Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Tìm hiểu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá chẽm (lates calcarifer bloch, 1790) giai đoạn 2 đến 45 ngày tuổi, tại trung tâm nghiên cứu và phát triển nuôi b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.72 KB, 50 trang )

0

MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
PHẦN 2: TỔNG LUẬN 3
1. Nghề nuôi cá Chẽm trên thế giới 3
2. Nghề nuôi cá Chẽm Ở Việt Nam 3
3. Đặc điểm sinh học 3
3.1 Hệ thống phân loại 3
3.2 Hình thái và đặc điểm phân loại (theo FAO, 1974) 4
3.3 Phân bố 5
3.4 Vòng đời 6
4. Quá trình phát triển của ấu trùng cá Chẽm 7
5. Đặc Điểm sinh trưởng 8
6. Đặc điểm sinh học sinh sản 9
6.1 Phân biệt giới tính 9
6.2 Thành thục sinh dục 10
6.3. Sức sinh sản và đẻ trứng 10
7. Đặc điểm dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng 10
7.1 Tính ăn và khổ thức ăn 10
7.2 Nhu cầu dinh dưỡng 11
8. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm trên thế giới 12
8.1. Những nghiên cứu về sinh sản nhân tạo 12
8.2. Những nghiên cứu về thức ăn 12
9. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm ở Việt Nam 13
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu: 15
2. Vật liệu nghiên cứu: 15
2.1 Các loại thức ăn sử dụng 15
2.2 Dụng cụ thí nghiệm 16


2.3 Các thiết bị đo lường 16
3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 17
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
1

3.1 Tìm hiểu quy trình ương nuôi cá Chẽm (L.calcarifer) từ khi nở đến 45 ngày
tuổi 17
3.2. Tìm hiểu quy trình ương nuôi cá Cẽm từ khi mới nở đến 60 ngày tuổi 17
3.3. Ảnh hưởng của mật độ Rotifer đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng cá
Chẽm từ 2 đến 15 ngày tuổi 18
3.4. Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống 19
3.4.1 Bố trí thí nghiệm 19
3.4.2 Chế độ chăm sóc quản lý 20
4. Phương pháp xác dịnh các chỉ tiêu sinh trưởng và tỷ lệ sống 21
5. Phương pháp xử lý số liệu 22
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 23
1. Kỹ thuật ương nuôi cá Chẽm (L.calcarifer)
từ khi mới nở đến 60 ngày tuổi 23
1.1 Một số yếu tố môi trường của nguồn nước cấp ban đầu trước khi thả cá.23
1.2 Hệ thống bể ương 23
1.3 Chuẩn bị bể ương và thả cá 24
1.4 Chăm sóc và quản lý 24
1.4.1 Cho ăn 24
1.4.2 Chế độ siphon và thay nước 25
1.4.3 Phân cỡ cá 25
1.5 Thức ăn sống cho ấu trùng 26
1.5.1 Nuôi tảo 26
1.5.2 Nuôi luân trùng 27
1.5.3 Ấp nở Artemia 27
1.6 Sự tăng trưởng và tỷ lệ sống 27

1.7 Phòng và trị bệnh 28
1.7.1 Bệnh nấm đỏ 28
1.7.2 Bệnh ký sinh trùng bám 28
2. Ảnh hưởng của mật độ Rotifer lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá
Chẽm Lates calcarifer từ 2-15 ngày tuổi 29
2.1 Ảnh hưởng lên sinh trưởng (theo chiều dài) 29
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
2

2.2 Ảnh hưởng của mật độ Rotifer đến tỷ lệ sống 31
3. Ảnh hưởng của các loại thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá
Chẽm giai đoạn 25 - 45 ngày tuổi 31
3.1 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng 31
3.2 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến tỷ lệ 36
PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 39
5.1 Kết luận 39
5.2 Đề xuất ý kiến 40
























PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
3

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1: Hình thái ngoài cá Chẽm 4
Hình 2: Vùng phân bố của cá Chẽm trên thế giới 5
Hình 3 : Sơ đồ di cư của cá Chẽm 6
Hình 4: Ấu trùng mới nở 7
Hình 5: Quá trình phát triển của ấu trùng 8
Hình 6: Cá đực và cá cái đã thành thục 9
Hình 7: Tỷ lệ cá cái theo chiều dài thân 10
Hình 8: Toàn cảnh Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nuôi biển Sông Lô.15
Hình 9: Hệ thống bể thí nghiệm 16
Hình10: Kính hiển vi soi nổi 16
Hình 11: Sơ đồ bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của mật độ luân trùng 17
Hình 12: Sơ đồ bố trí thí nghiệm thức ăn 18
Hình 13: Hệ thống bể ương nuôi ấu trùng cá Chẽm 20
Hình 14: Chuẩn bị bể ương 23
Hình 15: Cá tập trung khi cho ăn 24

Hình 16: Lưới lọc cá 24
Hình 17: Chiều dài trung bình của cá giai đoạn 2 - 45 ngày tuổi 25
Hình 18: Tỷ lệ sống của cá giai đoạn 2-15 ngày tuổi 29
Hình 19: Chiều dài trung bình của cá giai đoạn từ 25-45 ngày tuổi 31
Hình 20: Tăng trưởng của cá theo trọng lượng ở các lô thí nghiệm khác nhau
từ 25 - 45 ngày tuổi 32
Hình 21: Tỷ lệ sống, tỷ lệ chết quan sát và tỷ lệ chết ăn nhau của cá giai đoạn 25 - 45
ngày tuổi 33
Hình 22 : Tỷ lệ sống, tỷ lệ chết quan sát và tỷ lệ chết ăn nhau
của cá giai đoạn 25 - 45 ngày tuổi 36




PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Một số yếu tố môi trường 23
Bảng 2: Sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng giai đoạn 1 – 60 ngày tuổi 28
Bảng 3: Khối lượng trung bình của cá ở các thời điểm nuôi khác nhau 29
Bảng 4: Tăng trưởng % theo chiều dài thân giai đoạn 2-15 ngày tuổi 30
Bảng 5: Sự biến động pH ở các bể ương nuôi
trong giai đoạn 2 – 15 ngày tuổi 30
Bảng 6: Tăng trưởng của cá theo % chiều dài 32
Bảng 7: Tăng trưởng theo % trọng lượng cơ thể 33
Bảng 8: Các chỉ tiêu về tỷ lệ sống, tỷ lệ chết quan sát
và tỷ lệ chết do ăn nhau (đơn vị %) 36
Bảng 9: Kết quả nghiên cứu của Hồ Công Hường 38
















PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
5

LỜI CÁM ƠN

Mọi sự giúp đỡ dành cho tôi trong thời gian thực tập tốt nghiệp đều có ý
nghĩa to lớn. Nhân đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình để đáp lại
những sự giúp đỡ quý báu đó.
Đầu tiên tôi xin gửi lời cám ơn đến Khoa Nuôi trồng Thủy sản, bộ môn
Hải sản đã sắp xếp cho tôi thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Địch Thanh đã hướng dẫn
tận tình cho tôi với những chỉ dẫn đầy trách nhiệm.
Và đặc biệt tôi rất biết ơn thầy Đào Văn Trí, giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu và Phát triển Nuôi biển Sông Lô đã tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và
hướng dẫn nhiệt tình cho tôi.

Ngoài ra trong suốt quá trình thực tập tôi đã được anh Nguyễn Hữu Hùng
hướng dẫn trực tiếp, chỉ cho tôi phương pháp bố trí thí nghiệm để tôi hoàn thành
đề tài, xin chân thành cảm ơn anh.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên của
Trung tâm Sông Lô, gia đình và bạn bè đã luôn ở bên giúp đỡ, góp ý cho tôi.



Xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thảo Sương








PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
6

PHẦN 1: MỞ ĐẦU

Từ lâu cá Chẽm (Lates calcarifer) được đánh giá là loài cá đặc sản, được
ưa thích và có giá trị cao. Vì vậy cá Chẽm đã được đưa vào sản xuất quy mô lớn
ở nhiều nước trên thế giới trong những thập niên qua. Ở Việt Nam, ngành nuôi
trồng thuỷ sản sau hai thập kỷ phát triển mạnh với đối tượng chính là tôm Sú, nay
đã có bước chuyển biến mới. Đối tượng nuôi trồng ngày càng đa dạng, hình thức

nuôi ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là mô hình nuôi cá biển đang được chú
ý và cá Chẽm trở nên là đối tượng chiếm ưu thế nhờ có nhiều ưu điểm.
Mặc dù vậy, ở Việt Nam, việc sản xuất giống cá Chẽm vẫn chưa thật sự
hoàn thiện vì các loại thức ăn hiện đang sử dụng cho ấu trùng cá Chẽm vẫn tỏ ra
chưa phù hợp và hiệu quả chưa cao. Thức ăn tươi sống cho ấu trùng cá Chẽm
(gồm Rotifer và Artemia) là không thể thay thế ở giai đoạn đầu (từ 2 - 25 ngày
tuổi). Tuy nhiên ở giai đoạn tiếp theo sau nếu vẫn duy trì việc cho cá ăn Artemia
thì hiệu quả kinh tế sẽ rất thấp và không đáp ứng được tính ăn của cá. Do vậy cần
có sự thay thế của loại thức ăn khác đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của cá, có
nguồn cung cấp chủ động và có hiệu quả hơn. Ngoài ra việc gây nuôi sinh khối
rotifer cung cấp cho một quy mô sản xuất lớn (cỡ hàng chục triệu con giống
/năm) không phải là việc dễ dàng. Cho nên việc cho cá ăn rotifer cần tính mật độ
sao cho phù hợp.
Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về thức ăn cho ấu trùng cá Chẽm
vẫn còn phải tiếp tục. Đây cũng chính là lý do tôi chọn cho mình đề tài:
“Tìm hiểu ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ
sống của ấu trùng cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) giai đoạn 2 đến
45 ngày tuổi, tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nuôi biển Sông Lô.”
Việc hoàn thành đề tài giúp tôi làm quen với phương pháp nghiên cứu
khoa học và hy vọng sẽ góp phần xây dựng cơ sở cho việc sản xuất thức ăn cho
ấu trùng cá Chẽm.



PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
7

Đề tài gồm có các nội dung sau:
§ Tìm hiểu kỹ thuật ương nuôi cá Chẽm (Lates calcarifer)
§ Ảnh hưởng của mật độ Rotifer đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng

cá Chẽm giai đoạn 2 đến 15 ngày tuổi.
§ Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng
cá Chẽm giai đoạn 25 đến 45 ngày tuổi.
Do kiến thức có hạn nên đề tài của tôi sẽ không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong sự góp ý của thầy cô và bạn bè để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn. Xin chân thành cảm ơn.


