưởng

về

trải

nghiệm

bịtrêu

chọc

liên

quanđến

ngoại

hìnhcủaphụ

nữ

saukhi

trường

thành. Thompsonvàcộng sự

đãkiếm

tra

các

bộ

phận

về

đặc tính

tâm

bằng cáchsử

dụng hai

mẫu

sinh

viên

nừ

khác

nhau.

Đexây

dựng

quy mô

ban

đầu,

94

sinh

viên

nữ

đã

được

cấp phiên

bản đầutiên

gồm 30

mục.

Thang

đo

sau đó

đà đượcxácnhận

lại

trên

mẫu

gồm

153

phụ

nữ. Các

mục

được phân

tích

nhân

tố

dẫn đến

thang

đo tự báo cáo gồm

18

mục.

Nóbaogồm

hai thang

đophụ:

đánh giá

ngoại

hình

chungGAT(general

appearance teasing)

vàđánh

giá trọnglưọng/kích

thước

W/ST (weight/size

teasing).

Thang đo trêu chọc

ngoại hình chung

(GAT)

baogồm

sáu mục

đánh

giá

tiềnsử

trêu chọc

liênquan

đến ngoại hình chung,

chẳng

hạn

như

quần áo

và kiểu

tóc. Thang đo trêu

chọc

Trọng lượng/Kích

thước

(W/ST)

bao

gồm 12 mục

đánh

giá

việc trêu

chọc về trọng

lượng và kích thước.Cácđối tượng

trả lời

bằng thang

đo

loại

Likert 5 điểm,

với

các

câutrảlời

nằm trong

khoảng

từ

1 (Khôngbaogiờ)

đến 5

(Thường

xuyên). Điểm

cao

hơn

phản

ánh tần suất

haymức

độ

bị trêu

chọc

nhiềuhơn. Thompsonvà

cộng

sự (1991)

[90], đã

báo cáo ràng thang

đo

PARTS

các

đặc

tính tâmlý tốtbaogồm

tính

nhấtqnbên

trong,

độ

tin

cậy của

bài

kiểm

tra

lại

(n =

47)

và giá

trịhội tụ. Tính

nhất quán bên trong

củathang

đo

phụ

W/STlà 0,91 và độ tin cậy

kiểm tra lạitrong 2

tuần là

0,86.

Tính

nhất

quán

nội

bộ

của

thang

đophụGAT

là 0,71 và độ tin cậy

kiểm

tra lại trong

2

tuần

0,87. W/ST

tương

quan tốt

vớicác thước

đo

vềrối loạnăn

uống, so sánh xã hội, sự

khơng

hài lịng về

cơthể,

trầm

cảm vàlịng

tự trọng, trong

khi

GAT

cho

thấy ít mối quan

hệvới

các biến này.

Mặc

một số

nhà nghiên

cứu

đãsử

dụng PARTS trong

nghiên

cứu của họnhưng

nóđượcphát

hiện có bốn

hạnchếchính

theo

Thompson

cộng sự (1995)

[44].

Một

số

mục trênthang

đo

PARTSkhơng cụ

thể về việc

hình thứctrêu

chọc nhắm đếnkích

thước

cơ thể

lớnhaynhở.

Các

hạng

mục cũng

khơng xác

định

một cách

hệ

thốngxem

ai

đối tượngđangtrêu

chọc

(bạn

bè, mẹ,

cha, V.V.).

Ngoài ra,

thangđo

này cũng

32

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

chưa tồn

diện

vì nó chỉ tập trung vào việc đánh giá tân suât

trêu chọc,

không xem

xét

hay

đo

lường

đến

yếu

tố

ảnhhưởng

về mặt

cảmxúccủangười bị

trêu chọc.

Chính

vìthang

đo PARTS

khơng

có thước đo

nào đánh

giá về tác

động,

mức độảnh

hưởng củaviệc

trêu chọc ngoại

hình.

Thompson

cộng

sự (1995)

[441

đà giải quyết

những vấn

đề

này

và sửa

đổi Thang đo

trêu

chọc

liên quan

đến

ngoại

hình

PARTS,

thành Thang đo nhận

thức

về

trêu

chọc (POTS) sau này.

