LUẬN VĂN:
Quá trình nhận thức lý luận về
văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến năm 1945
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế như
thời gian gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa và vai trò ngày càng tăng của nó
trong thế giới hiện đại đang đặt ra hàng loạt vấn đề cấp bách cho nghiên cứu khoa học
về văn hóa. Mặt khác, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về văn hóa đã đem lại
những khả năng to lớn cho con người trong việc nhận thức sâu sắc và toàn diện về văn
hóa. Một nhà khoa học Mỹ - P. Smith đã từng nói:
Khả năng hiểu biết văn hóa trở nên một phần thiết yếu của bổn phận
làm một công dân tốt. Và chính lý thuyết văn hóa đã cung cấp cho chúng ta
một nguồn quan trọng giúp ta thực hiện được điều này. Lý thuyết văn hóa
cung cấp cho chúng ta những mẫu hình cơ bản, các khái niệm có thể áp
dụng được trong đời sống cá nhân, đời sống tập thể và trí tuệ chúng ta [52,
tr.3].
Đối với nước ta, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay, rất nhiều vấn đề bức xúc trên lĩnh vực văn hóa đang đặt ra đòi hỏi
lực lượng nghiên cứu văn hóa phải có trách nhiệm giải đáp.
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ năm
khoá VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã
mở ra một bước mới cho công tác nghiên cứu văn hóa. Đồng thời, nhiệm vụ đặt trên
vai đội ngũ nghiên cứu văn hóa càng nặng hơn. Đó là: vừa nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn, vừa định hướng phát triển và dự báo tương lai, góp phần thực hiện mục
tiêu văn hóa mà Đảng ta đã khẳng định. Nhiệm vụ to lớn đó không chỉ tác động đến
tình hình văn hóa của những năm đổi mới mà còn ảnh hưởng của cả tiến trình vận
động lâu dài của văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ ra những hạn chế trên phương diện nghiên
cứu lý luận văn hóa:
Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan
đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị
truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và
chính trị, văn hóa và kinh tế [18, tr.23].
Do đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận văn hóa để đáp ứng được với yêu
cầu của sự phát triển đất nước là vấn đề đang đặt ra hiện nay. Bên cạnh việc tiếp thu
các thành tựu các lý thuyết văn hóa của thế giới đương đại thì việc khai thác những kết
quả nghiên cứu văn hóa trong nước từ trước đến nay rất có ý nghĩa đối với công tác
nghiên cứu hiện nay. Những kết quả này gắn liền với thế kỷ XX - thế kỷ đánh dấu
những bước chuyển to lớn của văn hóa Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Quá trình nhận thức lý luận về văn
hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Văn hóa học.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nửa thế kỷ nghiên cứu văn hóa với nhiều giai đoạn khác nhau đã tạo nên một
khối lượng lớn các công trình nghiên cứu. Cho đến nay, các kết quả này được đề cập
đến chủ yếu thông qua những phương diện sau:
Thứ nhất là các công trình sưu tập, biên soạn tác phẩm, các bài viết về văn hóa
theo những chủ đề nhất định. Có thể kể đến cuốn sách Luận về Quốc học (nghiên cứu
và cảo luận) do Trung tâm Quốc học biên soạn, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ
cho đến năm 1945 về văn hóa dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu các bài viết đăng trên tạp
chí Nam Phong từ năm 1917 đến năm 1934, tác giả Phạm Thị Ngoạn trong cuốn sách
Tìm hiểu về Nam Phong tạp chí dành một chương Nền văn hóa Quốc gia để tổng luận
những vấn đề liên quan đến văn hóa. Mới đây, nhà xuất bản Lao động đã cho ra cuốn
sách “Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX” gồm 2 tập, tập hợp những bài viết xung quanh
các cuộc tranh luận lớn đầu thế kỷ XX về văn hóa nghệ thuật, trong đó có nhiều bài
viết trực tiếp đề cập đến văn hóa.
Thứ hai là những công trình đề cập đến một xu hướng lý luận văn hóa cụ thể.
Đó là các cuốn sách nghiên cứu về “Đề cương văn hóa Việt Nam” như:
50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, 1995
60 năm Đề cương văn hóa với văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay- Đỗ
Thị Minh Thúy - Nxb Văn hóa thông tin, 2003
Thứ ba là các công trình khái quát những thành tựu nghiên cứu văn hóa ở Việt
Nam. Trong “Hành trình vào văn hóa học”, tác giả Bùi Quang Thắng đã tổng quan về
tình hình nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Theo tác giả, những thành tựu trong nghiên
cứu văn hóa ở nước ta được thể hiện ở các lĩnh vực sau:
- Lý luận và lịch sử văn hóa
- Các nghiên cứu Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học
- Các nghiên cứu văn hóa dân gian
- Các nghiên cứu tâm lý học
- Các nghiên cứu xã hội học
Tác giả Nguyễn Chí Bền, trong bài “Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, trước thềm
thế kỷ XXI, mấy suy nghĩ”, đã điểm lại những dấu mốc quan trọng trong quá trình
nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam. Đó là sự ra đời công trình nghiên cứu văn hóa đầu
tiên của Việt Nam theo hướng văn hóa học - Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy
Anh, Văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên. Theo tác giả, đây là các công trình
đặt nền móng cho việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Tác giả cũng đã đề cập đến sự
ra đời của Đề cương văn hóa Việt Nam như một sự kiện quan trọng mở ra những
hướng mới trong công tác nghiên cứu văn hóa các giai đoạn sau này.
Như vậy, những công trình trên đây hoặc là tập hợp tư liệu, hoặc là có điểm qua
những kết quả nghiên cứu lý luận văn hóa (theo nghĩa rộng) ở nước ta đầu thế kỷ XX
một cách khái quát, sơ lược. Mặc dù đã có nhiều tác giả đưa ra những nhận xét về tình
hình nghiên cứu lý luận văn hoá ở các giai đoạn khác nhau, nhưng đến nay chưa có
công trình nào đi vào tổng kết, hệ thống hoá và đánh giá sự phát triển nhận thức lý
luận văn hoá ở nửa đầu thế kỷ XX. Kế thừa những thành tựu này, luận văn sẽ tiếp tục
khảo sát, phân tích đánh giá về vấn đề trên cùng với mong muốn cung cấp một cái
nhìn toàn cảnh sự phát triển nhận thức này, tạo tiền đề để chúng ta suy nghĩ tiếp về
tình hình văn hoá ở thế kỷ XXI.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hóa những quan điểm về văn hóa ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX đến năm 1945, luận văn khẳng định sự vận động, phát triển trong nhận
thức về văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ này, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
trong công tác nghiên cứu văn hóa hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu về lý luận văn hóa ở Việt Nam trong nửa đầu
thế kỷ XX gắn liền với các xu hướng nghiên cứu lý luận văn hóa.
