Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 103 trang )






LUẬN VĂN:

Đội ngũ công nhân Thái
Nguyên với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá








Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay, giai cấp công nhân
không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng đi đầu, trực tiếp thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề xây dựng giai cấp
công nhân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng, Nhà nước của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân.
Thái Nguyên là Thủ đô trong những năm nhân dân ta kháng chiến chống thực
dân Pháp, là thành phố công nghiệp trong hiện tại. Đội ngũ công nhân Thái Nguyên là
một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam với những truyền thống bất khuất kiên
cường. Trải qua gần một thế kỷ phát triển, đội ngũ công nhân Thái Nguyên không
ngừng trưởng thành về nhiều mặt, có vai trò to lớn trong tiến trình đấu tranh giải phóng


dân tộc, xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đội ngũ công nhân Thái Nguyên tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng đó.
Tuy nhiên, cũng như giai cấp công nhân cả nước, đội ngũ công nhân Thái Nguyên đã và
đang có biến động, bắt đầu bộc lộ những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế và yếu
kém đòi hỏi phải từng bước khắc phục để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công hoá hiện đại hoá, thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy, nghiên
cứu vấn đề phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên là việc làm vừa cơ bản lâu dài,
vừa cấp bách.
Do vậy, tôi chọn đề tài "Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá" làm luận văn tốt nghiệp cao học với hy vọng góp một chút
sức lực nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
ở Việt Nam trong những năm gần đây, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh
lịch sử của nó đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu với nhiều góc độ, những
phạm vi khác nhau. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân
là gì? thực trạng giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam;
những giải pháp xây dựng giai cấp công nhân hiện nay chẳng hạn như: "Đặc điểm và

xu hướng biến đổi cơ cấu - giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam" (Đỗ Khánh Tặng - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1990). "Giai cấp công
nhân Việt Nam vai trò xu thế biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" (Bùi Đình Bôn - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1991). Kỷ yếu hội thảo: "Thực trạng
giai cấp công nhân dưới tác động cơ thế thị trường" (Trung tâm nghiên cứu lý luận -
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội, 1993). "Một số vấn đề giai cấp công nhân
và công đoàn Việt Nam" (GS. Văn Tạo - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997). "Bác
Hồ với giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
(PGS. TS Đỗ Quang Hưng (chủ Biên) - Nxb Lao động Hà Nội,1999). "Tích cực hoá
nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" (Trần
Thị Bích Liên - Luận án tiến sĩ, 2001). "Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện
nay" (Phạm Thị Xuân Hương - Luận án tiến sĩ, 2001). "Xu hướng biến động giai cấp

công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21" (Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam - Viện Công nhân và công đoàn, Nxb Lao động Hà Nội, 2001) Các công trình
nêu trên đã khai thác tương đối toàn diện những vấn đề liên quan đến công nhân, xu
hướng biến động của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã đưa ra
những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu
cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gần đây, còn một số công trình khác nghiên cứu trực tiếp đến mối quan hệ giữa
công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của giai
cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như:
"Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân" (PGS Cao Văn
Lượng (chủ biên) - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). "Sự phát triển của giai cấp
công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước" (Trần Ngọc Sơn - Luận án tiến sĩ, 2001). Kỷ yếu hội thảo: "Về giai cấp công
nhân và công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". (Trường
Đại học Công đoàn Việt Nam, Hà Nội, 2002). "Giai cấp công nhân trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS. Dương Xuân Ngọc - Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004) Trong các công trình này đã đề cập đến mối quan hệ biện
chứng giữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với sự phát triển của giai

cấp công nhân, đặt ra những yêu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng,
chất lượng, cơ cấu để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
Ngoài những công trình nêu trên còn một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu thực
trạng và đưa ra những phương hướng giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, củng cố và phát
triển đội ngũ công nhân ở các địa bàn cụ thể, chẳng hạn như: "Công nhân Hải Phòng
trong công cuộc đổi mới những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết" (Nguyễn
Văn Năm, 1995). "Xu hướng biến đổi phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ
công nhân Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay" (Vũ Minh Thủ, 1998). "Xây dựng
đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá" (Phạm Hồng Hải, 2002)
Riêng đối với tỉnh Thái Nguyên dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân

tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh cũng đã tiến hành khảo sát đưa ra những đánh giá bước
đầu nhằm xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh. Song nhìn chung chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề phát triển đội ngũ công nhân
Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở cấp tiến sĩ hay thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đội ngũ công nhân Thái Nguyên,
trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò đội
ngũ công nhân Thái Nguyên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những quan niệm cơ bản như: Giai cấp công nhân Việt Nam; quan niệm
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự
phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đánh giá thực trạng của đội ngũ công nhân Thái Nguyên, tìm ra những nguyên
nhân và những vấn đề đặt ra. Từ thực trạng đó, dự báo xu hướng biến động của đội ngũ
công nhân Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó, về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Cơ sở thực tiễn là kết quả điều tra thực trạng công nhân ở các doanh nghiệp
trong và ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Coi
trọng phương pháp logíc - lịch sử; kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê
- Kế thừa một cách chọn lọc các thành tựu nghiên cứu có liên quan đến luận văn.
4.3.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đội ngũ công nhân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ đổi
mới từ 1986 đến nay.
5. Đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng đội ngũ công nhân ở Thái Nguyên, dự
báo xu hướng biến động của nó, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy
hơn nữa vai trò đội ngũ công nhân ở Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
6. ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tạo lập cơ sở khoa học để các cấp
lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Thái Nguyên tham khảo, vận dụng trong việc xây dựng chính
sách nhằm xây dựng và củng cố đội ngũ công nhân trên địa bàn toàn tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ giảng dạy nghiên cứu về
giai cấp công nhân ở các trường chính trị tỉnh, thành phố.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia làm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1
Giai cấp công nhân Việt Nam
và đội ngũ công nhân thái nguyên trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa

1.1. giai cấp công nhân Việt Nam với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa

1.1.1. Về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân
Khái niệm về giai cấp công nhân được đề cập đến ngay khi giai cấp công nhân
xuất hiện trên vũ đài chính trị. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tùy thuộc ở lập trường
giai cấp, thái độ chính trị, trình độ nhận thức và phương pháp tiếp cận khác nhau đưa ra
nhiều ý kiến không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Đến nay giai cấp công nhân
là gì? Nó còn hay đã "biến mất"? Địa vị kinh tế - xã hội của nó ra sao? tất cả vẫn đang
là trọng điểm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trên thế giới. Thực tiễn cho thấy,
quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân vẫn hàm chứa tính khách
quan và khoa học hơn cả bởi nó dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận biện
chứng duy vật. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét
khái niệm giai cấp công nhân trên tất cả các khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng nhất và
các thuộc tính bản chất của nó. Chẳng hạn như, ngay từ 1845, khi bắt tay vào nghiên
cứu giai cấp công nhân trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" C.Mác đã đặt câu hỏi:
"Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực sự là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân
nó giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử" [33, tr.56].
Cũng trong giai đoạn này, C.Mác và Ph.Ăngghen còn bàn nhiều và đã sử dụng
nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ về giai cấp công nhân như trong Lời nói đầu tác phẩm:
"Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen" (1844). C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc
kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển của giai cấp công nhân - ở đây C.Mác sử dụng
thuật ngữ giai cấp vô sản. Theo C.Mác: "Giai cấp vô sản Đức là con đẻ của nền đại
công nghiệp non trẻ đang hình thành ở Đức". Quan điểm của Mác không những chỉ rõ
giai cấp vô sản được hình thành từ CNTB công nghiệp mà còn là đại diện cho lực lượng
sản xuất tiến bộ đang trong giai đoạn hình thành và phát triển.

Trong tác phẩm "Tình cảnh những người lao động ở Anh" (1844-1845).
Ph.Ăngghen khẳng định:
Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh. Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa thứ hai của thế kỷ
XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã

nảy sinh ra giai cấp công nhân. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong
trào công nhân [33, tr.354].
Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn sử dụng một số thuật ngữ khác ngoài
"giai cấp vô sản", "giai cấp công nhân" để biểu đạt khái niệm "giai cấp công nhân".
Chẳng hạn như: "giai cấp vô sản công nghiệp", "giai cấp vô sản hiện đại", "giai cấp
công nhân hiện đại', "giai cấp công nhân công xưởng, nhà máy", "giai cấp công nhân
đại cơ khí" Bên cạnh đó, trong một số điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử
dụng một số hình thức diễn đạt khác như "lao động làm thuê", "giai cấp xã hội hoàn
toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mình", "giai cấp của những người hoàn
toàn không có của", "giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX" Có thể khẳng định
rằng, các thuật ngữ đã nêu chỉ là sự khác nhau về hình thức biểu đạt trong những văn
cảnh cụ thể của một khái niệm: "Giai cấp công nhân" với sự thống nhất về bản chất:
lực lượng lao động trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
C.Mác, Ph.Ăngghen phân biệt giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới
và bản chất cách mạng với bộ phận công nhân đã bị tha hóa, đánh mất mình bằng
những thuật ngữ đối ngược nhau: giữa một bên là "giai cấp vô sản cách mạng" với
một bên là "tầng lớp vô sản lưu manh" mất gốc, những phần tử cặn bã của xã hội, và
như vậy cũng đồng nghĩa với việc phân biệt giai cấp công nhân cách mạng với bộ
phận công nhân đã khuất phục, trở thành công cụ của giai cấp tư sản để phá hoại
phong trào công nhân từ bên trong, mưu toan kìm hãm và khuôn cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân trong trật tự của "chủ nghĩa tư bản" vì mục tiêu kinh tế và lợi ích
tầm thường do hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản thao túng mà ở đây các ông đã sử
dụng thuật ngữ: "Công nhân quý tộc". Theo các ông "công nhân quý tộc" và tầng lớp
vô sản lưu manh không còn là bộ phận của giai cấp công nhân nữa mà đã trở thành
một bộ phận của giai cấp tư sản hoặc đã là tầng lớp cặn bã của xã hội.