<i>• Thang đo nhận thức về trêu chọc POTS (The Perception of Teasing Scale).</i>

Thang đo

trêu

chọc liên quan đến

ngoại

hình

PARTSđượcsửa

đổi

đã

dẫn đến

sự phát triển

của Thang đo nhận

thứcvềtrêu

chọc POTS. Thompson

cộng

sự(1995)

[44]đà

kiếm tra

thang

đo

về

các

đặc

tính

tâm lỷ

bằng

cách sử

dụng

nhóm sinh

viên

nữ chưa

tốt

nghiệp làmnhóm chuẩn

mực trong ba nghiên

cứu.

Hai

trong

ba nghiên cứu

nổi

bật bao

gồm,nghiên

cứu

đầutiên

trên 227 sinh

viên

nữ

đã được

cung

cấpmột phiên

bảnban

đầubao

gồm

49

mục. Trong số 49

mục,

13

mục

đề

cập

đến

khả

năng và năng lực,

17 mục đề cập đến

việc

trêu

chọc

liên

quan

đến cân nặng,

14

mục

đề

cập đến

nhừng

lo ngại

về ngoại

hìnhkhơng thuộccân nặng(vídụ:mũi,

mắt,

cánh tay)và

5

mục

đề

cập

đến việc trêu chọc

về

sự

phát

triển thể

chấtsớm.

Những mục này bao gồm những câuhỏi trong

thang

đo PARTS,

cũngnhưcác

câu hỏi mới dựa

trênkhảosátvề trải

nghiệm

trêuchọc

của

sinh

viên đại

học

và dựa trên gợi

ý

từ

cácsinh

viên

tốt

nghiệp, các

nhà tâmlý

trị

liệu

chun mơn

về

hỉnh

ảnh

thể

rối

loạn

ăn

uống (Thompson và

cộng

sự,1995)[44]. Cácnguồntrêu

chọc

được

kiếm

soát bàng cách sửdụng

người

” thay

vì bạnbè,cha

hoặc

mẹ.Cácmục được phân

tích nhân

tố dẫn đến

một cuộc

khảo

sát gồm

11 mục

với

hệ số Cronbach alpha là

0,88

đối

vớithang

đo Trêu chọc liên quan đến cân

nặngWT

(Weight Teasing)

-

6 mục và

0,84

cho

thangđo

Trêu chọc về

Năng

lực

CT

(Competency

Teasing)

- 5 mục. Trong nghiên

cứu

thứ hai,

các

nhà

nghiên

cứu đã kiếm

tra khả năng nhân rộng

của

thước

đo

lịch sử trêu

chọc

đượcsử

dụng

trong

nghiên cứuđầu tiên

bằng cáchsử

dụng mẫu

gồm87 nữ sinh

đại

học.

Nhân khẩu

học tương

tự như

nghiên

cứu đầu tiên.

Hệsốalpha

của

Cronbach

thu

được

lần

lượtlà

0,88

0,75. Kết

quả này

chứng

minhrằng thangđoPOTS

có thể nhân

rộngkhi sửdụngđốivới

các mẫu

nhân

khẩu

họctươngtự.

Thang

đo POTScuối cùng

một

bảng

câuhỏi

tự báo

cáo

gồm 11

mục được sử

dụng để

đánh

giá về

trải

nghiệm

bị trêu

chọc cả về ngoại hình và

khơng

liên quan đến

33

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

ngoại

hình. POTS sử

dụng

thang đo

Likert 5 điểm

(1= không

bao giờ đến 5

=

rất

thường xuyên)

để đo

lườngcác

hành

vitrêu

chọc

và thang

đo Likert 5

điểm(1= khơng khóchịu

đến 5

= rất khóchịu)

để đo

lường

tác

động,

mức độ

ảnh hưởng

của

việctrêu

chọc mà cánhân

báo cáo.Thompsonvà

cộng

sự(1995)

[44]

đãbáo cáo

hệ số Crombach's

alphalà 0,88đốivới thang

đo trêu chọc liên quan

đến

trọng

lượng

(WT)

0,84

đối với

thang

đotrêu

chọc

năng

lực

(CT),cho

thấy

tính

nhất quán nội

bộ cao.Độ

tin cậy cùa thửnghiệm-kiểm

tralạiđược

tìm thấy

đốivới

cả tần

suấttrêu

chọc và

mức

độ ảnh

hưởng

của việc

trêuchọc

đối

với

hai

yểu

tố

nêu

trên.

