Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Luận văn “Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.97 KB, 43 trang )



1






Luận văn:
“Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
tại một số nước trong khu vực và vận dụng
vào Việt Nam”



2

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta xây dựng đất nước đi theo con đường Chủ nghĩa Xã hội từ
một xuất phát điểm thấp: nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh
tàn phá nặng nề. Vấn đềđặt ra cho chúng ta là làm thế nào để xây dựng lại đất
nước bắt kịp với nền kinh tế thế giới, tránh tụt hậu xa hơn về mọi mặt đặc biệt
là về kinh tế. Chúng ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành công
nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa nền kinh tế - xã hội nước ta có những
bước tiến nhanh, bắt kịp và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Qua hơn 15 năm cải cách mở cửa nền kinh tế, chúng ta đãđạt được
những thành tựu to lớn. Nền kinh tếđã ra khỏi cuộc khủng hoảng của những
năm 80 và luôn ở mức tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tếđã có sự chuyển
dịch đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới, bộ mặt đất nước có những
đổi thay đáng ghi nhận, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã cải


thiện và ngày càng được nâng cao, văn hoá, giáo dục và y tế luôn được chú
trọng phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trịổn định
Để tiếp tục phát huy những thành tích đãđạt được, đồng thời khắc phục
những khó khăn cản trở mà chúng ta chưa vượt qua được trong thời gian qua,
chúng ta cần học hỏi những kinh nghiệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá tại
một số nước đang phát triển chúng ta qua đóđẩy mạnh hơn nữa công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoáđất nước và.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoáđất nước là một vấn đề rộng lớn và bao
gồm nhiều nội dung. Em quyết định chọn đề tài: "Kinh nghiệm công nghiệp
hoá, hiện đại hoá tại một số nước trong khu vực và vận dụng vào Việt Nam".
Trong quá trình nghiên cứu và làm đề tài này, mặc dùđã rất cố gắng, song do
trình độ lý luận và nhận thức còn hạn chế nên bài viết không khỏi có những
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của các thấy cô trong bộ
môn để cóđược những nhận thức đầy đủ và chính xác hơn.


3

PHẦN I
CƠSỞ LÝLUẬNVỀCÔNGNGHIỆPHOÁ, HIỆNĐẠIHOÁ

I. Khái niệm, mục tiêu của CNH, HĐH.
1.Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phân phối tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
2. Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến nước ta thành một

nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, nâng cao khả
năng mở rộng quan hệ kinh tếđối ngoại, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là mục tiêu dài hạn, mục tiêu cuối cùng
của công nghiệp hoá, hiện đại hoáở nước ta.
II. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
1. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thểđược xác lập một cách vững chắc
trên một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng với nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật
của một phương thức sản xuất là toàn bộ yếu tố vật chất của lực lượng sản
xuất ở trình độ phát triển nhất định của kỹ thuật - công nghệ, cùng với kết cấu
xã hội của lực lượng sản xuất .
CNXH chỉ có thểđược xác lập vững chắc khi có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chếđộ công hưũ về những tư liệu


4

sản xuất chủ yếu. Trong lịch sử, sự thay thế các phương thức sản xuất bao giờ
phương thức sản xuất sau cũng kế thừa cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương
thức sản xuất trước nó và trên cơ sở cải tạo, phát triển thành cơ sở vật chất -
kỹ thuật của bản thân mình. Vì thế cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, một
mặt , kế thừa những thành quảđãđạt được về vật chất - kỹ thuật trước đó, mặt
khác, quan trọng hơn, nóđược phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành
tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật ấy đảm
bảo tạo ra năng suất lao động cao hơn CNTB vì chỉ có như vậy mới chiến
thắng được hoàn toàn và triệt đểđối với CNTB.
Nước ta quáđộ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng

sản xuất thấp. Để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của CNXH cần
phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước. Đó là con đường tạo ra
lực lượng sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH ở nước
ta. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất yếu khách quan đối với nước
ta.
2. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của
CNXH, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất , làm cho nền sản xuất xã hội
không ngừng phát triển ,từđó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra tiền đềđể củng cố khối liên minh
giai cấp công nhân với nông dân và tri thức
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoáạo ra điều kiện để xây dựng nền văn
hoá mới, con người mới XHCN
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra điều kiện vật chất để củng cố và
tăng cườn sức mạnh quốc phòng, an ninh
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra khả năng mở rộng quan hệ kinh
tếđối ngoại, tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế một cách hiệu quả


5

III. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
a. Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại hoá trong các
ngành của nền kinh tế quốc dân
Nội dung cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến lao động thủ
công thành lao động sử dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện được điều này phải trang bị khoa
học - công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, tức là
thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá và tự dộng hoá sản xuất.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần giải quyết
đồng thời nhiều quá trình, nhiều mức độ khoa học - công nghệ mà các nước đi
trước đã giải quyết ở những thời điểm khác nhau, phải biết thích nghi với
công nghệ cao, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, đi
nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định
b. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả.
Cơ cấu kinh tếđược xây dựng phải đáp ứng những yêu cầu sau:
- Phản ánh đúng đắn yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, trước
hết là yêu cầu của quy luật kinh tế.
- Phù hợp với xu htế phát triển khoa học - công nghệ trên thế giới hiện
nay
- Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tếđang ngày càng phát
triển cả về mặt chiều rộng lẫn về chiều sâu. Do đó cơ cấu kinh tếđó phải là cơ
cấu kinh tế mở và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Cơ cấu kinh tếđó
cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch: chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả sang cơ cấu
kinh tế hợp lý, tiến bộ, hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp -
dịch vụ.