Tựu chung lại, tuy có khác nhau trong cách gọi, cách diễn đạt tùy từng hoàn
cảnh lịch sử. Nhưng những thuật ngữ không giống nhau nêu trên về khái niệm giai cấp
công nhân đều được các nhà kinh điển Mác xít sử dụng như một khái niệm đồng nhất
dựa trên hai tiêu chí cơ bản để phân định giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội

khác là:
Vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất
Giai cấp công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội
hóa, quốc tế hóa cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại
với người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác
chỉ rõ: "Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng
công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc"
[36, tr.605]. Điều đó cho thấy, hai ông luôn nói đến giai cấp công nhân với tư cách là
tập đoàn người bao gồm những công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công
nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Theo các ông: "Các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, còn
giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp" [33, tr.610] hay
"Công nhân là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy". Như vậy, giai
cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp.
Chính vì thế giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại, đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến và mang trong mình những đặc trưng riêng có mà
không một giai tầng nào có được đó là: Tính tiên tiến, hiện đại, tinh thần khoa học và
cách mạng triệt để; ý thức tổ chức kỷ luật; tình đoàn kết giai cấp.
Vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có tư
liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột
giá trị thặng dư.
Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp
công nhân hiện đại - tức giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được
việc làm, nếu lao động của họ tăng thêm tư bản cũng phát triển theo. Những

công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng
hóa, tức là món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải
chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường [34,

tr.605].
Điều này đã khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp
tư sản.
Xuất phát hai tiêu chí trên, trong "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản"
(1847) Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân:
Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc
bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư
bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc hay đau khổ, sống và chết toàn bộ sự
sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình
chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc
cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp của
những người vô sản là giai cấp lao động làm thuê trong thế kỷ XIX giai cấp vô
sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra [34, tr.456-457].
Như vậy, mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu lên thành một định nghĩa
hoàn chỉnh về giai cấp công nhân, nhưng qua những tác phẩm của mình, với những cách
tiếp cận khác nhau các ông đã nêu một cách khách quan nhất những đặc trưng cơ bản,
những thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân, nhờ đó, khiến người ta có thể dễ
dàng nhận diện được giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, thời đại đế
quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xã hội hiện thực. Lênin đã bổ
sung, phát triển những thuộc tính mới của giai cấp công nhân. Lênin chỉ rõ: Sự phân
chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và sự khác nhau của các tập đoàn người
trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, trong quan hệ đối với quản lý sản
xuất, trong quan hệ phân phối sản phẩm.
Từ nhận thức mới về giai cấp như vậy, trong rất nhiều tác phẩm của mình như
"Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga", "Nhà nước và cách mạng", "Sáng kiến vĩ
đại" Lênin đã chỉ ra rằng, sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân đã

trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân đã hoàn
toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm thuê trở thành giai cấp thống trị về chính trị, thông

qua Đảng tiên phong của mình lãnh đạo toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới.
Theo Lênin, giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính trị, là giai cấp lãnh
đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội
mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát
triển của giai cấp công nhân là đi tới tự thủ tiêu mình với tư cách là giai cấp
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự tác động mạnh mẽ của nó vào mọi
khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội đã không những làm cho quan hệ giai cấp, dân
tộc và cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc dịu đi mà nó diễn ra ngày càng gay gắt với
những biểu hiện hết sức phức tạp. Điều đó đã khiến nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới
trong đó có nước ta đưa ra quan niệm mới về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Trước hết phải kể đến định nghĩa của các tác giả trong công trình: "Một số vấn
đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: "Giai cấp công nhân là giai cấp
những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các trình
độ kỹ thuật khác nhau mà địa vị kinh tế - xã hội tùy thuộc vào chế độ xã hội đương thời:
ở các nước tư bản, họ là những người không có hoặc cơ bản không có tư liệu sản xuất,
phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các
nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư
liệu sản xuất chủ yếu và cùng hợp tác lao động cho mình [22, tr.97].
Tiếp đến là định nghĩa trong cuốn "Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học" do
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác -
Lênin đã viết: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại và nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của
tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. ở các nước tư bản,
giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất,
phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các