- Chỉ ra tính quy luật của sự vận động trong nhận thức về văn hóa ở Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX
- Bước đầu rút ra ý nghĩa của những kết quả này đối vớí công tác nghiên cứu lý
luận văn hóa hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tìm hiểu những quan điểm về lý luận văn hóa trong các sách, báo, tạp
chí của các tác giả Việt Nam và trong các công trình dịch thuật ở Việt Nam từ đầu thế
kỷ đến năm 1945. Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của đề tài, luận văn không khảo
cứu các lý thuyết văn hóa trong các công trình dân tộc học, lịch sử văn hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ
nghĩa duy vật lịch sử và kết hợp phương pháp lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp thống kê tư liệu và so sánh, phương pháp chuyên gia… để
thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
5. Đóng góp mới về khoa học
Lần đầu tiên, luận văn tập trung hệ thống hóa những quan điểm về văn hóa ở
nước ta trong nửa đầu thế kỷ XX, trên cơ sở đó khái quát xu hướng vận động của
những quan điểm này, đồng thời rút ra ý nghĩa đối với việc phát triển nghiên cứu lý
luận văn hóa ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương 8 tiết.
Chương 1
Cơ sở hình thành những nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam giai đoạn đầu thế
kỷ đến năm 1945
1.1. Lý luận văn hóa - bộ môn chính của khoa học nghiên cứu văn hóa
1.1.1. Văn hóa và các khoa học nghiên cứu văn hóa
Trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc, văn hóa là một trong những từ phức tạp
nhất, có nhiều nghĩa nhất. Thuật ngữ “văn hóa” về mặt từ vựng được dịch từ thuật ngữ
“culture” của Anh - Pháp. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh “colere” sau
chuyển thành “cultura” có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau từ "cultura" chuyển từ
nghĩa trồng trọt cây cối sang thành vun trồng tinh thần, trí tuệ. ở Trung Hoa nghĩa gốc
Hán học của từ “văn” là cái đẹp, vẻ đẹp do màu sắc tạo ra, “Văn hóa” là làm cho trở
nên đẹp, trở nên sáng. Cùng với thời gian, số lượng các định nghĩa về văn hóa không
ngừng tăng. Ngay từ năm 1952, C. Kluckholn và A. Kroeber, hai nhà văn hóa học Mỹ
đã thống kê “có 150 định nghĩa khác nhau về văn hóa” [70, tr.10], ngày nay con số đó
vượt xa rất nhiều. Thực tế cho thấy, không thể tìm ra được một định nghĩa duy nhất,
tuyệt đối chính xác, là chuẩn mực chung cho văn hóa, bởi tính phức tạp của nó. Cho
nên, các định nghĩa khác nhau về văn hóa ra đời với tính chất là hệ quả tất yếu của tính
phức tạp nói trên. Khi thấy cần phải giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó, trong một
hoàn cảnh nhận thức mới xuất hiện, các nhà nghiên cứu văn hóa lại đưa ra các quan
niệm mới làm cho các định nghĩa ngày càng nhiều thêm. Nhưng cho dù các định nghĩa
đó phong phú thế nào đi chăng nữa thì tựu trung lại, văn hóa có thể được hiểu ở các
khía cạnh sau:
Văn hóa là cái phân biệt giữa con người với động vật, chỉ có văn hóa ở con
người mà không có văn hóa ở động vật. Như vậy, văn hóa là phạm trù chỉ thuộc tính
của loài người.
Văn hóa là dấu hiệu đặc trưng cho xã hội loài người (dấu hiệu để phân biệt xã
hội này với xã hội khác, dân tộc này với dân tộc khác)
Văn hóa là cái không thể kế thừa theo con đường sinh học mà phải do học tập
mà có.
Văn hóa thường gắn với các ý niệm (thế giới tinh thần)
Văn hóa được truyền đạt dưới dạng biểu tượng.
Trong luận văn này, văn hóa được hiểu là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã
hội.
Thuộc về lĩnh vực tinh thần, văn hóa ra đời từ khi con người xuất hiện trên trái
đất này. Tuy nhiên cũng như nhiều hiện tượng khác, mãi đến sau này nó mới trở thành
đối tượng nghiên cứu riêng biệt của khoa học, khi có hàng loạt những tiền đề cho sự ra
đời của các khoa học văn hóa.
Một là, sự biến chuyển sâu sắc của đời sống chính trị - xã hội và tinh thần ở
châu Âu thế kỷ XVIII, XIX gắn liền với việc phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập và phát triển. Những quan hệ kinh tế tư bản đã quy định những yếu tố cơ
bản của văn hóa thời kỳ này. Hàng loạt các vấn đề văn hóa mới nảy sinh, niềm tin, hệ
giá trị, đạo đức trong xã hội trung cổ tan rã nhanh chóng bởi quá trình công nghiệp hóa
và kinh tế thị trường, làm cho đời sống văn hóa xã hội có những xáo động, bất ổn. Các
khoa học văn hóa ra đời để nghiên cứu những biến chuyển trong lĩnh vực văn hóa
nhằm phục vụ cho sự ổn định xã hội, giữ gìn truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc,
tránh sự nghèo nàn về văn hóa của các dân tộc.
Hai là, với các phát kiến địa lý vĩ đại, châu Âu đã phát hiện ra nhiều vùng đất
mới, “như vừa thức tỉnh từ giấc mơ trung cổ cả một thế giới mới được mở ra chứa đầy
sự đa dạng của các hình thức văn hóa và những đặc biệt của lối sống” [7, tr.10]. Sau
đó là công cuộc chinh phục các nước thuộc địa được mở rộng từ châu á sang châu Phi
đã đem lại kho tư liệu dân tộc học hết sức phong phú. Đồng thời, quá trình đó đã sản
sinh ra nhu cầu nghiên cứu văn hóa của các dân tộc này nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc
khai thác thuộc địa.
Ba là, hàng loạt những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học lịch sử, khảo
cổ, địa lý…ra đời trong giai đoạn này đã tác động mạnh mẽ đến những nhận thức,
quan niệm về văn hóa, là cơ sở cho sự ra đời của nhiều lý thuyết văn hóa nổi tiếng.
Tiêu biểu là học thuyết tiến hóa của Ch. Đácuyn, học thuyết đã xóa đi ranh giới giữa
các giống loài mà coi đó là kết quả sự phát triển liên tục của tự nhiên. Tư tưởng này đã
được các nhà nghiên cứu văn hóa xem xét trong quá trình phát triển của văn hóa và xã
hội loài người. Đó là cội nguồn cho sự ra đời của các lý thuyết tiến hóa luận về văn
hóa với các tên tuổi như L.M.Morgan, E.B.Taylor…
Những điều kiện trên đây đã đưa đến kết quả là sau hàng nghìn năm tồn tại của
văn hóa, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các khoa học về văn hóa mới “phát triển
nở rộ”. Văn hóa trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn
như: khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nhân học, văn hóa học…Dưới đây là những
nét khái quát của một số ngành khoa học nghiên cứu văn hóa.
Dân tộc học, hiểu theo nghĩa gốc do tiếng ethous - tộc và grapho miêu tả, ghi
chép ghép lại, trở thành một khoa học độc lập ở giữa thế kỷ XIX dựa trên những thành
tựu của tri thức tự nhiên với sự phát triển của học thuyết Tiến hóa do J. B. Lamac, Ch.