Độ

tin cậy của

thừ

nghiệm-kiếm

tra

lại

về

mức độ ảnh

hưởng

cúa

WT là0,85 và

tần suất

trêuchọc

của

WTlà

0,90.

Độ

tin cậy

của

thử nghiệm-kiềm

tra

lại

vềmức

độ ảnh

hưởng

của

CT

là 0,66

tàn suất

trêu

chọc

của CTlà

0,82.

Nhìn chung, tất

cảcác

cơng

cụ

đánh giá trêu chọc ngoại hình

nêu trênđều cho

thấy độ tin cậy

cao,nội

dung

phong

phú,

đa

dạng

vàđãđược sử

dụng rộng rài trong

các

đề

tài

nghiên cứu trên thế

giới

trong

nhiều

năm

qua.

Tuy

nhiên,mồi

cơng

cụđềusẽ

cónhững điểm

mạnh

và điểm

hạnchế,

cũng như

tính

ứng dụng vào

nghiêncứuthựctế

trong những

phạm vi

đề tài khác nhau. Trong

đó,

thang

đonhân thức

về trêu chọc

POTS có

bảng

hỏi ngắngọn,

dễ hiếu

và thuận tiện

cho

quá

trình

thực

hiện

nghiên

cứu, cũngnhư phù hợp

với phạm

vi độ

tuổi

mẫu

nghiên cứu

hướng tới.

Chính vì

vậy,chúng

tơi lựa chọn

thang

đo

POTSđểsử

dụng trong đề tài nghiên

cứuvềmốiquan

hệ giữamiệt

thịngoạihìnhvà các

vấn

đềhướngnội

ở học sinh Trung

học phốthơng.

<b>1.2.1.5 Các hình thức trêu chọc ngoại hình</b>

Nghiên

cứu của

Jessie

E.Menzel

cộng

sự

(2010)[43],

xem xét hai hình

thức trêu

chọc

làtrêuchọc liên

quan

đếncân nặng/hình

dáng

vàtrêu

chọc với ngoại hìnhchung/khơng liên

quan đến

cân nặng. Một cuộc

khảo

sát về

sự trêu

chọc trong

thờiniên thiếuchothấykhoảng

36% sự trêu chọc có

liênquanđến

cân

nặng

45%

có liên

quan đếncác

đặc

điểm

trên

khnmặt(theo

Rieves

&Cash, 1996)

[51]. Các hành

vi trêu

chọc khác

được báo

cáo nhắm vào

các

bộ

phận

cơ thể như tóc, ngực,

bụng, hơng/mơng,

chiều cao và

các bộ

phận khác.

Trêu chọc liên quan

đến

ngoại

hình thường được

biếu hiện

dưới

hình

thức là

những bình

luận,

phán xét

hoặc phản

hồi mang

tính xúc phạm

khiêu khích bằng

lời

34

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

nói tiêu cực

ví dụ như đặt

biệt danh

cho cá

nhân, phán

xét

hay

đánh giá mang

tính

thù

địch

về

đặc điểm

ngoại

hình của

cá nhân. Các biều hiện hành

vi phô

biến

của

trêu

chọc

ngoại

hìnhbao

gồm đặt biệt

danhliênquan đến ngoại

hình, các cuộc hội

thoạiliênquan đến

về

đặc

điểm ngoại hình của cá nhân; chỉ trích/phản hồi

tiêu cực

liên quan đến ngoại

hìnhcủa

nhân

khác

khi

nhânvắng

mặt hoặc

hiệndiện;

lan truyền

cáctinđồn chưa xác

thực;

khaitrừ khỏi

nhóm hoặc tẩy chay

và bácbởý

kiến cùa

cá nhân

vì đặc điểmngoại hình

Trong

phạm

vi đề

tài,

các hình

thứctrêuchọc

về ngoại hình bao gồm đặt

biệt

danh, chỉ trích/phản hồi tiêu

cực

liên quan

đếnngoạihình

của cá

nhân

khác khi cá

nhân

vắng

mặt

hoặc

hiện

diện.

