Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN: Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu đạng bước vào thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.81 KB, 99 trang )

LUẬN VĂN:
Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn
lạc hậu đạng bước vào thời kỳ Cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá


Mở đầu

1- Lý do chọn đề tài

Bước sang thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tiếp tục
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội. Phát triển dựa
vào khoa học công nghệ trở thành xu thế tất yếu đối với các quốc gia trên thế giới, điều
đó đặt Việt Nam chúng ta trưóc nhiều thời cơ, vận hội mới song cũng nhiều thử thách
và nguy cơ mới. Hơn nữa, Việt Nam lại đi lên từ một xuất phát điểm thấp: nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, khoa học, kỹ thuật hầu như chưa phát triển. Liệu Việt Nam có thể
tận dụng được những cơ hội và đẩy lùi những thách thức của thời đại? Điều đó phụ
thuộc vào chính con người Việt Nam.

Tại đại hội đại biểu tồn quốc khố IX, khi khẳng định thành cơng bước đầu của
15 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận định: “Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn
lạc hậu đạng bước vào thời kỳ Cơng nghiệp hố, hiện đại hố". Thời kỳ phát triển
mới này địi hỏi tồn Đảng, toàn dân phải nỗ lực để vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn
cả trong cơ sở kinh tế lẫn trong ý thức, tư duy. ở một đất nước có nền sản xuất nhỏ tồn
tại từ hàng ngàn năm và hiện vẫn cịn phổ biến thì những phẩm chất nảy sinh trên nền
sản xuất đó đang tồn tại và ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình đổi mới hiện nay ở nước
ta.

Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những đặc điểm, phẩm chất truyền thống
của người Việt và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội hiện nay, đồng thời tìm ra
phương hướng, giải pháp khắc phục những tiêu cực của nó là một yêu cầu cấp thiết cả


về mặt lý luận và thực tiễn. Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “Những đặc điểm truyền
thống của con người Việt Nam trong qúa trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước”.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Con người là động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hố, hiện
đại hố ở nước ta. Do đó, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn này, việc nâng cao và
phát huy vai trò của nhân tố con người Việt Nam là nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. Đã có nhiều cơng trình khoa học trong nước và cả nước ngoài
nghiên cứu xung quanh vấn đề con người Việt Nam trong truyền thống cũng như hiện
nay, có thể kể ra đây một số cơng trình như:

1. GS.VS.TSKH Phạm Minh Hạc, TS. Hồ Sĩ Quý: Nghiên cứu con người, đối
tượng và những phương hướng chủ yếu, niên giám nghiên cứu. NXB KHXH, Hà
Nội 2001.

2. TS Đoàn Văn Khái. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp
Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố ở Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, HN 2001.

3. Hồng Chí Bảo. ảnh hưởng của nền văn hoá đối với việc phát huy nguồn lực
con người. Tạp chí Triết học(1), tr13 - 17 (1993)

4. Đỗ Đức Định (chủ biên). Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố phát huy lợi thế so
sánh. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 1999.

5. Hồ Sĩ Quý: ý thức người sản xuất nhỏ và ý thức thường ngày. Tạp chí Triết
học số 2 - tháng 6 năm 1986.


6. Một vài suy nghĩ về con người Việt Nam từ sản xuất nhỏ đi lên Chủ nghĩa xã
hội. Tạp chí Cộng sản số 3 năm 1987.


7. Lê Thị Duy Hoa: Thông tin và vấn đề tiếp nhận, xử lý thông tin của tư duy
người Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2002.

8. Đỗ Thanh Mai: Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển sang kinh tế
thị trường - đặc trưng và xu thế biến đổi. Luận án tiến sĩ triết học, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh - 2001.

Những cơng trình trên đã có đóng góp quan trọng về mặt lý luận cho việc nghiên
cứu, làm rõ những đặc điểm của con người Việt Nam cũng như giúp cho việc hoạch
định chính sách, đưa ra những giải pháp nhằm phát triển con người Việt Nam trong
tương lai.

Tuy vậy, những vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ xung. Luận văn sẽ
tiếp tục phát triển những hướng nghiên cứu đó:

-

Nghiên cứu sâu, có hệ thống hơn nữa, đặc biệt là dưới góc độ triết học.

-

Tìm giải pháp để phát triển những đặc điểm ưu trội, và hạn chế những đặc
điểm tiêu cực của con người Việt Nam trong quá trình tồn cầu hố, Cơng
nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay.


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Làm sáng tỏ những đặc điểm truyền thống của con người Việt Nam; chỉ ra những
ảnh hưởng của nó đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố; từ đó đề xuất một số


phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những mặt hạn chế, phát huy những
mặt tích cực của con người Việt Nam, góp phần hồn thiện nhân cách con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp Cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn:

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Phân tích những đặc điểm truyền thống của người Việt và những điều kiện tác
động hình thành những đặc điểm ấy.

- đề xuất và kiến nghị những phương hướng và giải pháp nhằm khắc phục những
mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy những mặt tích cực của truyền thống người Việt trong
điều kiện hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận của Luận văn: Vận dụng những nguyên lý, lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề con người. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu của
các cơ quan, các nhà khoa học trong và ngoài nước về lĩnh vực này.


4.2. Phương pháp: Luận văn sử dụng phương pháp luận Duy vật biện chứng
đóng vai trị là phương pháp luận chung nhất. Bên cạnh đó, Luận văn sử dụng các
phương pháp: Phân tích - Tổng hợp, Lơgíc - Lịch sử, Khái qt hố, Trừu tượng hố...
Ngồi ra, luận văn còn chú ý đến phương pháp thống kê, điều tra xã hội học (để nghiên
cứu mối quan hệ giữa truyền thống với con người Việt Nam hiện nay), khảo sát thực tế.


5- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tập trung nghiên cứu về những đặc điểm
truyền thống của người Việt và ảnh hưởng của nó trong xã hội ta hiện nay.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Bằng kết quả đạt được, luận văn có thể góp phần cho việc hoạch định chính sách,
và những giải pháp để xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam - chủ thể
tích cực trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học
tập các mơn Lý luận chính trị, các mơn khoa học xã hội và nhân văn trong các
trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp

7- Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 6 tiết.

Chương 1


đặc điểm truyền thống của người Việt Nam


1.1 cơ sở hình thành những đặc điểm truyền thống của người việt nam

“Đặc điểm truyền thống” không phải là bẩm sinh, cũng khơng phải là "nhất
thành bất biến", nó nảy sinh và phát triển do tác động của những nhân tố thường xuyên
đến cuộc sống của con người. Do phải ứng phó và thích nghi với những tác động đó,
những thói quen, tập quán, những tính cách, lối sống, cách ứng xử và lối tư duy dần dần
được định hình trong một cộng đồng người nhất định và di tồn cho thế hệ sau. Đặc điểm
truyền thống của một cộng đồng cư dân thực chất là sự thích ứng vơ thức và hữu thức
đối với tác động lặp đi lặp lại của cuộc sống cộng đồng trong những điều kiện tự nhiên
và hồn cảnh lịch sử nhất định. Vì vậy, cách tiếp cận của chúng tơi để tìm ra những nội
dung của đặc điểm truyền thống là xem xét những nhân tố hằng xuyên tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội để từ đó tìm ra những hệ quả được coi là đặc điểm truyền
thống. Những hệ quả này không phải là sản phẩm của những tác động đơn lẻ của yếu tố
này hay yếu tố khác mà là kết quả có tính chất tổng hợp. Tuy nhiên, để dễ nhận diện, có
thể xem xét nội dung của đặc điểm truyền thống theo từng nhân tố có tác động chính
trong việc hình thành nên đặc điểm truyền thống đó.