6

IV. Những tiền đềđể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm các nguồn vốn trong
nước và vốn vay cũng như viện trợ của nước ngoài. Trong đó vốn trong nước
giữ vai trò quyết định, còn vốn bên ngoài có tầm quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Con đường (biện pháp) cơ bản để tạo vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu
quả kinh tế trên cơ sởáp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá tổ
chức lao động và tổ chức sản xuất, phải khai thác khả năng của cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các ngành, các
vùng, các đơn vị kinh tế phát triển đồng thời sử dụng vốn một cách tiết kiệm,
có hiệu quả. Muốn vậy phải xoá bỏ bao cấp về vốn; thực hiện tiết kiệm trong
chi tiêu của chính phủ, trong sản xuất và trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư
phát triển
Đối với nguồn vốn bên ngoài phải tranh thủ mọi khả năng và bằng
nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm
nhập siêu, vốn bên ngoài có tầm quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
2. Phát triển nguồn nhân lực
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước phải có con người
mới, một nguồn nhân lực có trình độ văn hoá và trình độ khoa học - kỹ thuật
cao để có thể sử dụng khao học - công nghệ hiện đại. Đó là nguồn nhân lực
của nền văn minh công nghiệp hiện đại, trong đó công nhân cũng được tri
thức hoá.
Để có nguồn nhân lực như vậy phải phát triển giáo dục - đào tạo nhằm
nâng cao dân tríđào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phải coi giáo dục - đào


7

tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục - đào tạo làđầu tư cho phát
triển
3. Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ
Trong giai đoạn tới, việc xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ cần
tập trung vào các hướng chủ yếu sau:

- Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và
nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ làm chỗ dựa khoa học cho việc
triển khai cương lĩnh, đường lối của Đảng, xác định phương hướng, bước đi
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các chính sách, kế hoạch và chương trình
phát triển kinh tế - xã hội.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên
và công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
quản lý và quốc phòng an ninh.
- Nghiên cứu, đánh giá chính xác các nguồn tài nguyên để xác định
chiến lược đúng đắn và khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên và môi trường,
hạn chế hậu quả thiên tai.
4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tếđối ngoại
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, việc mở rộng kinh tếđối ngoại là một
tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu được các nguồn vốn bên
ngoài, tiếp thu được kỹ thuât, công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là khả năng, để biến khả năng thành hiện thực,
cần cóđường lối đối ngoại đúng đắn, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại, giữ vững được độc lập chủ quyền và bảo vệđược lợi
ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tếđối ngoại.
5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoáở nước ta. Công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước là một quá trình


8

phức tạp, lâu dài để tạo ra những tiền đề vật chất đảm bảo sự thắng lợi của
CNXH. Nó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quáđộ, là sự nghiệp của
toàn dân, do đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà

nước. Nhà nước đưa ra và thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, huy
động vốn trong và ngoài nước, phát triển nguồn nhân lực, giải quyết những
vấn đề xã hội nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và quản lý quá trình đóđạt hiệu quả cao.
PHẦN II
KINHNGHIỆMCÔNGNGHIỆPHOÁ,
HIỆNĐẠIHOÁỞMỘTSỐNƯỚCĐANGPHÁTTRIỂN
1. KINHNGHIỆMCÔNGNGHIỆPHOÁ,
HIỆNĐẠIHOÁỞMỘTSỐNƯỚCĐANGPHÁTTRIỂNCHÂUÁ
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra mạnh
mẽở các nước đang phát triển. Do xuất phát điểm khi bước vào quá trình này
có khác nhau và những định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá khác nhau
nên công nghiệp hoá, hiện đại hoá có sựđa dạng về mô hình. Lịch sửđã ghi
nhận những thành công và thất bại của nhiều quốc gia trong công nghiệp hoá.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoáở một số nước và vùng lãnh thổ có nền kinh tế thấp kém và
cóđặc điểm kinh tế - xã hội mang những nét tương đồng với nước ta nhưĐài
Loan, Thái Lan, Malaysia… để làm rõ thêm thực tế trên.
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Thái Lan
So với các nước đang phát triển ở châu Á như Nhật Bản hoặc các nước
công nghiệp mới (Nics), Thái Lan là nước chậm trong phát triển công nghiệp.
Tuy vậy, nước này đã nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công
nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế, cũng như hiện đại hoá nền kinh tế.
Tháng 10 năm 1954, Thái Lan đã công bố "Dự luật khuyến khích phát triển
công nghiệp" và bắt đầu xúc tiến công nghiệp hoá với việc thành lập Ban đầu


9

tư (BOI) năm 1959. Thực thi chính sách nghiêng về phát triển công nghiệp

nhằm dùng công nghiệp hoá làm động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế.
Trong suốt những năm 60 qua 2 kế hoạch 5 năm (1961-1966), kế hoạch
(1967-1971) Thái Lan nhấn mạnh vào việc phát triển công nghiệp thay thế
nhập khẩu, với đặc trưng chủ yếu hướng vào thị trường trong nước. Nhà nước
đã có những chính sách bảo hộ công nghiệp trong nước, khuyến khích các
ngành công nghiệp sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động trong nước. Do
vậy, công nghiệp trong nước đã có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu ở
các lĩnh vực: dệt, hoá chất, chế biến thực phẩm… Trong suốt thập kỷ 60, tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 10%. Tuy vậy, chính sách công
nghiệp hoá hướng nội ở Thái Lan cũng đã bộc lộ những hạn chế. Thứ nhất, do
công nghệ hạn chế, Thái Lan vẫn phải nhập máy móc thiết bị, công nghệ sản
xuất và nguyên liệu thô. Điều này có nghĩa là chính sách thay thế nhập khẩu
không đạt được mục đích đề ra mà chỉ làm thay đổi cơ cấu nhập khẩu. Thứ
hai, chính sách thay thế nhập khẩu còn tác động đến việc sử dụng lãng phí các
nguồn tài nguyên trong nước do kỹ thuật lạc hậu và trình độ quản lý kinh tế
yếu kém, chi phí lao động cao, năng suất thấp. Thứ ba, thực hiện chiến lược
này, nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế và chính
sách thay thế nhập khẩu làm cho công nghiệp trong nước phát triển chậm
chạp, trì trệ do thiếu động lực cạnh tranh.
Để khắc phục những hạn chế của chiến lược hướng nội, Thái Lan đã
hoạch định lại chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ 1972 Thái Lan
đã chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Các kế
hoạch 5 năm 1972-1976, 1977-1981, 1982-1986, 1987-1990, 1991-1995 đã
thực hiện điều chỉnh sự phát triển của công nghiệp nhằm tranh thủ các nhân tố
thuận lợi bên ngoài kết hợp với việc sử dụng các lợi thế trong nước đểđa dạng
hoá trong sản xuất kinh doanh đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Nhà nước đã
có những chính sách và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiến trình công