<b>1.2.1.6 Khái niệm về các vấn đề hướng nội trong sức khoẻ tâm thần</b>

Các

vấn

đề

phổbiến

nhất

của tâm

trẻ

em và

thanh

thiếu niên

đã

được

phân

loạithành hai mục

lớn,

đó

là các vấn

đề

hướng nội

<i>(internalizing disorder) và</i>

hướng

ngoại

<i>(externalizing disorder).</i> Theo c. Zahn-Waxler

và cộngsự(2000)[92],

trong khi

các

vấn đề

hướngngoại

đặctrưnglà

các

hành

vi có hại và gây rối

chongười khác,thìcác vấn

đề

hướngnộibiềuthị

một rối loạn mang tính cốt lõi trong các cảm

xúc

và tâm trạng,ví

dụ:

đau

buồn,

tội lỗi, sợ hãi

lo lắng.

Theo

Hiệp

hội Tâm lý

họcHoa Kỳ

(APA,

2013)

[16], vấn đề

hướngnộilà

một

lớp

các rối loạn

tâm

lý có đặc điểm chính

các triệu chứng

tâm lý

tính

chất hướngnội,

ví dụ như lo

âu

trầm cảm.

Những

rối loạn này thường liên quan đến trạng

thái cảmxúctiêu

cực, suy

nghĩ sai

lệch

và hànhvi

tập trung vào bản thân thay

những yếutố

bênngồi. Nhữngngười

bị

vấn

đề

hướngnộithườngtrải

qua

sự

lo lắng quá mức,

nồi

sợ hãi, tội lỗi

xấu

hổ,

né tránh xã

hội

hoặc có những biểu

hiện

khác

là hệquả

củanhững

cảm

giác này.

Mặcdùcó

thể có nhiều rối

loạn

triệu

chứng khác

nhau,

nhưng

chúngcũng

cónhiều đặc điếm chung,

như

bao gồm các xu

hướngđánh

giá tiêu

cực

về bản

thân

sự

nhạy

cảm

hơn

đối

với stress và

cácmối

đe

dọa.Cácrối

loạn

hướngnộicó

thể gây ranhững

hệquảtiêu cực, baogồm sự suy

giảm

chức năng, giảmchấtlượng

cuộc sống

và tăngnguycơ

tự sát.

35

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Trong phạm

vi

của đê

tài,

các vân

đê hướngnộitrong

sức khoẻ

tâm

thân là nhữngvấn đề

liên

quan

đếntâm

lý của cá nhân mà chú

yếu

ảnh

hưởngđếnnội tâmvàcảmxúc

của

họ.Những vấn

đề

này

thường là

do

tác

động

tù bên trong, bao gồm

sựcăngthầng,

lo

lắng,

trầm cảm

lo âu. Các

vấnđề hướng nộinày

có thể

gây

ra

sự ảnh hưởng tiêu cựcđến

cuộc

sống của

cá nhân, bao gồm

sựsuygiảmsức

khỏe,

cảm

giác cô

đơn,

bấtmãn

với chính

bản thân

mơi trường xung quanh, tránh

néxã

hội và

tăng

nguy cơ tự

tử.

<b>1.2.1.7 Cơng cụ đánh giá vấn đề hướng nội</b>

Nhìnchung

trên thế

giới

có nhiều

cơng

cụ

giúp

đánh giá

vấn

đề

hướngnội trong

sức khỏe tâm

thần.

Trong đó có hai công cụ

được

sử dụng rộng

rãi

phốbiến

trongcác

nghiên

cứu trên thế

giới,

đó

là thang

đo

đánh

giá

điểm mạnh và khó khăn

SDQ-25và

bảng

liệt kê

hành

vi trẻ em CBCL. Đây

hai

bản

công

cụđãđược chuẩn hóabằng Tiếngviệt, có

độ tin

cậycaovà được

lựa

chọnlàm

cơng

cụchính

trong

rất

nhiều

nghiên cứu

tại Việt Nam.

