Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

LUẬN VĂN: Chương trình truyền hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.56 KB, 116 trang )











LUẬN VĂN:

Chương trình truyền hình dành cho
người Việt Nam ở nước ngoài






Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài; thường xuyên đề ra những chủ trương, chính sách tích
cực nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/03/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài khẳng định: “ Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách
rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần


tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước” [5,tr.147]. Đồng thời nhấn
mạnh: “ Công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị và của toàn dân. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài
nước và toàn dân ta” [5,tr.148].
Hiện có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam sinh sống ở gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên khắp thế giới. Cũng như mọi cộng đồng dân cư khác, cộng đồng NVNONN có nhu cầu
rất lớn được thu nhận thông tin hằng ngày về tình hình đất nước, quê hương, về tình hình
quốc tế. Hơn thế nữa, là những người Việt Nam giàu tình cảm đối với quê hương, xứ sở,
nhiều người ra đi do những biến cố lịch sử nên người Việt xa Tổ quốc lại càng có nhu cầu
tiếp nhận thông tin từ trong nước. Tuy nhiên, với một cộng đồng lớn, trải rộng ở nhiều quốc
gia như vậy nên các phương tiện truyền thông trong nước gặp không ít khó khăn trong việc
cung cấp thông tin cho họ. Suốt một thời gian dài chúng ta còn lúng túng trong công tác này.
Cho nên, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng báo chí trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu
của cộng đồng. Trong khi đó, cộng đồng NVNONN tiếp nhận một lượng thông tin khổng lồ
về Tổ quốc mình qua hệ thống đài, báo của nước ngoài thông qua các lăng kính và quan
điểm khác nhau. Số liệu của các cơ quan chức năng cho biết hiện “ trên thế giới có tới trên
400 tờ báo, tạp chí, 82 nhà xuất bản và tới 49 đài phát thanh, truyền hình có chương trình
tiếng Việt với thời lượng phát sóng hàng chục giờ mỗi ngày ” [4,tr.33]. Một số phần tử cơ

hội chính trị, phản động lưu vong cấu kết với các thế lực thù địch bên ngoài đã dựng nên
nhiều tờ báo, chương trình phát thanh, truyền hình có nội dung xấu nhằm chống phá nước ta.
Chúng dùng mọi thủ đoạn: gây nhiễu thông tin, bóp méo, xuyên tạc sự thật, thậm chí kích
động lòng hận thù, gây rối, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, nhân danh “dân chủ”,”nhân quyền”
hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, tạo sự hồ
nghi về hình ảnh Đất nước - Con người Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế và cộng
đồng NVNONN.
Thực hiện nhiệm vụ: “ Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đánh
giá, cải tiến, hoàn thiện và nâng cao chất lượng chương trình truyền hình, truyền thanh dành
cho đồng bào ta ở nước ngoài phù hợp với tâm lý, tình cảm của đồng bào, có biện pháp hiệu

quả đưa chương trình đến với đông đảo cộng đồng người Việt Nam tại các nước” [48,
tr.164], cùng với các phương tiện thông tin đối ngoại khác, kênh truyền hình VTV4 của Đài
Truyền hình Việt Nam ra đời nhằm đáp ứng kịp thời việc đưa thông tin một cách “chính
thống”, nhanh nhạy, trung thực về mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của Việt Nam đến với
thế giới và NVNONN. Qua đó, giúp cho cộng đồng hiểu một cách đầy đủ, chính xác hơn về
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những thành tựu đã đạt được của công cuộc
đổi mới trên đất nước ta.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của VTV4, cần làm tốt công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn việc xây dựng, sản xuất chương trình, khả năng chuyển tải thông tin và khả
năng tiếp nhận của khán giả. Bởi vậy, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài “ Chương trình
truyền hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài” của Đài Truyền hình Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Đến nay, đã có Đề án nâng cao chất lượng kênh truyền hình VTV4 của Ban Truyền
hình Đối ngoại - Đài THVN; luận văn: Nâng cao hiệu quả chương trình thời sự đối ngoại
của Đài Truyền hình Việt Nam của tác giả Đào Huy Hoàng, Khoa Báo chí - Học viện Báo
chí và Tuyên truyền đề cập đến các bản tin thời sự bằng tiếng nước ngoài phát trên các kênh

VTV1, VTV2 và VTV4 của THVN. Ngoài ra, chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt về lý luận và thực tiễn chương trình truyền hình dành cho NVNONN.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Mục đích của luận văn là nghiên cứu, khảo sát, tổng kết thực tiễn chương trình
truyền hình dành cho NVNONN của Truyền hình Việt Nam. Qua đó rút ra những ưu,
nhược điểm của các chương trình; đưa ra nhận xét, đánh giá mang tính lý luận; đề xuất,
kiến nghị những giải pháp về nội dung, hình thức thể hiện và qui trình sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả chương trình truyền hình phù hợp với đối tượng công chúng là
NVNONN.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Khảo sát, tổng hợp, phân tích và đánh giá chất lượng, hiệu
quả của các chương trình truyền hình dành cho NVNONN trên sóng VTV4, Đài THVN;
tiến hành khảo sát nghiên cứu ý kiến khán giả truyền hình là những NVNONN để từ đó
chỉ ra đặc điểm tâm lý tiếp nhận của đối tượng công chúng đặc biệt này; khảo sát hoạt

động nghề nghiệp của những người tham gia vào quy trình tổ chức sản xuất các chương
trình truyền hình dành cho NVNONN; tổng kết, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
chương trình.

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số chương trình truyền hình dành cho
người Việt Nam ở nước ngoài do Ban Truyền hình Đối ngoại - Đài THVN trực tiếp sản
xuất hoặc khai thác từ các nguồn, được phát trên sóng VTV4; Quy trình tổ chức sản xuất
chương trình truyền hình dành cho NVNONN
.
- Phạm vi nghiên cứu là một số chương trình cơ bản mang tính đặc thù của VTV4,
gồm các chuyên mục : Việt Nam hôm nay; Việt Nam - Đất nước - Con người; Nhìn từ Hà
Nội; Con Lạc cháu Hồng; Gặp gỡ khán giả VTV4; Việt Nam qua con mắt người nước
ngoài; Dạy tiếng Việt; Bài hát theo yêu cầu. Thời gian khảo sát từ tháng 01 năm 2004 đến
hết tháng 06 năm 2005.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.

- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta; các kiến thức lý
luận báo chí, thống kê, xã hội học…
- Nghiên cứu văn kiện, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến
công tác báo chí, thông tin đối ngoại và NVNONN; điều tra xã hội học; khảo sát thực tiễn,
phỏng vấn, thống kê, tổng hợp, phân tích tài liệu. Trong đó phương pháp được sử dụng chủ
đạo là tổng hợp và phân tích tài liệu.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài.
- Làm rõ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của chương trình Truyền hình dành cho
NVNONN phát sóng trên VTV4 của Đài THVN trong hệ thống thông tin đối ngoại của
nước ta trong giai đoạn hiện nay
- Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng chất lượng cả về nội dung và hình thức thể
hiện của các chương trình truyền hình dành cho NVNONN trên VTV4 một cách tương đối

toàn diện, có hệ thống.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình truyền hình dành
cho đối tượng công chúng là NVNONN.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Rút ra những kinh nghiệm thực tiễn và một số vấn đề lý luận nhằm nâng cao hiểu biết
phục vụ cho công tác chuyên môn.
- Làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý trong việc hoạch định những chính sách và
xây dựng qui trình sản xuất phù hợp nhằm nâng cao chất lượng chương trình truyền hình
dành cho NVNONN.
- Làm tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp và cho sinh viên nghành báo chí và
những ai quan tâm đến loại hình báo chí truyền hình.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1

Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; vai trò, nhiệm vụ của Truyền
hình Việt Nam trong công tác thông tin, tuyên truyền đối với người Việt Nam ở
nước ngoài.