10

nghiệp hoá như khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong
nước, chính sách miễn thuếđối với hàng nhập khẩu và kinh doanh nguyên vật
liệu và tư liệu sản xuất nhập phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Từ cuối
thập kỷ 80, Thái Lan đã lấy công nghiệp hoá chất làm trọng tâm, chúýđa dạng
hoá sản phẩm xuất khẩu, coi dầu tư nước ngoài làđộng lực để phát triển kinh
tế.
Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Thái Lan
vừa chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực vừa nhập khẩu công nghệ mới từ Nhật
Bản và phương Tây. Thực tế cho thấy việc chuyển hướng chiến lược trong
công nghiệp hoáđã mang lại những thành công đáng chúý. Trong thập kỷ 70,
tốc độ tăng trưởng GDP đạt khá cao trung bình 10%/năm, từ 1980-1990 đạt
7,6%; 1991-1995 là 8,6%. Từ 1987-1990, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp
Thái Lan bình quân là 15% [113]. Những năm đầu của thập kỷ 90, tốc độ tăng
trưởng kinh tế có chững lại nhưng tốc độ tăng trưởng công nghiệp vẫn có xu
hướng tăng. Ngoại thương Thái Lan có xuất khẩu tăng nhanh: 1976 đạt kim
ngạch 197 triệu USD, 1996 đạt 7,096 tỷ USD. Thu nhập quốc dân của Thái
Lan cũng tăng nhanh đến năm 1998 đạt bình quân đầu người 2.450 USD [91].
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế của Thái Lan đã
có sự thay đổi theo hướng tích cực tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế có
xu hướng giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên.
Bảng 1: Cơ cấu kinh tế Thái Lan (1960-1999)
1960 1970 1980 1985 1990 1999
Nông nghiệp 40 28 25 17 12 13
Công nghiệp và XD 26 32 36 41 46 40
Dịch vụ 34 40 39 42 42 47

Nguồn: World Development Report, World Bank, 1998, 1999, 2000


11

Sau hơn ba thập kỷ phát triển nhanh chóng, kinh tế Thái Lan đã bộc lộ
những hạn chế. Đó là sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài
và công nghệ nhập khẩu. Trong phát triển, có tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng giữa quy môđầu tư và khả năng tài chính. Tình trạng quá nóng của nền
kinh tế, đặc biệt từ giữa thập kỷ 90, khiến nợ nước ngoài của Thái Lan gia
tăng (chủ yếu là nợ ngắn hạn và trung hạn): chiếm tới 50% so với GDP
(1997). Trong hoàn cảnh ấy, vai tròđiều tiết, kiểm soát của hệ thống tài chính-
ngân hàng trong đầu tư và cung ứng tiền tệ bộc lộ nhiều yếu kém. Đó chính là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệở Thái Lan
và lan rộng sang các nước Đông NamÁ vàĐông Á vừa qua. Đối phó với tình
hình ấy, Thái Lan buộc phải thực hiện điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá.
1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại ởĐài Loan
Công nghiệp hoáởĐài Loan được tiến hành trong điều kiện rất khó khăn
cả vềđiều kiện trong nước và ngoài nước, không chỉ do nguồn tài nguyên hạn
hẹp, trình độ kinh tế nói chung còn thấp kém, mà còn do ảnh hưởng của bối
cảnh chính trịđặc biệt của hòn đảo này. Vềđối ngoại, Đài Loan không được sự
công nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Thêm vào đó, Đài Loan luôn đứng
trước khả năng phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Đài Loan,
thống nhất đất nước của chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Điều đó
càng làm cho tình hình Đài Loan bất ổn định, lòng dân không yên, công
nghiệp hoá gặp thêm nhiều trở ngại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoáởĐài Loan có thể chia làm 3 giai đoạn [36]:
a) Giai đoạn thứ nhất (1953-1964)
Giai đoạn này tương ứng với 3 kế hoạch 4 năm phát triển kinh tế của
Đài Loan: 1953 - 1956, 1957-1960 và 1961-1964, thực hiện chiến lược hướng
nội.
Mục tiêu chiến lược của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân nhưăn, mặc, ở, đi lại, học