<i>• </i>

<i>Bảng liệt kê hành vi trẻ em CBCL (Children Behaviour Checklist)</i>

CBCL là

một

bộ

câu hỏitoàndiện,làbản hỏi

tự đánh giá dành

cho

bố mẹ

hoặc người chàm

sóc

cho họcsinh

từ 6 đến

18tuổi,nhằmsàng

lọc

cácvấn

đề có

liên quan đến

sức

khoẻ

tâm

thầncủa

học

sinh,dànhcho

bố mẹ hoặc

người

chăm sóc,

giám

hộ hợppháp. Bảng gồm 118

đềmục

là liệt kê

của

tất cả các hành vi

ở học

sinh dựa

trên

phươngpháp phân

tíchnhân

tố để đánh giá hành vi và cảm

xúc

họcsinhdựa theosự

phân

chia

thành 8

nhóm

hội chứng bao

gồm:

Lo âu/

Trầm

cảm;

Thu

mình/

Trầm

cảm; Than

nàn về

thể/

Rối

loạn dạng

thể;

vấn

đề xãhội;

vấn đề tư

duy/suynghĩ;

vấn

đề

chú ý;Hành vi sai

phạm/Phá bở

quy tắc; Hành vi xâm

khích,hungtính.

Mỗi biểu hiện

trong

thang đo

được

đánh giá

theo

thang

điếm

0-1-2,

tương

ứng

vớibamức

độ “

khơng đúng/hồn

tồn

khơng

có”

;

đúng mộtphần/thi thoảng

có” và “

đúng

hồn

tồn/thường xun có”.CBCL

là cơng cụ

sàng

lọc với

nội

dung dễ hiểu,

được

sử dụng

rộng

rãi

tại nhiều

quốc gia

trên

thế

giới,nhằmsàng

lọc

các

vấn đề

liên quan đến

sức khỏe

tâm

thần của trẻ.

Tại Việt

Nam,Việnnghiên

cứu lâm sàng về

xã hội, tâmlý

và giáo

dục

(CRISP -

E),

thuộc trường

Đại

học Giáo

dục,

Đại học

Quốc

gia

HàNội

đã mua

bảnquyền

tiến

hành

nghiên cứuchuẩn

hóa

thang

đo cho

phù

hợp với

văn

hóa

vàmồi

trường

Việt

Namtừ năm 2013 [2].

36

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Độ

tin cậy về

tính

ổn định

bên

trong

thang đoCBCL

tại

ViệtNam

bao gồm:

độ

tin

cậytổng thang

đo

là0,96,độtincậy

vấn

đềhướngnội

0,89,độ

tin cậy vấn

đề hướng

ngoại

là0,91, độ

tin

cậy vấnđề

lo âu/trầm

cảmlà0,77,

độ tin cậy

thu

mình/trầmcảm

là 0,80,

độ tin

cậy

vấn đề

phànnàn

về

thể là

0,79,độ

tin cậy

vấn

đề

xã hộilà 0,76,

độ tin cậy

vềvấn

đề tư duy

là 0,81, độ

tin cậy

về vấn

đề chú

ý

là 0,84, độ tin cậyvề

vấnđề hànhvihung

tính

0,88 và

độtincậy

về

vấn đềhànhvihung tínhlà 0,77

Điểm chỉ định

đặcbiệtcần lưuýtrong

thang đo CBCL,

đó

cha

mẹ hoặc

người chăm

sóc

trẻ

phải có

ít

nhất

6

tháng ở cùng

trẻ

để

thựchiệnthang

đo

đánh

giá này

dưới góc nhìn

của

họ.

<i>• </i>

<i>Thang đo đánh giá điểm mạnh và khó khăn SDQ-25 (Strengths and </i>

<i>Difficulties Questionnaire)</i>

Đâylàcông

cụ

đánh

giá

sàng

lọc

cho

những

vấnđề

sức

khỏe

tâm thần

trẻ emvà

vịthành

niên

(3-16

tuổi)

của

tác giả

Goodman,

Ford, Simmons

& Gatward (2000)

[68].