1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
về người Việt Nam ở nước ngoài.
1.1.1. Một số vấn đề về người Việt Nam ở nước ngoài.
1.1.1.1. Lịch sử hình thành cộng đồng NVNONN.
Quá trình hình thành cộng đồng NVNONN gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Thật khó có thể khẳng định chính xác mốc thời gian
và địa điểm những người Việt Nam đầu tiên ra nước ngoài sinh sống. Nhưng, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, từ xa xưa
đã có người Việt Nam ở nước ngoài. “ Một trong những cái mốc về thời điểm người

Việt Nam có mặt ở nước ngoài thuộc loại xưa mà lịch sử ngày nay còn ghi rõ là vào
đầu thế kỷ thứ XII, khi hoàng tử thứ hai con vua Lý Anh Tông là Lý Long Tường
sang Cao Ly tị nạn” [14, tr 19].
Có thể tìm thấy những dấu tích về người Việt Nam ở nước ngoài những giai
đoạn muộn hơn như ông Nguyễn An, một người Việt có tài đã được cất nhắc làm
quan dưới triều Minh của Trung Hoa vì có công xây dựng mới thành Bắc Kinh. Thế
kỷ XV đã có nhiều người Nhật đến Việt Nam buôn bán. Cũng chính người Nhật đã
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các hoạt động kinh tế ở
phố Hiến và Faifo (Hội An) giai đoạn đầu thế kỷ XVII. Theo quy luật của quan hệ
giao thương và di dân thì khi các thương nhân Nhật biết tìm đến Việt Nam làm ăn
tấp nập như vậy, tất sẽ có những người Việt Nam biết đến Nhật sinh sống. Giai
đoạn này chúa Nguyễn đã gả con gái mình là công chúa Ngọc Vạn cho một thương
gia Nhật là Araki Sotaro vào năm 1619. Với tên Nhật là Anio, công chúa Ngọc Vạn
đã trở thành người Việt Nam ở Nhật Bản từ thế kỷ thứ XVII.
Cùng với lịch sử truyền giáo của các nước phương Tây và việc xâm chiếm
Việt Nam của thực dân Pháp, thì địa bàn cư trú của NVNONN ngày càng được mở

rộng. Thế kỷ thứ XVIII, một số tín đồ Thiên chúa giáo đã di cư từ Việt Nam sang
Thái Lan. Giai đoạn cuối thế kỷ thứ XIX tới 1954, do chính sách tăng cường bóc lột
thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông dương và cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta, đã có một số lượng lớn người Vịêt Nam di cư ra nước ngoài. Địa bàn
cư trú của họ chủ yếu là các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia,
Thái Lan. Một số sang Pháp và hoặc các xứ thuộc địa của Pháp như Tahiti, Niu Di
Lân…
Cũng ở cuối thế kỷ XIX đặc biệt là đầu thế kỷ XX, số người Việt Nam ra nước
ngoài ngày càng tăng. Nhiều chí sĩ đã xuất dương ra nước ngoài hoạt động yêu
nước, hưởng ứng phong trào Đông du (1904 -1908). Nhà yêu nước Phan Bội Châu
cũng đã hoạt động tại Nhật Bản, Trung Hoa từ 1904 đến 1925. Tăng Bạt Hổ cũng
đã có gần 20 năm hoạt động ở Nhật, Trung Quốc, Thái Lan và Nga. Rồi tên tuổi của
các anh hùng liệt sĩ như Nguyễn Thượng Hiền, Phạm Hồng Thái cũng đã hi sinh

thân mình trên đất khách vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
ở các nước phương Tây, những năm đầu thế kỷ thứ XX cũng diễn ra nhiều hoạt
động sôi nổi của những người Việt Nam yêu nước. Có một số nhân sĩ mà tên tuổi của họ
đã trở thành niềm tự hào của NVNONN như Phan Chu Trinh (sống tại Pháp từ 1911 đến
1925); Phan Văn Trường ở Pháp từ đầu thế kỷ đến 1924; Nguyễn An Ninh ở Pháp từ
1917 đến 1925. Đặc biệt là nhà yêu nước Nguyễn Tất Thành. Năm 1911, từ một người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã bôn ba, sống và hoạt động cách mạng trên tất
cả các châu lục và trở thành nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt nam với tên gọi
Nguyễn ái Quốc và sau này là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Những năm tháng hoạt động ở nước
ngoài và ngay cả khi đã trở thành vị Chủ Tịch nước, Bác Hồ luôn luôn chú trọng tới công
tác vận động kiều bào hướng về cách mạng, hướng về Tổ quốc.
Từ năm 1954 đến năm 1975 là giai đoạn nước ta bước vào cuộc đấu tranh
chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Hoàn cảnh chiến tranh đã có tác động mạnh
mẽ đến việc di cư của người Việt Nam ra nước ngoài. Động cơ, mục đích ra nước
ngoài của người Việt giai đoạn này đa dạng hơn. Địa bàn người Việt đến định cư

giai đoạn này đã mở rộng hơn. Ngoài các nước trong khu vực, người Việt đã đến
các nước châu Âu, Mỹ, Canađa, ốtxtrâylia…
Đáng kể nhất là ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ
đầu đất nước thống nhất, do sự kích động của các thế lực thù địch và sự bao vây
cấm vận kinh tế của Mỹ dẫn đến đời sống kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn.
Giai đoạn này đã có hàng trăm nghìn người Việt Nam di tản ra nước ngoài. Chỉ
tính từ sau năm 1975 đến đầu những năm 1980 đã có khoảng hơn 1 triệu người Việt
Nam ra nước ngoài sinh sống, chủ yếu là sang Mỹ, Pháp, Canađa, và một số nước
tư bản khác. Ngoài số người ra nước ngoài có nguyên nhân từ sự thất bại của đế
quốc Mỹ và Ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam, còn phải kể đến số người di cư
do các sự kiện xung đột quân sự ở biên giới phía Bắc, những biến động ở
Campuchia và biên giới phía Tây Nam.
Cơ chế quan liêu, bao cấp trì trệ kéo dài đã dẫn tới việc nền kinh tế, xã hội
nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều

khó khăn. Bởi vậy, cho đến những năm đầu của thập niên 90 của thề kỷ XX, dòng
người Việt Nam đi ra nước ngoài vẫn tiếp tục. Số người này vượt biên bằng đường
thuỷ (thuyền nhân) đến Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Nhật
Bản. Cho đến tháng 3 năm 1995 “ vấn đề thuyền nhân Việt Nam vẫn đang thuộc
loại vấn đề nổi cộm trong việc điều chỉnh dân cư thế giới” [14, tr.26].
Thực hiện các chương trình nhân đạo, từ đầu năm 1980 đến nay, hàng trăm
ngàn người Việt Nam đã xuất cảnh sang định cư ở nước ngoài theo các chương
trình đoàn tụ gia đình (ODP), chương trình con lai Mỹ (AC) và chương trình cho số
sĩ quan chế độ cũ đã cải tạo (HO)…
Từ đầu những năm 1980, theo hiệp định hợp tác lao động giữa chính phủ Việt
Nam với chính phủ Liên Xô cũ và một số nước xã hội chủ nghiã (XHCN) Đông Âu,
đã có hàng vạn công dân Việt Nam sang lao động, học tập, công tác. Sau khi chế độ
XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phần lớn số người này ở lại làm ăn sinh
sống, kéo theo gia đình, đồng hương và những người lao động khác. Trong những
năm gần đây, mỗi năm có thêm hàng ngàn công dân Việt Nam sang công tác, du