Nha Trang, tháng 11/2006.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thảo Sương


PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
8

PHẦN 2: TỔNG LUẬN

1. Nghề nuôi cá Chẽm trên thế giới
Từ những năm 1970, Thái Lan đã sản xuất được giống cá Chẽm hàng loạt,
đến năm 1981 Thái Lan sản xuất được 20 triệu cá Chẽm bột (Mackingnon 1984
và Sirike 1982). Từ đó nghề nuôi cá Chẽm thương phẩm ở Thái Lan phát triển
mạnh và cá Chẽm là một trong những đối tượng chính của nghề nuôi cá biển.
Cho đến nay sản lượng cá Chẽm của Thái Lan đã lên đến hàng ngàn tấn (năm
1996 sản lượng cá Chẽm của Thái Lan đạt 2998 tấn [3]).
Từ Thái Lan, nghề nuôi cá Chẽm cũng đã phát triển lan rộng ra các nước
trong khu vực châu Á Thái Bình Dương nơi có cá Chẽm phân bố tự nhiên như
Autralia, Indonesia, Malaixia, Philippine, Đài Loan, Singapore, Trung Quốc,
Việt Nam.

Sự phát triển mau chóng và lớn mạnh của nghề nuôi cá Chẽm phần lớn là
nhờ vào ưu điểm rất lớn của cá Chẽm như tốc độ tăng trưởng nhanh, thích nghi
rộng muối (sống tốt trong cả nước ngọt lẫn nước lợ và nước mặn). Do vậy mô
hình nuôi cá Chẽm rất đa dạng: ao, lồng bè, đăng chắn với quy mô lớn.
2. Nghề nuôi cá Chẽm Ở Việt Nam
Nghề nuôi cá Chẽm ở Việt Nam phát triển đầu tiên ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long với hình thức nuôi trong ao đất với nguồn giống thu từ tự nhiên. Cho
đến nay khi mà việc sản xuất giống nhân tạo thành công ở Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thuỷ sản I, II, III, Trường Đại Học Thuỷ Sản thì nghề nuôi cá Chẽm đang
bắt đầu phát triển khắp cả nước và hứa hẹn nhiều tiềm năng. Đặc biệt khi nghề
nuôi cá biển ở Việt Nam đang có xu hướng phát triển và nghề nuôi tôm đang
trong giai đoạn khó khăn thì cá Chẽm sẽ đóng vai trò thay thế và chiếm ưu thế về
sự lựa chọn đối tượng nuôi.
3. Đặc điểm sinh học
3.1 Hệ thống phân loại
Theo Greenwood (1976), trích của Nguyễn Trọng Nho và cộng tác viên
(2002), giống cá Chẽm Lates gồm có 8 loài trong đó loài Lates calcarifer phân
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
9

bố ở các vùng biển thuộc Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, còn 7 loài
khác phân bố ở các vùng biển châu Phi.
Ở Việt Nam, theo Mai Đình Yên (1979), đã xác nhận là chỉ có một loài
duy nhất và có vị trí phân loại của (Bloch). Cách phân loại loài Lates calcarifer
(Bloch) được ghi trong bảng phụ I (FAO,1974) được nhiều nhà ngư loại chấp
nhận.
Hệ thống phân loại cá Chẽm:
Ngành Vertebrata
Lớp Osteichthyes
Bộ Perciformes

Họ Centropomidae
Giống Lates
Loài Lates calcarifer (Bloch, 1790)
3.2 Hình thái và đặc điểm phân loại (theo FAO, 1974)











Hình 1: Hình thái ngoài cá Chẽm
Cá Chẽm có thân dài, dẹp, cuống đuôi khuyết sâu. Đầu nhọn, nhìn bên
lõm phía lưng và lồi ở phía trước vây lưng. Miệng rộng, hơi so le, hàm trên
chồm tới phía sau, răng dạng lông nhung, không có sự hiện diện của răng
nanh. Mép dưới của xương trước nắp mang có gai cứng, nắp mang có một
gai nhỏ và một vảy bên có răng cưa trước đầu đường bên. Vây lưng có 7 - 9
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
10

gai và 10 - 11 tia mềm; có đường vạch sâu hầu như chia gai ra khỏi phần
mềm của tia vây ngực ngắn và tròn, cá có dãy răng cưa cứng và ngắn phía
trên gốc, vây lưng và vây hậu môn có vẩy bao phủ. Vây hậu môn tròn có 3
gai, 7 - 8 tia mềm, vây đuôi tròn. Vẩy dạng lược rộng (xù xì hay nhẵn).
Màu sắc: Có 2 giai đoạn, thường giai đoạn giống, cá có màu nâu ôliu ở
phía trên với màu bạc ở các bên và bụng khi cá sống trong môi trường nước biển

và màu nâu vàng khi cá sống trong môi trường nước ngọt, giai đoạn trưởng thành
có màu xanh lục hay vàng nhạt ở phần trên và màu bạc ở phần dưới.
3.3 Phân bố
v Phân bố theo vùng địa lý
Cá Chẽm phân bố rộng ở các vùng nhiệt đới thuộc Tây Thái Bình Dương
đến Ấn Độ Dương, giữa kinh tuyến 50
o
kinh Đông –160
o
kinh Tây; vĩ tuyến 26
o

vĩ Bắc –25
o
vĩ Nam. Cá còn tìm thấy ở khắp phần Bắc Châu Á, phía Nam kéo dài
đến Queensland (Úc), phía tây đến Đông châu Phi [11].











