Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

LUẬN VĂN: Tính khoa học và trách nhiệm xã hội trong hoạch định chính sách công tại Đà Nẵng potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.01 KB, 125 trang )













LUẬN VĂN:

Tính khoa học và trách nhiệm xã
hội trong hoạch định chính sách
công tại Đà Nẵng








Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hay cản trở sự phát triển
của một quốc gia. Nó là công cụ thiết yếu để nhà nước lãnh đạo điều hành đất nước,
vận hành đời sống xã hội theo mục tiêu đặt ra. Các chính sách vì thế liên quan đến vận
mệnh, đời sống của hầu hết mọi người trong xã hội. Do đó, ngay từ khi hình thành giai


cấp và đấu tranh giai cấp, các đảng phái, chủ thể chính trị đã rất chú trọng việc ra các
chính sách nhằm hiện thực hóa lợi ích của giai cấp đảng phái mình. Chính sách trở
thành một phương thức lãnh đạo rất được chú trọng ở mọi chế độ xã hội. Do vậy, ngay
từ thời Hy Lạp cổ đại, các vấn đề về chính sách đã được quan tâm nghiên cứu. Dưới
hình thức này hoặc hình thức khác nó xuất hiện cùng với sự ra đời và tồn tại của các
nhà hoạch định chính sách.
Ngày nay, các phương thức lãnh đạo điều hành hiện đại và tinh vi hơn nhiều
song không thể thay thế việc ban hành, thực thi các chính sách. Và sự đầu tư nghiên
cứu về chính sách công ngày càng thịnh hành, đặc biệt ở các nước phát triển- nơi có
trình độ công nghệ chính trị cao. Không thể phủ nhận sự đóng góp của khoa học chính
sách công vào công cuộc xây dựng, cải cách nền hành chính công ở các nước này với
hy vọng tiến đến một nền hành chính phục vụ công nghệ hoạch định chính sách công
hiện đại. Bên cạnh đó, các nước chậm và đang phát triển cũng tìm kiếm nguyên nhân,
cơ hội trong việc kiện toàn quy trình hoạch định chính sách.
Trong xu thế đó, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở các nước có Đảng
Cộng sản cầm quyền, yêu cầu tối quan trọng và bức bách hiện nay là đổi mới cách
thức hoạch định ban hành thực thi và giám sát chất lượng các quyết sách chính trị, cụ
thể là các chính sách nhà nước trên mọi lĩnh vực. Tại Việt Nam, quá trình này đã diễn
ra bắt đầu từ Đại hội VI- Đại hội đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay.
Nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới,
nhịêm vụ mới” phải đẩy mạnh nhiều việc: Xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách
nền hành chính, tư pháp, Trong đó có cải tạo, nâng cao chất lượng hiệu quả chính
sách công và quá trình hoạch định. Theo đánh giá của một số chuyên gia nghiên cứu
trên thế giới về lĩnh vực này, cho rằng:



“Việt Nam đang đứng trước một số quyết định khó khăn do mới bắt đầu điều
chỉnh để thích ứng với một thế giới mới. Các tiêu chí xếp hạng quốc tế cho thấy Việt
Nam chưa thực sự cố gắng để tạo dựng một môi trường chính sách thuận lợi cho tăng