lịch, tìm kiếm cơ hội làm ăn. Bởi vậy, hiện số người Việt Nam ở nước ngoài càng
tăng ở khu vực này.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, việc đi lại giữa trong và ngoài
nước của người Việt Nam với mục đích khác nhau như học tập, lao động, kinh
doanh, du lịch, đoàn tụ gia đình, hôn nhân ngày càng thuận tiện hơn. Như vậy có
nghĩa cả hiện tại và trong tương lai vẫn sẽ có thêm nhiều người Việt Nam ra sinh
sống ở nước ngoài.
Theo thống kê sơ bộ, cộng đồng NVNONN “hiện có khoảng 2,7 triệu người ở
gần 90 nước và vùng lãnh thổ” [46, tr.15]. Gần một nửa số người Việt Nam ở nước
ngoài hiện đang làm ăn sinh sống tại Mỹ; 98% tổng số NVNONN sống tại 21 nước
có đông người Việt Nam (trên 10.000 người), tập trung tại 5 khu vực chính. Đó là:
Bắc Mỹ; Tây-Bắc Âu; Nga và Đông Âu; Đông Dương- Đông Bắc á; châu úc. Hiện
có khoảng từ 70% kiều bào đã có quốc tịch nước sở tại. Bên cạnh đó, thời gian qua
hàng trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, đoàn tụ gia

đình, hình thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới như Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia…
So với các cộng đồng thiểu số khác, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là
cộng đồng trẻ, năng động. Phần đông bà con hiện ngày càng ổn định cuộc sống và
hoà nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, chính trị xã
hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau đến mối quan hệ giữa các nước đó
với Việt Nam. Điều đáng quý là dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, cộng đồng
luôn duy trì mối quan hệ gần gũi với quê hương, mong muốn đất nước phát triển và
hội nhập với quốc tế. Trừ có một bộ phận đồng bào chưa hiểu đúng về tình hình đất
nước nên còn có thái độ tiêu cực hoặc dè dặt, thậm chí một số ít người đi ngược lại
lợi ích chung của dân tộc.
Những số liệu trên đây cho chúng ta thấy tính chất đa dạng, phức tạp của quá
trình hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Điều kiện, hoàn cảnh
chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước trong từng giai đoạn đã tạo ra cho những
người Việt Nam đi ra nước ngoài có những động cơ, mục đích khác nhau. Qua
tổng hợp, phân tích, chúng tôi thấy: trên cơ sở nguồn gốc phức tạp của các nhóm di

cư đã hình thành nên cộng đồng NVNONNvới 2,7 triệu người sinh sống tại 90 quốc
gia trên khắp các châu lục, tập trung tại 21 nước thuộc 5 khu vực chính là Bắc Mỹ,
Tây- Bắc Âu; Nga và Đông Âu; Đông Dương - Đông Bắc á, Châu úc. Riêng ở Mỹ
hiện có tới một nửa trong tổng số kiều bào ở nước ngoài. Chính sự phức tạp trong
lịch sử hình thành đã làm nên tính đa dạng và những đặc thù của cộng đồng
NVNONN.
1.1.1.2. Báo chí và nhu cầu thông tin về tình hình đất nước của cộng đồng.
- Tình hình báo chí ở nước ngoài và những tác động tới cộng đồng.
Như đã đề cập ở phần lịch sử hình thành, do nguồn gốc di cư phức tạp nên
cộng đồng NVNONN có rất nhiều nét khác biệt về đời sống kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, sắc tộc, tôn giáo… Điều này được thể hiện rõ nét trong lĩnh vực báo
chí của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Theo số liệu và đánh giá của các cơ quan chức năng thì tình hình báo chí của

người Việt và báo chí nước ngoài tác động tới cộng đồng là hết sức lộn xộn, phức
tạp. Trên thế giới hiện có tới trên 400 báo, tạp chí; 82 nhà xuất bản để; có tới 49 đài
phát thanh, truyền hình có chương trình tiếng Việt hoặc chuyên mục bằng tiếng
nước ngoài đề cập tới Việt Nam với mục đích xuyên tạc tình hình trong nước, làm
xói mòn niềm tin cuả kiều bào với đất nước.Trong đó có một số đài tiêu biểu, có
công suất lớn như VOA (Hoa Kỳ); RFI (Pháp); BBC (Anh); Manila (Philippin)
RFA (Châu á tự do). Mới đây nhất, các thế lực thù địch đã đưa vào phát sóng 2 đài
phát thanh mới là đài Nhà nước Đề Ga và đài Vàng Pao để tăng cường cho các hoạt
động tuyên truyền chống phá ta.
Trong số 2,7 triệu người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, phần tử chống đối,
đi ngược lại với lợi ích dân tộc chỉ là một bộ phận rất nhỏ. Đa phần là những kẻ
trong chế độ cũ đã từng cầm súng chống lại nhân dân và ra đi sau sự sụp đổ của
chính quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ ngày 30/4/1975. Tuy đã nhiều năm sống lưu
vong nhưng chúng vẫn luôn ôm lòng hận thù, mang mặc cảm của kẻ thất bại và tìm
mọi cách chống phá Tổ quốc. Họ cấu kết với nhau, nhận sự tiếp tay của các thế lực
phản động quốc tế và đặc biệt các lực lượng chống đối này “tuy ít, nhưng họ nắm
giữ hầu hết các cơ quan ngôn luận và hệ thống truyền thông đại chúng của

NVNONN, đặc biệt là tại Bắc Mỹ, Tây Âu, ốtxtrâylia” [14, tr.157]. Theo thống kê,
ở ba nước này đã có tới 60% tổng số báo chí của những người Việt lưu vong chống
đối. Riêng ở Mỹ đã có tới gần 150 loại báo, tạp chí. Tại Pháp và ở hơn mười nước
thuộc Đông và Tây Âu, số lượng báo chí này chiếm 35% (Pháp có khoảng 35 loại,
Đức hơn 30 và ở Canađa là 20 loại). Có thể nói, chính số người này đã và đang ra
sức hoạt động chống phá Việt Nam một cách tuyệt vọng.
Qua khảo sát cho thấy, báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng của
các lực lượng chống đối đã tập trung vào mục tiêu kích động, phá hoại khối đoàn
kết toàn dân, gây hoang mang, dao động đối với cộng đồng NVNONN.
Có thể kể tên một số ấn phẩm báo chí, phương tiện truyền thông của các tổ chức
phản động lưu vong ở nước ngoài, tiêu biểu như tờ nguyệt san: Làng văn xuất bản ở
Tôrôntô, Canađa với chuyên mục Chuyển lửa về quê hương. Nhóm Hợp lưu nằm

trong tổ chức vận động dân chủ của Mỹ tác động tới Việt Nam có tạp chí Hợp lưu và
Đối thoại với chủ trương phân hoá, chia rẽ khối đại đoàn kết trong nước và trước hết
là giới trí thức, văn nghệ sĩ, người hoạt động tôn giáo. Tờ Tạp chí Việt Nam mới với
lời khẳng định là tiếng nói đối lập với Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam, kêu gọi
độc giả “hãy can đảm sử dụng quyền dân chủ, chống lại mọi sự trù dập, đàn áp để hỗ
trợ cho sự đổi mới, làm cho Việt Nam giàu đẹp mười lần hơn”. Kêu gọi các nhà lãnh
đạo Việt Nam “chấp nhận sự hiện diện của tiếng nói đối lập ngoài Đảng, để cùng
nhau xây dựng một nhà nước Việt Nam thật sự mới mẻ, giàu mạnh”. Cùng mục tiêu
chống cộng sản là các tờ nguyệt san Chứng nhân của Hội văn nghệ sĩ Việt Nam tự do
và tờ Kháng chiến của Mặt trận Quốc gia Thống nhất giải phóng Việt Nam do Hoàng
Cơ Minh cầm đầu. Rồi các tờ: Quê mẹ do nhóm của Võ Văn Ái ở Pháp… Nhiều tổ
chức phản động lưu vong ở các nước liên kết với nhau để hoạt động chống phá đất
nước thông qua báo chí. Tiêu biểu phải kể đến nhóm chống đối đất nước ở Hoa Kỳ
cùng một số người Việt Nam ở Nga lập nên cái gọi là đài: Tiếng nói tự do phát thanh
từ Mạc Tư Khoa. Rồi các đài phát thanh tiếng Việt như Regiona của tổ chức Phục
hưng Việt Nam; đài Diễn đàn dân chủ để tuyên truyền xuyên tạc Việt Nam và thực tế
đời sống của NVNONN.