Hình 2: Vùng phân bố của cá Chẽm trên thế giới
v Phân bố theo vùng sinh thái
Cá Chẽm là loài rộng muối và có tính di cư xuôi dòng. Cá thành thục sinh

dục tìm thấy ở vùng cửa sông, hồ (ví dụ: hồ Songkhla) hay các đầm nước lợ nơi
có nồng độ muối dao động 30 - 32 ppt và độ sâu từ 10 - 15 m. Ấu trùng mới nở
(15 - 20 ngày tuổi, dài 0,4 - 0,7 cm) thường phân bố ven bờ biển gần các cửa
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
11

6sông nước lợ, trong khi đó ấu trùng cỡ 1 cm có thể gặp ở trong thuỷ vực nước
ngọt, ví dụ: ruộng lúa, hồ, (Bhatia và Kungvankij, 1971). Trong điều kiện tự
nhiên, cá Chẽm lớn lên ở nước ngọt và di cư ra vùng nước mặn để đẻ.
3.4 Vòng đời
Cá Chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2 - 3 năm) trong các
thuỷ vực nước ngọt như: sông, hồ nơi nối liền với biển. Cá có tốc độ tăng trưởng
nhanh, thường đạt cỡ 3 – 5 kg sau 2 – 3 năm. Cá trưởng thành 3 – 4 tuổi di cư từ
vùng nước ngọt về vùng cửa sông và ra biển nơi có nồng độ muối dao động 30 –
32 ppt để phát triển tuyến sinh dục và đẻ trứng sau đó. Cá đẻ trứng theo chu kỳ
trăng (thường vào lúc khởi đầu của tuần trăng hay lúc trăng tròn) vào lúc buổi tối
(18 – 20 giờ) và thường đồng thời với thuỷ triều lên. Điều này giúp trứng và ấu
trùng trôi vào vùng cửa sông. Nơi đó ấu trùng sẽ phát triển và di chuyển ngược
dòng để lớn lên. Hiện tại, điều chưa biết là cá trưởng thành có di cư ngược dòng
không hay chúng giữ giai đoạn còn lại của đời sống ở biển.
Smith (1965) ghi rằng, một số loài cá sống cả vòng đời trong nước ngọt
nơi chúng lớn lên đến cỡ 65 cm dài và trọng lượng 19,3 kg. Tuyến sinh dục của
những cá đó không phát triển. Trong môi trường nước lợ, cá Chẽm đạt chiều dài
1,7 m được tìm thấy ở vùng Indonesia – Úc (Weber & Beaufor 1936)













Hình 3 : Sơ đồ di cư của cá Chẽm
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
12

4. Quá trình phát triển của ấu trùng cá Chẽm









Hình 4: Ấu trùng mới nở
Theo P.Kungvankij, chiều dài của ấu trùng mới nở dao động từ 1,21
– 1,65 mm, trung bình 1,49 mm. Noãn hoàng có đường kính dài trung bình
0,86 mm. Cá mới nở có một giọt dầu nằm ở phần trước của noãn hoàng
làm cho cá hầu như nổi theo chiều thẳng đứng hay tạo thành góc 45
o
so
với mặt phẳng ngang. Lúc này sắc tố chưa hình thành ở nhiều cơ quan,
mới có thể nhìn thấy sắc tố ở mắt, trên thân và bề mặt hạt dầu. Ống tiêu
hoá đã nhìn thấy rõ nhưng miệng vẫn chưa mở.

Hai ngày sau khi nở, cá có chiều dài 2,52 ± 0,06 mm, noãn hoàng cá
hầu như được sử dụng hết và hạt dầu còn không đáng kể. Ở giai đoạn này,
miệng cá mở ra và hàm bắt đầu cử động, ấu trùng bắt đầu ăn thức ăn ngoài.
Lúc này cá có tập tính hướng quang.
Cá 7 ngày tuổi có chiều dài 3,44 ± 0,09 mm, tia vây lưng và tia hậu môn
bắt đầu xuất hiện, có răng cưa ở xương nắp mang trước. Sắc tố đen xuất hiện từ
đầu đến đuôi làm cho cá có màu đen.
Cá 14 ngày tuổi có chiều dài 4,75 ± 0,32 mm. Vây lưng và vây hậu
môn đã tách khỏi vây đuôi, vây bụng bắt đầu xuất hiện, tia vây đuôi đã phát
triển. Từ giữa vây lưng đến vây hậu môn xuất hiện một dải băng trắng có thể
nhìn thấy bằng mắt thường.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
13

Khi đạt 18 - 20 ngày tuổi, cá bước và cuối giai đoạn biến thái với sự xuất
hiện của 3 sọc: một sọc ở cuống đuôi, một sọc ở gốc vây lưng giữa phần tia cứng
và phần tia mềm, sọc thứ ba ngang qua đầu.
Cá 21 ngày tuổi có chiều dài 8,91 ± 1,19 mm. Lúc này số lượng tia vây cứng,
tia vây mềm của vây lưng và vây hậu môn đã ổn định. Vẩy xuất hiện ở bề mặt của hai
bên thân phía trên vây bụng. Màu sắc của cá chuyển từ màu đen sang màu nâu nhạt.
Kungvankij & ctv (1986) cho rằng có ít nhất hai giai đoạn hình thành
sắc tố ở ấu trùng cá Chẽm. Ở giai đoạn 10 - 12 ngày tuổi sau khi nở, sắc tố
xuất hiện có màu xám sậm hay đen; giai đoạn tiếp theo khoảng 25 - 30 ngày
tuổi, cá chuyển sang màu sáng bạc. Quan sát thấy rằng ở giai đoạn này,
những cá thể khoẻ mạnh bơi lội chủ động thường có màu nhạt, trong khi đó
cá không khoẻ có cơ thể màu đen hay sậm [16].














