Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 103 trang )







LUẬN VĂN:

Phát triển nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre







MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các nước có nền kinh tế phát triển đang diễn ra
gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, phần chiến thắng sẽ thuộc về quốc gia có nguồn lực
con người chất lượng cao, có khả năng sáng tạo và chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức khoa
học tiên tiến. Vì vậy, phát triển NLCN luôn được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong
chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia đang tiến hành công
nghiệp hóa.
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta diễn ra khi cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao. Điều kiện lịch sử này cho phép chúng ta có
thể và cần phải vận dụng tiến bộ KH-CN để có cơ hội phát triển nhanh CNH, HĐH đất
nước theo con đường rút ngắn. Từ thực tế đó, khi bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Đảng ta


xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững” [17, tr.85]. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta không đơn giản chỉ là
công cuộc xây dựng kinh tế, mà chính là quá trình biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhằm đưa xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất, do đó,
đòi hỏi phải có NLCN mạnh về số lượng, phát triển cao về chất lượng, thật sự là động
lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Từ nhận thức đó, Đảng ta khẳng định: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21]. Hiện nay,
phát triển NLCN, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đang là một trong những
hướng ưu tiên và là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bến Tre là tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, được hợp thành bởi ba cù
lao lớn. Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, người Bến Tre đã “Anh dũng Đồng
khởi, thắng Mỹ, diệt Ngụy”. Nhưng trong công cuộc xây dựng quê hương, mặc dù tiềm
năng kinh tế, xã hội có thể nói không thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu, nhưng nhiều mặt
đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của Bến Tre vẫn chưa vươn lên ngang bằng với các

tỉnh trong khu vực. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ
tỉnh Bến Tre chỉ rõ: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với tỉnh ta so với các tỉnh
trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long là điều mà chúng ta quan tâm nhất” [22,
tr.44].
Trong những năm gần đây, nhờ biết khai thác thế mạnh kinh tế thuỷ sản và kinh
tế vườn, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre đã đạt mức tăng trưởng khá (giai đoạn
2000-2004, bình quân tăng 8,7%/năm). Tuy nhiên, so với các tỉnh trong khu vực và cả
nước, Bến Tre vẫn là tỉnh có tốc độ phát triển chậm, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH
diễn ra với quy mô nhỏ bé và chậm chạp. Để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế
mạnh của mình, gần đây, Bến Tre đã bắt đầu quan tâm phát triển NLCN của tỉnh và đã
đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu. Nhưng đến nay, nhiều tiềm năng to lớn,
nhất là tiềm năng con người của Bến Tre, vẫn chưa được khai thác có hiệu quả và chưa
chuyển hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chưa đáp ứng yêu cầu

thực tiễn của quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre. Đây là một trong những nguyên nhân
chính cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Do đó, việc nghiên cứu khoa học
nhằm “Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bến Tre” là vấn đề đang đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với tiến
trình phát triển của Bến Tre trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, NLCN và phát triển NLCN là vấn đề đã được đề cập
nghiên cứu ở nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Nhiều công trình đã nghiên cứu một
cách có hệ thống các vấn đề về NLCN, về GD-ĐT, về nâng cao chất lượng và sử dụng
có hiệu quả NLCN, đáng chú ý là những công trình sau:
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” do PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nước ta đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta” của PGS.
Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

Quyển sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở một số nước trên thế giới
dưới tác động của GD-ĐT, đồng thời nêu bật vai trò của GD-ĐT trong việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam.
- “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, của TS. Bùi Thị Ngọc
Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ vị trí, vai trò, chức
năng của nguồn lực trí tuệ - bộ phận trung tâm, làm nên chất lượng và sức mạnh ngày
càng tăng của NLCN và là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, dân tộc và của toàn nhân
loại. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Hữu
Dũng, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình bày có tính hệ thống một số

vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố, sử dụng NLCN trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; đồng thời đề xuất các chính
sách và giải pháp nhằm phát triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả NLCN trong
phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Vấn đề con người và NLCN cũng là đề tài nghiên cứu của một số luận văn, luận
án, đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ: “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đoàn Văn Khái (2000); Luận án tiến sĩ: “Phát huy
nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh (1999); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay” của
tác giả Vũ Thị Phương Mai (2004) Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ
các vấn đề về NLCN, nguồn lực thanh niên, nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của
những nguồn lực này trong sự nghiệp CNH, HĐH. Qua phân tích thực trạng, các tác giả đã
đề xuất nhiều giải pháp để phát huy, phát triển những nguồn lực này trong thời gian tới.
Ngoài ra, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết về
vấn đề NLCN và đã được đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa học… Tuy nhiên,
cho đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp về phát triển
NLCN ở tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá đúng thực trạng NLCN làm cơ sở thực tiễn quan

trọng để tìm ra những phương hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu NLCN
vẫn là một đề tài cần tiếp tục nghiên cứu, nhất là từ góc độ chính trị - xã hội và từ thực
tiễn của một tỉnh như Bến Tre.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng NLCN của tỉnh Bến Tre và xu hướng vận động cơ
bản của nó, luận văn xây dựng hệ thống những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre trong thời gian tới.
Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về NLCN và tính tất yếu của việc phát triển NLCN trong
quá trình CNH, HĐH đất nước.