Đácuyn sáng lập. Học thuyết này đã đặt cơ sở lý luận cho dân tộc học. Sử dụng các
quy tắc của thuyết Tiến hóa, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu xã hội nguyên
thủy và văn hóa nhân loại, trong số đó phải kể đến vai trò hàng đầu của các nhà sáng
lập ra dân tộc học là L.G Moocgan, I. Bacophen, E. Tylor. EB.Tylor gọi ngành khoa
học này là tộc người học với đối tượng là văn hóa các dân tộc sơ khai. Trong tác phẩm
“Văn hóa nguyên thủy”, ông đã chỉ ra nhiệm vụ của dân tộc học là:
Từ những hiện tượng văn hóa ở những xã hội con người khác nhau “nghiên cứu
những yếu tố chung làm cơ sở cho chúng, là đối tượng thuận tiện để nghiên cứu các
quy luật tư duy và hoạt động của con người” [57, tr.84], trong đó ông đặc biệt chú ý
tới sự so sánh các bộ lạc còn trong trạng thái dã man, lạc hậu với văn hóa của các dân
tộc tiên tiến.
Nghiên cứu văn hóa các dân tộc phải chia nó thành những bộ phận hợp thành và
xếp loại những bộ phận đó nhằm mục đích phân bố chúng về mặt địa lý hay lịch sử và
vạch ra những quan hệ của chúng với nhau.
Nghiên cứu những nguyên nhân đẻ ra các hiện tượng văn hóa và các quy luật
chi phối chúng - trước hết cần phải xây dựng càng có hệ thống càng tốt một sơ đồ phát
triển văn hóa theo những hướng khác nhau. Bằng cách so sánh các giai đoạn văn hóa
khác nhau ở những xã hội nào đó trong lịch sử, đối chiếu chúng với những tài liệu
khảo cổ học nằm trong các di tích văn hóa của những bộ lạc tiền sử.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xuất hiện các trường phái dân tộc học phê
phán thuyết tiến hóa, chống lại nguyên lý của phương pháp lịch sử trong dân tộc học,
tính quy luật trong sự phát triển của các hiện tượng dân tộc học. Các nhà khoa học
thuộc trường phái này thừa nhận khuếch tán như là yếu tố cơ bản trong sự phát triển
văn hóa. Văn hóa được coi là một tổng thể các hiện tượng không lặp lại, đơn nhất.
Trường phái dân tộc học Xôviết quan niệm dân tộc học là “bộ môn khoa học
lịch sử, chủ yếu dùng phương pháp trực tiếp quan sát để nghiên cứu sinh hoạt và
phong tục tập quán, sự phân bố và quan hệ văn hóa và lịch sử của các dân tộc trên thế
giới” [13, tr.3]. Đối tượng của nó là nghiên cứu nguồn gốc dân tộc, nghiên cứu lịch sử
hình thành các đặc điểm văn hóa và sinh hoạt dân tộc, lịch sử phân bố và di cư các dân
tộc.
Ngày nay, dân tộc học đã có những bước phát triển mới, tuy còn tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau, nhưng nhiều nhà dân tộc học trên thế giới đã đi đến nhận thức
chung về đối tượng của dân tộc học là “tất cả các dân tộc, dù ở thang bậc phát triển
thấp hay cao, thiểu số hay đa số, đã tồn tại trong quá khứ hay là đang tồn tại hiện nay”
[23, tr.8]. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và với các nội dung nghiên cứu
phong phú và đa dạng nhất được các nhà dân tộc học đặc biệt quan tâm là nghiên cứu
các đặc trưng sinh hoạt - văn hóa truyền thống và hiện đại, vạch ra cho được diện mạo
của tộc người, không phải chỉ có các đặc trưng phân biệt nó, mà cả các đặc điểm
chung với các tộc người khác. Đó là hàng loạt những đặc trưng thuộc lĩnh vực văn
hóa: nếp sống cổ truyền như nhà cửa truyền thống, thành phần thức ăn, tập quán của
đời sống gia đình, hôn nhân và các phong tục, trong các hành vi hàng ngày của các
thành viên. Đối với đặc thù tộc người của các dân tộc hiện đại là sự xuất hiện của
những truyền thống mới trong khuôn khổ của đời sống văn hóa hàng ngày như văn hóa
tinh thần nghề nghiệp.
Như vậy, dân tộc học đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu một trong những
khía cạnh cơ bản của toàn bộ lịch sử văn hóa nhân loại, nó đóng vai trò quan trọng
trong sự tái tạo lại lịch sử văn hóa của các giai đoạn phát triển sớm của xã hội. Cho
nên có thể nói rằng, dân tộc học là một bộ môn khoa học về nghiên cứu văn hóa.
Trong nghiên cứu các vấn đề hiện đại, công việc của các nhà dân tộc học có
liên hệ chặt chẽ tới xã hội học, cả hai bộ môn này đều quan tâm đến một số hay nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội học là một môn khoa học nghiên cứu về những
con người trong mối tương quan với những con người khác. Nó đã tiếp nhận từ dân tộc
học nhiều khái niệm như thể chế, các hệ thống xã hội - cơ cấu xã hội, chuẩn mực, giá
trị, biểu tượng… để hoàn thiện bộ khung khái niệm của mình. Ngay từ khi mới ra đời,
những người sáng lập ra nó đã hết sức chú trọng đến văn hóa. A. Comte - cha đẻ của
khoa học này đã nhấn mạnh rằng: quan niệm đời sống xã hội như một quá trình phát
triển tự nhiên và hợp quy luật khách quan nhưng đồng thời cũng là thể thống nhất về
tinh thần và văn hóa. Ông đã xác định nhiệm vụ của xã hội học trước hết phải tập
trung phân tích các quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Một nhà xã hội học
nổi tiếng là Max Weber cũng đã có nhiều công sức để xây dựng môn xã hội học văn
hóa. Trong các tác phẩm của mình, Max Weber đã phân tích một cách sâu sắc sự thâm
nhập lẫn nhau giữa các yếu tố văn hóa và xã hội, qua đó chỉ ra ảnh hưởng to lớn của tư
tưởng đến sự biến đổi và phát triển của xã hội. Max Weber quan niệm rằng xã hội học
chính là khoa học về văn hóa. Đóng góp cho sự ra đời của xã hội học văn hóa còn có
người sáng lập ra chủ nghĩa Mác. Các Mác xem các phương diện tinh thần và văn hóa
như tôn giáo, luật pháp, triết học, nghệ thuật… với tư cách là kiến trúc thượng tầng
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng - những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của xã
hội. Đồng thời, kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối, có vai trò tích cực
trong quá trình kinh tế - xã hội, tác động đến mọi mặt của quá trình đó. Tư tưởng về
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Mác có ý nghĩa phương
pháp luận trong nghiên cứu xã hội học văn hóa, nó giúp cho việc “đặt ra và giải quyết
một cách khoa học các vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội” [24, tr.36].
Cho đến hiện nay, các nhà khoa học trên thế giới vẫn còn tranh luận về sự tồn
tại của xã hội học văn hóa, ngành khoa học này vẫn còn gặp nhiều khó khăn trên con
đường xác lập cho mình một vị trí bình đẳng với các bộ môn khác của xã hội học.