nước XHCN, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất

chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi
ích chính đáng của bản thân họ.
Ngoài ra, một số Trung tâm như Trung tâm Nghiên cứu thông tin lý luận - Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân và công đoàn Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân trên cơ sở hai tiêu chí cơ bản
mà các nhà kinh điển Mác xít đã nêu.
Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, có một số định nghĩa sau:
GS.TS Đỗ Nguyên Phương trong tác phẩm: "Những vấn đề chính trị - xã hội
của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Nhà xuất
bản Khoa học - kỹ thuật phát hành năm 1993, viết: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn
xã hội hình thành và phát triển cùng với cách mạng công nghiệp, là lực lượng sản xuất
cơ bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, động lực
chính của tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội" [40, tr.55].
GS. Phạm Xuân Nam trong cuốn "Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải
pháp", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 đưa ra định nghĩa:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội rộng lớn những người lao
động làm việc trong các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp
có thu nhập chủ yếu bằng tiền lương hoặc tiền công, do trực tiếp vận hành
những tư liệu sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại trong
các ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân, đại diện cho lực lượng sản
xuất tiên tiến [39, tr.31].
Nhìn chung các định nghĩa đã nêu đều thống nhất khi tập trung đề cập tới khía
cạnh bản chất của giai cấp công nhân là người lao động công nghiệp gắn với khoa học,
kỹ thuật công nghệ cao, địa vị kinh tế - xã hội, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
đã diễn ra với tốc độ rất nhanh và đang tác động trực tiếp, sâu sắc tới sự biến đổi về cơ
cấu, số lượng, chất lượng, ngành nghề, phương thức và phong cách lao động cũng như
năng lực trí tuệ của giai cấp công nhân. Vì vậy, sẽ không thể đưa ra một định nghĩa về
giai cấp công nhân một cách khoa học, nếu như không đổi mới nhận thức về giai cấp


công nhân trong sự phát triển của kinh tế tri thức. Một vấn đề nữa gây nhiều tranh cãi về
định nghĩa giai cấp công nhân là địa vị của nó trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội trong giai đoạn hiện nay là gì?
Một là, ở các nước TBCN hiện nay một bộ phận công nhân có cổ phần, cổ
phiếu.
Hai là, ở các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đường lối phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, ngoài bộ phận công nhân
trong thành phần kinh tế nhà nước còn có bộ phận công nhân trong các thành phần kinh
tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là công nhân làm
thuê và vẫn bị bóc lột về giá trị thặng dư, do vậy vấn đề làm chủ của giai cấp công nhân
sẽ như thế nào?
Trên cơ sở cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển Mác xít; những điểm
cơ bản của các định nghĩa nêu trên kết hợp với thực tiễn phong trào công nhân, chúng
tôi xin đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân như sau:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn người ổn định, hình thành và phát triển
cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, là lực lượng sản xuất cơ bản và
tiên tiến của thời đại ngày nay, là lực lượng lãnh đạo và là động lực chủ yếu của quá
trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước và
trên phạm vi toàn thế giới. Trong các nước tư bản chủ nghĩa do không có hoặc cơ bản
không có những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, họ phải bán sức lao động làm thuê
cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; trong các nước xã hội chủ nghĩa, họ
cùng nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao
động sáng tạo vì lợi ích chung toàn xã hội và của bản thân giai cấp mình.
1.1.1.2. Khái niệm về giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới ra
đời ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Do hoàn cảnh, đặc điểm ra đời và phát triển giai
cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất
trong cả nước, nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Điều đó khẳng
định: giai cấp công nhân Việt Nam vừa có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp công
nhân nói chung, đồng thời còn có những nét riêng biệt do hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở


Việt Nam quy định. Giai cấp công nhân Việt Nam là gì? bao gồm những bộ phận nào?
giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò lịch sử của nó trong cách mạng Việt Nam như
thế nào là những vấn đề cần phải nghiên cứu.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, khi nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam
các nhà khoa học ở nước ta đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau. Thí dụ:
GS. Trần Văn Giàu trong cuốn: Giai cấp công nhân Việt Nam, sự hình thành và
phát triển của nó từ giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình (Nxb Sự thật, Hà Nội,
1958), mặc dù không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giai cấp công nhân Việt Nam
song toàn bộ công trình đã thể hiện rất rõ nội hàm khái niệm giai cấp công nhân Việt
Nam từ khi mới hình thành và vai trò của nó trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong cuốn: "Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công" của Trung
tâm nghiên cứu thông tin lý luận, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đưa ra định nghĩa:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn xã hội những người lao
động ở Việt Nam có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương,
sống và làm việc gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do nắm
giữ những cơ sở vật chất then chốt và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến của xã hội nên giai cấp công nhân tất yếu có vai trò đi tiên phong trong
tiến trình phát triển của lịch sử hiện đại [43, tr.113].
Tác giả Đan Tâm trong bài "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại -
một cách tiếp cận" lại khẳng định:
Giai cấp công nhân Việt Nam là cộng đồng xã hội những người làm
công ăn lương, nguồn thu nhập chủ yếu bằng tiền công; trực tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất công nghiệp, tạo ra sản phẩm công nghiệp hoặc có
tính công nghiệp; nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then chốt của xã hội
và tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội [42, tr.29].
Định nghĩa của GS. Văn Tạo trong tác phẩm "Một số vấn đề về giai cấp công
nhân và công đoàn Việt Nam" thì cho rằng:
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là một tập đoàn những người lao
động có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương sống và làm việc