- Khảo sát và phân tích thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở Bến Tre hiện
nay, trên cơ sở đó dự báo một số xu hướng vận động cơ bản của nguồn lực này trong
thời gian tới.
- Xây dựng hệ thống quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN ở
Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH.
Phạm vi nghiên cứu
Từ góc độ chính trị-xã hội, đề tài nghiên cứu quá trình phát triển NLCN ở tỉnh
Bến Tre từ năm 1996 đến nay và tập trung chủ yếu ở lực lượng lao động (hay dân số
hoạt động kinh tế thường xuyên) của tỉnh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài
Luận văn được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về con người và
NLCN, kết hợp với chủ trương, chính sách của Đảng bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh Bến
Tre… về các vấn đề có liên quan đến đề tài. Ngoài ra, những công trình nghiên cứu gần
đây về vấn đề này được tác giả quan tâm, coi trọng nghiên cứu và kế thừa.
Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, lôgic lịch sử, kết hợp với các
phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê… để nghiên cứu vấn đề phát triển
NLCN ở tỉnh Bến Tre dưới góc độ chính trị - xã hội.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở tỉnh Bến
Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
- Luận văn đề xuất một hệ thống những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn
Những quan điểm, những kết luận và những kiến nghị của luận văn có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề NLCN nói

chung, cũng như vấn đề phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin cậy để
các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh Bến Tre tham khảo trong quá trình hoạch định các
chủ trương, chính sách phát triển NLCN của tỉnh trong sự nghiệp CNH, HĐH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.



Chương 1
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE

1.1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT
TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1.1. Quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người
Quan niệm về nguồn lực con người
“Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là một khái niệm được hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét nhân tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Ngày nay, để phát triển nhanh và bền vững, bất cứ quốc gia nào cũng cần phải
xác định đúng đắn và huy động có hiệu quả tất cả các nguồn lực. Những thành tựu to
lớn mà loài người đạt được trong quá trình phát triển chính là do con người biết khơi
dậy và phát huy tổng hợp các nguồn lực. Trong toàn bộ các nguồn lực của phát triển thì
NLCN được xác định là quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Trong vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề NLCN đã trở thành mối quan tâm hàng đầu

của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, những nghiên cứu về NLCN đã đạt những
thành tựu đáng kể, đưa lại những quan niệm ngày càng đầy đủ và đúng đắn về NLCN.
Tìm hiểu các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy, quan niệm về NLCN khá
đa dạng, được đề cập trên nhiều góc độ, theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất
hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng
sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất lao động và tiến
bộ xã hội.
Trong lý luận về “vốn”, con người được đề cập đến như một loại vốn (“vốn
người”, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất và kinh
doanh. Từ cách tiếp cận này, Ngân hàng Thế giới cho rằng: NLCN được hiểu là toàn bộ
vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy
động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây,
NLCN được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, tài

nguyên thiên nhiên… Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và
được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Dựa trên cách tiếp cận này, Liên hợp quốc cho rằng NLCN là tất cả những kiến
thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước.
NLCN ở đây được xem xét chủ yếu ở chất lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó
đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta khái niệm NLCN được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu thập niên
90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các Từ điển
Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con người”. Dù vậy, các nhà khoa
học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau khi bàn về NLCN, về nguồn
nhân lực.
Giáo sư Viện sĩ TS. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người là số dân
và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực
và phẩm chất” [25, tr.328]. Giáo sư TS. Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng: “Nguồn lực con
người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả

hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [4, tr.14]. Ngoài thể lực và trí
lực, theo tác giả "cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là
những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng
tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, sáng tạo” [4,
tr.15]. Xét theo ý nghĩa đó, NLCN bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sự sâu sắc, đổi
mới thường xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý… Trong
quan niệm này, tác giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong của NLCN.
Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
Nguồn lực con người là quý báu nhất Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học
công nghệ hiện đại [18, tr.9].

Quan niệm này nêu lên một cách toàn diện những yếu tố cần có của người lao
động với tư cách là nguồn lao động - nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia.
Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà KH-CN các tỉnh, thành phố
phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: “Nguồn lực con người bao gồm cả
sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [32, tr.2].
Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu: Nguồn lực
con người là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt là chất lượng người
với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm nên sức mạnh của nó trong sự
phát triển xã hội.
Với cách hiểu này, khái niệm “nguồn lực con người” có nội dung rộng, đề cập
đến những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là người lao động, là lực
lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động), là nguồn lao
động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến NLCN còn nói đến quy mô dân số và
tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định của một quốc gia, một địa phương.
Thứ hai, “nguồn lực con người” phản ánh cơ cấu dân cư, nhất là cơ cấu lao động

trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế…
Thứ ba, “nguồn lực con người” chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc biệt là
chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong tương lai.
Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa
các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại giữa NLCN với các nguồn
lực khác và với môi trường xung quanh. Đồng thời, nó còn nói lên sự biến đổi về số
lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động.
Thứ năm, “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng: con người được xem xét với tư
cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự
phát triển xã hội. Sức mạnh của NLCN thể hiện ở sức mạnh của thể lực, trí lực, niềm
tin, ý chí… ở sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần,
của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng, không chỉ có trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm
năng.

Như vậy, nói đến NLCN và vai trò của nó phải xem xét con người với tư cách
vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Là chủ thể bởi
con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, hơn nữa còn tạo ra nguồn lực mới cho
sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai
thác, cả về trí lực và thể lực cho mục tiêu phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, con người
vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát
triển kinh tế-xã hội.
Bên cạnh khái niệm “nguồn lực con người”, các khái niệm “nguồn nhân lực”,
“tài nguyên con người” cũng được sử dụng phổ biến. Theo một số tác giả thì đây là
những khái niệm đều được dịch từ cụm từ Human Resources. Theo TS. Đoàn Văn Khái
thì trong thực tế, khái niệm “nguồn nhân lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như “nguồn
lực con người”, thường còn hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, có khi còn được
hiểu là lực lượng lao động. Khái niệm “tài nguyên con người” được sử dụng với ý nhấn
mạnh phương diện khách thể của con người, coi con người như một nguồn tài nguyên,
một loại của cải quý giá, cần được khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả, nhất là nguồn
tiềm năng trí tuệ trong đó [10, tr.253].