Nhưng có một thực tế là không có một cuốn sách xã hội học nào lại không có những
chương, những mục, những phần bàn về văn hóa. Kể từ khi xã hội học mới ra đời, văn
hóa đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nó. Với nhiệm vụ “xem xét cấu trúc và hoạt
động của văn hóa trong mối liên hệ với các cơ cấu, thiết chế xã hội và được áp dụng
đối với các tình huống lịch sử cụ thể” [48, tr.80], xã hội học văn hóa đã tự khẳng định
là một chuyên ngành của xã hội học. Những kết quả nghiên cứu mà nó đem lại ngày
càng có ý nghĩa và đóng góp quan trọng cho các khoa học xã hội và nhân văn.
Dựa trên những thành tựu của các môn khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học,
xã hội học và tâm lý học so sánh, một bộ môn khoa học về “sự phát triển của con
người dưới hình thức những nền văn hóa của các nhóm dân tộc khác nhau” ra đời, đó
chính là nhân học văn hóa. Nhân học văn hóa ra đời khi mà các nhà khoa học nhận ra
rằng không thể dùng những yếu tố như chủng tộc hay sinh học để giải thích nguyên
nhân khác nhau về trang phục, ngôn ngữ, tín ngưỡng… của con người trên thế giới.
Phải có một cái gì tạo nên những sự khác biệt này, đó chính là văn hóa - những hành vi
và quan niệm con người học hỏi với tư cách là thành viên của xã hội. Nhân học văn
hóa tiếp thu những tài liệu do dân tộc học đem lại về: hoàn cảnh địa lý, lịch sử, ngôn
ngữ, đặc điểm nhân chủng, phương thức sản xuất, cái ăn, cái mặc, cái ở, cách cư trú,
tín ngưỡng, lễ nghi tập tục những biểu hiện có tính nghệ thuật, mối quan hệ qua lại
giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, những chuẩn mực trong hành vi,
cung cách ứng xử… Trên cơ sở đó, các nhà nhân học văn hóa so sánh phân tích các
thiết chế xã hội chủ yếu (chính trị và kinh tế, tín ngưỡng, pháp lý, hôn nhân, sinh đẻ),
tiến hành tổng hợp xã hội học, giải thích nguyên nhân giống nhau và khác nhau, mức
độ ổn định trong sự phát triển văn hóa của các nhóm dân tộc. Như vậy, nhân học văn
hóa là kết quả của sự giao thoa giữa dân tộc học và xã hội học. Nếu như xã hội học đã
tiếp nhận những khái niệm của dân tộc học thì đến nhân học văn hóa lại kế thừa những
khái niệm của xã hội học làm công cụ cho quá trình khái quát hóa, tổng hợp của mình.
Điều này giúp cho các nhà nhân học văn hóa đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu bước khởi
đầu quá trình biến đổi, phát triển của văn hóa, sự khác biệt về mặt văn hóa giữa các
dân tộc, khu vực, quốc gia và các loại hình văn hóa khác nhau. Những hoạt động mà
các nhà nhân học văn hóa đã tiến hành đóng góp quan trọng đối với việc xây dựng cơ
sở lý thuyết của sự hình thành bộ môn văn hóa học.
Trước yêu cầu phải có cách nhìn toàn diện đối với một đối tượng phức tạp như
văn hóa, phải có “kiến thức đồng bộ, tư duy tổng hợp và phương pháp tiếp cận liên ngành
trên cơ sở tích hợp các dữ liệu của nhiều khoa học”[61, tr.5], văn hóa học đã ra đời.
Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên năm 1909 do W. Ostwld đề xướng. Xuất phát từ
quan niệm cho rằng văn hóa là những gì phân biệt con người với động vật, hoạt động
văn hóa là hoạt động chỉ con người mới có, nhà triết học Đức đưa ra khái niệm văn
hóa học là “khoa học về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt động đặc biệt của con
người”[70, tr.9]. Nhưng phải đến L.A. White (1900 - 1975) nhà nhân học người Mỹ,
văn hóa học mới thực sự có bước phát triển với những tác phẩm nghiên cứu về văn
hóa như “Khoa học về văn hóa”, “Sự tiến hóa của văn hóa”, “Khái niệm văn hóa”. Với
những công trình lý luận này, ông đã “đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một
khoa học độc lập, lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên
tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học” [70, tr.10]. Văn hóa học, theo L.A.
White, là một “chuyên ngành của nhân học trong đó xử lý văn hóa (các thiết chế, các
công nghệ, các hệ tư tưởng) với tính cách một lớp riêng biệt các hiện tượng được tổ
chức theo các nguyên tắc riêng biệt và ứng xử theo các quy luật riêng biệt của nó” [70,
tr.19]. Tuy nhiên, cũng như khái niệm văn hóa, xung quanh văn hóa học vẫn còn rất
nhiều ý kiến khác nhau, thể hiện tính chất không thuần nhất của bộ môn khoa học này.
V.M. Megiuep, nhà khoa học Nga đã phủ định tư cách khoa học của văn hóa
học:
Có lẽ sẽ sai lầm nếu hiểu văn hóa học là một khoa học nào đó đã dứt
khoát hình thành cùng với ranh giới đã được tách biệt rõ ràng của một bộ
môn khoa học với một hệ thống tri thức đã hoàn toàn hình thành. Văn hóa
học thực ra là một tên gọi chung để chỉ cả một tổ hợp các khoa học khác
nhau, nghiên cứu hành vi văn hóa của con người và của cộng đồng người ở
các giai đoạn tồn tại lịch sử khác nhau của họ [48, tr.78].
Trong khi đó, V.M. Rôđin lại quan niệm “Văn hóa học là một bộ môn khoa học
tương đối mới, nó nghiên cứu, thứ nhất văn hóa nói chung, thứ hai các hiện tượng văn
hóa riêng biệt (văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lối sống, nghệ thuật, tôn giáo, gia
đình” [48, tr.66]. Xuất phát từ ba định hướng nhận thức cơ bản về văn hóa: triết hoc,
lịch sử, lý luận, ông đã chia văn hóa học thành các bộ phận là triết học, lịch sử văn hóa
và khoa học về văn hóa.
Cũng một nhà nghiên cứu văn hóa Nga khác, A.A. Radughin cho rằng:
Văn hóa học - môn khoa học nghiên cứu sự ra đời và phát triển của
văn hóa nói chung, có tham vọng nghiên cứu văn hóa trong bản chất cũng
như trong toàn bộ các biểu hiện của nó, bao gồm cả lý thuyết và lịch sử văn
hóa. Văn hóa học khái quát các nỗ lực của nhiều ngành khác nhau nhằm tạo
nên cơ sở lý thuyết chung, tìm ra những quy luật tổng quát sự hình thành,
phát triển và vận hành của văn hóa [45, tr. 570].
Trên cơ sở coi văn hóa là tất cả những gì nhân tạo, đồng nhất với hoạt động con
người, với tồn tại, V.A. Kutyrev cho rằng: văn hóa học là học thuyết chung về thế giới.
Nó bao gồm văn hóa học lý luận và lịch sử (văn hóa học lý thuyết) và văn hóa học ứng
dụng.