trưởng kinh tế. Do đó, mặc dù có các chỉ số tăng trưởng GDP và xuất khẩu cao, nhưng
Việt Nam vẫn có một số tồn tại: các dự án đầu tư công lựa chọn kém, hệ thống tài
chính yếu, năng lực quản lý và kỹ thuật ở nhiều công ty thấp và mất cân đối giữa các
vùng, và những vấn đề này có thể kìm hãm sự phát triển bền vững của Việt Nam”
[59].
Thực tế các khảo sát về hoạch định và thực thi chính sách công Việt Nam cũng
cho thấy, bên cạnh các thành tựu và tiến bộ to lớn trong việc hoạch định và triển khai
chính sách đã góp phần nâng cao thế và lực của nước ta trong thời gian vừa qua, việc
ban hành văn bản triển khai chính sách công, đặc biệt ở địa phương, còn nhiều khiếm
khuyết, thể hiện nổi bật ở tính chưa ổn định, thiếu nhất quán, thiếu đồng bộ. Trong các
khảo sát gần đây về các địa phương, có thể thấy số lượng các văn bản pháp lý trái với
chủ trương, đường lối, luật pháp của Trung ương, sự tuỳ tiện, tính kinh nghiệm chủ
nghĩa, tính cục bộ địa phương, vẫn chưa khắc phục triệt để, Có nhiều chính sách gây
lãng phí lớn, hiệu quả kinh tế - xã hội thấp, làm hạn chế hoặc cản trở việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, thậm chí đi ngược lại lợi ích
của nhân dân cho nên khó đi vào cuộc sống. Không ít trường hợp cách thức, biện
pháp, chủ trương mà chính sách đề cập đã lạc hậu, không thể tồn tại ngay sau khi mới
ban hành. Do đó, dưới góc độ thực thi quyền lực chính trị các chính sách đó không có
hiệu lực.
Lý giải và góp phần tháo gỡ những hạn chế nêu trên, từ lý luận đến thực tiễn đã
có nhiều hướng tiếp cận, đưa ra các biện pháp ở góc độ kinh tế, hành chính, xã hội,
nhằm cải thiện tình hình. Song với cách tiếp cận chính trị học hiện đại, các nghiên cứu
chính sách công đáng chú ý gần đây cho thấy cần phải xem xét vấn đề này ở một khía
cạnh rất cơ bản khác. Đó là xem xét quá trình hoạch định và triển khai chính sách công
với tư cách là một quá trình chính trị. Trong quá trình này, hai vấn đề nổi bật được các
nghiên cứu đề cập đến nhiều là thái độ tôn trọng tính khoa học và trách nhiệm xã hội
của chủ thể hoạch định chính sách công.




Vậy thái độ tôn trọng tính khoa học và nhận thức trách nhiệm xã hội trong hoạch
định chính sách công là gì, có vai trò ra sao đối với việc nâng cao chất lượng hiệu quả
chính sách trong đời sống chính trị - xã hội đương đại?
Trong các nghiên cứu về quá trình chính sách công, các nhà khoa học đã chỉ ra
hai khía cạnh tương đối độc lập: khía cạnh kỹ thuật (có tính khách quan, khoa học) và
khía cạnh chính trị (có tính chủ quan, phản ánh quan điểm chính trị, hệ giá trị ) của
các giai đoạn trong chu trình chính sách. Một mặt, thái độ tôn trọng tính khách quan,
khoa học sẽ cho phép các nhà hoạch định chính sách vượt khỏi cách nhìn nhận phiến
diện, kinh nghiệm chủ nghĩa, xác định rõ hơn các chi phí và lợi ích, cũng như các khó
khăn trong việc đưa chính sách vào cuộc sống, từ đó có được quyết tâm chính trị,
kiên trì mục tiêu chính sách cũng như nâng cao tính ổn định, hiệu quả của chúng. Mặt
khác, chính sách - do bản thân chúng đã thể hiện sự ưu tiên chính trị (việc dùng nguồn
lực xã hội để giải quyết vấn đề gì trong vô số các vấn đề của cuộc sống) phát sinh hàng
ngày không thể không chịu ảnh hưởng của những người nắm giữ quyền lực, mục tiêu
và hệ giá trị của họ, nhận thức về trách nhiệm (với tư cách là vừa là công dân vừa là người
được nhân dân ủy quyền - tức trách nhiệm xã hội) của họ.
Hai khía cạnh trên có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau một cách rõ ràng
để tạo nên sự ổn định, tính hiệu quả và tính hợp lòng dân của mọi chính sách. Quá
trình chính sách công cũng có thể được xem xét phân tích từ hai phương diện tương
ứng.
Như vậy, hai phương diện trên vừa là yêu cầu khách quan (tính khoa học) vừa là
những ràng buộc mang tính pháp lý, lương tri, tình cảm, đạo đức (trách nhiệm xã hội)
của chủ thể biểu hiện qua nhận thức, thái độ và hành vi chính sách. Nó bao quát những
vấn đề về chuyên môn và phẩm chất chính trị của chủ thể; quyết định chất lượng, hiệu
quả của bất cứ chính sách nào.
Việc xác định được nguyên nhân chủ yếu của các yếu kém chính sách - do thái
độ không tôn trọng khoa học, tùy tiện hay do thiếu trách nhiệm, vị kỷ sẽ đem lại các
gợi ý quan trọng cho việc hoàn thiện quá trình chính sách. Từ đó có cách nhìn nhận, có
hướng phân tích, đánh giá chính sách công một cách sát thực hơn, nhằm đề ra giải
pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng hiệu quả chính sách công.