1.1.1. Tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện địa lý

a. Môi trường tự nhiên và điều kiện địa lý là một cơ sở hằng xuyên của
cuộc sống con người. ở Việt Nam, trong muôn vàn những yếu tố địa lý tác động đến
cuộc sống hằng ngày, môi trường sông - nước phải được coi là một yếu tố đặc biệt quan
trọng, đã có tác động khơng nhỏ tới việc hình thành một số đặc điểm truyền thống của
người Việt. Tất nhiên, lãnh thổ Việt Nam bao gồm nhiều địa hình khác nhau từ đồng
bằng ven biển đến trung du, cao nguyên và núi rừng, nhưng vùng đồng bằng sông nước
là nơi tập trung cư dân đông nhất với mật độ cao nhất và cũng là địa bàn sinh tụ chủ yếu
của dân tộc đa số là người Kinh.


Dựa vào những chứng cứ khảo cổ học, chúng ta có thể biết được trong thời cổ

đại, địa bàn sinh tụ chủ yếu của các cư dân Việt là lưu vực hai con sông lớn: sông Hồng
và sông Mã. Các mũi khoan thăm dò địa chất đã thấy dấu vết trầm tích biến tuổi chừng
2 - 3000 năm ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Sự vắng bóng hồn tồn các di tích
khảo cổ thời đại đồ đá mới ở vùng Thái Bình, Nam Định cùng với sự tồn tại nhiều di
tích cồn sị điệp ở ven biển Quỳnh Lưu cách xa bờ biển hiện nay tới 10km cho phép
nghĩ rằng thời bấy giờ, biển còn ăn rất sâu vào đất liền.

Địa bàn cư trú chủ yếu của tổ tiên người Việt là một vùng đất mới được bồi lấp,
nằm giữa một bên là đồi núi cao và một bên là biển cả. Địa bàn đó là nơi giáp tiếp giữa
núi và biển thông qua mưa lũ hằng năm.

Điều kiện tự nhiên đó đã tạo nên một hệ thống sơng ngịi thốt nước dày đặc, có
dạng hình nan quạt, xịe ra ở phía hạ nguồn. Khi những cư dân sinh sống ở đây chưa có
khả năng đắp đê ngăn nước thì mùa mưa lũ hằng năm nước tràn ra khắp mọi chỗ trũng,
tạo nên vô số đầm, hồ quanh năm đọng nước.

Những cứ liệu địa lý trên cho chúng ta hình dung khái quát về địa hình mà tổ
tiên người Việt đã từng sinh sống, làm ăn suốt nhiều thiên niên kỷ là một địa hình
chi chít sơng ngịi, đầm hồ dày đặc. Địa hình đó đã tác động đến cuộc sống hàng
ngày của con người. Các di tích khảo cổ học cho chúng ta biết rằng tất cả các địa
điểm cư trú thời cổ đều nằm trên các gị bãi cao có nước bao quanh. Nước tạo nên
biên giới thiên nhiên quy định cụ thể từng vùng đất. Sông - nước là môi trường sinh
sống chủ yếu của người Việt Nam.

Từ xa xưa, khái niệm về quê hương xứ sở, tổ quốc của người Việt được thể hiện
bằng tên của môi trường gắn chặt với cuộc sống của mình: nước. Dấu vết của mơi
trường sơng nước đã in khá đậm lên cách tư duy của người Việt. Có thể thấy rất nhiều
từ, hình ảnh về nước hoặc liên quan đến nước được sử dụng trong tiếng Việt để khái



quát cho những tình huống, trạng thái hoặc những ứng xử phổ biến. Chẳng hạn như
người Việt có thể khái quát cho tất cả những hiện tượng không biết lo xa, chuẩn bị
trước, đến khi tình huống xảy đến thì phải xử lý một cách gấp gáp, vội vàng bằng một
thành ngữ quen thuộc "nước đến chân mới nhảy". Hoặc để diễn đạt mọi trường hợp cố
gắng đến mức cao nhất nhằm làm một việc gì đó mặc dù khả năng làm được rất mong
manh, người ta có thể dùng ngạn ngữ "còn nước còn tát"... Nhiều đặc điểm truyền thống
đã được hình thành do tác động của hồn cảnh địa lý này.

Biểu hiện của những đặc điểm truyền thống đó có thể tìm thấy trong hầu hết các
mặt của đời sống xã hội, những giá trị văn hóa và ngay cả trong một số sở trường của
người Việt. Nếu như ăn, mặc, ở, đi lại là những nhu cầu tối cần thiết của con người và
cũng chính ở những lĩnh vực này bản sắc văn hóa truyền thống được biểu hiện rõ nhất
thì có thể thấy ngay rằng đối với người Việt, chất đạm chủ yếu trong thức ăn truyền
thống là thủy sản. Có thể tìm thấy trong các di chỉ khảo cố học vơ số những dấu tích của
các động vật ở nước như vỏ sò, vỏ ốc, xương cá v.v..., trong khi đó xương động vật
thường rất hiếm hoi. Nhà ở truyền thống của người Việt là nhà sàn, chủ yếu là để phịng
nước ngập. Ngồi ra, rất đơng người Việt cịn có thói quen ở thuyền. Những điểm tụ cư
như vậy về sau này gọi là vạ. Đến tận thế kỷ XVIII - XIX, hiện tượng cư trú trên
thuyền, coi thuyền là nhà còn rất phổ biến. Người phương Tây từng đã có nhận xét: "Họ
(chỉ người Việt - TG) rất thích ở nước, thích ở trên nước hơn là ở trên cạn. Cho nên
phần nhiều sơng ngịi thì đầy thuyền. Những thuyền đó thay cho nhà cửa của họ.
Thuyền rất sạch sẽ, ngay cả khi họ ni gia súc trong đó" [1]. Giao thơng thời cổ - trung
đại ở Việt Nam chủ yếu là giao thơng đường thủy. Sơng ngịi trở thành những con
đường đi lại chính. Phương tiện đi lại truyền thống của người Việt là thuyền, bè.

Về phương diện văn hóa tinh thần, người Việt có vơ số những tín ngưỡng, lễ
nghi liên quan đến sông nước như thờ thủy thần, tục xăm mình, lễ hội đua thuyền... Đặc
biệt múa rối nước, một nghệ thuật độc đáo đến nay chỉ mới tìm thấy ở Việt Nam, là một
nghệ thuật sân khấu của cư dân sơng - nước. Có thể nói người Việt có một truyền thống
văn hóa sơng - nước và quen với sơng nước, thạo nghề sơng nước, có tư duy của một cư



dân sông nước là một nội dung quan trọng của truyền thống Việt Nam. Nhờ có đặc
điểm truyền thống này mà người Việt có khả năng đối phó rất linh hoạt với mọi tình thế
và có lối ứng xử mềm dẻo phù hợp với hồn cảnh sống gần/trên sơng nước. Điều hiếm
thấy ở những cư dân thuần túy nông nghiệp.