12
tập, giải trí… Do vậy, CNH ở giai đoạn 1953-1964, thay thế nhập khẩu được
coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong giai đoạn này, Đài Loan một mặt chủ trương phát triển các ngành
sản xuất trong nước nhằm thay thế những sản phẩm nhập khẩu trước đây; mặt
khác, đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
tự sản xuất được. Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ
công nghiệp nội địa như miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãi suất thấp
và các khoản trợ cấp khác. Nhà nước đã có một loạt các biện pháp khẩn cấp
để trấn an lòng dân, ổn định kinh tế, tạo điều kiện để bước vào công nghiệp
hoá. Các biện pháp chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất: chú trọng phát triển nông nghiệp. Ý thức được lợi thế vốn có
của mình là nông nghiệp, Đài Loan đã tập trung cho lĩnh vực này. Biện pháp
cốt lõi để phát triển nông nghiệp giai đoạn 1950-1952 là cải cách ruộng đất.
Cải cách ruộng đất 1950-1952 không chỉđem lại ruộng đất cho người nông
dân mà quan trọng hơn, nó kích thích sản xuất trong nông nghiệp, tạo nguồn
nguyên liệu ổn định và có tích luỹ ban đầu đầu tư cho công nghiệp hoá.
Thứ hai: ổn định tài chính, kinh tế. Trong điều kiện lạm phát phi mã,
không một nhàđầu tư nào dám bỏ vốn vào dựán công nghiệp. Do vậy, Đài
Loan rất chú trọng ổn định tài chính. Để triển khai có hiệu quả biện pháp này,
chính phủĐài Loan đã thành lập "Uỷ ban quản lý sản xuất khu vực", thông
qua cải cách tiền tệđể ngăn chặn lạm phát, tăng cường quản lý ngoại tệ, khôi
phục các cơ sở công nghiệp…
Thứ ba: tận dụng lợi thếđịa lý - chính trị của mình trong quan hệ với
Mỹ. Đài Loan rất chú trọng tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của Mỹ và các
nước phương Tây. Tính đến giữa năm 1951, riêng Mỹđã cung cấp cho Đài
Loan 42 triệu USD viện trợ kinh tế. Số tiền viện trợ này đã hỗ trợ rất nhiều
cho chương trình cải cách ruộng đất vàổn định tài chính ởĐài Loan giai đoạn
1950-1952 [40].



13
Nhờáp dụng các biện pháp tích cực nêu trên và huy động mọi nỗ lực
của toàn xã hội, đến cuối năm 1952, nền kinh tếĐài Loan đãđược khôi phục,
đạt mức cao nhất trước chiến tranh. Những kết quả nói trên tạo thuận lợi
đểĐài Loan bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chiến lược
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với các biện pháp tích cực đãđem lại cho
Đài Loan một số kết quả nhất định: giá trị sản lượng công nghiệp từ 1953 đến
1962 tăng trung bình 11,7%/năm. Công nghiệp được mở rộng đã thu hút thêm
một lượng lớn lao động, từ 17% trong toàn bộ lao động đang làm việc năm
1951 tăng đến 25% năm 1964 [59]. Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển công
nghiệp của Đài Loan là giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu
vượt giá trị sản xuất nông nghiệp trong GDP.
Về mặt kinh tế - xã hội, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
cũng có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp vàđời sống nông thôn.
Ngoài việc cung cấp các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, các ngành công
nghiệp còn thu hút một lượng không nhỏ lao động dư thừa ở nông thôn, giải
quyết một phần tình trạng thất nghiệp, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các
tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu kể từđầu
thập kỷ 60 cũng đã bộc lộ các mặt hạn chế của nó, sản phẩm công nghiệp của
Đài Loan không có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, còn lại thị
trường trong nước, sức mua của người dân rất hạn chế do thu nhập còn thấp.
Trong khi đó, việc nhập khẩu các nguyên liệu, thiết bị cần thiết cho CNH vẫn
tiếp tục tăng lên khiến thâm hụt mậu dịch, thâm hụt ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc
độ tăng trưởng của công nghiệp bắt đầu giảm dần từ cuối thập kỷ 50, từ 20%
năm 1955 xuống còn 8,9% năm 1961. Riêng tốc độ tăng trưởng của công
nghiệp chế biến - một thế mạnh của Đài Loan thập kỷ 50 cũng giảm từ 14,4%
năm 1960 xuống còn 8,1% năm1962. Để thoát khỏi tình thế bất lợi này và tìm



14
kiếm con đường phát triển cho Đài Loan, chính phủ và các nhà kinh tế, giới
kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến lược công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
b) Giai đoạn thứ 2 (1963-1970)
Triển khai chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Đài Loan
đã thực hiện một bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy chế
và quản lý kinh tế, thông qua một loạt cải cách quan trọng. Thứ nhất, áp dụng
chếđộ một tỷ giá hối đoái. Thứ hai, chính phủĐài Loan áp dụng nhiều biện
pháp ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu. Thứ
ba, ngoài các nỗ lực huy động nguồn lực bên trong, Đài Loan ban hành nhiều
chính sách nhằm thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài.
Phương châm đề ra trong giai đoạn này là: "xuất khẩu để nhập khẩu",
"nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu". Do đó, công nghiệp nheu và công nghiệp
nặng Đài Loan đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng trung
bình hàng năm là 18,5%. Điều quan trọng hơn là tỷ trọng công nghiệp trong
GDP tăng lên đáng kể, đạt 41,3%, nông nghiệp đã giảm tương đối, chỉ còn
15,5%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của Đài Loan. GDP của Đài Loan giai đoạn này luôn tăng
trung bình là 10,1%/năm.
c) Giai đoạn thứ 3 (1974 đến nay)
Giai đoạn này Đài Loan tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá song có
một bước đầu chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đóưu tiên hàng
đầu là tập trung phát triển các ngành công nghiệp cơ bản có hàm lượng vốn và
kỹ thuật cao, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công
nghiệp nhẹ hướng ra xuất khẩu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đài Loan
giai đoạn này tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:



15
- Nâng cấp, cải tiến các trang thiết bịở các ngành công nghiệp nhẹ nhằm
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm nguyên liệu, hạ
giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đồng thời chuyển giao công nghệ,
dùng nhiều lao động sang một số nước đang phát triển khác ở khu vực châu
Á- Thái Bình Dương.
- Tập trung nghiên cứu, triển khai và nhập khẩu những dây chuyền công
nghệ mới, đầu tư cho những ngành công nghiệp mới có triển vọng sáng sủa
hơn, trong đó có các ngành tiêu biểu cho cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật
hiện đại như vi điện tử, máy tính, bán dẫn…
- Đẩy mạnh xây dựng các công trình công cộng và xí nghiệp công
nghiệp có quy mô lớn.
Nhờ sự chuyển hướng kịp thời, trong các kế hoạch 4 năm ở giai đoạn
này: kế hoạch 4 năm lần thứ 6 (1973-1976), lần thứ 7 (1977-1980), lần thứ 8
(1981-1984), kế hoạch 6 năm (1985-1990) và kế hoạch 6 năm (1991-1996)
kinh tếĐài Loan không những giữđược tốc độ tăng trưởng cao, công nghiệp
phát triển theo hướng hiện đại hoá với các sản phẩm có hàm lượng khoa học
cao. Trong vòng 17 năm (1973-1990), sản xuất công nghiệp của Đài Loan vẫn
tăng trung bình là 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến tăng gần 9%. Tỷ
trọng hàng xuất khẩu có hàm lượng khoa học cao ngày càng tăng. Nếu năm
1976 loại hàng hoá này mới chỉ chiếm gần 11% tổng kim ngạch xuất khẩu thì
có bước thay đổi căn bản. Trong giai đoạn 1991-1996, tăng trưởng công
nghiệp Đài Loan đạt 9,9%/năm [85], công nghệ thông tin với những sản phẩm
xuất khẩu năm 1994 xếp thứ 4 sau Mỹ, Nhật, Đức; công nghiệp đóng tàu vận
tải đứng thứ 5 thế giới…
Nhìn chung, sau gần 5 thập kỷ kể từ năm 1953, Đài Loan đã khôi phục
kinh tế sau chiến tranh và quá trình CNH đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu
đặt ra. Quá trình CNH thành công tạo điều kiện cho Đài Loan giải quyết tốt



16
các vấn đề xã hội, trong đó có việc nâng cao mức sống của người dân, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo. Tất cả các thành tựu đạt được của Đài Loan đã tạo
tiền đề cho sựđầu tư phát triển theo chiều sâu, để tiếp tục phát triển trong
thiên niên kỷ mới.
Tuy vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoáĐài Loan cũng bộc lộ không ít
yếu kém. Sự can thiệp quá nhiều của chính phủđã tạo ra một khu vực tài chính
khá lạc hậu và một nền công nghiệp thiếu các doanh nghiệp qui mô lớn có
khả năng cạnh tranh quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương
mại quốc tế thì việc cải tổ cơ cấu kinh tế, tiếp tục hiện đại hoá nền kinh tếđặt
ra nhiều vấn đề màĐài Loan cần giải quyết. Thực tế cho thấy, một số lợi thế
phát triển màĐài Loan cóđược trước đây đến nay đã giảm, việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế có sự hẫng hụt về vấn đề công nghệ, kỹ thuật và nguồn nhân lực
trong phát triển công nghệ cao. Đài Loan vốn có truyền thống tập trung vào
công nghiệp chế tạo, chưa chú trọng nhiều đến dịch vụ và nghiên cứu triển
khai. Hiện nay Đài Loan chi tiêu khoảng 1,8% GDP cho nghiên cứu triển
khai, thấp hơn nhiều so với tỷ trọng tương ứng của nền kinh tế tiên tiến. Điều
đó cho thấy, Đài Loan cần đầu tư nhiều hơn cho phát triển công nghệ và
nghiên cứu triển khai muốn duy trì sức mạnh cho nền kinh tế dựa trên tri thức
mới.
1.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoáởMalaysia
Khi mới giành được độc lập, nền kinh tếMalaysiaở trong tình trạng thấp
kém. Cơ cấu kinh tế rất mất cân đối, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, năm
1960 nông nghiệp chiếm 34,6% GP. Nông nghiệp trong tình trạng độc canh,
trồng trọt chủ yếu là cây cao su nên Malaysia vẫn phải nhập khẩu lương thực
(năm 1961 phải nhập 2/3 lượng lương thực tiêu dùng trong nước). Công
nghiệp còn rất nhỏ bé, sản lượng công nghiệp chế tạo năm 1961 chỉ chiếm
8,5% GNP, công nghiệp khai thác chiếm 5,9% GNP [42]. Giữa khu vực công