Ngoài ra, còn có thể hiểu một cách đầy đủ hơn về NLCN thông qua việc tìm hiểu
mối quan hệ giữa NLCN với các nguồn lực khác và cấu trúc của nguồn lực này.
Mối quan hệ giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác
Trong mối quan hệ với các nguồn lực khác, NLCN được xem như nguồn lực cơ bản
và quyết định các nguồn lực khác cũng như quyết định đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
NLCN là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Khẳng định vai trò quyết định của NLCN đối với sự phát triển kinh tế-xã hội,
điều đó không có nghĩa là tách NLCN một cách biệt lập với các nguồn lực khác. Ngược
lại, khi khẳng định NLCN đóng vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là đã đặt trên cơ
sở và trong mối quan hệ với các nguồn lực khác.
Sự phát triển nhanh chóng của mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là sự thành công của quá
trình CNH, HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, cần phải có nhiều nguồn lực.
Các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý
thuận lợi… đều vô cùng quan trọng, thiếu chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng

trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Song, các nguồn lực này dù phong phú, đa
dạng và giàu có đến mấy cũng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng và tự nó không thể phát huy tác
dụng. Chúng chỉ thực sự có ý nghĩa và phát huy tác dụng thông qua hoạt động có ý thức,
sáng tạo của con người, nghĩa là được con người sử dụng. Như vậy, chỉ có NLCN mới có
khả năng khởi động và phát huy tác dụng của các nguồn lực khác. Sở dĩ như vậy là vì con
người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết cải tạo, lợi dụng, khai thác
các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng phục vụ
cho nhu cầu, lợi ích của con người. Tất nhiên, quá trình đó phải phù hợp với quy luật khách
quan. Với ý nghĩa đó, con người trở thành yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, là "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại"
[37,tr.430].
Hơn nữa, các nguồn lực khác đều là hữu hạn và dần dần sẽ bị cạn kiệt trong quá
trình khai thác và sử dụng, thậm chí nếu khai thác bừa bãi sẽ gây hậu quả nghiêm trọng,
đe doạ sự sống còn của loài người. Trong khi đó, NLCN mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại
có tiềm năng vô tận, không bao giờ bị cạn kiệt trong quá trình khai thác, sử dụng. Thậm

chí, nó còn có khả năng phục hồi và tái sinh, tự đổi mới, phát triển không ngừng nếu
biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý.
Trong thời đại ngày nay, việc khẳng định vai trò quyết định của NLCN so với các
nguồn lực khác và xem nó là động lực quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển là hoàn
toàn đúng đắn. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu không thấy vai trò quan trọng của các nguồn
lực khác đối với sự phát triển NLCN. Điều đó có nghĩa là NLCN luôn bị quy định bởi các
nguồn lực khác. Bởi lẽ, con người là một thực thể tự nhiên - xã hội. Để tồn tại và phát triển,
con người phải quan hệ với tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với sức lao
động và trí tuệ của mình nhằm cải tạo tự nhiên tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người.
Mặt khác, chính từ thực tiễn cuộc sống và hoạt động lao động sản xuất, con người không
ngừng phát triển trí tuệ cũng như hoàn thiện về thể chất. Như vậy, trong mối quan hệ với
các nguồn lực khác, NLCN giữ vai trò quyết định. Các nguồn lực khác chỉ phát huy tác
dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với NLCN. Xét đến cùng, nếu thiếu sự
hiện diện của NLCN với trí tuệ và lao động của họ, thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa,
thậm chí, khái niệm nguồn lực cũng không còn ý nghĩa.

Cấu trúc của nguồn lực con người
Việc xác định cấu trúc của NLCN là quá trình xem xét từng bộ phận cấu thành
NLCN theo một hệ thống chỉnh thể, từ đó phát hiện ra cơ cấu và mối quan hệ giữa
chúng tạo thành hệ thống, cấu trúc của NLCN.
Nói đến NLCN là nói đến số lượng và chất lượng con người, là sự kết hợp giữa
trí lực, thể lực, đạo đức và những năng lực, phẩm chất khác của con người như ý chí,
tình cảm… Mỗi yếu tố có vị trí và vai trò nhất định trong cấu trúc NLCN, song giữa
chúng có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với nhau, tạo nên sự phát triển toàn diện
của NLCN.
Trước hết, NLCN được xem xét ở mặt số lượng. Số lượng NLCN chính là lực
lượng lao động và khả năng cung cấp sức lao động cho xã hội. Các chỉ số về số lượng
NLCN của một quốc gia, một địa phương được xác định trên qui mô dân số thông qua
số lượng dân cư, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động trong các ngành,
các khu vực kinh tế… Trong đó, số dân trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh một