Việt Nam là một nước bán đảo, ở vào góc đơng nam đại lục châu á, nhìn ra đại
dương với bờ biển dài 3.260 km. Nhưng là một cư dân nông nghiệp, sinh sống chủ yếu
trên vùng đất - nước ven sơng, ven biển, ít có khả năng vươn ra đại dương, nên thiếu
tầm nhìn đại dương và ít hoạt động đại dương. Đây lại là mặt hạn chế trong truyền
thống của nhân dân ta mà phải đến thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
chúng ta mới có điều kiện dần dần khắc phục, phát huy một ưu thế của vị trí địa lý và
điều kiện thiên nhiên Việt Nam.

b. Khi xét đến yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên, có thể thấy rõ Việt Nam
là một xứ sở có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp

Trước hết và chủ yếu phải nói đến tiềm năng dồi dào của đất đai. Độ phì của đất
cao và diện tích đất canh tác có điều kiện để phát triển. Ngồi các đồng bằng nhỏ ven
biển miền trung, chúng ta có hai đồng bằng châu thổ lớn của sông Hồng và sông Cửu
Long. Khác với các quốc gia vùng Đông á như Nhật Bản, Hàn Quốc là những nước quỹ
dự trữ đất đai giành cho nông nghiệp bị cạn kiệt từ rất sớm, ở Việt Nam chỉ riêng sông
Hồng với hàng trăm tỷ m3 nước chở nặng phù sa đổ ra biển đã khiến cho đồng bằng
ngày càng được mở rộng. Do cịn có điều kiện để khai hoang tăng thêm diện tích canh
tác, nơng nghiệp Việt Nam dễ tìm thấy lối thốt trước áp lực của tăng trưởng dân số và
mỗi khi khủng hoảng xuất hiện. Cùng với đất đai, khí hậu nhiệt đới gió mùa cho độ
nóng và độ ẩm cao. Mỗi năm số giờ nắng ít nhất là 1200 giờ, nơi nhiều nhất có thể trên
2000 giờ. Cân bằng bức xạ quanh năm dương khiến tổng số nhiệt hoạt động (trên 100C)
rất cao. Lượng mưa trung bình hàng năm ở vùng đồng bằng là 1500 mm, miền núi có

thể lên đến trên 2000 - 3000 mm. Lượng nước mưa vượt quá khả năng bốc hơi, nơi thừa


ít nhất là 500 - 700 mm, nơi nhiều đến 1000 - 2000 mm. Hai yếu tố nhiệt và ẩm cao tạo
nên tính chất nhiệt đới ẩm của khí hậu Việt Nam, cho phép trồng trọt quanh năm và
nhiều khả năng xen canh, tăng vụ.

Chính vì vậy mà người Việt đã sớm lựa chọn nơng nghiệp làm nghề sống chính
của mình suốt mấy nghìn năm. Nghề nơng ngun thủy đã xuất hiện từ đầu thời đại đồ
đá mới và trong thời đại văn hóa Đơng Sơn, đã chuyển sang dùng lưỡi cày đúc bằng
kim loại và sức kéo của trâu bị. Trong những thế kỷ đầu cơng ngun, vùng đồng bằng
Bắc Bộ đã biết trồng lúa hai vụ và trồng dâu nuôi tằm mỗi năm tám lứa. Việt Nam đã
từng tạo dựng nên một văn minh nông nghiệp trồng lúa nước có thời tỏa sáng khắp khu
vực Đơng Nam á. Và cũng chính vì vậy mà người Việt bị trói chặt vào kinh tế nông
nghiệp. Cho đến nay, ba hằng số lớn của lịch sử dân tộc: kinh tế nông nghiệp, cư dân
nông dân, xã hội nông thôn vẫn là những chỉ số quan trọng để nhận diện người Việt
Nam. Do đó, những căn tính nơng dân, những đặc trưng của một xã hội nơng nghiệp có
ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi đặc điểm truyền thống của người Việt Nam bao gồm
mặt tích cực và cả mặt hạn chế khi đi vào cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

c. Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam luôn đặt ra cho con
người muôn vàn những thử thách hiểm nghèo, hay gây ra những tai biến bất
thường được gọi chung là thiên tai, nhất là lũ lụt, hạn hán, bão tố, và nhiều loại
sâu bệnh tàn hại mùa màng... Đây là mặt khắc nghiệt, mặt thử thách gay gắt của
thiên nhiên đối với cuộc sống của con người.

Nguồn nước dồi dào, hệ thống sơng ngịi dày đặc, dọc bờ biển trung bình 25 km
có một cửa sơng; nhưng địa hình dốc, nhất là miền Bắc và miền Trung, mưa lớn tập
trung trong một thời gian ngắn trong năm, là nguyên nhân của nạn lũ lụt trên các triền
sông. Mùa lũ bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 11, nhưng mạnh nhất là vào tháng

7, 8, 9. Theo số lượng thủy văn thì lượng nước chảy mùa lũ của các sông ở Bắc Bộ như
sông Đà, sông Lô, sông Thao, sông Hồng, sông Cầu, sông Lục Nam chiếm từ 72 đến


89% lượng nước cả năm của các dịng sơng đó. Sử biên niên còn ghi lại những nạn lũ
lụt nghiêm trọng qua các thời kỳ lịch sử. Để chống lũ lụt, từ trước công nguyên, nhân
dân ta đã phải đắp đê và đến nay, riêng đê sông của miền Bắc đã dài gần 3000 km.
Nắng mưa thất thường còn gây ra hạn và úng đe dọa mùa màng. Ngay giữa mùa mưa,
do phân bố khơng đều và địa hình khác nhau, nên có nơi ngập úng, có nơi hạn hán. Vì
vậy từ cuối đời Hùng Vương, nhân dân ta đã phải làm thủy lợi để tưới tiêu cho đồng
ruộng.

Vùng biển nước ta nằm vào một trong những trung tâm phát sinh bão nhiệt đới.
Hàng năm trung bình có khoảng 4-5 cơn bão, có khi đến trên dưới 10 cơn bão đổ bộ vào
vùng ven biển nước ta, nhất là vùng ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bão gây ra
những tàn phá ghê gớm nhà cửa, mùa màng và cuộc sống con người.

Sâu bệnh ở xứ nhiệt đới hàng năm có thể sinh sơi nảy nở đến sáu bảy lứa, cũng
là kẻ thù nguy hiểm của mùa màng và gia súc.