Tuy nhiên, như đã đề cập, các phần tử chống đối chỉ là một nhóm nhỏ và càng
điên cuồng chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và khối đại đoàn kết toàn
dân, chúng càng bị cô lập, tiếng nói của chúng ngày càng trở nên lạc lõng trong
cộng đồng NVNONN.
Bên cạnh các tờ báo, chương trình phát thanh truyền hình của các lực lượng
phản động có nội dung độc hại còn có những tiếng nói yêu nước, gắn bó với Tổ
quốc. Nhiều tờ báo của các tổ chức xã hội, đoàn thể là diễn đàn, là nhịp cầu để
NVNONN hướng về đất nước. Tiêu biểu là ở Mátxcơva, nơi tập trung số lượng
người Việt đông đảo nhất so với các thành phố thuộc Liên xô và các nước Đông Âu
cũ. Đại sứ quán Việt Nam đã tổ chức xuất bản tạp chí và tuần tin Đất nước. Ngoài
việc thông tin tình hình phát triển kinh tế xã hội trong nước, tạp chí và tuần tin Đất
nước đã giới thiệu nhiều về tình hình của cộng đồng, dành nhiều trang giới thiệu

các sáng tác văn học nghệ thuật của các tác giả hiện đang sống và làm việc ở liên
bang Nga. Ngoài ra còn có tạp chí Người bạn đường, Thông tin và Thời đại…
Ngay ở tại một số nước có những tổ chức, những phần tử chống phá Tổ quốc
quyết liệt và dai dẳng nhất như ở Mỹ, Canađa và ốtxtrâylia vẫn có những tờ báo,
chương trình phát thanh, truyền hình chuyển tải những nội dung trung thực về tình
hình đất nước đến cộng đồng. ở Canađa, phong trào Việt kiều hướng về Tổ quốc với
tờ báo Tiền phong sau được đổi tên là Thời sự tiền phong rồi Đất việt và Đất mới. ở
Pháp có báo Đoàn kết của Hội người Việt Nam tại Pháp. ở ốtxtrâylia, cộng đồng
người Việt yêu nước vẫn luôn hướng về Tổ quốc, họ đã tổ chức nhiều hoạt động
văn hóa, văn nghệ nhằm nuôi dưỡng bản sắc văn hóa Việt Nam cho bà con xa xứ.
Tờ báo Đất nước người Việt như một tiếng nói tha thiết của cộng đồng hướng về
cội nguồn.
Có thể khẳng định rằng, thời gian qua cộng đồng NVNONN đã phải chịu một
áp lực thông tin không lành mạnh và thiếu khách quan trung thực của một bộ phận
người Việt phản động, lưu vong cấu kết với các thế lực thù địch của nước ngoài.
Điều đáng nói là thiểu số người này lại nắm giữ hầu hết các phương tiện thông tin
báo chí của cộng đồng ở các nước sở tại. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng các tờ
báo tiến bộ hướng về Tổ quốc của người Việt, báo chí thuộc các cơ quan ngoại

giao của ta vẫn chưa thật sự làm chủ và đáp ứng được nhu cầu về thông tin của
cộng đồng NVNONN. Bởi vậy tăng cường thông tin “chính thống” về tình hình mọi
mặt của đất nước đến cộng đồng NVNONN là một đòi hỏi cấp thiết được đặt ra.

-
Báo chí trong nước với việc đáp ứng nhu cầu thông tin của cộng
đồng
NVNONN.
Với thực trạng báo chí tại chỗ phức tạp, lộn xộn và chịu sự chi phối của các tổ
chức phản động lưu vong như đã trình bày ở trên, rõ ràng là 2,7 triệu NVNONN
trên khắp các châu lục có nhu cầu được lắng nghe những thông tin “chính thống” về

mọi mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội từ trong nước. Trao đổi trực tiếp với
nhiều tầng lớp kiều bào về thăm quê hương; qua những lá thư công chúng gửi về
VTV4 và qua phiếu trưng cầu ý kiến khán giả mà chúng tôi thực hiện đã nói lên
nguyện vọng thiết tha ấy của cộng đồng.
Do đặc điểm đồng bào di cư bao gồm đủ các thành phần, lứa tuổi, trình độ, nên vấn
đề hoà nhập với cuộc sống ở đất nước sở tại là rất khó khăn. Ngôn ngữ là một rào cản lớn
với một bộ phận NVNONN. Nhiều người đã định cư ở nước ngoài tới vài chục năm,
nhưng khả năng ngôn ngữ vẫn rất hạn chế. “Đến thăm các gia đình người Việt ngụ cư ở
Cahramatta, nhiều người thú nhận: họ xem chương trình tivi ốtxtrâylia chủ yếu xem hình
ảnh” [14, tr.138]. Bởi vậy, nhu cầu tiếp nhận thông tin về thế giới, về Tổ quốc bằng tiếng
Việt trong cộng đồng là rất lớn. Đặc biệt là những nguồn thông tin qua báo chí chính thức
của nước nhà.
Trước nguyện vọng và đòi hỏi đáp ứng về thông tin của cộng đồng, thời gian qua,
báo chí trong nước đã làm được những gì? Có thoả mãn được nhu cầu thông tin của cộng
đồng người Việt Nam xa Tổ quốc hay không?
Từ nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới công tác về
NVNONN, trong đó có hoạt động thông tin báo chí. Ngày càng có nhiều cơ quan báo
chí tham gia vào công tác thông tin cho kiều bào. Đài Truyền hình Việt Nam có
chương trình VTV4 dành riêng cho cộng đồng NVNONN phủ sóng đến các khu vực
châu Á, châu Âu, Bắc và Trung Phi, Bắc Mỹ và Tây Bắc ốtxtrâylia. THVN đã hợp tác
với Jump TV Canađa đưa VTV4 lên mạng Internet và đang nghiên cứu khả năng đưa

truyền hình qua Internet hoặc hệ thống truyền hình cáp ở một số nuớc. Đài tiếng nói
Việt nam có chương trình phát thanh “Dành cho đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc”.
Hiện cả nước có 21 tờ báo điện tử và hàng chục website chuyên nghành trên
mạng Internet cung cấp thông tin cho quốc tế và trong nước. Trong đó, một số trang
web và báo điện tử có chuyên mục dành riêng cho kiều bào như báo Nhân dân, Đài
Tiếng nói Việt Nam, Báo Lao động, TTXVN, Đại đoàn kết, Thanh niên, Vietnam
net… đưa nhiều tin bài về các vấn đề có liên quan đến cộng đồng NVNONN. Công ty
VTC của bộ Bưu chính - Viễn thông đang chuẩn bị đưa VTV1, 2, 3 lên mạng Internet