Thang đo

SDỌ

là một công cụ

được sử

dụng

phổ

biến ở

nhiều

quốc gia

trên

thếgiới,

mụcđích

của

côngcụnhằm

phát hiện

các

vấn

đềtâm

thần

ởcộngđồng, giúp

sàng lọc trong đánh giá

lâmsàng, đánh

giá kết

quả

của

các

can

thiệp và sử

dụng nhưmột

công

cụ nghiên

cứu.Tại Việt

Nam,

thang SDQđã được

dịch ra

tiếng

việt,

được chuấn

hóa

vàđược sử

dụng trong

đề

tài nghiên cứu

khoahọc cấp

Bộ của

tác

giả

Trần

Tuấn

(2006)[6]. Nãm2013,

Đặng

Hồng Minh

và cộng

sự

đã

thíchnghi

sử

dụng

thang

đo

này

để đánh giá

trênnhóm

cha mẹ

trẻ vị thành niên ở

10tỉnh/thành

đạidiện cho toàn quốc trong đề tài

nghiên

cứu

[2].

SDQ

ba phiên

bản

dành cho trẻ tựthuật, cha mẹ báo

cáovà

giáo viên

báocáo.

Bộ công cụ

nàyđãđược

chứng

minh là

các

thuộc tính

tâm

trắc

tốt, được sửdụngđể sàng

lọc

cácvấn

đề sức

khỏetâmthần

trẻem ở

nhiềunước

phương

Tây

cũng như

cácnướcchâu

Á như

Iran,

Malaysia.

..

(ĐặngHoàng Minh

vàcộngsự, 2013)[2].

So

với bộ

công cụ

nghiên

cứu khác về

sức

khỏe

tâm thần như Bản kiềm hành vi trẻ em

CBCL

dành

cho

cha mẹ điền có tới 118

câu

thìSDQ

ưu thế

hơn

tính

ngắn gọn,

dễ

thực hiện do chỉ có

25

mục

(tập

trung

vàođánh

giá hành vi và

cảm

xúc). Bảng

hỏiSDQ

dành cho nhóm trẻ em từ 12-16

tuổi

gồm có

25 câu/ nhận định. Trong đó có 10 câu về

điểmmạnh, 14

câu

vềđiểmyếu, 1

câu trung

lập.Mỗicâu/nhậnđịnh

có mức

độ

trả

lờitươngứng là:0

-

Không

đúng;

1-

Đúng

một

37

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

phần; 2 -

Chắc

chắn

đúng.Bảnghỏi

chia

thành

5

thang, mỗithang

gồm 5 câu: vấn đề

19; và

khoảng bất thường/ có

rốiloạn được

tính

ở mức

từ 20

-

40 theo thang SDQ.

Nhìnchung

cả hai

cơng

cụ đánh giá vấn

đềhướngnội

trong

sức

khỏe

tâmthần

nêu trên

đều

có độ tin

cậy

đãđược

sử dụng

phố

biến trong

rấtnhiềunghiêncứu ở

đa quốc gia. Trong

đề

tài nghiên

cứu

về

mối quan

hệ giữa miệt

thịngoạihìnhvàcác

vấn đề

hướng

nội,

chúngtơi

lựa chọn

thangđo

điểm

mạnh vàkhó

khăn SDQ-25 làmcơng

cụđánh

giá chính vì

tínhngắn

gọn, dễ hiểu

dễ thực hiện trong quá trình

khảo

sát,

đồngthời

phù hợp

vớiđộ

tuổi của mẫu nghiên cứu

làhọc

sinh trung

học phô

<b>1.2.1.8 Khái niệm về lòng tự trọng</b>

Nghiên cứu cùa

Mizuho

Hosogi và

cộngsự

(20

1

2) [40],

đã

lập luận từ

quan

điểm

triết

học

đạo đức rằng lòng tự trọng

là “

nhận

thức của một

người về giá

trị

tuyệt đốicủa

nhân

cách

hoặc phẩm

giá

của

chính

họ

”, hay

nóicách khác,

lòng tự trọng

được

coilà

cảm

giác

đánh

giá về

bảnthân.