Cuộc đấu tranh gần như thường xuyên chống thiên tai là một cuộc vật lộn vô
cùng ác liệt với thiên nhiên, vừa đòi hỏi con người phải liên kết lại trong cộng đồng, tạo
nên sức mạnh để vượt qua thử thách, vừa rèn luyện tinh thần lao động cần cù, kiên nhẫn
kết hợp với lịng dũng cảm, trí thơng minh.

d. Nói tới vai trị của điều kiện tự nhiên Việt Nam khơng thể khơng nói
những tác động đặc biệt của vị trí địa lý. Nằm ở khu vực tiếp xúc giữa nhiều nền văn
hóa và có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, Việt Nam luôn luôn bị xô đập bởi các
biến cố khu vực và của thế giới. Tính cách dễ thích ứng và nhạy cảm phần nhiều được
hình thành do tác động của yếu tố này. Đó cũng có thể coi là một nội dung của truyền

thống Việt Nam.


Cũng do nằm ở vị trí giao tiếp, nơi gặp gỡ của nhiều luồng thiên di, từ lâu Việt
Nam đã là một quốc gia có nhiều cộng đồng sắc tộc với những đặc trưng văn hóa khác
nhau. Theo sự xác minh của các nhà dân tộc học, Việt Nam có 54 tộc người thường gọi
chung là 54 dân tộc. Trong số đó có những dân tộc bản địa có mặt từ rất sớm trên lãnh
thổ Việt Nam và có những dân tộc di cư vào trong nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Về
mặt ngôn ngữ, họ thuộc ngôn ngữ Nam á như nhóm Việt-Mường, nhóm Mơn-Khơ Me,
nhóm Tày - Thái, nhóm Khai Đa; ngơn ngữ Nam Đảo như nhóm Chăm, Ra Giai, Chu
Ru, Ê Đê; ngôn ngữ Hán - Tạng như nhóm Tạng - Miến, nhóm Hán. Về văn hóa, mỗi
dân tộc cũng có sắc thái và vốn văn hóa riêng. Nhưng mặc dù vậy, dân tộc Kinh (Việt)
ln ln đóng vai trị trung tâm vì chiếm số lượng đơng và đạt trình độ phát triển kinh
tế xã hội cao hơn so với các dân tộc anh em khác. Đặc điểm trên đây đã tạo nên đặc
điểm truyền thống đa dạng trong văn hóa nhưng hướng tâm vào văn hóa Việt. Đó là sự
thống nhất trong tính đa dạng của cộng đồng dân tộc Việt Nam và nền văn hóa Việt
Nam.

1.1.2. Tác động của q trình lao động sản xuất và kết cấu kinh tế - xã hội

Đối với bất kỳ một nền văn hóa nào, sản xuất ra của cải vật chất bao giờ cũng
được coi là thành tố quan trọng nhất. Nó quy định đặc điểm, tính cách của một cộng
đồng cư dân và nội dung của những đặc điểm truyền thống cơ bản. ở Việt Nam hoạt
động lao động sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu là nơng nghiệp trồng lúa nước. Do
hồn cảnh tự nhiên, lao động nông nghiệp ở Việt Nam rất cần tới sức liên kết cộng
đồng. Để thích ứng với cuộc sống sản xuất đó, một loại hình cơng xã nông thôn đã
xuất hiện và tồn tại rất lâu dài trong lịch sử. Sau lũy tre làng biết bao nhiêu đặc điểm
truyền thống đã được hình thành.

a. Trước hết đó là truyền thống cộng đồng mà mặt tích cực của nó là tinh thần

đồn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong lúc gặp
khó khăn, hoạn nạn. Khởi nguyên của đặc điểm truyền thống này là sự nương tựa vào


nhau của các thành viên cộng đồng và của mỗi thành viên với tập thể để làm ăn và sinh
sống. Đồng bằng các con sơng của Việt Nam có độ phì cao, đất đai màu mỡ nhưng rất
khó khai thác. Lũ lụt hằng năm, hạn hán hay xảy ra và muôn vàn bất trắc của thiên
nhiên như bão tố, dịch bệnh... của một xứ sở nhiệt đới gió mùa khiến con người phải cố
kết nhau lại. Chứng cứ lịch sử cho thấy người Việt đã khai phá ruộng đất theo phương
thức tập thể và vì vậy, đất đai canh tác trong suốt một thời gian lịch sử rất dài thuộc về
sở hữu tập thể. Thêm vào đó là yêu cầu đắp đê sông, đê biển, khơi đào kênh mương,
làm thủy lợi... mà từng con người và gia đình riêng lẻ không thể nào đảm đương nổi.

Do đặc điểm của loại hình nơng nghiệp trồng lúa nước, ngay từ thời đại kim khí
hình thức sản xuất theo gia đình nhỏ đã được xác lập như một mơ hình tổ chức lao động
hợp lý. Những đặc điểm này của sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến việc
hình thành các đặc điểm truyền thống. Đoàn kết, tương trợ nhau và nguyên tắc cá nhân
tồn tại trong sự liên kết và có phần phụ thuộc vào cộng đồng dần trở thành một tập tục
có cơ chế kinh tế - xã hội bảo đảm.

Một trong những chỉ báo quan trọng giúp ta có thể hình dung được đặc điểm
truyền thống là những tổng kết dân gian, được sàng tuyển qua nhiều thế hệ. Trong ý
nghĩa đó, số lượng những câu ca dao tục ngữ nói về một vấn đề nào đó cũng phản ánh
mức độ quan tâm và ý thức của con người đối với lĩnh vực đó. Cơng trình nghiên cứu
gần đây [2; 72-107] nhằm phân tích định lượng ca dao, tục ngữ cho thấy trong số 4.075
câu ca dao, tục ngữ do Nguyễn Văn Ngọc tập hợp [3] có 1.634 câu có thể xếp vào loại
hình "nói về các quan hệ xã hội". Trong số đó chỉ riêng về quan hệ cộng đồng đã có tới
641 câu, chiếm 79,23%. Điều đó hẳn nói lên rằng trong mn vàn các khía cạnh của
quan hệ xã hội, tâm thức của người Việt chủ yếu giành cho các quan hệ cộng đồng.


Nét đặc biệt của truyền thống cộng đồng Việt Nam là bên cạnh mối quan hệ
giữa cá nhân với các cộng đồng lớn như làng, nước, cộng đồng gia đình, dịng họ đóng
vai trị hết sức quan trọng. Theo phân tích thống kê, những câu ca dao, tục ngữ nói về


quan hệ gia đình, dịng họ chiếm tới trên 77% tồn bộ những câu nói về quan hệ xã hội.
Khơng phải ngẫu nhiên mà những người phương Tây đến Việt Nam vào thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ này đã đưa ra nhận xét: "Tinh thần gia đình là đặc tính cơ bản nhất của con
người Việt Nam thuộc tất cả mọi tầng lớp. Đối với họ, gia đình là tất cả" [4;58] . Hoặc
"Gia đình là cơ sở, là hạt nhân của xã hội An Nam. Đó là một trục trung tâm mà mọi lợi
ích, mọi ý nghĩ đều quay xung quanh nó" [5; 266].