ở Việt Nam, mặc dù văn hóa học mới được đề cập đến nhưng nhanh chóng thu
hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu văn hóa. Trong cuốn sách “Từ văn hóa đến
văn hóa học” GS Phạm Đức Dương xác định đối tượng của văn hóa học là thế giới
biểu tượng. GS Trần Ngọc Thêm với các góc độ khác nhau chia văn hóa học thành các
phân môn: Lịch sử văn hóa, Địa văn hóa, Văn hóa học đại cương, Cơ sở văn hóa. GS
Đặng Đức Siêu quan niệm văn hóa học tương ứng với các phân môn: Văn hóa học lý
thuyết, Văn hóa học lịch sử và Văn hóa học ứng dụng.
Như vậy, có thể nói rằng đang tồn tại nhiều lý luận về văn hóa và quan niệm về
văn hóa học là không thuần nhất. Đúng như một nhà văn hóa học đã từng nhận định
“Không có một văn hóa học, có bao nhiêu nhà văn hóa học lớn thì cũng có bấy nhiêu
lý luận văn hóa, mỗi khuynh hướng văn hóa học độc đáo đều quy định cách tiếp cận và
đối tượng của mình” [45, tr.66]. Trong điều kiện đó, chúng tôi lựa chọn quan niệm
chia văn hóa học thành một số ngành là văn hóa học lý thuyết (lý luận văn hóa), văn
hóa học lịch sử và văn hóa học ứng dụng. Trong phạm vi hạn hẹp của luận văn, chúng
tôi sử dụng lý luận văn hóa làm khái niệm công cụ để tiếp cận với những nhận thức lý
luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1945.
1.1.2. Lý luận văn hóa và đối tượng nghiên cứu của nó
Lý luận, có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp theoria có nghĩa là quan sát, nghiên cứu.
Theo Từ điển triết học do M.Rôđentan và P.Iuđin chủ biên thì lý luận được hiểu
theo 3 nghĩa:
Thứ nhất: hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức.
Thứ hai: kinh nghiệm của loài người đã được khái quát.
Thứ ba: sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong quá
trình lịch sử [47, tr.526]
GS. TS Tô Duy Hợp dưới góc độ lôgic học đã nêu lên kết cấu của lý luận:
Kết cấu giản đơn của lý luận : lý luận được cấu tạo từ hai bộ phận chủ yếu là
cơ sở lý luận bao gồm các nguyên lý và các khái niệm cơ bản; cơ thể lý luận bao gồm
các hệ quả, định lý, quy luật rút ra một cách trực tiếp hay gián tiếp nhờ suy lý hợp
lôgic từ cơ sở lý luận nói trên.
Kết cấu phức tạp, hoàn chỉnh của lý luận bao gồm:
Lịch sử của lý luận, tức là lịch sử hình thành và phát triển của lý luận ấy.
Logic của lý luận phản ánh lịch sử và logic đối tượng gồm có hai thành phần
chủ yếu:
Lý luận tổng quát, tổng hợp về đối tượng, tái hiện lịch sử và logíc chung của
đối tượng bằng tư duy lý luận khái quát nhất.
Các lý thuyết chuyên biệt về đối tượng, tái hiện lịch sử và logic các khía cạnh,
bộ phận khác nhau của đối tượng ấy.
Trên cơ sở những nhận thức chung này, GS Tô Duy Hợp đã vận dụng trong lĩnh
vực nghiên cứu văn hóa, coi lý luận văn hóa như một ngành khoa học độc lập theo kết
cấu lôgic chung của khoa học và của lý luận khoa học như trên. Tác giả đã đưa ra 4
cấp độ sau đây trong lý luận văn hóa :
Khái niệm sơ bộ về văn hóa.
Tiếp cận đa bộ môn nhằm làm sáng tỏ từng khía cạnh bản chất của văn hóa.
Đi từ trừu tượng đến cụ thể nhằm xây dựng lý thuyết khoa học tổng quát, tổng
hợp, tái hiện toàn bộ biện chứng đối tượng (tái hiện toàn bộ mâu thuẫn, bản chất, hệ
thống quy luật của văn hóa )
Tiếp cận liên ngành khoa học, mở rộng việc tái hiện toàn bộ bản chất văn hóa
như nó vốn có, như cái nó khác và như cái khác của nó, nhờ đó mà đi sâu hơn bản chất
của nó [69, tr.114].
Trong cuốn sách lý luận văn hóa đầu tiên của Liên Xô “Cơ sở lý luận văn hóa
Mác - Lênin”, các nhà khoa học Xôviết đã xác định: lý luận văn hóa nghiên cứu những
quy luật của quá trình phát triển văn hóa tinh thần nhờ các khái niệm và phạm trù khoa
học đặc trưng cho các khía cạnh và yếu tố khác nhau của nó [5, tr.14].
GS Hoàng Vinh quan niệm lý luận văn hóa là môn học nghiên cứu những vấn
đề mang tính quy luật trong sự nghiệp xây dựng văn hóa. Đó là quá trình sản xuất, bảo
quản, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa - những yếu tố chức năng tạo nên
đời sống văn hóa của một cộng đồng xã hội.
Cũng theo GS Hoàng Vinh “Lý luận văn hóa là một tập hợp khái niệm, đặt trong
một cấu trúc xác định, nhờ hệ khái niệm đó con người có thể nắm bắt hiện thực văn hóa - xã
hội, gần đúng với sự tồn tại khách quan của nó” [71, tr.24].
Trong các cuốn sách về văn hóa đã xuất bản ở nước ta có đề cập đến lý luận văn
hóa như: Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Tìm về bản sắc
văn hóa Việt Nam, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta hiện
nay… các tác giả ít đề cập đến khái niệm lý luận văn hóa. Nhưng thông qua việc trình
bày nội dung phần lý luận văn hóa, có thể khái quát những vấn đề mà lý luận văn hóa
đề cập đến là:
Khái niệm văn hóa, mối quan hệ của khái niệm này với một số khái niệm liên
quan.
Nguồn gốc của văn hóa
Cấu trúc và chức năng của văn hóa
Các quy luật vận động của văn hóa
Trên cơ sở những nghiên cứu trên đây, có thể hiểu lý luận văn hóa theo hai
nghĩa:
Nghĩa rộng, lý luận văn hóa bao gồm toàn bộ những tri thức về văn hóa được
khái quát thông qua quá trình nghiên cứu văn hóa. Nói một cách khác, đó là thành
quả của các khoa học nghiên cứu văn hóa như dân tộc học, xã hội học văn hóa, nhân
học văn hóa, văn hóa học…
Nghĩa hẹp, lý luận văn hóa là một phân môn của văn hóa học đi sâu vào bản
thể của văn hóa, tìm hiểu bản chất của văn hóa thông qua hệ thống các khái niệm, quy
luật vận động, phát triển của văn hóa.