gắn với sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do lao động và quản lý một

nền công nghiệp hiện đại, then chốt của nền kinh tế quốc dân và đại diện cho
lực lượng sản xuất tiên tiến trong xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có vai
trò đi tiên phong trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam [41,
tr.39].
Bên cạnh đó, cũng còn có một số định nghĩa về giai cấp công nhân Việt Nam của
các tác giả như GS. Cao Văn Lượng, TS. Bùi Đình Bôn và một vài quan niệm một số tác
giả trong các luận án tiến sĩ và thạc sĩ triết học gần đây.
Trên cơ sở khái niệm giai cấp công nhân nói chung, căn cứ những đặc trưng
riêng của giai cấp công nhân Việt Nam gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng
thời kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây về giai cấp công nhân Việt Nam,
chúng tôi hiểu về giai cấp công nhân Việt Nam như sau:
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ XX gắn liền với sự xuất hiện
các cơ sở kinh tế của tư sản Pháp, là một tập đoàn gồm những người lao động trên lĩnh
vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật hiện đại và xã hội hóa ngày càng cao, thu nhập
chủ yếu của họ là tiền công. Họ là lực lượng tiên phong trong quá trình cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và đang lãnh đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhằm xây dựng một nền kinh tế hiện đại, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công
nhân
1.1.2.1. Về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu của thời đại ngày
nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước khác trên thế giới và khu vực. Không phải đến bây giờ, các quốc gia trên thế
giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà công nghiệp hóa đã được khởi đầu từ cuộc cách
mạng công nghiệp diễn ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII và sau đó kéo theo một loạt nước

khác ở Tây Âu (Hà Lan, Pháp, Đức, Italia ). Mặc dù công nghiệp hóa được tiến hành
sớm như vậy nhưng phải mãi đến cuối thế kỷ XIX thuật ngữ "công nghiệp hóa" mới

xuất hiện với ý nghĩa là biến một lĩnh vực sản xuất nào đó sang hoạt động theo tính chất
của công nghiệp cơ khí. Mãi đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới
được hiểu như một giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm
cuộc cách mạng công nghiệp. Từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách mạng
công nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới cơ khí
phức tạp với động cơ đốt trong rồi điện năng và các dạng năng lượng mới làm động lực,
tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa Quan niệm về công nghiệp hóa dần được mở
rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau:
Ví dụ: quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ) cho
rằng: "Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng
cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế
tạo máy" [25, tr.49].
Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) đã đưa
ra định nghĩa:
Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ
phận năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu
kinh tế nhiều ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện
sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao
trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [5, tr.6]
Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ
yếu là hai quan niệm sau:
Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công nghiệp
trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo lối công
nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy móc chiếm ưu
thế.
Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục, cải
tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa dạng.

Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên thực tế,
công nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà việc phân biệt các mốc giới, định tính,
định lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, sự biểu hiện về mô

hình của nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau
cũng không thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng cần hiểu một cách khái quát nhất: Công
nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt đầu từ khi xuất hiện công
nghiệp và đến khi nền kinh tế với công nghiệp phát triển cao cũng chưa phải là điểm kết
thúc mà lại có thể là mở đầu cho một cuộc cách mạng công nghiệp mới.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn,
hậu quả chiến tranh nặng nề lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta đã sớm nhận thức được vị trí vai trò
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng ta đã xác định công nghiệp
hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách mạng kỹ thuật giữ vị trí then chốt.
Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại được tiếp tục khẳng định. Tuy nhiên trong
thời gian này tư tưởng công nghiệp hóa chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp nặng
mặc dù có được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội IV, V: Công nghiệp hóa chính là "quá
trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là
quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng" [12,
tr.182]. Đường lối đưa ra để tiến hành công nghiệp hóa lúc đó được xác định: Ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ.
Khách quan mà đánh giá, quan niệm và cách tiến hành đó là phù hợp với điều
kiện hiện tại của nước ta và thế giới trong bối cảnh đất nước có chiến tranh và tồn tại sự
độc lập giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế, chúng ta
đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp quan trọng then chốt cho nền kinh tế quốc
dân. Nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn rất thấp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp tục
khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự chuyển hướng

chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông
nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ đó
đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp hóa được đưa ra từng bước phù hợp
với tình hình cụ thể của đất nước. Công nghiệp hóa có thể hiểu một cách cơ bản:

Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển
mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa
học, công nghệ mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển
nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội [45, tr.63].
Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công
nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là quá
trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân,
bao hàm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng chỉ phát triển ở lĩnh
vực công nghiệp.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã
tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy, công
nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có nền kinh tế
lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu "cổ điển" như ở
phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với việc tận dụng những thành
quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của thế giới. Công nghệ truyền
thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thời đại, là giải
pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa. Hay nói cách khác, để có quan
niệm đúng đắn, đầy đủ về công nghiệp hóa phải đặt nó trong mối quan hệ với hiện đại
hóa. Tất nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng lại
đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho nhau. Nếu như công nghiệp hóa là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp thì hiện đại
hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ thủ công là chính

sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng
suất lao động, hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao [45, tr.63].

Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế tất
yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận thức về mục
tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã
xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo
ra năng suất lao động xã hội cao [14, tr.65].
Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh được
phạm vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và khoa học - công
nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó thực chất là quá trình thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến nước ta thành nước công nghiệp có
cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đánh giá một
cách khách quan, khoa học những tiền đề được tạo ra sau 10 năm đổi mới đã chỉ rõ:
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã chuyển sang thời kỳ phát triển
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu:
Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm

2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [15,
tr.80].
Nước ta với gần 80% dân cư là nông dân, 70% lực lượng lao động làm nông
nghiệp, thu nhập từ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập quốc dân,

thì vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là cơ sở của sự phát triển xã hội. Bởi
vậy, giai đoạn đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trước hết và thực chất là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà nội dung cơ bản của nó là
thực hiện sự chuyển đổi cơ bản cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội nông thôn, nâng cao trình
độ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới.
1.1.2.2. Sự tác động qua lại giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
sự phát triển của giai cấp công nhân
Khi luận chứng về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác -
Lênin đã khẳng định rằng: Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân được xác định từ vai trò
của đại công nghiệp, của lực lượng sản xuất mà giai cấp công nhân là người đại diện.
Đại công nghiệp đã sinh ra giai cấp công nhân, đồng thời cũng là cơ sở vật chất thông
qua đó, giai cấp công nhân tác động vào tiến trình phát triển xã hội như một lực lượng
chủ đạo. Như vậy, có thể thấy rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của
giai cấp công nhân có mối quan hệ biện chứng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều
kiện để giai cấp công nhân phát triển về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu
đặt ra của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngược lại, sự phát triển về mặt số
lượng, chất lượng của giai cấp công nhân cũng sẽ tác động trở lại, là nguyên nhân, là
nhân tố cơ bản quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Giai cấp công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển
và lớn mạnh về mọi mặt.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường phát triển tất yếu của xã hội loài
người, là con đường duy nhất đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế

so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên để có thể tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải có được một lực lượng lao động phát triển hiện
đại. Sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ công nhân lành nghề có thể áp dụng được khoa học
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất đang là một lực cản đối với sự
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII, khi quyết định đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng chỉ ra rằng: Một trong những tiền đề quan
trọng bậc nhất để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải nâng cao
trình độ và phát triển nguồn nhân lực trong đó phát triển và nâng cao nguồn nhân lực từ
giai cấp công nhân. Như vậy, có thể khẳng định rằng: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới và sự hình thành, phát triển các
khu công nghiệp, khu chế xuất đã kéo theo và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, cơ
cấu, chất lượng của lực lượng lao động xã hội đặc biệt là công nhân, đội quân nòng cốt
đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân
phát triển về số lượng.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trọng tâm trong những
năm đầu thế kỷ XXI là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu
nền kinh tế sẽ có chuyển dịch sâu sắc. Xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng
dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ là điều kiện phát triển mạnh mẽ số lượng giai
cấp công nhân. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sự biến động và
đặt ra yêu cầu phát triển đối với giai cấp công nhân. Hiện nay, đội ngũ công nhân nước
ta không đơn thuần làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể mà
gồm cả những công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và cả đội ngũ công nhân, lao động làm thuê, làm công hưởng lương trong các cơ sở sản
xuất, kinh doanh cá thể. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến đầu năm 2004,
đội ngũ công nhân làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,396 triệu (56% nam, 44% nữ) chiếm 9,14%
dân số, 17,49% lực lượng lao động xã hội. Như vậy sau gần 10 năm số lượng công nhân