Có thể nhận thấy rằng trong đặc điểm truyền thống cộng đồng người Việt Nam,
ít thấy những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các cộng đồng lớn mà thường là quan
hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Một gia đình (hay rộng ra là một gia tộc) có
trách nhiệm với xóm làng, làng có trách nhiệm với nước và ngược lại. Do đó, suy cho
cùng, một cá nhân bình thường chỉ có vai trị trong khn khổ gia đình họ mà thơi, cịn
ra đến cộng đồng lớn, cá nhân khơng được coi là chủ thể độc lập mà ln ln phải đặt
mình trong mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng. Cũng chính vì thế mà nói đến truyền
thống tương trợ, giúp đỡ nhau cũng thường thể hiện ở cấp gia đình trở lên. Cùng với đặc
điểm này, tính chất của cộng đồng cư dân Việt đã góp phần làm nên nhiều truyền thống
tín ngưỡng liên quan đến gia đình, dịng họ mà tiêu biểu nhất là đặc điểm truyền thống
thờ cúng tổ tiên. P.Ory đã rất có lý khi đưa ra nhận xét: "Đối với người dân An Nam,
cái có tính chất truyền thống nhất và thiêng liêng nhất chính là đạo thờ cúng tổ tiên" [6].
25].

Cơ sở kinh tế - xã hội chủ yếu của truyền thống cộng đồng là làng xã và gia
đình mà người Việt quen gọi là làng - nhà.

Nguồn gốc của làng xã Việt Nam thuộc loại hình cơng xã nơng thơn kiểu á châu

mà đặc trưng cơ bản nhất là lúc ban đầu, toàn bộ ruộng đất đều thuộc quyền sở hữu và
quản lý của cơng xã. Cơng xã có thể giành một phần ruộng đất để cày cấy chung nhằm
cung cấp sản phẩm cho những hoạt động cộng đồng và phần lớn ruộng đất được phân
chia cho các gia đình thành viên sử dụng.


Mỗi làng là một đơn vị tự cư bao gồm một số gia đình sinh sống trên một khu
vực địa lý nhất định. Quan hệ láng giềng, sự gắn bó với nhau trên cùng một địa bàn cư
trú, sinh sống gần gũi nhau, cần liên kết với nhau trong cuộc sống là đặc điểm chung
của công xã nông thôn. Trong làng, gia đình là đơn vị sinh hoạt và sản xuất, lại còn liên
kết với nhau theo quan hệ huyết thống thành họ. Làng Việt Nam vì thế là một thứ làng họ, trong đó quan hệ láng giềng liên kết với quan hệ huyết thống.

Trải qua tiến trình lịch sử, công xã dần dần biến đổi, từ bên trong làng, chế độ
tư hữu ruộng đất xuất hiện và càng ngày càng lấn át ruộng đất công xã, sự phân hóa xã
hội gia tăng. Cơng xã bị phong kiến hóa, trở thành đơn vị xã hội - hành chính của nhà
nước phong kiến với tên gọi phổ biến là xã và ruộng đất công xã thuộc quyền sở hữu
của Nhà nước đứng đầu là nhà vua. Do quá trình lịch sử và hoàn cảnh khai hoang, vào
thế kỷ XVIII - XIX, làng xã miền Bắc, Trung và Nam cũng như giữa các vùng của mỗi
miền có những đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, mẫu chung của nông thôn Việt Nam là
sự bảo tồn lâu dài kết cấu kinh tế - xã hội của cơng xã nơng thơn với tính cộng đồng cao
và quyền tự trị tương đối của làng xã.

Bên trong làng xã là cả một hệ thống cộng đồng liên kết các thành viên lại với
nhau bằng nhiều hình thức tổ chức theo quan hệ địa lý (thơn, xóm, ngõ...), huyết thống
(họ gồm đại tông, tiểu tông và các chi...), đẳng cấp xã hội (quan viên, tư văn, tư võ...),
nghề nghiệp (hội, phường, phe... của người đi buôn, làm nghề thủ công...), tuổi tác
(giáp, đồng niên, đồng môn...), tương trợ (hội hiếu, hội hỷ, hội chơi họ, hội ăn tết...)...
Cấu trúc cộng đồng bên trong làng xã hết sức đa dạng, phong phú, gắn bó các thành
viên trong nhiều tổ chức cộng đồng theo cấp độ và loại hình khác nhau.


Tế bào của làng xã và của xã hội nói chung là gia đình. Gia đình Việt Nam
thuộc loại gia đình nhỏ hay cịn gọi là gia đình hạt nhân, gồm của yếu hai thế hệ cha mẹ
và con cái. Loại gia đình này ra đời rất sớm trong lịch sử và tồn tại cho đến tận ngày
nay.


Hiện nay, gia đình Việt Nam đang trải qua nhiều biến động, nhưng trước sau
gia đình là tế bào cơ sở của xã hội, dựa trên quan hệ huyết thống và tình cảm, ràng buộc
mọi thành viên trong ý thức trách nhiệm và quyền lợi mang ý nghĩa bền chặt và thiêng
liêng gắn với tục thờ cúng tổ tiên. Gia đình Việt Nam giữ một vai trị rất quan trọng
trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trong kế thừa văn hóa và giáo dục truyền
thống. Gia đình là đơn vị kinh tế trong nền sản xuất tiểu nông truyền thống. Gia đình là
đơn vị sản sinh và ni dạy con cái, tái sản xuất con người và phát triển nịi giống, là
nơi hình thành nhân cách ban đầu của thế hệ trẻ, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân
tộc. Trong cuộc sống làng xã, chính từ gia đình, người nơng dân, người thợ thủ cơng
tích lũy kinh nghiệm, trau dồi nghề nghiệp và truyền lại cho con cháu.

Với một cộng đồng đa dạng, phong phú của làng xã như vậy, để đảm bảo cho
sự vận hành của cơ chế, hầu như làng nào cũng có những quy định riêng gọi là lệ làng
hay hương ước. Làng thực sự là một đơn vị có tổ chức khá chặt chẽ và đóng vai trị
chính yếu trong việc bảo vệ và củng cố mối quan hệ cộng đồng. Trong ý nghĩa nguyên
khai, cộng đồng làng xã là tổ chức bảo vệ lợi ích của các thành viên và vì vậy nó được
mọi người thừa nhận và góp phần củng cố. Tinh thần đoàn kết, tương trợ cũng được thể
hiện chủ yếu và đậm nét trong phạm vi làng. Có thể thấy tình làng, nghĩa xóm của
người Việt là sự mở rộng quan hệ gia đình. Người ta quan niệm làng như một gia đình
lớn mà mỗi thành viên có trách nhiệm quan tâm giúp đỡ nhau, bênh vực nhau trong
những lúc cần thiết. Do đó mỗi thành viên trong làng đều có ý thức bảo vệ danh dự của
cộng đồng làng xã.