Như vậy, đối tượng của lý luận văn hóa (luận văn đề cập đến) là văn hóa ở khía
cạnh bản chất và sự vận động của nó. Do đó, nhiệm vụ của lý luận văn hóa là nghiên
cứu bản chất văn hóa thông qua việc làm rõ:
Khái niệm văn hóa
Nguồn gốc của văn hóa
Các quy luật vận động, phát triển của văn hóa
Từ những đặc điểm của lý luận văn hóa, có thể thấy mối quan hệ của lý luận
văn hóa với các bộ môn khoa học văn hóa khác. Điểm chung của các khoa học này là
đều lấy văn hóa làm đối tượng nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, ở mỗi bộ môn tùy
theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu mà có cách tiếp cận văn hóa khác nhau. Dân tộc
học và nhân học văn hóa dựa trên việc thu thập và phân tích tư liệu, so sánh một cách
hệ thống về văn hóa của các xã hội và các thời đại khác nhau. Xã hội học văn hóa xem
xét cấu trúc và hoạt động văn hóa trong mối liên hệ với các cơ cấu, thiết chế xã hội và
được áp dụng đối với những tình huống lịch sử cụ thể. Ngay cả đối với các phân môn
của văn hóa học, lý luận văn hóa cũng có những điểm khác. Lịch sử văn hóa khảo sát
tiến trình văn hóa của một dân tộc theo thời gian, theo từng giai đoạn lịch sử với các
tình tiết và sự kiện, mở rộng sự hiểu biết văn hóa theo chiều dọc. Văn hóa học ứng
dụng tập trung xem xét hoạt động của các thiết chế văn hóa, tức là những vấn đề của
quá trình thiết chế xã hội của nó; nghiên cứu những vấn đề di sản văn hóa; thực hiện
các dự báo kinh nghiệm trong lĩnh vực văn hóa… Còn nhiệm vụ quan trọng nhất của
lý luận văn hóa là hiểu bản chất của văn hóa và tìm những quy luật cũng như cơ chế
vận hành của những hình thức và phương diện cụ thể của văn hóa. Có thể nói, lý luận
văn hóa hạt nhân của hệ thống các khoa học nghiên cứu văn hóa. Nó cung cấp cho các
khoa học văn hóa những khái niệm mang tính công cụ, cơ sở lý luận chung nhất để các
bộ môn này nghiên cứu các hiện tượng văn hóa của các dân tộc, nhóm xã hội trong
những giai đoạn cụ thể.
1.2. Bối cảnh ra đời của những nhận thức lý luận văn hóa ở nước ta
1.2.1. Bối cảnh thế giới
Bước vào thế kỷ XX, thế giới đã có nhiều thay đổi. Sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản, của khoa học kĩ thuật dường như thu hẹp khoảng cách về địa lý giữa các dân
tộc. Những sự kiện xảy ra trên thế giới đã nhanh chóng tác động đến từng dân tộc, kể
cả nhiều dân tộc phương Đông vốn lâu nay thực hiện bế quan tỏa cảng, không giao lưu
tiếp xúc với bên ngoài, trong đó có Việt Nam. ở đây, luận văn chỉ đề cập đến những
tác động trực tiếp của thế giới, cả ở châu Âu và châu á đối với việc xuất hiện những
nhận thức lý luận về văn hóa ở nước ta nửa đầu thế kỷ XX.
Trước hết là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các khoa học nghiên cứu văn
hóa ở các nước phương Tây. Mặc dù trong buổi đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây
nhưng qua các con đường khác nhau những lý thuyết văn hóa của thế giới ít nhiều đã
thâm nhập vào Việt Nam mà biểu hiện rõ nhất là thuyết Tiến hóa văn hóa và thuyết
Truyền bá văn hóa.
Như đã trình bày, những thành tựu của khoa học tự nhiên thời kỳ này là cơ sở
cho sự ra đời của nhiều ngành khoa học văn hóa, trong đó có Tiến hóa luận văn hóa.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng học thuyết tiến hóa cũng chi phối quá trình phát triển
của văn hóa và xã hội loài người, cả L.H. Morgan và E.B. Taylor đều cho rằng “Văn
hóa là phương thức riêng biệt của nhân loại nhằm thích ứng với hoàn cảnh, văn hóa là
một dạng thức tâm lý của tộc người, tâm lý này và xã hội mà nó gắn bó đều phát triển
tiến hóa theo các giai đoạn từ thấp đến cao” [57, tr.18]. Khảo sát bước tiến hóa nhân
loại, Morgan đã xác định những nấc thang phổ biến trong quá trình phát triển văn hóa
và xã hội của loài người là “Mông muội” - “Dã man” - “Văn minh”. Tylor cũng quan
niệm rằng “Dã man” và “Văn minh” là giai đoạn thấp và giai đoạn cao của quá trình
tiến hóa, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tuần tự trước sau nối tiếp nhau. Trong tác
phẩm “Những nghiên cứu trong lĩnh vực cổ đại của loài người” công bố năm 1865,
Tylor đã đưa ra những kết luận về sự tiến hóa của văn hóa:
Lịch sử văn hóa cho thấy sự tiến bộ không ngừng từ trạng thái hoang dã nguyên
thủy đến văn minh hiện đại.
Những sự khác nhau về sinh hoạt của các dân tộc trên trái đất không phải là do
nguồn gốc chủng tộc, mà là do sự khác nhau về những nấc văn hóa đạt được của các
xã hội khác nhau.
Tất cả các yếu tố văn hóa là sản phẩm của sự phát minh độc lập, hoặc là của sự
thừa kế từ tổ tiên.
Trong các tác phẩm ra đời sau này như “Văn hóa nguyên thủy” năm 1871,
“Nhân học” năm 1881… Tylor luôn luôn khẳng định sự phát triển tiến bộ tiến hóa của
các nền văn hóa là xu hướng chính trong lịch sử loài người. Quan niệm tiến hóa trong
văn hóa của Tylor đã có ảnh hưởng to lớn trong sự nghiên cứu văn hóa. Sự ra đời của
“Văn hóa nguyên thủy” đã đánh một dấu mốc quan trọng trong nghiên cứu văn hóa
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên thế giới.
Trường phái Truyền bá luận văn hóa ra đời cuối thế kỷ XIX. Đối lập với Tiến
hóa luận văn hóa, các nhà khoa học thuộc trường phái này phủ nhận sự tự phát triển
của văn hóa. Dựa trên những kết quả về sự di chuyển văn hóa theo không gian của các
ngành khoa học khảo cổ, dân tộc học, địa lý… họ cho rằng hoàn cảnh và điều kiện tự
nhiên là một trong những nguyên nhân tạo ra những nét đặc trưng riêng của các nền
văn hóa, các hiện tượng văn hóa được truyền bá thông qua các cuộc tiếp xúc giữa các
dân tộc bằng buôn bán, xâm lược, di dân. Nói một cách khác, “Các dân tộc không đi
theo một con đường tiến hóa đồng nhất, các nền văn hóa nảy sinh trong những hoàn
cảnh địa lý khác nhau đều có riêng quá trình lịch sử, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng
lan tỏa của các nền văn hóa khác ở bên ngoài” [57, tr.20]. Trường phái này được tạo
nên từ những tên tuổi như R.F. Graebner (1887 - 1934) F.Boas (1858 - 1942),
O.Spengler (1880 - 1936), A.J. Tonynbee (1889 -1975)… Với cách nhìn văn hóa như
một quá trình động, không ngừng di chuyển, hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hóa có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, trường phái Truyền bá luận văn hóa đã có những bước tiến
trên con đường tiếp cận nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, nghiên cứu thực chất của văn
hóa.