nước ta đã tăng 2,64 lần so với năm 1995, trong đó, số lượng công nhân doanh nghiệp
nhà nước tăng 1,17 lần; số lượng công nhân doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 4,77 lần,
số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,77 lần, số lượng công nhân
thuộc các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể tăng 4,8 lần.
Trong quá trình đổi mới, cơ cấu kinh tế, số lượng công nhân đã có sự chuyển
dịch theo hướng tăng công nhân thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm

số lượng công nhân thuộc lĩnh vực nông lâm thủy sản. Trong các loại hình doanh
nghiệp, công nhân làm trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, trong lĩnh
vực dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm
4,8%. Trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể thì chủ yếu công nhân hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại ước tính khoảng 66,67%.
Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước, đặc biệt sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành, nước ta đã tiếp
nhận được rất nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài. Tính từ năm 1988 đến đầu năm
2004 theo số liệu của Tổng cục thống kê dựa trên kết quả điều tra doanh nghiệp, cả nước
đã có 4892 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép còn hiệu lực từ 66 quốc gia và
vùng lãnh thổ với vốn đăng ký lên đến 44,4 tỷ USD. Chính vì vậy mà thu hút hơn 859.000
công nhân với 688.000 công nhân doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, 171.000
công nhân thuộc công ty liên doanh làm việc trong hơn 2300 doanh nghiệp.
Hơn thế nữa việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kéo theo sự
ra đời của hàng loạt cơ sở công nghiệp mới so với trước thời kỳ đổi mới như: công nghệ
thông tin, cơ điện tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học đồng nghĩa với số lượng công
nhân cũng được tăng lên (đặc biệt là công nhân có trình độ cao). Cùng với điều đó là
các ngành kinh tế mũi nhọn cũng được quan tâm đầu tư, mở rộng sản xuất và số lượng
công nhân cũng tăng lên rõ rệt như: công nghiệp chế biến, dầu khí, bưu chính viễn
thông, hàng không và các ngành dịch vụ khác. Không chỉ dừng lại ở đó, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa cùng với sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ
cao, khu chế xuất với xu hướng đa thành phần, đa sản phẩm đang hình thành và phát
triển cùng với quá trình đô thị hóa đã khiến cho giai cấp công nhân phát triển nhanh

chóng và tập trung hơn về số lượng. Trong những năm tới, trước yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xu hướng tăng về số lượng giai cấp công nhân
vẫn là tất yếu.
Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để nâng cao chất lượng
giai cấp công nhân
Chất lượng giai cấp công nhân là tổng hợp các yếu tố, thuộc tính cơ bản của
giai cấp công nhân bao gồm trình độ học vấn, trình độ tay nghề gắn với máy móc hiện

đại, kỹ thuật, công nghệ cao, ý thức chính trị, tính tổ chức kỷ luật cao, tính tiên phong,
tác phong công nghiệp trong đó trình độ học vấn, tay nghề, trình độ khoa học kỹ thuật
và ý thức giác ngộ chính trị của giai cấp công nhân là những yếu tố cơ bản nhất. Chất
lượng của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia dân tộc chủ yếu được đánh giá thông qua
các yếu tố cơ bản này. Mục tiêu của mỗi quốc gia với phát triển chất lượng giai cấp
công nhân cũng như lực lượng lao động nói chung cũng không thể nằm ngoài việc xây
dựng và củng cố các yếu tố đó.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra yêu cầu phải có đội ngũ
công nhân có trình độ học vấn, tay nghề cao, có tác phong công nghiệp để tiếp thu và sáng
tạo công nghệ mới. Vì cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là "cải biến lao động
thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao
động xã hội cao" [14, tr.43].
Quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ,
kinh tế tri thức, kinh tế hiện đại đã và sẽ tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời cũng đặt cho
giai cấp công nhân một thách thức: nếu không vươn lên trong học tập và phấn đấu để tự
nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tác phong công nghiệp thì
sẽ bị chính nền kinh tế đó đào thải - xu hướng trí thức hóa công nhân ngày càng tăng lên
rõ rệt. Tri thức là chìa khóa để tiếp nhận khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Thực tế cho thấy, trình độ học vấn, trình độ tay nghề của công nhân nước ta không
ngừng tăng nhanh so với trước thời kỳ đổi mới, song so với các nước trong khu vực và
trên thế giới thì còn là quá thấp. (Hiện nay chỉ có 62,22% công nhân có trình độ trung
học phổ thông. 27,24% trình độ trung học cơ sở, 4,12 trình độ tiểu học, 0,23% không

biết chữ, 11,10% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 1,56 trình độ đại học và trên đại
học) [39, tr.132]. Số công nhân trẻ dưới 30 tuổi - thường có trình độ cao hơn. Trình độ
tay nghề trung bình của công nhân mới ở thợ 3/7; bậc thợ 7/7 mới có 2,38%. Trình độ
công nhân cũng không đồng đều, đồng bằng cao hơn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Công
nhân ngoài quốc doanh có trình độ cao hơn công nhân lao động trong khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Đội ngũ có trình độ cao đẳng, đại học chủ yếu hoạt động trong lĩnh
vực hành chính sự nghiệp.