Từ một đặc điểm truyền thống được hình thành trong cuộc sống lao động và sản

xuất, đồn kết, tương trợ được nhân lên, trở thành một chuẩn mực đạo lý, một giá trị thiêng
liêng của dân tộc khi người Việt luôn phải đối mặt với thảm họa xâm lăng của ngoại bang,
phải cố kết nhau lại để bảo tồn giống nòi.


b. Gắn liền với truyền thống cộng đồng là truyền thống dân chủ làng xã. Để
duy trì những quan hệ cộng đồng, cách ứng xử được coi như chuẩn mực là cá nhân phải
hịa mình vào tập thể là ngược lại cơ chế quản lý làng xã phải được tổ chức sao cho đảm
bảo được sự hài hòa về quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong cộng đồng.

Biểu hiện rõ nét của đặc điểm truyền thống này là quyền được tham gia bầu
chọn ra những người đại diện, tham gia vào bộ máy quản lý làng xã. Theo nguyên lý,
những người thay mặt tập thể để điều hành cơng việc chung phải là những người có uy
tín, tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết, được tập thể kính trọng và tin yêu. Trước những
quyết định hệ trọng, dân làng được hỏi ý kiến. Thời cổ đại, đứng đầu mỗi công xã
(chiềng, chạ) là một "già làng" ("Po Chiêng" phiên âm chữ Hán là "Bồ Chính") có uy
tín và kinh nghiệm. Trong thời kỳ phong kiến, bộ máy quản lý làng xã bao gồm hai bộ
phận. Hội đồng kỳ mục (hay hào mục, chức sắc) gồm những người có thế lực và uy tín
trong làng, giữ vai trị đại diện cho cộng đồng và chỉ đạo mọi hoạt động của làng. Chức
dịch đứng đầu là xã trưởng, sau đổi là lý trưởng, là những người điều hành công việc
trong làng và chịu trách nhiệm hoàn thành mọi nghĩa vụ đối với chính quyền cấp trên.
Chức dịch do Hội đồng kỳ mục giới thiệu để dân làng cử và cấp trên xét duyệt, chấp
nhận. Bộ máy quản lý làng xã chuyển hóa dần thành đơn vị hành chính cơ sở, nhưng
vẫn duy trì tính tự trị tương đối của làng xã và trong giới hạn đó, vẫn mang tính đại diện
cộng đồng.

Chính kết cấu kinh tế - xã hội của làng xã và cơ chế vận hành của bộ máy quản
lý làng xã đã sản sinh ra truyền thống dân chủ làng xã được biểu thị tập trung trong lệ
làng và hương ước. Mỗi làng có một hệ thống phong tục, tập quán riêng tồn tại dưới
dạng tập quán pháp rất có hiệu lực được gọi là lệ làng. Từ thế kỷ XV và nhất là từ thế

kỷ XVIII - XIX, tập quán pháp truyền miệng được biên soạn lại thành văn bản gọi là
hương ước. Đó là những quy ước nhằm bảo vệ lợi ích của cộng đồng, điều hòa mối
quan hệ giữa các thành viên trong làng và giữa làng với nước tức giữa "lệ làng" với
"phép vua". Vì thế hương ước thường được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với những
biến đổi của những mối quan hệ trên vừa bảo đảm đời sống cộng đồng và tính tự trị


tương đối của làng xã, vừa thích nghi và tơn trọng phép nước. Nói chung "lệ làng" phải
phục tùng "phép vua", nhưng cũng có lúc "phép vua thua lệ làng".

Kết quả nghiên cứu và thống kê định lượng một số hương ước cổ (trước Pháp
thuộc) và 78 hương ước cải lương thời Pháp thuộc cho thấy có một số thay đổi nhưng
khơng nhiều (ví dụ như tên gọi một số chức dịch trong bộ máy quản lý, nghĩa vụ đối với
nhà vua và chính quyền thực dân, lệ phạt đánh đập và đuổi ra khỏi làng bị bãi bỏ trong
hương ước cải lương...). Nội dung cơ bản của hương ước trước hết là bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng như trật tự trị an, sản xuất nông nghiệp, đê điều, thủy lợi, đường
sá và các cơng trình cơng cộng (đình làng, đền, chùa, cầu cống...), nêu cao trách nhiệm
và nghĩa vụ của các hạng chức dịch cũng như của các thành viên đối với cộng đồng, quy
định nghĩa vụ nộp tô thuế đối với cấp trên, bảo vệ phong tục tập quán và các thứ bậc
trong làng, quy định các tế lễ, hội hè và các hình phạt vi phạm lệ làng... Những quy định
của hương ước, nhất là các hình thức khen thưởng và xử phạt phản ánh rõ hướng giá trị
của đời sống cộng đồng làng xã [ 7; 154 - 225].

Lệ làng giữ vai trị cơng cụ điều chỉnh hành vi của cá nhân trong cộng đồng,
được thực hiện tự nguyện chủ yếu qua dư luận cộng đồng, qua những lời khen chê, thái
độ khích lệ hay phê phán của dân làng. Trong trường hợp cần thiết, làng áp dụng biện
pháp phạt vạ hoặc những hình thức bêu xấu, làm nhục người vi phạm nghiêm trọng lệ
làng. Ngày xưa, hình phạt cao nhất của làng là đuổi ra khỏi làng.

Trong truyền thống dân chủ làng xã Việt Nam có những biểu hiện khá độc đáo.

Thơng thường dưới thời phong kiến phụ nữ và người nghèo là những lớp người bị coi
thường và hầu như khơng có quyền hành gì trong gia đình và xã hội. Thế nhưng qua
một số cơng trình nghiên cứu địa bạ gần đây có thể thấy rằng trong bộ máy quản lý làng
xã có những người hồn tồn khơng có ruộng đất tư hữu là hiện tượng khá phổ biến ở
đồng bằng Bắc Bộ đầu thế kỷ XIX. Theo số liệu thống kê của 140 địa bạ năm 1805 của
vùng Hà Đông cũ, trong số 834 chức sắc của các làng xã vùng này có 558 người chiếm


66,91% tổng số chức sắc, có ruộng đất tư hữu và 276 người chiếm 33,09% khơng có
ruộng đất tư hữu [ 8; 196 - 243].

Cũng theo số liệu thống kê địa bạ trên, trên dưới 20% chủ sở hữu là phụ nữ.
Quyền sở hữu ruộng đất và tài sản nói chung của phụ nữ Việt Nam đã được Bộ luật
Hồng Đức từ thế kỷ XV xác nhận. Theo bộ luật này, trong gia đình con gái được quyền
kế thừa tài sản bình đẳng như con trai, ruộng đất của cha mẹ trừ phần ruộng hương hỏa
để thờ cúng cha mẹ, còn lại chia đều cho các con, trai cũng như gái. Tài sản của một gia
đình được pháp luật quan niệm gồm ba bộ luật tạo thành: tài sản của vợ do cha mẹ vợ
chia cho, tài sản của chồng do cha mẹ chồng chia cho và tài sản do hai vợ chồng gây
dựng nên. Khi vợ chồng li dị, tài sản của gia đình phân chia theo nguyên tắc: tài sản của
vợ trả về cho vợ, tài sản của chồng trả về cho chồng, tài sản do vợ chồng tạo lập nên
trong thời gian chung sống chia đôi, mỗi người một nửa [9]. Đó là những nội dung rất
độc đáo trong luật Hồng Đức mà các nhà nghiên cứu luật học chỉ tìm thấy trong bộ luật
Hồng Đức ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, khơng tìm thấy ở các nước á Đông khác như
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên thời bấy giờ.