Năm

1

980,

nghiên

cứu cùa

w.

James

(1890)

[96],

địnhnghĩa lịng

tự

trọnglà

sự

hài

lịng

hoặc

khơng

hài

lịngvớichính

minh

”.

Tương

đồngvới

cách

định nghĩa

này,

nghiên

cứu

của

Sigelman và cộng

sự(1999)

[22], định

nghĩa

lòng tự trọng là

'’

đánh giátống thế của một

người

về giá

trịcủa

chính

họ,

mức độ

caohay

thấp dựa

trên

tất

cả

38

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

những

nhậnthứctích

cực và

tiêu cựcvềbản

thân tạo thành từ quan

niệm

về bản

thân

của

chínhngườiđó.

Qua

đó, các địnhnghĩađược

trích dẫn từ các

nghiên

cứu

khơng

có sự đối lập

đều có điểm

chung

trong

việc

chỉ ra

lòng

tự trọng

sự nhận

thức,

đánh giá của

một người về

giá

trị

của

chínhbản

thân

mình.

Đây

sởcho

những

phầntiếptheo

của đềtài

nghiên cứukhi đánh

giá, khảo

sát

những

khía

cạnh

liên

quan đến

lòng

tự trọng.

<b>1.2.2 Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến miệt thị ngoại hìnha. Giới tính</b>

Phần

lớn các

nghiêncứu trên

thế giới,

đều cho

thấy nữ giới

thường

tỷlệlà nạn

nhân và

chịu

nhiều ảnh

hưởngcủa

miệt thị ngoại hình

cao

hơn

sovới

nam giới.

Theo nghiên

cứu

của

Cash và Pruzinsky

(1990)

được công bố

bởi

hiệp hội Tâm

lýhọcHoa

KỳAPA[16], nữgiới

thường bị

ảnhhưởng

mạnh mẽ hơn

bởi tiêu chuẩn

vẻ

đẹp

cùa xã

hội

hơn

nam giới,

do

hội đặt nặng vấn đề ngoại hình

của

phụ nữ hơn.

Nghiên cứunày

cũng

cho

thấy

rằng

sự miệt

thị

ngoại hình ở

nừ giới

có tác

động tiêu

cực

đến sức khoe tâm lýcủahọ

hơn so với nam giới. Trong một

nghiên

cứu khác

của

Dittmar

vàHoward (2005)

[26], đã đề xuất rằng

sựchênh

lệch giới tính

trong việcbịmiệtthịngoại

hình cóthế

đượcgiảithíchbởi sự

phân

biệt

giới

tính

trong

cáchđánh

giá vẻ

ngoài. Theonghiên cứu,

xã hội yêu

cầu

phụ

nữ nhiều hơn là nam giới trong

việc

tuân

thủvới

các tiêu

chuẩn

về ngoại

hìnhđẹp,

và việc đạt

được

tiêu

chuẩnnàyđược

coi là

rất

quan trọngtrong

việc

đảm

bảo

sự

chấp

nhận

vàsự

thích

nghi

trong xã hội.

Điềunày

có thế dẫn

đến

áp lực về ngoại

hình

đối với phụ nữ

vàcảm giác

tự

ti

về cơ thể

cùahọ.

Nghiên cứu đãchỉ ra

rằng

phụ

nừ

thường

xuyênso

sánh cơ thể của mình

với

các tiêu

chuẩnđẹpvà

mặc

cảm

hơn là nam giới.

Điều

này có thế dẫn

đến

việc

phụ

nữ dễ dàng

bị

ảnh

hưởng

bởimiệt

thị

ngoại hình

có xu

hướng cảm

thấy tự ti hơn

về

ngoại hình

của mình.

Trong

nghiên

cứu của

Ridgeway

và Tylka

(2005) [73],cung

cấp bằng chứng

cho

thấy

các

phương

tiện

truyền

thơng

thường

xunsửdụng hìnhảnh

thơng

điệp

liên

quan

đến

cơ thể, vóc dáng

ngoại hình

của phụnữ

đế tạo ra

sự quantâmvà

thu hút khán giả hơn

là sử

dụng

hình

ảnh của nam giới.