Những trường phái nghiên cứu văn hóa này đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến tầng lớp trí thức dân tộc Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. ảnh
hưởng trực tiếp là lực lượng trí thức Tây học, đã từng du học ở các nước phương Tây
mà chủ yếu là ở Pháp. ảnh hưởng gián tiếp là qua phong trào Tân thư, từ Trung Quốc,
Nhật Bản đã truyền vào nước ta nhiều sách khoa học dịch từ phương Tây.
Thứ hai, phong trào Tân thư, Tân học ở các nước châu á.
Sau đêm dài trung cổ, châu Âu bừng tỉnh trong thời kỳ Phục hưng với những
thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp từ thời trung đại
sang thời cận đại, từ xã hội phong kiến chuyển sang xã hội tư sản. Sự phát triển của
khoa học kĩ thuật là động lực, là căn nguyên vượt trội của phương Tây. Trong khi đó,
phương Đông tự ru ngủ mình trong vòng hào quang của quá khứ trở thành trì trệ, bảo
thủ, bị phương Tây vượt qua rất nhanh, buộc chấp nhận là người đi trước về sau. Đứng
trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa tư bản phương Tây, phương Đông phải đi
tìm câu trả lời cho con đường độc lập và phát triển của mình. Phong trào Tân thư -
hiện tượng chung của các nước châu á ra đời trong bối cảnh đó. Theo nghĩa gốc tiếng
Hán, Tân thư là sách mới, Tân học là nội dung học và cách học mới. Nhưng về bản
chất lịch sử, đó là “hiện tượng tư tưởng, văn hóa, lịch sử, khảo cứu và trên tất cả là
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội” [15, tr.234]. Nội dung Tân thư phản ánh sự giao lưu
văn hóa, đổi mới tư tưởng, chuẩn bị cho những cuộc cải cách xã hội theo con đường
văn minh. Phong trào này đặc biệt phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản và đã có
tác động mạnh mẽ đến Việt Nam.
Nhật Bản là quốc gia châu á sớm hướng tới phương Tây. Ngay từ thời Minh Trị
đã tiến hành nhiều cải cách theo mô hình phương Tây, tiếp thu khoa học kĩ thuật của
phương Tây với tinh thần Hòa hồn, Dương tài (tinh thần Nhật Bản cùng với khoa học
kỹ thuật của phương Tây). Các nhà cải cách chủ trương tách Nhật Bản ra khỏi vòng
ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo, thực hiện “thoát á nhập Âu”. Họ cho dịch rất nhiều
sách, phổ biến là sách khoa học - kỹ thuật, sách tư tưởng, triết học, thể chế xã hội, văn
hóa nghệ thuật từ phương Tây (chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Pháp) sang tiếng Nhật,
tính đến năm 1890 số sách đó lên đến hàng nghìn cuốn. Với việc phiên dịch này, Nhật
Bản đã xây dựng được một hệ thống các thuật ngữ khoa học trên khắp các lĩnh vực,
trong đó có thuật ngữ chúng ta đang sử dụng: văn hóa. Sự chủ động tiếp thu văn hóa,
khoa học kỹ thuật của phương Tây đã đưa Nhật Bản tránh khỏi thân phận nô lệ, trở
thành một cường quốc mới, vượt xa các nước có chung văn hóa gốc Hán. Tấm gương
Nhật Bản đã có sự ảnh hưởng mạnh mẽ với nhiều quốc gia châu á, trong đó có Việt
Nam. Có thể nói, con đường Tân thư bắt đầu từ Nhật Bản, sang Trung Quốc rồi đến
Việt Nam. Một nhân vật nổi tiếng trong phong trào Tân thư của Nhật Bản là Phúc
Trạch Dụ Cát (1831 -1901), ông đã viết hàng trăm cuốn sách giới thiệu về văn minh
phương Tây, trong đó có tác phẩm “Văn minh luận chi khái lược”. Cuốn sách này
cùng với mô hình trường Khánh ưng nghĩa thục do Phúc Trạch Dụ Cát lập ra đã có tác
động mạnh mẽ đối với trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Trung Quốc là một nước lớn ở phương Đông, nền văn hóa và sức mạnh của
quốc gia này đã từng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với dân tộc khác ở châu á. Trong một
thời gian dài, tư tưởng tôn sùng Trung Quốc là Thiên quốc, nước trung tâm, nước có
văn hóa, còn các nước xung quanh chỉ là Man Di luôn ngự trị trong đầu óc người
Trung Quốc. Từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện, những trí thức Trung Quốc mới tỉnh
ngộ ra và một phong trào tìm hiểu, nghiên cứu phương Tây bắt đầu. Cuốn sách Hải đồ
quốc chí gồm 50 cuốn có 57 vạn chữ, đến 1852 thành 100 cuốn do Ngụy Nguyên biên
soạn là cuốn sách Tân thư đầu tiên của Trung Quốc. Hải đồ quốc chí ra đời đã xóa đi
lý thuyết “Trung Quốc trung tâm”, “Thiên triều thượng quốc”, coi Trung Quốc chỉ là
một thành viên của thế giới, một thành viên yếu kém, lạc hậu cần phải học tập các
quốc gia khác, cuốn sách cũng đề ra tư tưởng tôn người châu Âu làm thầy, học họ để
chống lại họ.
Tân thư đặc biệt phát triển mạnh mẽ từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ
hai và thất bại của khởi nghĩa nông dân Thái Bình thiên quốc. Những nhà tư tưởng tiến
bộ tiêu biểu của Trung Quốc lúc đó là Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu muốn thông
qua Tân thư, Tân học để thổi vào dân tộc Trung Hoa “luồng gió thức tỉnh” của những
tư tưởng mới. Họ đã tiến hành khảo cứu những sách cổ, luận giải cho tính đúng đắn
của tư tưởng duy tân, dịch và giới thiệu những tiến bộ của phương Tây, nghiên cứu
Trung Quốc, nghiên cứu phương Tây để rút ra những nội dung mà Trung Quốc cần
tiếp thu, học hỏi phương Tây. Điều này đã mở ra một xu hướng mới “Đông học vi thể,
Tây học vi dụng” duy trì những giá trị của văn hóa phương Đông trong khi tiếp thu
khoa học kỹ thuật phương Tây.