tốc độ cao. Một số tờ báo in, đài phát thanh, truyền hình đã có chuyên mục về cộng
đồng NVNONN. Báo Nhân dân hàng ngày và cuối tuần, trang quốc tế Nhân dân chủ
nhật có chuyên mục Con Lạc cháu Hồng và Việt nam trong lòng thế giới.
ủy ban về NVNONN thuộc Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các Bộ, Ban, Ngành liên
quan chủ động cung cấp thông tin, ấn phẩm văn hoá gồm sách, báo, phim, ảnh cho kiều
bào; cử đoàn nghệ thuật đi nước ngoài biểu diễn phục vụ hoặc kết hợp phục vụ đồng bào.
Tạp chí Quê hương và Quê hương điện tử của ủy ban là tạp chí duy nhất ở trong nước
dành riêng cho kiều bào đã có nhiều cải tiến về nội dung và hình thức thể hiện nhằm đáp
ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của cộng đồng. Số lần độc giả truy cập vào trang điện tử của
Quê hương ngày càng tăng, hiện đã lên tới khoảng trên 300.000 lượt người/tháng.
Thời gian qua, báo chí trong nước đã có nhiều cố gắng trong việc đáp
ứng nhu cầu thông tin về tình hình đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống, xã hội. Ngày càng có nhiều báo, tạp chí, website điện tử tham gia tích
cực vào hoạt động này. Đài tiếng nói Việt Nam có chương trình “Dành cho
đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc” dành riêng cho cộng đồng. Đài Truyền
hình Việt Nam đã có chương trình VTV4 làm nhiệm vụ thông tin phục vụ cộng
đồng NVNONN. Nhờ những nỗ lực này mà báo chí trong nước đã đáp ứng một
phần nhu cầu thông tin phong phú đa dạng của cộng đồng về tình hình trong
nước và quốc tế. Thông tin báo chí đã góp phần giúp cộng đồng hiểu đúng
tình hình mọi mặt trong nước, các chủ trương chính sách, đặc biệt là chính
sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước; động viên kiều bào vượt qua
khó khăn, giữ gìn bản sắc văn hóa đặc biệt là duy trì và bảo tồn tiếng Việt;

tạo hiểu biết, lòng tin giữa cộng đồng ở trong và ngoài nước; vận động bà
con hướng về Tổ quốc, góp phần xây dựng, quê hương đất nước.
Tuy nhiên, do khó khăn nhiều mặt: “công tác thông tin, văn hoá chỉ mới
đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận kiều bào, về cơ bản ta vẫn chưa phá
được sự thao túng khống chế của các thế lực phản động trên mặt trận dư luận
đối với cộng đồng” [6, tr.70]. Nhiều cơ quan báo chí chưa nắm được tình
hình của cộng đồng, các đặc điểm tâm lý của đối tượng nghe đài, đọc báo,

xem truyền hình. Điều này đòi hỏi các cơ quan truyền thông đại chúng trong
nước phải chú trọng hơn nữa đến việc nắm bắt đặc điểm công chúng; chủ
động đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, hình thức báo chí để thực hiện
tốt hơn nhu cầu thông tin của cộng đồng trong tình hình mới

.
1.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác thông tin,
tuyên truyền đối với NVNONN.
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác thông tin cho
NVNONN.
Thông tin đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước nhằm làm cho các nước, người nước ngoài, NVNONN hiểu về đất
nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương chính sách và thành tựu đổi mới
của ta. Trên cơ sở đó, chúng ta tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng
góp của cộng đồng NVNONN cho sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc.
Xác định tầm quan trọng của lĩnh vực này, Đảng, Nhà nước ta đã ra nhiều chỉ
thị, nghị quyết nhằm khẳng định vai trò, nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại.
Cụ thể: chỉ thị 11-CT/TW ngày 13/6/1992 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về
“Đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”; Thông báo số 188-TB/TW
ngày 29/12/1998 của Ban chấp hành Trung ương thông báo ý kiến Thường vụ Bộ
Chính trị về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới.
Để thực hiện có hiệu quả chủ trương này, Trung ương Đảng đã ra Quyết định
số 16-QĐ/TW về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại và ban

hành Quy chế “phối hợp chỉ đạo hoạt động công tác thông tin đối ngoại”. Ngày
26/4/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị về “tăng cường quản lý và đẩy mạnh
công tác thông tin đối ngoại ”.
Công tác thông tin đối ngoại trên các phương tiện thông tin đại chúng được
xác định là một bộ phận cấu thành quan trọng của thông tin đối ngoại, trong các văn
bản, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước đều có nội dung chỉ đạo kịp thời,

chặt chẽ các cơ quan báo chí tham gia vào họat động tuyên truyền có hiệu quả về
các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước cũng như tình hình phát triển kinh tế
- xã hội chung của đất nước.
Về bản chất, NVNONN là đối tượng của thông tin đối ngoại nên họ có đầy đủ
các đặc điểm của bộ phận đối tượng là người nước ngoài. Chính bởi vậy, công tác
thông tin cho NVNONN cũng được Đảng và Nhà nước ta xác định là một nhiệm vụ
quan trọng của công tác thông tin đối ngoại, đặc biệt là của các cơ quan báo chí.
NVNONN là một cộng đồng rất đông đảo, có nguồn gốc đa dạng và phong
phú. Họ ra nước ngoài vì nhiều lý do và bằng nhiều con đường, thời điểm khác
nhau, sống ở nhiều nước khác nhau. Nhưng họ có điểm chung, đa phần ai cũng
hướng về Tổ quốc, nơi có tổ tiên, dòng tộc, quê hương, gia đình, bè bạn. Là người
xa xứ, họ có nhu cầu thông tin về tình hình mọi mặt của đất nước bởi từ trong cội
nguồn, họ vẫn là người Việt. NVNONN lại có rất đông đảo dâu rể, bà con, bạn bè là
người nước ngoài. Đây là một kênh quan trọng và hữu hiệu để quảng bá hình ảnh
Việt Nam ra thế giới. Vì vậy, khi làm cho họ hiểu đúng tình hình đất nước, họ sẽ tự
tin hơn, mạnh dạn hơn trong quan hệ với nước sở tại và trở thành lực lượng thông
tin đối ngoại ngay nơi cư trú, nơi mà chúng ta vì những hạn chế nguồn lực rất khó
khăn để vươn tới được.
Trên quan điểm nhận thức ấy, Nghị quyết 36 đã chỉ đạo, công tác thông tin cho
cộng đồng phải thể hiện và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc đã được nêu rõ
trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt trong nghị quyết Hội nghị Trung ương 7,
khoá IX. Theo đó, cơ sở của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, hướng
tới mục tiêu chung là giữ vững độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Xoá bỏ mặc cảm, định

kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi
mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
Có thể khẳng định: Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm đến công tác thông tin
đối ngoại và cho cộng đồng NVNONN. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là:
- Thông tin, tuyên truyền phải thể hiện đầy đủ các quan điểm lớn của Đảng và

Nhà nước coi NVNONN là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng
đồng dân tộc Việt Nam; phổ biến rộng rãi các chính sách chung cũng như các
chính sách liên quan đến NVNONN.
- Tôn vinh lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tình cảm quê hương cội nguồn của
người Việt Nam ở xa Tổ quốc, phát huy tinh thần đoàn kết đùm bọc lẫn nhau, phản
ánh đầy đủ tâm tư tình cảm của NVNONN.
- Giới thiệu mọi mặt đời sống của đất nước, truyền thống lịch sử văn hoá, văn
minh của Việt Nam, quảng bá du lịch, quảng bá tiếng Việt, giáo dục luật pháp, tăng
cường tinh thần hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và Thế giới.
1.1.2.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với Truyền hình
Việt Nam.
Trong các loại hình báo chí của xã hội hiện đại, truyền hình là một trong
những phương tiện truyền tải thông tin hữu hiệu nhất. Nó đặc biệt phát huy thế
mạnh của mình trong công tác thông tin đối ngoại bởi khả năng vượt qua mọi rào
cản của biên giới, lãnh thổ của quốc gia, phủ sóng toàn cầu.
Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò, vị trí của truyền hình trong công tác
thông tin tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền đối ngoại. Chỉ thị số 11-CT/TW
ngày 13/6/1992 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định lực lượng và
phương thức thông tin đối ngoại đã chỉ rõ, cần phải: “Nâng cao chất lượng chương
trình Truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam, mở rộng việc trao đổi chương
trình và hợp tác với Đài Truyền hình các nước”. Thông báo số 188- TB/TW ngày
29/12/1998 của Bộ Chính trị về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới
cũng xác định: “Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng hệ thống thông tấn báo chí,
xuất bản quốc gia như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài

Tiếng nói Việt Nam, một số báo và nhà xuất bản lớn để làm nòng cốt cho công tác
thông tin đối ngoại ”.
Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối
với NVNONN cũng đề cập tới vai trò nhiệm vụ của truyền hình. Cụ thể hơn, trong
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 36, cùng với các cơ

quan chức năng, Đài Truyền hình Việt Nam có nhiệm vụ: “ Đánh giá, cải tiến hoàn
thiện và nâng cao chất lượng chương trình truyền hình, truyền thanh dành cho đồng
bào ta ở nước ngoài phù hợp với tâm lý, tình cảm của đồng bào, có biện pháp hiệu
quả đưa chương trình đến đông đảo cộng đồng người Việt Nam tại các nước ” [45,
tr.164].
Ngoài ra, Nghị quyết 36 và chương trình hành động của Chính phủ còn xác
định: Đài truyền hình Việt Nam có nhiệm vụ tham gia triển khai đề án Hỗ trợ việc
dạy và học tiếng Việt cho NVNONN.
Kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy, thông tin đối ngoại nói chung và
thông tin tuyên truyền tới cộng đồng NVNONN là một nhiệm vụ quan trọng đặt ra
đối với THVN trong giai đoạn hiện nay. Đảng, Nhà nước ta đánh giá cao vai trò, vị
trí của THVN trong công tác này, thường xuyên quan tâm, ban hành những chỉ thị,
nghị quyết nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh, ưu thế của truyền hình trong
thời đại toàn cầu hoá, cạnh tranh thông tin gay gắt. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để
phát huy có hiệu quả thế mạnh của Truyền hình, thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin về
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, những thành tựu phát triển của công cuộc đổi
mới đất nước đến với cộng đồng NVNONN; tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh
chống những quan điểm sai trái của những thế lực thù địch. Đó vừa là nhiệm vụ
vừa là mục tiêu của THVN mà cụ thể là VTV4 để xứng đáng với vai trò của một
chương trình Truyền hình quốc gia trong lĩnh vực thông tin đối ngoại, xứng đáng
với niềm tin tưởng của Đảng, Nhà nước và sự mong đợi của công chúng.
1.2. Vai trò và nhiệm vụ của Truyền hình Việt Nam trong công tác thông
tin, tuyên truyền đối ngoại.
1.2.1. VTV4 - Chương trình truyền hình dành cho cộng đồng NVNONN.
- Một số khái niệm cơ bản về Báo chí và Truyền hình.

Hiện nay, có nhiều cách hiểu về báo chí nhưng đều có sự thống nhất ở một số
tiêu chí: “Báo chí được dùng để chỉ các kênh truyền thông đại chúng chuyên phản
ánh các sự kiện và vấn đề thời sự, xuất bản định kỳ đều đặn. Do đó, báo chí nói
chung được hiểu bao gồm báo chí in ấn, báo phát thanh, báo chí truyền hình và các

loại báo chí điện tử khác” [29, tr.51]. “ Báo chí là một hình thái ý thức -xã hội, lấy
hiện thực khách quan làm đối tượng để phản ánh “[11, tr.7]. “Báo chí là một hiện
tượng đa nghĩa, phức tạp “ [36, tr.13].
Khái niệm về loại hình báo chí truyền hình về thực chất là sự mở rộng và phát
triển khái niệm báo chí. Theo từ điển tiếng Việt, Truyền hình được hiểu là: “truyền
hình ảnh, thường đồng thời có cả âm thanh đi xa bằng radio hoặc bằng đường giây.
Truyền hình tại chỗ trận bóng đá. Vô tuyến truyền hình. Đài Truyền hình [ 51,
tr.1017]. Chương trình: “ Toàn bộ nội dung những dự kiến hoạt động theo một
trình tự nhất định và trong một thời gian nhất định, nêu một cách vắn tắt” [51,
tr.186].
Từ những khái niệm nêu trên về báo chí và truyền hình, chúng tôi đưa ra nhận
xét khái quát về truyền hình như sau: Truyền hình là một kênh truyền thông, một
loại hình báo chí điện tử hiện đại mà đặc trưng cơ bản của nó là sử dụng hình ảnh
và âm thanh một cách trung thực, sinh động thông qua kỹ thuật truyền dẫn phát
sóng để chuyển tải thông điệp đến công chúng bằng cách tác động đến thị giác và
thính giác của đối tượng tiếp nhận.
Do những thế mạnh được tạo bởi sự phát triển của khoa học, công nghệ, tính
trực tiếp, trung thực, mới mẻ và sinh động của thông tin nên trong xã hội hiện đại,
truyền hình được đông đảo công chúng đón nhận và trở thành một loại hình báo chí
có ưu thế trong hệ thống truyền thông đại chúng.
1.2.1.1. Khái quát sự ra đời của chương trình VTV4.
Ngày 7 tháng 9 năm 1970, ngày phát sóng Chương trình Truyền hình đầu tiên
đã trở thành ngày truyền thống của Truyền hình Việt Nam. Trong suốt 35 năm qua,
thông tin đối ngoại luôn có một vai trò và vị trí đặc biệt trong hoạt động của Đài
THVN. Mốc lịch sử đầu tiên của hoạt động thông tin đối ngoại là ngày 4/1/1968,
Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị đã ký quyết định thành lập xưởng phim vô tuyến

truyền hình. Từ xưởng phim này, nhiều tin tức, phóng sự phim tài liệu 16 ly đã
được sản xuất và gửi phát sóng trên các kênh truyền hình của một số nước. Những
thông tin này đã góp phần giúp cho thế giới hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh chính

nghĩa của nhân dân ta, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ
trên thế giới.
Năm 1980, Liên Xô giúp ta xây dựng đài vệ tinh mặt đất Hoa Sen. Đây là điều
kiện về kỹ thuật để Đài THVN tham gia vào việc trao đổi chương trình giữa các
thành viên tổ chức phát thanh, truyền hình á- Âu (OIRT) mỗi tuần một lần trong
khuôn khổ chương trình Intervision - D (IVN- D). Khi đất nước thống nhất, vào
cuối thập kỷ 80, Đài THVN đã tăng cường trao đổi tin tức, chương trình với các
hãng truyền hình nước ngoài. Trong đó có một số hãng truyền hình có uy tín và
phạm vi ảnh hưởng toàn cầu như CNN (Mỹ), Roitơ (Anh), CFI (Pháp)…Cũng trong
giai đoạn này, Đài THVN đã thành lập Phòng trao đổi tin tức chương trình thuộc
Ban biên tập thời sự.
Chính sách mở cửa, đổi mới, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới là sức hút để ngày càng có nhiều người nước ngoài
đến học tập, làm ăn, sinh sống ở Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu thông tin cho đối
tượng này, vào nửa đầu thập niên 90, Đài THVN đã thành lập thêm hai phòng biên
tập Tiếng Anh và Tiếng Pháp thuộc Ban biên tập các vấn đề quốc tế.
Những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều
biến động mạnh mẽ. Trong nước, từ bao cấp nước ta chuyển sang thực hiện cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo đà
cho quan hệ quốc tế của nước ta không ngừng phát triển. Thực tế đã đặt ra cho công
tác thông tin đối ngoại nói chung và của THVN nói riêng những đòi hỏi mới.
Nhiệm vụ của THVN lúc này là đưa hình ảnh Việt Nam đổi mới, phát triển, muốn
làm bạn với các dân tộc trong cộng đồng quốc tế đến với thế giới và NVNONN.
Đồng thời, lên tiếng đấu tranh bác bỏ và giải toả những dư luận sai trái, thiếu thiện
chí của các thế lực thù địch. Trước những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn như vậy,
kênh VTV4 ra đời: “ Để phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và khán
giả nước ngoài, từ 1/1/1995, Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng chương trình đối