Tuy nhiên cũng phải thấy rằng dân chủ làng xã nói tới ở đây là một hình thức
dân chủ sơ khai. Thực chất của thiết chế dân chủ này là một hình thức tự quản nên các
thành viên giám sát lẫn nhau trở thành một yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng
để duy trì kỷ cương. Phương thức này chứa đựng tiềm tàng hai khuynh hướng cực đoan.
Khuynh hướng thứ nhất là tạo ra tâm lý giám sát thái quá biến thành sự can thiệp của

tập thể vào quá trình phát triển của cá thể, nhất là trong hồn cảnh bình qn chi phối
mọi quan hệ trong làng xã. Khuynh hướng thứ hai là khi dư luận khơng cịn được coi
trọng thì những hành vi tự do, tùy tiện (vơ chính phủ) rất dễ nảy sinh. Về một phương
diện khác, truyền thống dân chủ làng xã cũng chứa đựng tinh thần bình quân chủ nghĩa
và tính cục bộ địa phương của từng dịng họ, từng làng xã.


c. Cuộc sống gắn bó nhiều đời với sản xuất nông nghiệp khiến cho người
Việt luôn luôn gần gũi với thiên nhiên, hịa nhập với thiên nhiên, thích nghi với
thiên nhiên, tạo nên truyền thống giản dị, chất phác, ưa đơn giản, ghét cầu kỳ, xa
hoa. Trải qua nhiều thế hệ gắn bó với thiên nhiên cùng với những giá trị vật chất và tinh
thần do sức sáng tạo của cộng đồng sản sinh ra là những yếu tố quan trọng góp phần
dung dưỡng tâm hồn và tình cảm của người Việt Nam. Cũng nhờ đặc điểm này mà
người Việt có tấm lịng cởi mở và giàu cảm xúc, sống hòa đồng với cộng đồng và với
thiên nhiên. Trong một cơng trình nghiên cứu về tài năng trẻ Việt Nam, các số liệu
thống kê cho thấy trong số 11 lĩnh vực mà các tài năng trẻ đã biểu hiện thì văn hóa là
lĩnh vực có tần số xuất hiện cao nhất [10].

d. Nhưng mặt khác, sản xuất nông nghiệp với cơ sở kinh tế tiểu nông và những
điều kiện lao động thơ sơ địi hỏi con người phải lao động vất vả, cực nhọc. Đặc biệt là
trong điều kiện của thiên nhiên Việt Nam nắng lắm, mưa nhiều, ẩm thấp, có nhiều hạn
hán, lũ lụt và dịch bệnh. Q trình vật lộn với những khó khăn thử thách đó để lao động
sản xuất và tạo dựng cuộc sống đã rèn đúc nên truyền thống cần kiệm, chịu thương
chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ. Thậm chí chịu khổ cịn trở thành một lối nghĩ, một
triết lý sống được nhiều người chấp nhận. Có thể bắt gặp khơng ít những thành ngữ dân
gian như "đói sạch, rách thơm" hay triết lý "an bần, lạc đạo"... trong ngôn ngữ của
người Việt.

e. Trước khi bước vào thời kỳ định cư lấy trồng lúa nước làm nghề sản xuất
chính, tổ tiên của người Việt hồn tồn khơng trải qua hình thức kinh tế du mục như

nhiều dân tộc ở châu Âu và bắc á. Đây cũng là đặc điểm chung của cả khu vực Đơng
Nam á. Do đó gần như thiếu hẳn một truyền thống kén chọn thủ lĩnh theo lối đọ sức,
đua tài kiểu du mục.

Đặc trưng nổi bật của nông nghiệp trồng lúa là tính ổn định của quy trình sản
xuất và phẩm chất được đề cao là dạy dạn kinh nghiệm, thông thạo thời tiết, mùa màng.


Phẩm chất này chỉ thường có ở những người lớn tuổi. Do đó có vai trị lớn trong sản
xuất và trong đời sống xã hội ở các làng quê là các "lão nông tri điền", những người
"sống lâu lên lão làng". Truyền thống kinh nghiệm, trọng tuổi tác, trọng người già được
hình thành chủ yếu là do vậy. Nhưng cũng xuất phát từ đặc điểm truyền thống này lại
nảy sinh vấn đề quyền lực người già mà các nhà nghiên cứu thường gọi là "lão quyền".
ảnh hưởng của loại quyền lực này nhiều khi có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát huy vai
trị và vị trí xã hội của tầng lớp những người trẻ tuổi.

f. Cũng do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp truyền thống lấy kinh tế tiểu
nơng mang nặng tính tự cung tự cấp làm đơn vị và cơ sở, người sản xuất khơng quen
hạch tốn kinh tế. Đối với kinh tế nông nghiệp truyền thống hầu như mọi tư liệu vật
chất phục vụ cho sản xuất đều có sẵn trong tay người nơng dân. Giống má thì dành từ
mùa thu hoạch trước cho vụ sau, phân bón thì có sẵn trong chuồng lợn và đặc biệt
khơng bao giờ họ tính tốn đến cơng sức của mình bỏ ra. Sự lo toan chủ yếu chỉ tập
trung vào chu trình sinh trưởng và chăm sóc của cây lúa theo thời vụ.

Từ đây đã hình thành một tập tính kém hạch tốn, khơng quen lường tính xa.
Hơn thế, sự thành bại của nơng nghiệp hồn tồn bị phụ thuộc vào thiên nhiên nên dễ
tạo ra tâm lý cầu an, cầu may và "ăn xổi".

2.7. Di tồn dưới dạng tập quán của sản xuất nông nghiệp theo lối kinh tế tiểu
nơng - một loại hình lao động tương đối tự do, còn được biểu hiện ở tác phong tùy tiện,

tản mạn, kỷ luật không chặt chẽ. Sự thực là vì sản xuất nơng nghiệp tiểu nơng khơng
cần tới những tính tốn chuẩn xác và sự hiệp đồng thật chặt chẽ.

Hầu hết các cư dân nông nghiệp trên thế giới đều có chung đặc tính này. Nhưng
q trình cơng nghiệp hóa với những địi hỏi khắt khe của sản xuất nông nghiệp, lối
sống tùy tiện, thiếu kỷ luật chặt chẽ dần dần được thay thế bằng tác phong chuẩn xác, có
kỷ luật thường được gọi là tác phong cơng nghiệp. Việt Nam chưa trải qua thời kỳ công


nghiệp hóa nên ảnh hưởng của lối sống nơng nghiệp còn rất đậm nét trong mọi mặt của
đời sống xã hội.

1.1.3. Tác động hằng xuyên của hoàn cảnh lịch sử

Vị trí địa lý chiến lược của Việt Nam và hồn cảnh lịch sử của dân tộc Việt
Nam sinh ra và lớn lên bên cạnh đế chế Trung Hoa lớn mạnh đã trở thành nhân tố quan
trọng tạo ra những điều kiện lịch sử thường xuyên tác động đến lịch sử, cuộc sống và
đặc điểm truyền thống của người Việt Nam.