Điềunày

có thể dẫn

đến

việc phát triển các

rối

loạn

ăn

uống và các vấn đề

hướng

nội khác. Bên cạnh

đó,

trong

hội,

nữ

giới thường bịđánh giá

nhiềuhơn

về ngoại hình của minh, đặc biệt là

ởcác

lĩnh

vực

liên quan

đến

vẻ

đẹp và thời

trang, nhưng cũng trong

nhiềulĩnh

vực khác như

giáodục,

văn phòng,

39

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

sánh

giữa anh ta và

người

khác.

Sự

suy giảm

lòng

tự trọng

thườngxảy

ra

tuối

thiếu niên, khi thiếu

niên

cảm

thấy

mìnhkhơng

có thân

hỉnh

tưởng

khơngcó

những lợithế có thể

làmvốn

liếng trong mối quan hệ

của

mình (Syafrizaldi

&

Pratiwi, 2020) [81].Nhiều

nghiêncứucho

rằng

sựsuy

giảm lòng tự trọng

thườngxảy

ra ở

tuồithiếu

niên

(theo

Wahyuni

&

Aurellia, 2021) [67]. Lòng tự

trọng

giảm

sútởthanh

thiếu niên

thể

xảy

ra

do

các

vấnđề

về

kinh

nghiệm

kỹ

năng

quản

cảm xúc

thanh

thiểu

niên

chưa

ổn

định.Một

trong những

vấn

đề ở tuổi

thiếu

niên và

liên

quan đến

lòng

tự trọnglà

sự

chấp

nhận

bản

thânliên

quan

đếnhành

vi

xấu

hổ về cơ thể do

bạn

những

người

xung

quanh

thực

hiện.

Theo

TitaElfitasari

cộng

sự

(2022) [37],nghiên

cứu

thực

hiện nhằm

làm

mối quan

hệ

giữa miệt

thị

ngoại hình

lo lắng xã

hội

ở nhóm

đốitượng

sinh

viên. Kếtquảcủanghiêncứu

chỉ ra ràng,

mức

độ

nạn

nhân

trải qua

miệt

thị

ngoại hình càng cao

thì

lo lắng

hội

càng tăng.

Trong

đó,

lịng tự trọng

được

xétlàm một

yếu tốtrung gian

cho

mối

quan hệ

giữa

miệt thị ngoại

hình

lolắngxã hội.

Nghiên cứu nhằm xác định

tầm

quan trọng

của

lòng tự trọng

đốivới

những

học

sinhtừng

trải

qua

miệtthịngoại

hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

thay

đổi lớn

về

chiềucao, cân

nặng, hỉnh dáng cơ thể và

cácđặctính

tình dục. Điều

này gây

ra

sự chú ỷ đặc biệt đến

ngoại hình

của họcsinh,đặcbiệt là

trong

cáctình huống

giao tiếp

hội

như

trường học,

nơi

mà họ

thường xuyên

phải đối mặt

vớisự

so sánhvà đánh giá

về ngoại

hình

củamình.

về

sự

phát

triền tâm

lý, lứa tuổi

họcsinh

THPT

giai

đoạn quan

trọng

củasự phát

triển

tâm

lý,

với

sự thay

đổi

mạnh mẽ

trong cảmxúc,

suy nghĩ và hành

vi.

Trong

giaiđoạnnày,họcsinh đang

phải

đốimặt với

áp lực từ nhiều phía,

bao

gồm gia

đinh,

bạn bè

trường học, và cảm thấy

khó khăn

trong

việc

đáp

ứngcác

yêu cầu

đó. Họcũng đang

tìm kiếm

vàxác định vị

trí của mình

trong

hội,

ngoạihình

cùa

họ

có thể

trở

thành một

yếu

tố

quan

trọng trong quá trinh

đó. Nếukhơng

tự

tin

về ngoại hình củamình,

học

sinh có thể trở

nên

tự ti và lo

lắng, dẫnđến

các vấn đề

tâmlý

như lo âu, trầm

cảm

thiếu

tự tin.

41

</div>

×