cách rõ nhất về số lượng NLCN. Số lượng NLCN đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (hoặc
thừa hoăc thiếu) đều tác động xấu tới sự phát triển kinh tế-xã hội.
Yếu tố quan trọng nhất trong NLCN của một quốc gia được thể hiện ở chất
lượng của nó. Trước đây, có lúc chúng ta hiểu NLCN có phần đơn giản, thường cho
rằng: có nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, chịu khó, thông minh và sáng
tạo là có thể tạo ra nhiều của cải vật chất, tăng năng suất lao động xã hội. Từ thực tiễn
công cuộc xây dựng đất nước ở Việt Nam, cũng như sự phát triển nhanh chóng của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cho thấy, sự dồi dào nguồn lao động và sự
cần cù của con người là yếu tố quan trọng nhưng chưa thể tạo nên động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH. Vì vậy, hiểu một
cách đúng đắn và toàn diện về NLCN, không chỉ nói đến mặt số lượng mà chủ yếu là
nhấn mạnh mặt chất lượng của nó. Đây mới là yếu tố quyết định, nói lên sức mạnh và
tiềm năng to lớn của NLCN trong phát triển. Chất lượng NLCN là một khái niệm tổng
hợp bao gồm những yếu tố về thể lực, trí lực, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật,
năng lực, phẩm chất, về tâm lý, đạo đức… của người lao động. Trong các yếu tố đó thì

phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật là quan trọng nhất, nó
phản ánh mức độ trưởng thành của con người. Có thể nói, chất lượng NLCN được phản
ánh ở hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm làm ra trong quá trình sản xuất và năng
suất lao động xã hội. Giữa số lượng và chất lượng của NLCN có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít sẽ gây khó khăn cho quá trình phân công lao
động xã hội và do vậy chất lượng lao động sẽ bị hạn chế. Chất lượng NLCN nâng cao sẽ
góp phần làm giảm số lượng người lao động trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay
trong một tổ chức xã hội, và như vậy là năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao.
Ngược lại, nguồn nhân lực đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp, sẽ là gánh nặng
cho xã hội và kìm hãm xã hội phát triển.
Trong số các yếu tố làm nên chất lượng của NLCN, nguồn lực trí tuệ được xem
bộ phận sáng giá nhất, vì nó “bao gồm những tiềm năng, năng lực và tập hợp các giá trị
sáng tạo về tinh thần của mỗi cá nhân, của các tập thể, của các cộng đồng người… trong

một xã hội nhất định” và “có khả năng tạo ra sức mạnh tổng hợp của quá trình phát triển
tự nhiên, xã hội và bản thân con người” [33, tr.35]. Thực vậy, xét ở cả phương diện cá
thể cũng như xã hội, trí tuệ đóng vai trò trung tâm chỉ đạo mọi hành vi và quyết định
phần lớn khả năng sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như
trong việc lựa chọn phương pháp, giải pháp thích hợp nhằm phát huy tác dụng của các
yếu tố khác trong cấu trúc NLCN.
Cuộc cách mạng KH-CN hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao ở trí tuệ của
con người - những người lao động. Họ không chỉ có khả năng tiếp thu tri thức mới, vận
dụng có hiệu quả vào sản xuất mà còn phải biết thường xuyên tự bổ sung, bồi dưỡng tri
thức để không bị lạc hậu trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng KH-CN.
Vì vậy, NLCN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH phải bao gồm những người lao động có sự
phát triển cao về năng lực trí tuệ, đủ sức làm chủ và tiếp thu công nghệ mới, có khả
năng làm việc chủ động sáng tạo, có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện tiên
tiến, hiện đại. Nói cách khác, ngày nay tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu của
người lao động.
Theo Tổng Bí thư Đỗ Mười: “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản,
nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó” [42, tr.92]. Thực

vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người. Vì vậy, nói đến chất lượng NLCN,
ngoài trí tuệ, sức khỏe (thể lực) là yếu tố hết sức cần thiết. Sức khỏe là điều kiện để duy
trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn,
biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
Với tư cách là một yếu tố cấu thành NLCN, sức khỏe là sự phát triển hài hòa của
con người cả về thể chất lẫn tinh thần.Vì vậy, yếu tố này bao gồm sức khỏe cơ thể và
sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, phát triển cân đối hài hòa các cơ
quan trong cơ thể theo quy luật “tạo hóa” của tự nhiên, đồng thời, còn là sự hoạt động
dẻo dai của cơ bắp, sự nhạy bén của các giác quan. Các chỉ số sinh học biểu hiện trạng
thái sức khỏe thể chất của mỗi người như chiều cao, cân nặng, khả năng hoạt động của
cơ bắp, của các giác quan…
Tục ngữ Nga có câu: “Một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể khoẻ mạnh”. Sự

khoẻ mạnh của cơ thể là tiền đề cho một tinh thần minh mẫn, sáng suốt. Sức khỏe tinh
thần là sự linh hoạt, khoẻ mạnh của hệ thống thần kinh, là sức mạnh của sự sáng tạo,
của niềm tin và ý chí. Như vậy, điều kiện vật chất để hoạt động trí tuệ của con người
nhạy bén, sâu sắc và hoạt động thực tiễn hiệu quả đó chính là sự khoẻ mạnh cả về thể
chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, chăm sóc sức khỏe cho con người là nhiệm vụ rất cơ
bản để nâng cao chất lượng NLCN, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng trí tuệ
của con người.
Bên cạnh trí tuệ và sức khỏe, yếu tố góp phần quan trọng tạo ra chất lượng toàn
diện của NLCN chính là nhân cách. Xét ở phương diện cá thể, trong cấu trúc nhân cách
thì đạo đức và năng lực (đức và tài) là hai thành tố cốt yếu tạo nên nhân cách một con
người. Trong đó, đạo đức là cái gốc rất quan trọng, là cơ sở hình thành và phát triển thế
giới quan, nhân sinh quan của mỗi người. Đức là sự nỗ lực cống hiến to lớn cho xã hội,
là sự trung thành tận tuỵ với chế độ xã hội mà họ phục vụ, trách nhiệm công dân, lương
tâm nghề nghiệp của mỗi người… Đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH còn đòi hỏi ở người lao
động những phẩm chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ luật tự giác, tinh thần hợp tác
và tác phong lao động công nghiệp, tiết kiệm nguyên liệu và thời gian… Tất cả những
phẩm chất này được sử dụng trong một tiêu chí tổng hợp là yếu tố văn hóa lao động
công nghiệp. Đây cũng được xem là một yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng

NLCN. Như vậy, nhân cách đạo đức cùng những phẩm chất lao động và nghề nghiệp
góp phần tạo nên chất lượng toàn diện của NLCN.
Việc xem xét cấu trúc NLCN một cách toàn diện gồm trí lực, thể lực và nhân cách
đã đặt ra yêu cầu đối với GD-ĐT là phải phát triển cân đối giữa dạy chữ - dạy nghề - dạy
người. Trong đó, dạy người phải xem là mục tiêu cuối cùng nhằm “tạo ra những con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức” [15, tr.5] đủ sức thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Quan niệm về phát triển nguồn lực con người
Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau nên khi bàn về phát
triển NLCN đã có nhiều cách hiểu khác nhau.
Phát triển NLCN hay phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát triển nguồn tài

nguyên người là những cách dịch khác nhau từ cụm từ Human Resources Development
- HRD. Khái niệm này hình thành và phát triển từ những năm 70 của thế kỷ trước, dựa
trên quan niệm mới của Liên hợp quốc về phát triển và vị trí con người trong phát triển.
Liên hợp quốc sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa
rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. UNESCO sử dụng khái niệm
“phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa hẹp, đó là làm cho toàn bộ sự lành nghề
của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Còn tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) lại cho rằng phát triển nguồn nhân lực không chỉ là có sự
chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung mà còn là phát triển năng lực
và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thoả
mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Nhìn chung, cách hiểu của Liên hợp quốc bao quát hơn và nhấn mạnh khía cạnh
xã hội của vấn đề: NLCN vừa là yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế vừa là mục
tiêu của phát triển. Cách tiếp cận này xuất phát từ lý thuyết mới về phát triển con người,
trong đó phát triển NLCN thuộc phạm trù phát triển con người.
Thuật ngữ “phát triển con người” được sử dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác
nhau. Nhưng phải đến năm 1990, khái niệm “phát triển con người” (Human Development)
mới xuất hiện trong báo cáo về phát triển con người (HDR) được Chương trình phát triển

của Liên hợp quốc (UNDP) công bố. Theo UNDP “Của cải đích thực của một quốc gia là
con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận
lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh và sáng tạo” [26, tr.140].
Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con người làm
trung tâm. Đó là phát triển của con người, vì con người và do con người. Phát triển của
con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người như giáo dục, y tế,
kỹ năng… để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất.
Phát triển vì con người là bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế mà con người tạo ra phải
được phân phối rộng rãi và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo
cho con người có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính

trị, văn hóa, xã hội ).
Như vậy, theo quan điểm của Liên hợp quốc, khái niệm “phát triển con người”
nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển. Mục tiêu của sự phát triển
không chỉ là phát triển xã hội mà chính là phát triển con người. Bởi vì, trong xã hội hiện
đại, sự phát triển xã hội chưa hẳn đã đồng nghĩa với sự phát triển con người. Thực tế cho
thấy, ở nhiều nước trên thế giới, xã hội phát triển cao nhưng con người lại bị quên lãng,
không được quan tâm. Ở những nước này diễn ra nghịch lý: GDP tăng nhưng thất nghiệp
và đói nghèo cũng tăng, khoa học và công nghệ tiến bộ nhưng thất học và dốt nát lại trở nên
phổ biến, tiện nghi vật chất xã hội hiện đại hơn nhưng quyền con người lại bị vi phạm
nhiều hơn, nhiều người không được chăm sóc tối thiểu về y tế… Điều này cách đây 2 thế
kỷ, Sáclơ Phuriê (1772-1837) đã chỉ ra: trong xã hội tư bản “sự nghèo khổ được sinh ra từ
chính sự thừa thãi”.
Như vậy, mục đích thật sự của sự phát triển là cần phải tạo ra một môi trường
đảm bảo cho con người phát huy khả năng sáng tạo, được hưởng một cuộc sống khoẻ
mạnh, được học hành và trường thọ, các quyền tự do chính trị, quyền con người và
cá nhân được bảo đảm. Quan điểm phát triển con người như vậy hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển con người toàn diện mà cách
đây hơn 150 năm C.Mác đã nói tới.

Ở nước ta, cho đến nay, thuật ngữ “Phát triển nguồn lực con người” hay “Phát
triển nguồn nhân lực” được các nhà khoa học Việt Nam nêu khá nhiều trong các công
trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
GS.VS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng:
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho
con người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực… làm
cho con người trở thành những người lao động có những năng lực phẩm chất
mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế-xã
hội, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [25, tr.285].
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển NLCN được coi là “quá trình làm
biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn

yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội” [14, tr.13]. Theo tác giả, quá trình này bao gồm sự
phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính
năng động xã hội và sức sáng tạo của con người. Trong đó, nền văn hóa truyền thống,
lịch sử dân tộc góp phần quan trọng hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.
Như vậy, phát triển NLCN không phải là một khái niệm trừu tượng mà nó gắn
với phát triển con người cụ thể. Theo C.Mác, con người là yếu tố quan trọng nhất, cách
mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Người lao động trong lực
lượng sản xuất phải là con người ngày càng được phát triển cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về
thể chất, trong sáng về đạo đức, linh hoạt và văn minh trong ứng xử, có kinh nghiệm sản
xuất và kỹ năng lao động nhất định. Do đó phát triển NLCN có mối quan hệ biện chứng
với phát triển con người. Phát triển NLCN phải được hiểu là quá trình phát triển toàn
diện con người cả thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm năng,
năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều nhất vào sự
nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bởi lẽ, NLCN được cấu thành từ nguồn nhân lực của
mỗi cá nhân cũng như nguồn nhân lực của cả cộng đồng. Vì vậy, nếu cho rằng, phát
triển NLCN chỉ là quá trình làm gia tăng tri thức, kỹ năng và năng lực của mỗi người là
chưa đầy đủ, mới chỉ đề cập ở khía cạnh khai thác năng lực của con người mà thiếu đi
quá trình tái tạo, phát triển và sử dụng lâu dài tiềm năng con người, cũng như tạo ra giá trị
đích thực cho cuộc sống của con người.

Tóm lại, có thể hiểu: Phát triển nguồn lực con người là quá trình làm biến đổi về
số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, đồng thời làm gia tăng các giá trị tinh
thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể chất… cho con người nhằm đáp ứng những yêu cầu
của sự phát triển kinh tế-xã hội.
Mỗi một giai đoạn lịch sử đều có nhu cầu về NLCN phù hợp giai đoạn lịch sử
đó. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đang đặt ra yêu cầu khách quan về sự phát
triển số lượng, cơ cấu, chất lượng, cũng như những năng lực, phẩm chất cần thiết của
NLCN. Do đó, phát triển NLCN là một đòi hỏi tất yếu hiện nay ở nước ta.
1.1.2. Tính tất yếu của việc phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Trong điều kiện cuộc cách mạng KH-CN hiện đại đang diễn ra như vũ bão, CNH,
HĐH được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu để cải biến một xã hội nông
nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh. CNH, HĐH là quá trình tạo ra
những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội, trước hết là hoạt
động sản xuất vật chất. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1994) đã thông qua đường lối CNH, HĐH đất nước, trong đó Đảng ta xác định:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao [16, tr.65].
Quan điểm này, về cơ bản, đã phản ánh được phạm vi rộng lớn, lâu dài, phức tạp
cũng như chỉ ra cốt lõi của quá trình CNH, HĐH ở nước ta là cải biến lao động thủ
công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao
động xã hội cao. Trên cơ sở quan điểm này, Đảng ta chỉ rõ, sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội, nhằm mục tiêu:
Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
[17, tr.80].
Như vậy, đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam là hướng tới mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính điều này đã quy định sự khác biệt cả về nội dung,
hình thức, quy mô, cách thức tiến hành CNH, HĐH ở nước ta so với nhiều nước tư bản
chủ nghĩa đã tiến hành trước đây. Sự khác biệt này đã làm nên đặc trưng của CNH,
HĐH ở nước ta, đồng thời tự nó cũng đặt ra những yêu cầu khách quan về số lượng và
chất lượng đối với NLCN Việt Nam - nhân tố quyết định thành công sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước.
Trong mối quan hệ tác động qua lại với quá trình CNH, HĐH, NLCN luôn giữ vị
trí, vai trò quyết định. Mặt khác, NLCN cũng không ngừng biến đổi, phát triển dưới tác
động của quá trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển NLCN Việt Nam là một yêu cầu
khách quan trong quá trình CNH, HĐH.
Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng ta đã khẳng định: đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm hướng tới mục tiêu “tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [19, tr.89]. Như vậy,
trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN, CNH, HĐH là phương tiện,
phương thức để đạt đến mục tiêu cao cả, đó là vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp
của con người, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người.
Trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện CNH, HĐH đất nước, quan niệm coi con
người là “vừa là mục tiêu,vừa là động lực” của sự phát triển kinh tế-xã hội đã trở thành
quan niệm phổ biến. Phát triển NLCN được coi là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bởi vì, con người là động lực cơ bản
của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Động lực của sự nghiệp CNH, HĐH được hiểu là những gì thúc đẩy quá trình
này vận động và phát triển. Khi nói con người là động lực của quá trình CNH, HĐH là

chủ yếu nói đến sức mạnh, năng lực sáng tạo to lớn của con người trong việc thực hiện
CNH, HĐH và thúc đẩy quá trình này phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không thể thành công nếu thiếu vai trò động
lực của con người. Chính con người với tri thức, trí tuệ, có khả năng hoạch định chiến
lược, đề ra mục tiêu, lựa chọn phương thức tiến hành CNH, HĐH cho phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện của mình. Con người còn sáng tạo ra những thành tựu KH-CN hiện
đại và ứng dụng chúng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất vật chất, quản
lý kinh tế, xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH, những giải pháp do con người đề ra cho
phép điều chỉnh và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh, cũng như dự báo những nguy