Hình 5: Quá trình phát triển của ấu trùng
5. Đặc Điểm sinh trưởng
Tốc độ sinh trưởng của cá Chẽm có dạng đường cong Sigma, tăng trưởng chậm
ở giai đoạn đầu, khi đạt 20 - 30 g tốc độ sinh trưởng nhanh hơn và giảm khi đạt 4 kg [6].
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
14

Nghiên cứu của NACA (1986) về tốc độ tăng trưởng chiều dài của cá
Chẽm giai đoạn từ khi nở đến 40 ngày tuổi cho biết: cá mới nở có chiều dài thân
1,5 mm, sau 1 đến 15 ngày tuổi đạt từ 1,5 - 5 mm, 15 - 25 ngày tuổi đạt 5 - 8 mm,
25 - 30 ngày tuổi đạt 10 - 13 mm và 30 - 40 ngày đạt 13 - 30 mm. Cá Chẽm 3
đến 4 tuổi có chiều dài thân từ 600 - 700 mm, trọng lượng thân từ 2,6 - 4,2 kg, cá
6-8 tuổi đạt 850 - 1000 mm chiều dài và 7 - 12 kg trọng lượng thân. Tuy nhiên,
tốc độ tăng trưởng của cá Chẽm còn phụ thuộc vào điều kiện môi trường sống.
6. Đặc điểm sinh học sinh sản.
6.1. Phân biệt giới tính
Khó phân biệt giới tính của cá ngoại trừ vào mùa sinh sản. Có vài đặc
điểm ngoại hình biểu hiện giới tính
- Mõm của cá đực hơi cong, của cá cái thì thẳng.
- Cá đực cơ thể thon hơn cá cái.
- Trọng lượng cá cái lớn hơn cá đực nếu cùng tuổi.

- Những vẩy gần lỗ huyệt của cá đực dày hơn cá cái trong mùa sinh sản.
- Trong mùa sinh sản thì bụng cá cái hơi phồng to hơn cá đực.










Hình 6: Cá đực và cá cái đã thành thục




PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
15

6.2 Thành thục sinh dục











Hình 7:Tỷ lệ cá cái theo chiều dài thân
Vào giai đoạn đầu của đời sống (1,5 - 2,5 kg) phần lớn cá Chẽm là đực
nhưng khi đạt trọng lượng 4 - 6 kg phần lớn cá trở thành cá cái, tuy nhiên sau đến
3-4 năm nuôi với cùng nhóm tuổi, cá Chẽm có cả cá đực và cả cá cái và có thể
phân biệt như các chỉ tiêu đã nêu trên.
Cá cái thành thục tốt thì kích thước của trứng thụ tinh thường dao động
0,4 - 0,5 mm.
6.3 Sức sinh sản và đẻ trứng
Sức sinh sản của cá Chẽm liên quan đến kích thước và trọng luợng của cá.
Mẫu buồng trứng thu được từ 18 cá cái có trọng lượng từ 5,5 - 11 kg cho khoảng
2,1 - 7,1 triệu trứng (Wongsomnuk và Maneewongsa, 1976)
Cá Chẽm đẻ quanh năm (Kungvankij, 1984) mà thời điểm đẻ chính vụ từ
tháng 4 - tháng 8. Cá con cỡ 1 cm có thể thu được nhiều từ tháng 5 - tháng 8
(Bhatia và Kungvankij, 1971)
7. Đặc điểm dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng
7.1 Tính ăn và phổ thức ăn
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu như: Dunstan (1959, 1962), Patnai & Jena
(1976), Moore (1982), Garrett (1983) đều công nhận rằng cá Chẽm là loài cá dữ,
ăn mồi sống và có khi ăn thịt đồng loại trong suốt cuộc đời chúng [3]. Theo
Glenn Schipp (1996) cá Chẽm giống có khả năng ăn cá khác có chiều dài bằng
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
16

65-75% chiều dài cơ thể chúng và mỗi con cá lớn ăn ít nhất là 2 con cá nhỏ trong
một ngày.
Davis (1985b) đã nghiên cứu về thức ăn trong dạ dày của 3684 mẫu cá
Chẽm với kích thước chiều dài từ 0,4 - 120 cm được đem về từ vịnh Van Diemen
và vịnh Carpentaria. Ông đã xác định rằng, cá Chẽm là loài ăn mồi sống với phổ
thức ăn rất rộng, từ bọn giáp xác cỡ nhỏ đến bọn giáp xác có kích thước lớn. Cá