nghiệp và nông nghiệp hầu như không có quan hệ tác động qua lại. Hoạt động


17
xuất khẩu của Malaysia đóng vai trò chủđạo của nền kinh tế nhưng lại lệ
thuộc vào tư bản nước ngoài, mà chủ yếu là tư bản Anh. Nguồn cao su và
thiếc chiếm 80% giá trị xuất khẩu của nước này. Đứng trước thực trạng kinh
tế khó khăn, Malaysia lựa chọn con đường công nghiệp hoáđưa đất nước thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở
Malaysia trải qua 3 giai đoạn chủ yếu sau:
a) Giai đoạn thay thế nhập khẩu và lấy nông nghiệp là ngành phát
triển chủđạo (1961-1970)
Khác với một số nước đang phát triển tiến hành công nghiệp hoá lấy
công nghiệp làm trọng tâm, sau khi giành độc lập Malaysia tiến hành công
nghiệp hoá lấy nông nghiệp là ngành chủđạo. Thời kỳ này Malaysia thực hiện
các kế hoạch 5 năm (1961-1965) và (1966-1970). Mục tiêu công nghiệp hoá
giai đoạn này là tăng nhanh sản lượng lương thực vàđa dạng hoá các mặt hàng
nông sản xuất khẩu, đồng thời nâng cao trình độ của ngành chế biến nguyên
liệu xuất khẩu và xây dựng các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Do
vậy, nhà nước đã giành 50% ngân sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp,
đồng thời đầu tư cho một số dựán phát triển công nghiệp, chú trọng phát triển
cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn và xây dựng các doanh nghiệp cong
nghiệp quốc doanh để sơ chế nông phẩm. Chương trình tập trung đầu tư cho
nông nghiệp đã mang lại nhiều thành công, mức tăng trưởng hàng năm của
nông nghiệp là 5,5% cao nhất ở châu Á trong thập niên 60. Đến năm 1970,
Malaysia đã tự túc được 81% nhu cầu lương thực trong nước [53].
Trong lĩnh vực công nghiệp, Malaysia đã tạo ra hàng loạt doanh nghiệp
sản xuất thay thế nhập khẩu như dệt, may, chế biến gỗ và một số loại máy
móc. Từ năm 1961-1970, sản lượng công nghiệp đã tăng 2 lần bình quân hàng
năm tăng 13,5%. Cũng trong thời kỳ này, tỷ trọng của sản phẩm gỗ, dầu cọ

tăng từ 5,4% và 1,7% lên 16,5% và 5,1%. Thu nhập bình quân đầu người
hàng năm liên tục tăng đạt trung bình gần 7%/năm [36].


18
b) Giai đoạn đa dạng hoá kinh tế và chiến lược hướng về xuất khẩu
(1971-1985)
Trong 3 kế hoạch 5 năm 1971-1975, 1976-1980 và 1981-1985,
Malaysia chủ trương xây dựng công nghiệp đa dạng với công nghiệp chế tạo
được ưu tiên phát triển. Nhà nước còn chú trọng xây dựng các ngành công
nghiệp nặng như chế biến dầu mỏ, luyện kim và mở rộng các cơ sở chế biến
xuất khẩu. Vào thời kỳ này, các doanh nghiệp cũng chú trọng hướng về xuất
khẩu do thị trường nội địa bị giới hạn. Do đó, tỷ trọng hàng xuất khẩu đã tăng
từ 11,9% năm 1970 lên 21,7% năm 1980. Đồng thời Malaysia cũng đẩy mạnh
đầu tư vào ngành khai thác và chế biến dầu mỏ nên thu nhập nhờ xuất khẩu
dầu mỏ rất đáng kể năm 1970 đạt 164 triệu ringit (chiếm 3,2%) tổng giá trị
xuất khẩu), năm 1980 con số này là 6,7 tỷ (chiếm 23,8% tổng giá trị xuất
khẩu), năm 1980 con số này là 6,7 tỷ (chiếm 23,8% tổng giá trị xuất khẩu).
c) Giai đoạn đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, ưu tiên phát triển công
nghiệp cơ khí (1985-1995)
Bước sang giai đoạn phát triển mới, chính phủ Malaysia đã soạn thảo kế
hoạch phát triển công nghiệp 10 năm (1986-1995). Trong ngành công nghiệp,
chính phủđề ra kế hoạch phát triển tổng thể (IMP) với các mục tiêu [42]:
- Phấn đấu đạt tốc độ tăng bình quân của công nghiệp chế tạo khoảng
9%/năm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hơn 65/năm. Tăng cường phát
triển công nghệ thông tin, các ngành công nghiệp chế tạo sử dụng nguyên liệu
trong nước được ưu tiên phát triển.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu triển khai ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, khuyến khích nghiên cứu triển khai tại xí nghiệp đểđưa nhanh
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, rút ngắn thời gian từ khâu nghiên cứu đến khâu

áp dụng.
- Khuyến khích giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ khoa
học kỹ thuật để phát huy tối đa những lợi thế của đất nước;


19
Từ kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1986-1990), Malaysia đã tập trung ưu
tiên phát triển cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp nặng, nhất là những
ngành sử dụng nguyên liệu trong nước sẵn có như xi mang, sắt thép… Các
ngành công nghiệp quan trọng khác nhưđiện, cơ khí chế tạo cũng được chú
trọng đầu tư phát triển với việc áp dụng công nghệ mới. 50 nhóm sản phẩm
trong các ngành sử dụng nhiều lao động, sử dụng nguyên liệu tại chỗ như cao
su, dầu cọ, gỗ, thực phẩm, khai khoáng, điện tử, dệt may… được ưu tiên phát
triển sản xuất, đặc biệt phục vụ xuất khẩu. Trong sự phát triển công nghiệp,
chính phủ Malaysia đặc biệt chú trọng đầu tư vào khu vực tư nhân, coi khu
vực này là chủđạo của nền kinh tế. Chính phủđã chi một lượng vốn lớn cho
hoạt động nghiên cứu triển khai, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường
tiến hành nghiên cứu ứng dụng vào sản xuất.
Nhờ tích cực thực hiện các chính sách phát triển trên, nền kinh tế
Malaysia đã tăng trưởng với tốc độ cao: 1987 là 5,2%; 1988 là 8,7%; 1990 là
9,4% và 1995 đạt 8,5%; trong đó ngành công nghiệp chế tạo tăng trưởng với
tốc độ cao hơn (năm cao nhất là 1989 đạt 25,1%) [114]. Trên cơ sởđó, xuất
khẩu của Malaysia đã có sự tăng nhanh với xu hướng giảm dần xuất khẩu
nguyên liệu, tăng dần các sản phẩm công nghiệp chế tạo (điện tử) và nông sản
chế biến như cao su, ca cao, dầu cọ, hạt tiêu,… Năm xuất khẩu cao nhất
(1989) đạt 67,8 tỷ USD bằng 71,5 GNP. Theo các nhà phân tích kinh tế thì
Malaysia đã bước đầu chuyển từ nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp và các
ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp có hàm lượng
khoa học cao hướng về xuất khẩu.
Bên cạnh những thành tựu kinh tếđạt được, theo Viện nghiên cứu kinh

tế Malaysia (MIER), nền kinh tế nước ngày còn gặp phải những yếu kém cần
khắc phục: Thứ nhất, về nguồn nhân lực bắt đầu xuất hiện tình trạng khan
hiếm, trong khi giá nhân công tăng lên; Thứ hai, khả năng cạnh tranh và tiếp
cận thị trường quốc tế của Malaysia còn hạn chế; Thứ ba, đầu tư cho nghiên