Nói một cách khái quát, Tân thư có một vị trí lịch sử mang tính thời đại rõ nét,
mang nội dung đòi hỏi đổi mới, dám phê phán cách nhìn bảo thủ, phê phán những
nguyên tắc đạo lý khuôn phép của thánh hiền để “tạo nên một xung lực mới” cho xã
hội phát triển. Tân thư còn mang nội dung mở cửa với phương Tây thông qua việc
dịch hàng loạt sách phương Tây. Tân thư có nội dung trình bày kiến thức hiện đại tổng
hợp, đề ra cách nghĩ những kế sách học tập thay đổi, phát triển tự cường. Trong bối
cảnh Việt Nam rơi vào tay Pháp, các phong trào yêu nước đều thất bại, các bậc sĩ phu,
trí thức Việt Nam đã tỉnh dậy khỏi “giấc mơ giáo điều phương Đông”, tiếp nhận phong
trào Tân thư ở Nhật Bản, Trung Quốc để tìm hướng đi mới cho dân tộc. Nhu cầu muốn
thức tỉnh dân tộc, tự phê phán mình đã dẫn đến kết quả là các thế hệ trí thức Việt nam,
từ những sĩ phu tiến bộ ở cuối thế kỷ XIX cho đến những sĩ phu tư sản hóa ở đầu thế
kỉ XX và thế hệ trí thức Tây học đều chịu ảnh hưởng của Tân thư. Họ đã tiếp nhận một
cách nồng nhiệt những tư tưởng mới từ những sách báo của các nhà cải cách Nhật
Bản, Trung Quốc với những tên tuổi rất hấp dẫn thời bấy giờ như Phúc Trạch Dụ Cát,
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu… Không chỉ thế, qua Tân thư, trí thức Việt Nam đã
tiếp cận với những tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp (J.J. Rutxô, Mongtetxkiơ…)
và các nhà triết học châu Âu, Mỹ thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhất là các tác giả đề
xướng thuyết Tiến hóa. Đây là điều kiện thuận lợi cho trí thức dân tộc tiếp xúc với
khoa học, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn, điều chưa từng xảy ra
trong hàng ngàn năm phong kiến. Tinh thần say mê học tập tư tưởng mới trong một bộ
phận giới sĩ phu, trí thức Việt Nam giúp họ nhanh chóng từ bỏ tư tưởng cũ một cách
thuận lợi. Nếu như thế hệ trí thức thời Lê Quý Đôn mong muốn khẳng định văn hóa
Việt Nam bằng cách làm cho nó trở nên giống văn hóa Trung Hoa thì bây giờ những
trí thức đầu thế kỷ muốn nâng văn hóa Việt Nam ngang bằng với thế giới, giống thế
giới và dĩ nhiên thế giới đó không chỉ là Trung Hoa. Một cuộc phong trào vận động
văn hóa do các sĩ phu với mục đích duy tân đã diễn ra rầm rộ ở đầu thế kỷ XX và
nhanh chóng có sức lan tỏa trong xã hội được định hướng bởi một tác phẩm có tính
chất cương lĩnh của phong trào, đó là “Văn minh tân học sách”. Nếu qua Tân thư, trí
thức Việt Nam được tiếp cận với những lý thuyết khoa học phương Tây thì phong trào
Duy tân đã tạo cơ sở xã hội, môi trường cho những lý thuyết đó thâm nhập sâu rộng
trong đời sống xã hội. Đây là tiền đề quan trọng để những nhận thức lý luận về văn
hóa sau này xuất hiện.
1.2.2. Bối cảnh trong nước
Thứ nhất, cuộc giao lưu văn hóa Việt Pháp và nhu cầu tìm hiểu lý luận về văn
hóa. Như đã trình bày ở trên, giống như nhiều quốc gia châu á khác, cuối thế kỷ XIX,
dân tộc ta phải đối diện với văn minh phương Tây theo gót chân xâm lược của thực
dân Pháp. Một cuộc giao lưu mới mà chính nó là cuộc biến thiên lớn nhất lịch sử Việt
Nam trong mấy mươi thế kỷ đã diễn ra. ở những lần giao lưu trước, văn hóa Việt Nam
gặp gỡ các nền văn hóa vốn sẵn đã có những quan hệ hết sức gần gũi với mình như
Trung Hoa, ấn Độ. Cho nên, “Văn hóa dẫu rằng có biến nhưng cái cốt tủy thì vẫn
không lung lay bởi vì xã hội nông nghiệp vẫn ở trong hoàn cảnh bế quan tự thủ, chưa
từng tiếp xúc với thế giới mà chỉ giao thiệp với Trung Quốc là nước đồng văn mà lại
cùng một tình thế” [2, tr.23]. Trong cuộc giao lưu này, đối diện với văn hóa truyền
thống của dân tộc là nền văn minh phương Tây đang ở thế thưọng phong với sự phát
triển mạnh mẽ khoa học kĩ thuật, đất nước rơi vào tình thế không chỉ mất độc lập mà
nguy cơ mất cả văn hóa dân tộc. Một xã hội nông nghiệp phương Đông suốt mấy ngàn
năm kéo dài cuộc sống gần như không thay đổi về hình thức cũng như tinh thần khi
tiếp xúc với “mưa Âu, gió Mỹ” “bị rung động đến tận nền móng, khác nào một cây cổ
thụ bị con gió bão lay chuyển đến tận gốc rễ” [63, tr.15]. Tình thế của dân tộc lúc này
được phản ánh rất rõ trong tình cảm của các tầng lớp xã hội:
Lòng còn phân vân, trí còn bối rối, chửa hay nên đối phó với phong
trào ra sao… ai ai cũng như bỡ ngỡ, bơ thờ, thẩn thơ, ngơ ngác, như người
lỡ bước lạc đường, bơ vơ không biết nương tựa vào đâu. Cái bi kịch về tinh
thần đó, ông cha ta ngày xưa không từng biết, vì đương đời bế quan tỏa
cảng, các cụ chỉ biết có một cái văn minh học thuật Trung Hoa mà thôi, di
truyền tự thượng cổ, tích lũy từ lâu đời, thành như một nền văn hóa riêng
của nước mình, thành thực phụng thờ, lòng được chuyên nhất, không phải
chia sẻ lắm đường, nên giữ được cái vẻ thái nhiên yên ổn [43, tr.636].
Trước cái bi kịch này, mỗi con dân đất Việt không thể không xúc động và như
một lẽ tự nhiên “Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách”, cho dù có những cách đi khác
nhau nhưng họ đều gặp nhau ở những trăn trở, những khát vọng cho dân tộc mình
được độc lập, mở mang và phát triển. Có những bậc anh hùng cứu quốc, tiếp tục sự
nghiệp theo truyền thống dân tộc, đứng lên tập hợp lực lượng để cứu nước. Cũng có
những bậc học giả suốt đời đeo đuổi sự nghiệp tinh thần, không thỏa mãn với những
“chủ nghĩa đi mượn, những tư tưởng chưa được Việt Nam hóa”. Họ cố gắng gây dựng
cho dân tộc Việt Nam có được “một bản ngã tinh thần rõ rệt” trong bước đường tiến
hóa của thế giới hiện đại mà “không đến nỗi lạc hậu nhưng cũng không bị lôi cuốn
một cách lu mờ, nô lệ hóa” [63, tr.56]. Đó là một công việc hết sức khó khăn đối với
xã hội Việt Nam truyền thống. Trong vòng ảnh hưởng của Nho giáo, nội dung học chỉ
gói gọn trong Tứ thư, Ngũ kinh cùng với chế độ khoa cử phong kiến mà trải qua bao
thế kỷ nghiền ngẫm, các nhà nho Việt Nam vẫn không khởi xướng được một học
thuyết nào của người Việt Nam, hay không ghi được một dấu ấn sắc nét hay một trào
lưu tư tưởng mạnh mẽ nào khác Trung Quốc. Những sĩ phu đầu thế kỷ XX đã bắt đầu