Chẽm phát triển đạt kích thước từ 1,1 - 2cm TL, thức ăn của chúng là cá cỡ nhỏ
và loại thức ăn này chỉ chiếm một phần nhỏ trong khẩu phần thức ăn hàng ngày
của chúng (khoảng 8%). Nhưng tỷ lệ phần trăm cá cỡ nhỏ trong khẩu phần thức
ăn hàng ngày của cá Chẽm lại tăng lên tới 87% khi chiều dài thân cá lớn hơn 100
cm TL [9].
Theo Nguyễn Thanh Phương (1994), cá Chẽm trưởng thành được xem là
loài cá dữ phàm ăn nhưng cá Chẽm giống lại ăn tạp. Phân tích dạ dày các mẫu cá
Chẽm thu được ngoài tự nhiên (cỡ 1 - 10cm TL) thì thấy có khoảng 20% là
phiêu sinh vật, chủ yếu là nhóm tảo khuê và phù du thực vật, phần còn lại gồm
tôm cá cỡ nhỏ (Kungvankij 1971). Đối với cá cỡ lớn hơn 20 cm TL, trong dạ dày
chứa 100% là mồi động vật, trong đó 70% là giáp xác (tôm, cua nhỏ) và 30% là
cá nhỏ. Những loài cá tìm thấy trong ruột cá Chẽm ở giai đoạn này chủ yếu là
Slipmouth hay cá Liệt (Leiognatus sp) và cá Đối (Mugil sp). [6]
7.2 Nhu cầu dinh dưỡng:
Cá Chẽm là loài cá dữ nên nhu cầu prôtêin trong thức ăn ở mức cao [27].
Sakaras & ctv (1988) xác định nhu cầu protein thô của cá Chẽm ở giai đoạn ấu
niên là vào khoảng 50% [24]. Hàm lượng protein tối ưu đối với cá Chẽm trưởng
thành vào khoảng 40-45% [28].
Hiện tượng cá Chẽm chết hàng loạt ở giai đoạn ấu trùng là do liên
quan đến chất lượng dinh dưỡng trong thức ăn, đặc biệt là giai đoạn biến thái
hình thái (metamorphosis) thành cá con (Juvenile) (Schipp1996) [11]. Ngoài
ra, protein cũng ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá. Thức
ăn cho cá Chẽm có hàm lượng protein càng cao thì cá tăng trưởng càng
nhanh và hệ số thức ăn giảm, nhu cầu protein cho cá Chẽm tăng trưởng ở
mức 63% (Kosutaraca, 1984).
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
17

8. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm trên thế giới:
8.1 Những nghiên cứu về sinh sản nhân tạo

Sinh sản nhân tạo cá Chẽm thành công lần đầu tiên ở Thái Lan vào năm
1971 bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo từ trứng và sẹ của cá bố mẹ đã chín
muồi đánh bắt từ các bãi đẻ tự nhiên. Cũng tại đây vào năm 1973 họ đã sinh sản
thành công bằng phương pháp tiêm kích dục tố và điều khiển môi trường [14].
Cho đến nay, ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á vẫn tồn tại 2
phương pháp sinh sản nhân tạo trên để sản xuất đại trà cá Chẽm[16], [14], [23].
8.2 Những nghiên cứu về thức ăn
Mặc dù chi phí sản xuất thức ăn sống để ương nuôi cá Chẽm là rất cao,
nhưng thức ăn công nghiệp dùng để thay thế thức ăn tươi sống đang ở trong giai
đoạn nghiên cứu và tính hiệu quả của nó vẫn còn là vấn đề cần quan tâm
(Sorgeloos và Leger, 1992) [10].
Maneewong và ctv (1984) [17], Pechmance, Ruangpanit, Krasingdecha
(1984); NICA (1983bc) đã thí nghiệm sử dụng các loại thức loại thức ăn khác
nhau như: Rotifer sống, Rotifer đông lạnh, lòng đỏ trứng, lòng đỏ trứng + sữa bột.
Họ đều nhận định rằng giai đoạn này ấu trùng rất nhạy cảm với thức ăn không
sống (Rotifer đông lạnh, lòng đỏ trứng và sữa bột và thức ăn phù hợp nhất cho ấu
trùng cá Chẽm từ 3 đến 12 ngày tuổi là Rotifer sống. Thức ăn không sống không
thể thay thế Rotifer sống trong thời gian dài, nó chỉ có thể thay thế một phần hay
hoàn toàn trong thời gian ngắn (2 - 3 ngày) khi nguồn thức ăn sống không đủ.
Việc trì hoãn cho ấu trùng ăn bằng Artemia đến ngày thứ 15 đạt tốc độ
tăng trưởng chậm hơn khi cho ấu trùng ăn từ ngày thứ 10 sau khi nở trong thời
gian ương là 26 ngày. Giai đoạn này, có thể sử dụng Moina để thay thế một phần
hay hoàn toàn Artemia cho ấu trùng cá Chẽm, nhưng khi cá đạt kích cỡ 5,5 mm
là thích hợp nhất (Naret và Fermin, 1994). Ấu trùng cá Chẽm tiêu thụ Moina
hàng ngày tuỳ thuộc vào tuổi, kích cỡ của cá và điều kiện môi trường. Ấu trùng
30 ngày tuổi có thể tiêu thụ 17,19 ± 1,96 ct /ấu trùng cá /ngày (Fermin 1991).
Ấu trùng cá Chẽm 11 - 28 được cho ăn bằng động vật phù du nhân tạo
(artificial zooplankton) với tỉ lệ cho ăn khác nhau là 0,03 và 0,06 g /30 L nước
/ngày và Artemia làm đối chứng. Kết quả tỉ lệ sống tương ứng là 28,5%, 43,5%
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