20
cứu triển khai còn thấp. Đó cũng chính là những thách thức trong điều chỉnh
nhằm tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
Nhìn chung Thái Lan, Đài Loan và Malaysia khi bước vào công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tếđều ởđiểm xuất phát thấp, kinh tế nông nghiệp là
chủ yếu, công nghiệp nhỏ bé và bị phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy vậy, chỉ
trong vài ba thập kỷ, các nước này đã nhanh chóng vươn lên và thu được
những thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đài Loan đã trở thành
nước công nghiệp mới. Thái Lan vàMalaysia cũng được coi là những nước
công nghiệp mới. Thành công ấy đãđể lại những bài học kinh nghiệm mà
nhiều nước đang phát triển có thể học tập và tham khảo.
Thứ nhất, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nước này đã biết đi
lên từ nông nghiệp. Bước đi khởi đầu là phát triển nông nghiệp, để lấy nông
nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp. Những tiền đề mà nông nghiệp tạo ra cóý
nghĩa rất quan trọng về cả phương diện kinh tế và xã hội. Vì chính công
nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể tiến hành khi tình hình xã hội không ổn
định. Trong bước đi ban đầu, sự phát triển nông nghiệp không chỉ giải quyết
vấn đề lương thực trong nước, mà còn đóng góp vào xuất khẩu, cải thiện cán
cân thanh toán, cán cân thương mại theo hướng tích cực.
Thứ hai, việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá cóý nghĩa quyết định
với sự kinh tếở các nước đang phát triển. Trong tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, các nước này đã lựa chọn chiến lược theo hai giai đoạn về cơ
bản là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của họ. Thực tế mỗi chiến lược
đều có vị trí quan trọng, tuy nhiên mỗi chiến lược bên cạnh mặt tích cực, vẫn

bộc lộ những hạn chế. Do vậy, việc chọn thời điểm đểđiều chỉnh chiến lược
phát triển cóý nghĩa rất quan trọng. Nóđặt sự phát triển kinh tế của đất nước
không chỉ phù hợp với hoàn cảnh trong nước mà cả quốc tế. Thực tế việc
chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu khi quá trình
toàn cầu hoá, khu vực hoá dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật


21
làsự cần thiết. Chính việc lựa chọn thời điểm chuyển hướng chiến lược mới
có thể tạo nên sự thích ứng trong chiến lược phát triển kinh tế. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá với sựđa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh để mở rộng
xuất khẩu và vươn mạnh ra thị trường thế giới dãđem lại tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao liên tục trong hơn ba thập kỷ cho Đài Loan, Thái Lan vàMalaysia.
Thứ ba, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước này, nhà nước
đóng vai trò vô cùng quan trọng với việc lựa chọn chiến lược, việc tạo lập môi
trường kinh tế vĩ mô, chiến lược tạo vốn, nâng cao hiệu quảđầu tư, có chính
sách phát huy nguồn lực con người, mở rộng quan hệ kinh tếđối ngoại. Do
vậy, nhà nước không chỉ phát huy được nội lực mà còn khai thác tốt các yếu
tố ngoại lực tạo nên tăng trưởng kinh tế cao. Nhà nước đã thành công trong
việc điều chỉnh chiến lược gắn với các chương trình cải cách tự do hoá một
cách khéo léo linh hoạt. Đó chính là viết biết khai thác những động lực của
kinh tế thị trường, biết nắm bắt và tận dụng những thành tựu của cách mạng
khoa học kỹ thuật, những cơ hội mà kinh tếđối ngoại đặc biệt là ngoại thương
mang lại nhằm phát huy lợi thế trong trật tự phân công lao động quốc tế.
Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá - con đường tất yếu để thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu của các nước đang phát triển. Mục tiêu trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoáđể hướng tới tăng trưởng trong phát triển. Theo đuổi tăng
trưởng kinh tếđã trở thành khát vọng của các nước đang phát triển. Tuy vậy,
kinh nghiệm ở Thái Lan, Malaysia, chiến lược trong công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cần phải gắn liền với sựổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, có sự

kết hợp hài hoà giữa chiến lược hướng ngoại và hướng nội, cải cách kinh tế
phải gắn liền với cải cách xã hội. Đó là những điều kiện để tạo nên sự bền
vững trong phát triển.
Thứ năm, trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Thái Lan,
Malaysia vàĐài Loan, con đường phát triển của Đài Loan mang tính đặc thù
rõ nét và sơm đưa nước này trở thành nước công nghiệp mới. Bí quyết thành


22
công của Đài Loan trong bước khởi đầu công nghiệp hoá là biết lấy nông
nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp; biết dựa vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ
với sự khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước để hình thành nên những chuỗi
xí nghiệp hoạt động liên hoàn với nhau; biết nắm thời cơđể nhanh chóng đi
vào một số ngành hiện đại nhưđiện tử, công nghiệp thông tin, hoá dầu…