cơ, hậu quả có thể xảy ra và khuynh hướng phát triển trong tương lai để từ đó thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH tiến lên.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công trong quá trình phát triển của
Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs) ở châu Á cho thấy, người ta không chỉ
chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới hoặc đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng, mà vấn đề then chốt hơn cả là biết khơi dậy và phát huy năng lực trí
tuệ và sức sáng tạo to lớn của con người. Trong xu thế toàn cầu hóa và mở rộng giao
lưu quốc tế như hiện nay, các quốc gia có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công
nghệ thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu. Nhưng người ta không thể nhập
khẩu hay vay mượn được khả năng sáng tạo của con người. Vì thế, có thể khẳng định
rằng, năng lực sáng tạo nói riêng và chất lượng NLCN nói chung là yếu tố nội sinh, là
động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển xã hội, đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thành
công.
Nếu con người là động lực, là phương tiện để tiến hành CNH, HĐH, thì những
thành quả do CNH, HĐH tạo ra phải nhằm phục vụ cho nhu cầu con người. Nói cách
khác, con người có quyền thụ hưởng những thành quả do chính tài năng và sức sáng tạo
của mình tạo ra. Vì vậy, phát triển NLCN phải nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để con
người được thụ hưởng những thành quả của mỗi bước CNH, HĐH. Nghĩa là con người
có được đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, môi trường và điều kiện làm việc
thuận lợi, có điều kiện học tập, lao động sáng tạo và cống hiến tài năng cho sự phát triển
của xã hội và hạnh phúc của con người.

Thứ hai, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Giữa CNH, HĐH và phát triển NLCN có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ nhau,
trong đó NLCN luôn giữ vị trí, vai trò quyết định trình độ, tốc độ phát triển của tiến
trình CNH, HĐH. Đến lượt mình, NLCN cũng không ngừng biến đổi và phát triển dưới
tác động của quá trình CNH, HĐH. Nói cách khác, CNH, HĐH đặt ra yêu cầu khách
quan đối với việc phát triển NLCN ở trình độ ngày càng cao, bởi vì con người vừa là
sản phẩm của tự nhiên, của xã hội vừa là chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội, đồng thời,

là chủ thể của các quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển và sáng tạo ra lịch sử của
mình.
Xét dưới gốc độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ, yếu tố con người vẫn
luôn là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Từ thực tế cho thấy, quá trình CNH, HĐH sẽ
không thể thành công nếu thiếu NLCN với số lượng và chất lượng ngày càng cao, cơ
cấu hợp lý. Bởi vì, chính con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác
định mục tiêu, nội dung, hình thức, bước đi và những giải pháp thích hợp để tiến hành
CNH, HĐH. Từ thực tiễn của các nước đi trước cũng như ở nước ta đã cho thấy, quá
trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, đạt hiệu quả cao hay thấp là do sự
quy định của nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc vào năng lực của
con người, vào chất lượng của NLCN. Vì vậy, phát triển NLCN trở thành yếu tố quan
trọng nhất có tính chất quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay.
Trong khi nhấn mạnh vai trò và sự tác động có tính chất quyết định của phát
triển NLCN đối với tiến trình CNH, HĐH, cần khẳng định rằng CNH, HĐH cũng tác
động trở lại đối với mục tiêu phát triển NLCN.
Thực tế cho thấy, mặc dù nước ta hiện nay không còn là một nước thuần nông,
nhưng có lẽ còn khá xa so với những tiêu chí, đặc trưng của một xã hội công nghiệp
hiện đại. Trong điều kiện ấy con người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư
duy, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nông. Vì thế, tiến hành CNH, HĐH là tiền
đề, điều kiện vật chất cần thiết để từng bước cải biến nếp nghĩ, cách làm vốn còn mang

nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ của một bộ phận đáng kể trong lực lượng lao động
xã hội. Chính sự hình thành và phát triển của các yếu tố hiện đại trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trước hết là trong sản xuất do đẩy mạnh CNH, HĐH, sẽ tạo nên một
cuộc cách mạng đối với lực lượng lao động xã hội. Hơn nữa, trong mỗi giai đoạn cũng
như trong suốt tiến trình, CNH, HĐH vừa tạo ra điều kiện và cơ hội phát triển, vừa đặt
ra những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động, trước hết là ở trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động công nghiệp hiện đại. Điều này thể hiện ở chỗ,

quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ tạo ra những điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người
lao động được tiếp cận với những dịch vụ xã hội ngày càng đầy đủ và hoàn thiện như giáo
dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức sống… đồng thời, CNH, HĐH lại đặt ra
những yêu cầu mới về phương thức lao động, kỹ năng lao động, buộc người lao động phải
thường xuyên, không ngừng học tập, bồi dưỡng cả về trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật, nhân cách đạo đức, năng lực sáng tạo và khả năng thích nghi với những điều kiện lao
động mới. Như vậy, CNH, HĐH tạo ra môi trường mà ở đó con người được phát triển toàn
diện, thể hiện năng lực sáng tạo cũng như khẳng định vai trò quyết định sự phát triển kinh
tế-xã hội của mình.
Thứ ba, phát triển NLCN là vấn đề chiến lược hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Trong lịch sử dân tộc, nhất là trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông
cha ta luôn thực hiện phương châm “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”. Sức mạnh
của Việt Nam là con người, do đó khâu then chốt là phải biết phát huy trí tuệ con người.
Chính tài năng trí tuệ, sự thông minh và sức sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã
làm nên những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ngày
nay là trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, ngay khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng
ta đã nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố con người và xác định: “Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội”. Ngày nay, để
đẩy mạnh CNH, HĐH, đi vào kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
càng phải đi lên chủ yếu bằng con đường phát triển NLCN, bằng trí tuệ của con người
Việt Nam.

Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò có ý nghĩa quyết định của NLCN và tiềm năng to
lớn của con người Việt Nam, tại các kỳ Đại hội VIII, IX và các Hội nghị Trung ương,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự
nghiệp của toàn dân” [17, tr.85], “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” [17, tr.21]. Tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới và nghiên cứu lý luận, một
lần nữa trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Con người và nguồn nhân

lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [19, tr.201]. Vì vậy, “Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu
ngày càng cao” [19, tr.165] là vấn đề có tính chiến lược trong công cuộc đổi mới và là
yêu cầu cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Thực hiện vai trò chủ thể, động lực của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo
định hướng XHCN, NLCN nước ta phải đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về
chất lượng. Muốn vậy, phát triển NLCN phải được xác định là vấn đề chiến lược và tập
trung mọi nguồn lực để đầu tư mạnh vào “vốn con người”. Phải xem đây là bước chuẩn
bị quan trọng và là khâu đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội và
thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, phát triển NLCN là vấn đề có tính chiến lược, điều đó không chỉ xác
định trên phạm vi cả nước mà phải được nhận thức và chủ động thực hiện ở từng địa
phương, đơn vị cụ thể. Đối với Bến Tre, để xây dựng chiến lược phát triển NLCN phù
hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh trong những năm tới, trước
hết cần phải xác định rõ đặc điểm của CNH, HĐH cũng như chỉ ra những yêu cầu cơ
bản về phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH
BẾN TRE VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI BẾN TRE
1.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Cũng như nhiều địa phương trong vùng, Bến Tre bắt tay xây dựng lại quê hương
từ sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện CNH, HĐH theo chủ trương của Đảng.
Ngoài những điểm chung như CNH, HĐH ở các tỉnh trong vùng, do vị trí địa lý, điều

kiện kinh tế-xã hội có nhiều đặc thù, điều đó đã làm cho nội dung, hình thức, quy mô,
tốc độ CNH, HĐH ở Bến Tre có nhiều điểm khác biệt. Sự khác biệt này đã nói lên đặc
điểm CNH, HĐH ở Bến Tre.
Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre tiến hành trong điều kiện nền kinh tế chậm
phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát
triển, đầu tư nước ngoài còn hạn chế… Vì vậy, CNH, HĐH ở Bến Tre mà trọng tâm là

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp bách để giải quyết hợp lý mối quan hệ
giữa nông nghiệp và công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ đang
phát triển theo hướng CNH, HĐH. Từ thực tế đó, có thể thấy CNH, HĐH ở Bến Tre có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, CNH, HĐH ở Bến Tre tập trung chủ yếu vào CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn
Trước yêu cầu phải rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH, phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đại hội IX
của Đảng chủ trương: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn" [19, tr.86].
Trên cơ sở vận dụng quan điểm, mục tiêu, nội dung Nghị quyết của Đảng, Tỉnh
ủy Bến Tre đã đề ra Chương trình hành động nhằm xác định nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre thời kỳ 2001-2010.
Trong đó chỉ rõ nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là:
Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, hiệu
quả, bền vững có sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến vào sản xuất; xây dựng nông thôn giàu đẹp, dân chủ,
công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, lực lượng sản xuất năng
động, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển và
an ninh nông thôn được bảo đảm [53, tr.2].
Tỉnh Bến Tre là vùng đất hẹp, người đông, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, diện
tích đất nông nghiệp chiếm 70%, do đó việc khai thác tiềm năng đất đai và lao động
nông thôn là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình phát triển. CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn là con đường ngắn nhất để “đưa Bến Tre đi lên từ kinh tế nông nghiệp
toàn diện thành một trong những tỉnh sản xuất hàng hóa có tỷ trọng cao trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long” [22, tr.45].
Thứ hai, so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, CNH, HĐH ở Bến Tre diễn ra
với tốc độ chậm, quy mô nhỏ bé, công nghệ, trang thiết bị còn lạc hậu
Năm 1996, cùng với cả nước, theo chủ trương của Đảng, Bến Tre thực hiện

CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Cùng với chủ trương coi
trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, lãnh đạo tỉnh luôn xác định công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp là lĩnh vực phải được tập trung đầu tư để Bến Tre vươn lên sánh vai với
các tỉnh bạn trong khu vực. Sau hơn 7 năm thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Bến
Tre “Về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh 1996-2000-
2010”, đến nay, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở Bến Tre có bước phát triển đáng
kể, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế của tỉnh phát triển, tạo động lực thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Từ chỗ chưa có gì, đến nay (2004) toàn tỉnh có
14 doanh nghiệp Nhà nước, 4 công ty đầu tư nước ngoài, 39 hợp tác xã, 94 doanh nghiệp tư
nhân và 7182 hộ sản xuất cá thể, giải quyết việc làm cho trên 31.000 lao động [13]. Năng
lực chế biến thủy, hải sản hiện tăng gấp 3 lần so với năm 1996 với một hệ thống các nhà
máy chế biến thủy sản trang thiết bị khá hiện đại. Công nghiệp ở Bến Tre phát triển đã
tác động tích cực đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhiều làng nghề được sắp
xếp, củng cố và không ngừng phát triển; đã cơ giới hóa 90% khâu làm đất, 80% khâu
tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng máy móc thay thế lao động chân tay
trong kinh tế vườn khá phổ biến. Đến năm 2000, 160/160 xã, phường trong tỉnh đều có
lưới điện quốc gia về đến trung tâm xã, nâng số hộ sử dụng điện lên 81% vào cuối năm
2004 [54, tr.4].
Tuy nhiên, so với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, thì CNH, HĐH ở Bến tre cần phải đẩy nhanh với tốc
độ và quy mô rộng lớn hơn. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp trong GDP toàn tỉnh còn
nhỏ và chuyển biến chậm, chưa đủ sức đóng vai trò động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Năm 1996, tỷ trọng công nghiệp chiếm 7,66%
trong GDP; năm 2000 là 12,09% và năm 2004 là 15,65 % [13]. Ngoài ra, do kết cấu hạ

×