18

và 69%. Trong khi đó cá Chẽm từ 21 - 28 ngày tuổi cũng cho ăn bằng động vật
phù du nhân tạo với tỉ lệ là 0,12 g /30 L nước, lòng đỏ trứng 0,3 g /30 L nước, lập
công thức thức ăn 0,5 g /30 L nước và Arctemia 3ct /ml làm đối chứng. Kết quả
tỉ lệ sống tương ứng là 39,55%, 55%, 24,5% và 76% (Pechmane và Ugkanon và
Tatatia 1984).
Nishinaka và Nishmura 1987 đã thử nghiệm thay thế một nửa thức ăn
sống bằng thức ăn viên có màng bọc protein (15 - 150µm) kết quả không ảnh
hưởng lên tỉ lệ sống và tăng trưởng của ấu trùng [10]. Ngược lại ấu trùng có thể
ăn thức ăn viên nhưng chúng không thể tiêu hoá được thức ăn này (Walford và
ctv, 1991). Trong khi đó lượng nước trong thức ăn viên cho cá Chẽm lại không
ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống nhưng lại ảnh hưởng một phần
đến hệ số chuyển đổi thức ăn (Chou, 1984 và Chong, 1986).
Kết quả nghiên cứu của Viện Nuôi trồng Hải sản Thái Lan (NICA 1983a)
về thử nghiệm sử dụng 50% thức ăn viên có hàm lượng protein khác nhau (30,
40, 50%) kết hợp với 50% cá tạp để ương cá chẽm 0,3 - 0,4 g /con (60 ngày tuổi)
kết quả đạt mức tăng trưởng riêng /ngày là 0,115 mg/ngày; 0,112 mg /ngày;
0,123 mg/ngày tương ứng với mức protein khác nhau.
9. Tình hình nghiên cứu về cá Chẽm ở Việt Nam
Từ thập niên 70, ở nước ta mới chỉ có những nghiên cứu về những đặc điểm
phân loại, hình thái nhận dạng và vùng phân bố của cá Chẽm như những nghiên cứu
của Mai Đình Yên (1979). Đến những năm 90 đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu, đề
tài khoa học tập trung nghiên cứu đối tượng cá Chẽm như: Nguyễn Quang Huy
(1999) cho rằng thức ăn tốt cho cá Chẽm ở giai đoạn từ 20 - 40 ngày tuổi là luân
trùng kết hợp với N-artemia, mật độ nuôi ảnh hưởng đến cá giai đoạn từ 20 - 40
ngày tuổi, độ mặn thích hợp cho sự phát triển phôi là 34 ppt. Võ Ngọc Thám (1995),
điều tra một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá Chẽm ở đầm Nha Phu, Khánh
Hoà, đã xác định được mùa vụ sinh sản, cỡ thành thục và vị trí bãi đẻ ở đó.
Lương Công Trung (1999), thử nghiệm sinh sản nhân tạo cá Chẽm (Lates

calcarifer Bloch 1790) từ nguồn cá thành thục ngoài tự nhiên và bước đầu nghiên
cứu thuần dưỡng cá bố mẹ trong điều kiện nhân tạo đồng thời đã xác định được
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
19

thức ăn tốt nhất cho cá Chẽm ở giai đoạn từ 20 - 44 ngày tuổi là rotifer kết hợp
với N-artermia.
Đến năm 2000, Nguyễn Duy Hoan và Võ ngọc Thám đã thử nghiệm thành
công đề tài: "Nghiên cứu sản xuất thử giống cá Chẽm tại Khánh Hoà" và đưa ra
quy trình giống sản xuất nhân tạo và ương nuôi cá từ giai đoạn bột lên cá giống.
Cũng trong năm 2000, Huỳnh Văn Lâm cho biết nhiệt độ và độ mặn thích hợp
nhất cho cá Chẽm bột sinh trưởng và phát triển là 28
o
– 31
o
C và 25 - 35 ppt.
Đây là những nghiên cứu hết sức quan trong góp phần phát triển nghề nuôi
cá Chẽm ở nước ta và cải thiện tình hình nuôi trồng thuỷ sản hiện nay.


























PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
20

PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Cá Chẽm Lates calcarifer (Bloch, 1790)
Thời gian nghiên cứu : Từ ngày 8 /8 /2006 đến 11 /11 /2006.
Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nuôi biển
Sông Lô, Nha Trang










Hình 8: Toàn cảnh Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nuôi biển Sông Lô.
2. Vật liệu nghiên cứu:
2.1 Các loại thức ăn sử dụng:
- Rotifer (Brachionus plicatilis, Muller)
- Tảo Nanochloropsys oculata.
- N-Artermia ấp nở sau 24 giờ.
- Thịt cá tươi xay nhỏ: chủ yếu là cá Nục
- Thức ăn tôm của hãng Hải Long với 2 cỡ: N
0
0

và N
1
1.







PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
21

2.2 Dụng cụ thí nghiệm:
Hệ thống bể nhựa gồm 9 cái, thể tích 140 L có sục khí.










Hình 9: Hệ thống bể thí nghiệm.
2.3 Các thiết bị đo lường:
- Nhiệt kế thuỷ ngân: Dùng để đo nhiệt độ, chính xác đến 1
o
C.
- Sali kế: Dùng để đo độ mặn, chính xác đến 1 ppt.
- Máy đo pH: Dùng để đo pH, chính xác đến 0,1.
- Máy đo DO: Dùng để đo hàm lượng oxy hoà tan, chính xác đến 0,01 mg /L.
- Pipet định lượng Rotifer và Artemia.
- Cân điện tử hiệu AND của Nhật Bản phạm vi sử dụng 42 g với độ
chính xác 0,01 mg.
- Kính hiển vi soi nổi và thước thẳng.
- Cân thức ăn với độ chính xác 0,01 g.