23
PHẦN III
KHẢNĂNGVẬNDỤNGMỘTSỐKINHNGHIỆMVỀ
CÔNGNGHIỆPHÓACỦACÁCNƯỚCVÀO VIỆT NAM

1.Khái quát về tình hình công nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời
kỳđổi mới (từ 1986 - nay)
1.1. Một số kết quả chủ yếu và hạn chế trong công nghiệp hóa ở
nước ta
a) Một số kết quả chủ yếu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và mở cửa nền kinh tếđã huy động được mọi tiềm năng kinh tế trong
và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Thời gian qua, nguồn vốn đầu tư xã hội
tăng lên, đặc biệt từ sau năm 1990 khi quan hệ kinh tế quốc tếđãđược khai

thông và luật đầu tư nước ngoài đã phát huy tác dụng.
Bảng : Cơ cấu vốn đầu tư xã hội 1991 - 2000 (%)
Năm
Từ ngân sách
Nhà nước (*)
Doanh nghiệp
nhà nước
Tư nhân và
dân cư
Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài

1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
29,8
35,3
38,5
24,1
25,6
28,2
31,7
36,9

37,1
37,0
14,5
5,2
7,5
12,5
9,7
10,7
14,0
16,7
17,1
17,0
47,0
44,6
31,6
34,1
30,8
26,9
22,8
21,3
21,8
21,5
9,7
15,0
21,4
29,4
33,9
34,1
31,5
25,1

24,0
24,5

Nguồn: Bộ Kế hoạch vàđầu tư; (*) Đầu tư từ ngân sách Nhà nước tính
cả ODA và tín dụng nhà nước.
Quá trình công nghiệp hóa trong thời kỳđổi mới ở nước ta đãđem lại
những biến đổi quan trọng trong sự phát triển kinh tếđất nước, tạo đà cho


24
công cuộc đổi mới tiếp tục đi vào chiều sâu vàđẩy nhanh tốc độ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Do vậy, vào những năm 90, kết quả về tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đạt mức cao hơn so với nhiều nước trên thế
giới và khu vực. Tính chung cả giai đoạn 1991 - 2000, Việt Nam đạt tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân 7,45%.
Bảng : Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn (%)
1986 - 1990 1991- 1995 1996 - 2000 1991 - 2000
GDP

Công nghiệp
Nông nghiệp
Dịch vụ
3,9

6,0
3,6
6,1
8,2

12,7

4,3
9,0
6,7

10,4
3,6
5,3
7,45

11,6
3,96
7,1
Nguồn: Tổng hợp theo niên giảm thống kê
Kết quảấy, trước hết nhờ bố trí lại cơ cấu kinh tế, điều chỉnh lại cơ cấu
đầu tư, xác định lại vị tríưu tiên của các ngành sản xuất, tăng cường vốn đầu
tư từ các nguồn khác nhau (ngoài ngân sách nhà nước) cho nên cơ cấu nền
kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch hợp lý hơn, khắc phục một bước tình
trạng đơn điệu, mất cân đối, trái với quy luật phát triển chung của những nước
tiến hành công nghiệp hóa từ xuất phát điểm thấp. Hai là, cơ cấu nội bộ ngành
công nghiệp cũng có sựđiều chỉnh tương đối hợp lý. Công nghiệp nói chung
phát triển theo hướng gia tăng tương đối tỷ trọng các ngành công nghiệp chế
biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi vẫn duy trìđược một số
ngành công nghiệp nặng có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Ba là, trong
những năm tiến hành đổi mới, nhờ có chính sách đẩy mạnh các hoạt động
kinh tếđối ngoại, đặc biệt là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam (12/1987), mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ
thuật với nhiều nước trên thế giới, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam
đã có bước phát triển tích cực, cho phép nước ta bắt đầu đầu tư theo chiều sâu
đối với một số xí nghiệp, một số ngành và lĩnh vực nhất định, đặc biệt đối với
một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt, may mặc, giầy da… Bốn là, sản xuất



25
công nghiệp đãđạt tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục góp phần quan trọng
vào việc khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội đồng thời tạo tiền
đề phát triển cho những năm sau.
Thời gian qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của công nghiệp, tỷ trọng nông
nghiệp trong nền kinh tế giảm. Năm 1986, nông nghiệm chiếm 34,7%, công
nghiệp chiếm 26,8% và dịch vụ chiếm 38,5% trong GDP; năm 2000 nông
nghiệp giảm xuống chiếm 24,2%, công nghiệp tăng lên 36,9% và dịch vụ là
38,9% trong GDP. Như vậy, cơ cấu kinh tế mới đã hình thành vàđộng tái
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh xu hướng tích cực của các nước vốn có
nền kinh tếởđiểm xuất phát thấp đang vươn lên trong công nghiệp hoá.
Bảng : Cơ cấu ngành trong GDP (%)
1986 1990 2000
Nông nghiệp 34,7 32,0 24,2
Công nghiệp 26,8 25,2 36,9
Dịch vụ 38,5 42,8 38,9

Nguồn: Trần Văn Thọ, Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000, tr. 298 và Tổng
cục Thống kê.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu hàng năm cũng tăng nhanh, năm 1991 là 2.087 triệu
USD, năm 2000 là 14,308 triệu USD [28]. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của
xuất khẩu hàng năm cao hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và ngoại
thương thực sựđã trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thu được một số thành tựu
cơ bản. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sản xuất đã cơ bản
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và giành một phần tích lũy. Năm 1986, tiêu

dùng cuối cùng ở mức 98,8% của GDP; năm 1999, tiêu dùng cuối cùng chỉ
bằng 3/4 GDP. Hạ tầng kinh tế - kỹ thuật trong nền kinh tếđược tăng cường.

×