ngoại (VTV4) phủ sóng qua vệ tinh Staionnar - 13 của hệ thống Intersputnik. Các
khu vực có thể thu được là Châu Âu, châu Á, Trung Cận Đông. Thời gian phát sóng

hàng ngày từ 21 giờ 45 đến 22 giờ 45 (giờ Hà Nội)” [18 tr.115].
Sau một thời gian phát thử nghiệm, đến tháng 2/1998, VTV4 đã đã phủ sóng
tại Châu á và Châu Âu 2 giờ/ngày với băng tần C. Năm 1999, với băng tần C và
KU, VTV4 nâng thời lượng lên 4 giờ/ngày. Năm 2000 sử dụng băng tần KU phủ
sóng tại Bắc Mỹ và Caribê 4 giờ/ngày. Từ năm 2002 chương trình VTV4 nâng thời
lượng phát sóng lên 8 giờ/ngày. Qua các vệ tinh MEASAT1, THAICOM3,
TELSTAR5, HOTBIRD3.
Thực tế đã khẳng định hiệu quả của VTV4 trong công tác thông tin đối ngoại
và vận động cộng đồng NVNONN. Trên cơ sở đó, ngày 7/2/2002, Thủ tướng Chính
Phủ đã ký quyết định số 29/2002/QĐ-TTg chính thức thành lập Ban Truyền hình
Đối ngoại trực thuộc Đài THVN. Quyết định 233/QĐ - THVN của Tổng giám đốc
Đài THVN đã quy định: Ban Truyền hình Đối ngoại có chức năng sản xuất, khai
thác các chương trình Truyền hình để phát trên kênh đối ngoại đáp ứng yêu cầu
thông tin, nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần của cộng đồng NVNONN và bạn bè
quốc tế - những người quan tâm đến Việt Nam.
Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng việc phát sóng chương trình truyền hình
quốc gia bằng tiếng Việt đến nơi kiều bào ta sinh sống là một tín hiệu vui mừng đối
với cộng đồng. Các chương trình của VTV4 dẫu còn sơ khai cũng đã lay thức trái
tim của nhiều người Việt Nam xa xứ, hướng họ về với Tổ quốc. Được xem chương
trình truyền hình của Tổ quốc, nhiều kiều bào đã gửi thư bày tỏ tình cảm và ý kiến
của mình về chương trình. Đây là nguồn động viên to lớn với những người làm
truyền hình VTV4. Thư của Nguyễn Hồng Nhung gửi về từ Bu-đa-pét, Hung ga ri là
một trong rất nhiều những lá thư như thế: “ Tôi có cảm giác những chương trình
truyền hình phát đi từ đất nước của tôi giống như một người mẹ nghèo, cứ phải chắt
chiu, dành dụm, nhịn ăn từng hạt cơm, miếng rau để chia đều cho lũ con đông háu
đói. Có lẽ mẹ Việt Nam hiểu chúng tôi, lũ con xa nhà mong mỏi từng hình ảnh, từng
kỷ niệm, từng phút sống của quê hương - nên cố gắng mỗi tối cho chúng tôi được
xem, được sống lại những cảm giác được ở nhà mình, được nghe tiếng người mình và

được cảm thấy mình là dân Việt, tuy còn nghèo mà sức sống vẫn mãnh liệt xiết

bao!”.
Hiện nay, chương trình VTV4 đã phát sóng 24/24 giờ mỗi ngày; phủ sóng hầu
hết các khu vực có kiều bào ta đang sinh sống ở châu Á, châu Âu, châu Phi, khu
vực Bắc Mỹ - Canađa và một phần Tây bắc ốtxtrâylia. Ngoài việc phát sóng, VTV4
còn cung cấp nhiều chương trình truyền hình gới thiệu về Việt Nam cho các hãng
truyền hình Scholar và CNN của Mỹ, Jump TV của Canađa, KBS của Hàn Quốc,
NHK của Nhật Bản, Truyền hình Nga…
Việc cho ra đời chương trình VTV4 phát sóng ra nước ngoài đã khẳng định sự
quan tâm và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác thông
tin đối ngoại, đặc biệt là cung cấp thông tin một cách đầy đủ, trung thực, nhanh nhạy
về tình hình của đất nước đến với cộng đồng NVNONN. Đồng thời, VTV4 cũng
thường xuyên ghi nhận, phản ánh tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của kiều bào trên
khắp thế giới làm cơ sở cho Đảng, Nhà nước ta có những quyết sách phù hợp trong
công tác vận động tập hợp kiều bào. VTV4 còn đóng góp tích cực vào cuộc đấu
tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động đang nhằm vào
chống phá Việt Nam.
1.2.1.2. Khán giả của VTV4 - đối tượng công chúng đặc biệt.
Là kênh truyền hình đối ngoại nên đối tượng của chương trình VTV4 được xác
định: Thứ nhất là người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài làm ăn, sinh
sống, học tập và đến du lịch ở Việt Nam) với các chương trình bản tin bằng tiếng
Anh, tiếng Pháp. Đối tượng thứ hai là cộng đồng NVNONN với các chương trình
tiếng Việt, các chương trình có phụ đề. Đây là đối tượng công chúng có số lượng
đông đảo nhất mà VTV4 cần hướng tới. Ông Vũ Văn Hiến, Tổng Giám đốc Đài
THVN cũng đã khẳng định: “Trong tình hình hiện nay, kênh truyền hình VTV4 chủ
yếu hướng tới cộng đồng kiều bào ta ở nước ngoài” [7, tr. 75].
“Cây có cội, nước có nguồn”. Thực tế là, trong số hơn 2,7 triệu NVNONN,
trừ một số ít người cố tình quay lưng lại với Tổ quốc còn đại đa số đồng bào dù ở
chân trời góc bể nào vẫn luôn hướng về quê hương với nỗi niềm đau đáu: “Chiều
chiều ra đứng ngõ sau, Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Ca dao). Bởi, trong