Từ thực tế đó, Nhà nước cần phải có chính sách tích cực để tạo điều kiện nâng cao
trình độ học vấn, tay nghề cho công nhân, tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các
trường dạy nghề, xây dựng các trường trọng điểm, đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các
khu công nghiệp, khu chế xuất có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động là hướng đi thích
hợp với nền kinh tế phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những tạo điều kiện, đặt ra nhu cầu nâng cao
trình độ học vấn, trình độ tay nghề cho giai cấp công nhân mà bản thân quá trình đó cũng
tạo ra điều kiện khách quan để giai cấp công nhân rèn luyện tính tổ chức kỷ luật cao, tác
phong lao động công nghiệp và ý thức giác ngộ chính trị. Một nền công nghiệp hiện đại với
các dây chuyền sản xuất theo công nghệ tiên tiến không cho phép người vận hành nó - giai
cấp công nhân thiếu tính tổ chức kỷ luật, tự do, tùy tiện, thiếu sự liên kết cộng đồng thiếu
tác phong công nghiệp. Từ tính tổ chức kỷ luật, tự giác trong sản xuất, tác phong công
nghiệp và tinh thần cộng đồng dần hình thành nên sự cố kết chặt chẽ trong giai cấp công
nhân tạo nên sức mạnh đoàn kết trong lao động sản xuất cũng như trong mọi hoạt động
khác. Cùng với quá trình hoàn thiện mình giai cấp công nhân không ngừng nâng cao ý thức
giác ngộ chính trị thể hiện ở nhận thức về vai trò, vị trí và sứ mệnh của giai cấp công nhân,
cũng như vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mà sự biểu hiện rõ nhất về việc
nâng cao ý thức giác ngộ chính trị chính là thái độ đồng tình của đa số công nhân với sự
nghiệp đổi mới của Đảng, công tác phát triển Đảng trong công nhân có nhiều tiến bộ, số
lượng công nhân được kết nạp vào Đảng và tham gia vào các tổ chức đoàn thể trong tất cả
các loại hình doanh nghiệp không ngừng tăng lên rõ rệt. Chính những điều đó, đã và đang
tạo ra một chất lượng mới trong giai cấp công nhân hiện nay.

Vai trò tích cực của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
"Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc" [13,
tr.2]. Đảng bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp, là đội tiên phong, là bộ
phận tham mưu chiến đấu, là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân là cơ sở chính trị, xã hội của Đảng, lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, trong khối đại đoàn kết dân

tộc. Việc giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không phải là sự áp đặt
vô căn cứ mà vai trò và vị trí đó do chính lịch sử khách quan của cách mạng Việt Nam
quy định. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng: trước khi giai cấp công
nhân và đảng tiền phong của nó bước lên vũ đài chính trị và nắm quyền lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, phong trào cách mạng nước ta đứng trước khủng hoảng lớn về đường
lối cứu nước. Các giai tầng khác trong xã hội Việt Nam không đủ sức lãnh đạo cách
mạng, nhân dân ta chịu sự đàn áp dã man của đế quốc thực dân và tay sai bán nước, chỉ
đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước là chủ nghĩa Mác - Lênin với
đường lối cách mạng đúng đắn thì cách mạng Việt Nam mới từng bước đánh đổ thực
dân xâm lược, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
cuộc sống tự do.
Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, xét về tương quan lực lượng xã
hội giai cấp công nhân vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng, mà không có một giai tầng
nào có thể thay thế được. Trí thức Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, như trí thức không thể là giai cấp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Đội ngũ trí thức Việt Nam là trí thức của giai cấp công nhân
Việt Nam, đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, theo đường lối chính trị của giai
cấp công nhân Việt Nam, đã và đang có những đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển

của đất nước. Vai trò ấy cần phải được khẳng định một cách rõ ràng rằng: không có trí
thức không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, cũng như
hiện nay, không thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nếu
không có trí thức. Nhưng lãnh đạo quá trình ấy vẫn phải là giai cấp công nhân thông
qua chính đảng của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đương nhiên, trong điều kiện phát
triển nhanh chóng của kinh tế tri thức, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp thì bản thân giai cấp công nhân và Đảng của nó phải không ngừng tự vươn lên
trình độ cao của trí tuệ để đảm đương một cách xứng đáng vai trò của mình, nhất là
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, giai cấp công nhân
thông qua Đảng lãnh đạo phải đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, có chính
sách thu hút trí thức tạo điều kiện cho tri thức phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ lợi
ích xã hội và của dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

×