Từ khi đế chế Tần (221 - 206 Tcn) thành lập cho đến đế chế Thanh (1644 1911), không một triều đại phong kiến Trung Quốc nào khơng ít ra một lần xâm lược
Việt Nam và có những thời kỳ đất nước bị đô hộ kéo dài hàng chục, hàng trăm năm như
thời Bắc thuộc hơn 10 thế kỷ, thời Minh thuộc 20 năm.

Tiếp theo đó, trong thời kỳ cận đại và hiện đại, khi chủ nghĩa thực dân bành
trướng sang phương Đơng thì Việt Nam lại phải đương đầu với những cường quốc đế
quốc chủ nghĩa trên thế giới. Đó là những cuộc kháng chiến và đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân kéo dài trên một thế kỷ, chống đế quốc Pháp rồi phát xít Nhật, đế quốc
Mỹ.

Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ 3 Tcn đến những cuộc chiến tranh vừa kết

thúc trong thế kỷ 20 này, tính ra thời gian cống ngoại xâm, bao gồm cả kháng chiến giữ
nước và đấu tranh chống đô hộ, đã lên đến trên 12 thế kỷ, chiếm quá nửa thời gian lịch
sử. Đặc điểm đáng lưu ý ở đây là độ dài thời gian và tần số xuất hiện, số lượng các cuộc
kháng chiến và khởi nghĩa, chiến tranh giải phóng quá lớn so với các quốc gia, dân tộc
khác trên thế giới. Hơn nữa, hầu hết các cuộc kháng chiến lại diễn trong so sánh lực
lượng rất chênh lệch, trong điều kiện chiến đấu rất ác liệt. Trong lịch sử, dân tộc Việt
Nam đã phải đương đầu với nhiều đế chế lớn mạnh ở phương Đông thời cổ - trung đại


và nhiều cường quốc đế quốc chủ nghĩa thời cận - hiện đại. Vì vậy, con đường sống cịn
và chiến thắng của dân tộc ta là phải huy động cao độ sức mạnh mọi mặt của đất nước,
sức mạnh vật chất và tinh thần của cả cộng đồng dân tộc. Lịch sử chống ngoại xâm với
những đặc điểm như thế đã tác động đến tồn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đến cuộc
sống của cộng đồng các dân tộc và để lại dấu ấn đậm nét trong nhiều đặc điểm truyền
thống của người Việt Nam. Đó là chủ nghĩa u nước, tinh thần đồn kết dân tộc, ý
chí quật cường bất khuất, niềm tự tơn dân tộc, trí thơng minh sáng tạo.

Trên cái nền rộng lớn của những đặc điểm truyền thống nói trên, rất nhiều đặc
điểm truyền thống khác cũng đã được hình thành. Một trong những biểu hiện dễ thấy là
truyền thống sùng bái và thờ cúng anh hùng. Hầu như ở bất cứ đâu trên đất nước
Việt Nam cũng có thể tìm thấy những đền thờ các nhân vật lịch sử có cơng lao với dân
tộc. Họ được nhân dân suy tôn thành những vị thần linh quanh năm được thờ cúng. Sự
cúng tế các vị thần này ngồi ý nghĩa trân trọng cơng lao cịn hàm ý cầu mong những vị
thần - anh hùng che chở cho dân làng thoát khỏi những hiểm họa chiến tranh và giặc giã
vốn xảy ra rất thường xuyên trên đất nước Việt Nam.

Cũng do tác động của truyền thống chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, ở Việt Nam
đã hình thành nên truyền thống thượng võ khá đặc sắc của dân tộc.

1.1.4. Tác động của mơi trường văn hóa khu vực và thế giới


a. Nói tới tác động văn hóa khu vực, trước hết phải nói tới cơ tầng văn hóa
Đơng Nam á. Tuy ở mỗi nước đều có biến thái riêng nhưng tất cả các nước Đông Nam
á đều có một mẫu số chung về văn hóa. Đây là một khu vực tiếp xúc giữa đại lục và hải
đảo, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nơi đầu mối của các đường giao thông tự nhiên
nối liền với lục địa và tỏa ra các hải đảo qua những con đường hàng hải nối liền ấn Độ
Dương với Thái Bình Dương. Do điều kiện tự nhiên đó, Đơng Nam á là nơi giao thoa


gặp gỡ của nhiều tộc người trên các đường thiên di, nơi giao lưu rộng rãi của các nền
văn hóa trong khu vực và với những nền văn hóa lớn trên thế giới.

Trước đây, Đông Nam á không được coi là một khu vực văn hóa, mà chỉ được
coi như khu vực nằm giữa hai nền văn minh Trung Quốc, ấn Độ và thuộc phạm vi của
vùng "ấn Độ hóa" (hindouisé) hay "Trung Quốc hóa" (sinisé). Từ quan niệm này, xuất
hiện các tên gọi như bán đảo Trung - ấn hay ấn Độ - Chi Na (Indochine/Indochina) và
ba nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia thời thuộc Pháp gọi là "ấn Độ China thuộc Pháp
(hay Đông Dương thuộc Pháp, Indochine francaise). Tên gọi Indonesia cũng có nghĩa là
ấn Đảo (Indonesia = Inde (ấn Độ) + esia (đảo)). Những kết quả nghiên cứu về khảo cổ
học, cổ nhân học, lịch sử, văn hóa... của những thập kỷ gần đây đã cho phép bác bỏ
quan niệm đó. Từ thời tiền sử và sơ sử xa xưa, Đông Nam á đã là một khu vực văn hóa
khá phát triển và có một cơ tầng văn hóa chung. Vào những thế kỷ trước và đầu cơng
ngun, văn minh Trung Quốc và ấn Độ bắt đầu mở rộng ảnh hưởng vào khu vực này
và mỗi nước trong khu vực tiếp thu những ảnh hưởng văn hóa của hai trung tâm văn
minh lớn này dưới nhiều phương thức và mức độ khác nhau, nhưng vẫn bảo tồn được
bản sắc văn hóa riêng của mỗi nước.

Về phương diện lịch sử và kinh tế, Đông Nam á là một trong những khu vực
xuất hiện sớm của con người, một trong những cái nôi của "cách mạng đá mới" với sự
ra đời sớm của nghề trồng trọt, nghề nông nguyên thủy và nằm trong địa bàn quê hương

của nghề trồng lúa nước.

Về phương diện địa lý - văn hóa, địa - lịch sử, Việt Nam gắn bó với khu vực
Đơng Nam á, có mẫu số chung với văn hóa khu vực dựa trên nền tảng văn minh nông
nghiệp trồng lúa nước của xứ nhiệt đới, một xã hội xóm làng với kết cấu cộng đồng cao,
một quốc gia nhiều tộc người với nhiều lối sống và quan hệ ứng xử gần gũi. Dĩ nhiên
trên cơ tầng văn hóa chung đó, Việt Nam cũng như mỗi nước Đơng Nam á có những
bản sắc văn hóa riêng do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử cụ thể quy định.


×