sâu thẳm tâm hồn của mỗi người con xa xứ vẫn là nỗi nhớ thương da diết từng con
đường, góc phố, cây đa, bến nước, mái đình, những câu hò, điệu lý. Và, VTV4 là
nhịp cầu giúp những người Việt Nam xa xứ gần gũi, gắn bó hơn với quê hương xứ
sở của mình.
Tìm hiểu cộng đồng NVNONN, chúng ta thấy nổi lên một số đặc điểm. So với
cộng đồng kiều dân khác, cộng đồng NVNONN là một cộng đồng tương đối trẻ,
mới phát triển rõ nét từ những năm cuối thập kỷ 70. Và cũng từ những năm này,
cộng đồng phát triển theo xu hướng định cư lâu dài và hội nhập dần vào xã hội nơi
cư trú. Hiện, theo thống kê sơ bộ có tới 80% trong tổng số NVNONN sống tại các
nước công nghiệp phát triển. Các nước tập trung đông người Việt Nam nhất là: Mỹ
1,3 triệu người; Pháp 300 ngàn người; ốtxtrâylia 250 ngàn người, Canađa 200 ngàn
người, Đức 100 ngàn người.
Sinh sống ở các nước công nghiệp phát triển nhưng do hoàn cảnh và điều kiện
di cư nên cộng đồng NVNONN hiện rất đa dạng về tầng lớp xã hội, nghề nghiệp,
tôn giáo, dân tộc, thế hệ và các xu hướng chính trị khác nhau.
Do là một cộng đồng trẻ, nên tiềm lực kinh tế của cộng đồng người Việt so với
các cộng đồng kiều dân các trên thế giới không phải là lớn. Theo báo chí nước
ngoài, thu nhập hàng năm của kiều bào ước tính khoảng từ 25-30 tỷ USD. Trong
cộng đồng không có nhà tài phiệt về tài chính và ngân hàng, người có số vốn lớn
không nhiều, đa số ở mức vừa và nhỏ, chủ yếu tích luỹ qua quá trình làm công hoặc
kinh doanh nhỏ nhưng cần mẫn và tiết kiệm.
Nếu tiềm năng về kinh tế của cộng đồng NVNONN còn khiêm tốn, thì tiềm
năng về chất xám của kiều bào lại là rất đáng kể. Theo ước tính có tới 300 ngàn
người trong cộng đồng có trình độ từ đại học trở lên hoặc lao động có tay nghề cao.
Giáo sư Trần Văn Giàu cũng đã đánh giá vấn đề này dưới góc độ lịch sử khi ông so
sánh kiều bào ta với người Trung Quốc. Ông cho rằng:
Nếu người Trung Quốc từ xa xưa đã chú trọng đến kinh tế “ Phi thương bất
phú” thì “NgườiViệt Nam coi thường thương nhân - con buôn. “Sĩ - nông -
công- thương” mới là quan niệm của người Việt Nam. Người Việt Nam
không có sở trường thương mại, coi khinh buôn bán, trọng trí tuệ. Đi ra nước


ngoài, sống ở đâu cũng học rất dữ, học rất giỏi. Tất nhiên cũng có người làm
thuê, làm mướn nhưng nói chung ai cũng muốn làm trí thức, làm “sĩ”. Cho
nên, thế mạnh của NVNONN trước hết là về chất xám chứ chưa phải là kinh
tế [14, tr.50].
Cũng theo khảo sát của các cơ quan chức năng, đội ngũ trí thức NVNONN
được đào tạo khá chính quy và được tiếp cận, cập nhật với những thành tựu mới
nhất của khoa học công nghệ cũng như khoa học xã hội, quản lý và kinh doanh.
Chỉ số học vấn đại học và trên đại học của người Việt Nam tại các nước phát triển ở
mức trung bình của người dân sở tại.
ở nhiều nước, người Việt Nam sống tập trung thành những cộng đồng lớn như
ở Mỹ, Pháp, ốtxtrâylia, Canađa, Lào, Thái lan, Campuchia. Đây là những môi
trường thuận lợi để NVNONN tổ chức sinh hoạt cộng đồng như các lễ hội truyền
thống, duy trì ngôn ngữ tiếng Việt nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt nam.
Trên cơ sở những đặc điểm hình thành của cộng đồng, chúng tôi xếp
NVNONN, đối tượng công chúng chủ yếu của kênh truyền hình VTV4 thành những
nhóm sau:
Nhóm đối tượng thứ nhất là: những người Việt Nam sống xa Tổ quốc trước năm
1954. Đây là số người ra đi trong hoàn cảnh lịch sử của đất nước có chiến tranh hoặc vì
lý do hoàn cảnh kinh tế của từng cá nhân, gia đình. Số người này sống chủ yếu ở các
nước: Thái lan, Lào, Campuchia, Pháp và đã hình thành ba, bốn thế hệ gồm ông-bà,
cha-mẹ, con và cháu sinh sống ở nước ngoài. Đa phần thế hệ con, cháu ít nghe nói
được tiếng Việt, thậm chí là không biết tiếng Việt. Nhóm đối tượng thứ hai là những
người Việt Nam ra nước ngoài sau những biến động lịch sử năm 1975 ở miền Nam. Số
người này bao gồm diện “di tản” mà thành phần là những người gắn bó với Mỹ - Ngụy
và một bộ phận “vượt biên” rời bỏ đất nước khi nền kinh tế xã hội Việt Nam khó khăn
nhất (1978-1982) và một bộ phận ra nước ngoài định cư theo các chương trình đoàn tụ
gia đình (H.O) Nhóm cộng đồng người Việt thứ ba hình thành ở nước ngoài là hàng
chục vạn người đi lao động, học tập tại Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu. Sau khi hệ
thống XHCN ở các nước này sụp đổ, họ vẫn tiếp tục ở lại làm ăn, sinh sống. Nhóm thứ


tư là hàng chục ngàn lao động xuất khẩu của Việt Nam ở nhiều nước mà hiện nay chủ
yếu là ở các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia…
Do những nguyên nhân, hoàn cảnh ra đi khác nhau này đã tạo nên một cộng đồng
NVNONN phong phú, đa dạng về rất nhiều phương diện. Đây là điểm khác biệt khá
điển hình so với nhiều cộng đồng kiều dân khác. Trong số những người Việt Nam định
cư ở nước ngoài có: “Không ít người vẫn còn mặc cảm với quá khứ “vượt biên”, thành
kiến nặng nề hoặc thiếu hiểu biết về chế độ mới, một ít còn mang trong mình tư tưởng
hận thù cách mạng” [5, tr.21].
Đây chính là đặc điểm lớn nhất cần phải được nghiên cứu về cộng đồng với tính
cách là đối tượng công chúng đặc biệt của VTV4. Bởi chính đặc điểm này đã tạo nên
thái độ và tâm lý tiếp nhận chương trình của từng nhóm công chúng. Điều này được thể
hiện: những kiều bào có mong muốn được trở về đóng góp công sức xây dựng quê
hương, họ luôn quan tâm theo dõi tìm hiểu thông tin về Tổ quốc qua chương trình
truyền hình VTV4. Bên cạnh đó, cũng còn không ít người do mặc cảm quá khứ nên
chưa lần nào về nước và vẫn giữ trong mình hình ảnh một đất nước Việt Nam nghèo
khó hoặc trì trệ, ảm đạm. Thêm vào đó là sự tác động của báo chí và các đài phát thanh,
truyền hình có quan điểm chống đối đã bóp méo, xuyên tạc thông tin về đất nước nên
bộ phận kiều bào này luôn có thái độ ngờ vực với thông tin mà chương trình đưa ra.
Tuy nhiên, đại đa số NVNONN dẫu sống xa Tổ quốc nhưng vẫn luôn tự hào, tự
tôn dân tộc. Những năm gần đây, thái độ chính trị trong cộng đồng đối với đất nước đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Số những người thờ ơ, quay lưng lại với đất nước đã
giảm dần. Hằng năm, lượng kiều bào về thăm quê hương ngày một đông hơn. Họ
không khỏi ngạc nhiên và vui mừng trước sự đổi thay mạnh mẽ của đất nước. Qua họ,
ngày càng có nhiều NVNONN hoan nghênh, công khai bày tỏ lòng tin tưởng vào công
cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và mong muốn đóng góp sức mình vào
sự nghiệp chung của cả dân tộc.
Trong số hàng chục vạn kiều bào về nước hôm nay, nhiều người từng một thời có
lập trường quan điểm không đồng nhất, thậm chí từng đứng bên kia chiến tuyến chống
lại lợi ích dân tộc. Sự trở về của họ là bằng chứng thuyết phục đối với cộng đồng

về tinh thần hoà giải, hoà hợp dân tộc, khép lại quá khứ hướng tới tương lai của

×