Hình 10: Kính hiển vi soi nổi

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

22

3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu:
3.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu.



















3.2 Tìm hiểu quy trình ương nuôi cá Chẽm (L.calcarifer) từ khi nở đến 45
ngày tuổi
- Tham khảo tài liệu.
- Tìm hiểu về hệ thống công trình ương nuôi thông qua cán bộ công nhân
viên của trại.
- Trực tiếp tham gia vào quá trình ương nuôi của trại.
- Xác định một số thông số môi trường ương nuôi, các chỉ tiêu về sinh

trưởng và tỷ lệ sống.


Nội dung nghiên cứu

Tìm hiểu
kỹ thuật
ương nuôi
cá Chẽm
(Lates
calcarifer)

Ảnh hưởng
của mật độ
Rotifer đến
sinh trưởng
và tỷ lệ
sống của ấu
trùng cá
Chẽm giai
đoạn 2 đến
15 ngày tuổi

Ảnh hưởng
của các loại
thức ăn đến
sinh trưởng
và tỷ lệ
sống của ấu
trùng cá

Chẽm giai
đoạn 25 đến
45 ngày tuổi


Nhận xét và kết luận
Hình 11: Sơ đồ khối nội dung nghiên
c

u

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
23

3.3 Ảnh hưởng của mật độ Rotifer đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của ấu
trùng cá Chẽm từ 2 đến 15 ngày tuổi
Ÿ Bố trí thí nghiệm:
- Hệ thống thí nghiệm gồm 3 lô, mỗi lô lặp lại 3 lần. Thí nghiệm được tiến
hành trong các bể nhựa với thể tích nước 100 L. Sục khí liên tục cả ngày.
- Mật độ cá thả 30 con /L
- Nước biển cấp vào bể đã qua lắng, xử lý bằng tia cực tím và lọc sạch.
- Tảo được cấp vào bể với mật độ 3- 4.10
4
tb /mL
- Bố trí thí nghiệm các lô với mật độ luân trùng khác nhau.












Hình 12: Sơ đồ bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của mật độ luân trùng

Ÿ Chăm sóc quản lý:
Trong suốt quá trình thí nghiệm (2 đến 15 ngày tuổi) mật độ Rotifer luôn
được duy trì ở mức xác định.
Hằng ngày cho cá ăn vào lúc 7 giờ sáng và 14 giờ. Trước khi cho ăn,
xác định mật độ Rotifer đưa vào và mật độ Rotifer còn lại để bổ sung cho
đúng mật độ 10; 20 và 30 con /mL.



Cá Chẽm mới nở
Tăng trưởng theo chiều dài,
Tỷ lệ sống
10con/mL 20con/mL 30con/mL
Đánh giá và kết luận
Cá Chẽm mới nở
Lô 1
10 con/mL

Lô 2
20 con/mL
20


30con/mL
Cá Chẽm mới nở
30con/mL
Bố trí thí nghiệm
Lô 3
30 con/mL
330

PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
24

Phương pháp xác định mật độ luân trùng:
- Dùng pipet hút 1 mL luân trùng cho vào cốc và pha loãng 100; 200; 400
lần (tuỳ thuộc mật độ cao hay thấp), khuấy đều rồi hút 1 mL dung dịch vừa pha
loãng đó đưa ra ánh sáng và đếm những con luân trùng chuyển động.
- Mật độ luân trùng bằng số luân trùng đếm được trong 1 mL đã pha
loãng nhân với số lần pha loãng.
- Để chính xác thì đếm khoảng 3 lần rồi tính trung bình.
- Đối với mật độ luân trùng còn lại trong bể ương thì không cần pha loãng.
Ÿ Chế độ sục khí:
Sục khí nhẹ nhàng tránh làm cá sốc. Theo dõi các yếu tố môi trường bể
ương 2 lần/ngày trước khi thay nước vào 7h sáng và 14h chiều. Đo các yếu tố
môi trường như hàm lượng oxy hoà tan (DO), pH, nhiệt độ nước, độ mặn.
Ÿ Chế độ thay nước:
Khi cá đạt 5 ngày tuổi trở đi, hằng ngày vào buổi sáng trước khi tiến hành cấp
Rotifer, siphon thay nước và cấp thêm tảo. Việc siphon giúp loại bỏ xác tảo, xác cá
chết, phân cá và làm sạch nền đáy. Lượng nước thay khoảng 30% thể tích nước trong
bể. Tảo cấp vào bể giúp ổn định môi trường nước đồng thời làm thức ăn cho Rotifer.
Ÿ Xác định tăng trưởng của ấu trùng:
Thu mẫu để kiểm tra sinh trưởng về chiều dài của cá vào ngày tuổi thứ 8 và 15.

Số lượng cá thu là 30 con/mẫu. Sau 15 ngày ương thu cá để xác định tỷ lệ sống.
3.4 Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống:
3.4.1 Bố trí thí nghiệm:
- Hệ thống thí nghiệm gồm 3 lô, mỗi lô lập lại 3 lần.
- Thí nghiệm tiến hành trong các bể nhựa có thể tích nước là 100 L. Sục
khí liên tục cả ngày.
- Mật độ cá thả 15 con/ L
- Nước biển cấp vào bể đã qua lắng, xử lý bằng tia cực tím và lọc sạch.




PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

×