Hơn nữa thái độ tôn trọng tính khoa học và tinh thần trách nhiệm xã hội vì dân vì
nước là những giá trị phải được hun đúc, xây dựng trong thời gian dài, bằng nhiều biện
pháp cả về giáo dục và bằng các quy định pháp lý.
Tất cả những vấn đề bao gồm cả ưu điểm và hạn chế trong hoạch định chính sách
công nói trên cũng thể hiện rõ nét ở Đà Nẵng. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác có ảnh
hưởng quan trọng đến hiệu quả chính sách công, song do phạm vi của một luận văn,
tôi chỉ khảo sát chủ yếu hai phương diện này trong hoạch định chính sách công tại
Thành phố Đà Nẵng.
Với lý do đó chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Tính khoa học và trách nhiệm
xã hội trong hoạch định chính sách công tại Đà Nẵng”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề chính sách và nghiên cứu chính sách dưới các góc độ khác nhau đã được
bàn đến nhiều trên thế giới, các quốc gia phát triển, đặc biệt tập trung ở các chuyên
ngành: kinh tế, hành chính, xã hội. ở Việt Nam, đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ. Các
công trình nghiên cứu nhỏ, rải rác trên các chuyên san, chuyên luận chỉ dừng ở mức độ
khái quát, mô tả khái niệm, đặc điểm chính sách công. Nếu có điều kiện hơn, các
nghiên cứu thường đi sâu vào lĩnh vực phân tích chính sách. Tài liệu tham khảo về
chính sách công dịch ra tiếng Việt còn rất ít ỏi. Công trình “Chính sách công ở Hoa Kỳ
giai đoạn 1935- 2001” bao quát khá toàn diện về quá trình chính sách công với tư cách
một nội dung của hành chính học. Ngoài ra Viện Nghiên cứu và Đào tạo về quản lý,
trong công trình “Hành chính công và quản lý hiệu quả của Chính phủ", phần chính
sách công đã được trình bày khá chi tiết về khái niệm, tính chất, nội dung, quy trình và
các nhân tố ảnh hưởng đến quy trình chính sách. Tuy nhiên, chính sách công và quy
trình hoạch định được xem xét với tư cách một nội dung của hành chính công. Tương
tự cách trình bày đó, “Hoạch định và phân tích chính sách công” đã đề cập một cách
toàn diện về chính sách công trong tính hệ thống của nó. ở các công trình này, chính
sách công và quy trình hoạch định, thực thi với tư cách là đối tượng của khoa học hành

chính. Tuy nhiên nhìn chung, dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể nói chính sách
công và những vấn đề cơ bản của nó về mặt lý thuyết đã được giải quyết. Và như vậy,
phần nào cũng gián tiếp đề cập vấn đề tính khoa học (yêu cầu các bước của quy trình)



cũng như trách nhiệm xã hội (những tiêu chí của một chính sách tốt) của chủ thể ban
hành.
Nghiên cứu chính sách công với tư cách là đối tượng của khoa học chính trị. Từ
năm 1991 có tài liệu “Tìm hiểu về khoa học chính sách công”, gần nhất là năm 2002,
có Đề tài Khoa học cấp Bộ của Viện Chính trị học- Học viện CTGQ Hồ Chí Minh đã
bàn về “Chính sách công và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách
công ở Việt Nam”. Đặc biệt là giáo trình Chính sách công do Viện Khoa học Chính trị
thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh sắp ấn hành được biên soạn trên cơ sở những
nghiên cứu mới nhất về chính sách công, gắn với việc hoàn thiện khoa học chính sách
công và những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan ở Việt Nam hiện nay. Đây là
công trình nghiên cứu có tính chất tổng hợp bao quát toàn bộ các vấn đề cơ bản về
chính sách công. Dù không có điều kịên đi sâu vào vấn đề thái độ coi trọng tính khoa
học và trách nhiệm xã hội của chủ thể hoạch định song trong phần đánh giá thực trạng,
công trình đã đứng trên hai phương diện đó để phân tích, mổ xẻ vấn đề.
Tóm lại, hầu hết các công trình nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay chưa đi sâu
phân tích thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân hạn chế trong hoạch định chính sách
công ở phương diện thiếu tôn trọng tính khoa học và trách nhiệm xã hội; chưa đề xuất
cơ chế để khắc phục, nâng cao chất lượng chính sách công Việt Nam hiện nay.
Song, do yêu cầu của thực tiễn đổi mới và hội nhập mạnh mẽ sâu rộng, từ mấy
năm trở lại đây nhận thức về khoa học chính sách công vẫn tiếp tục thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học Việt Nam. Đã có nhiều công trình, dự án nghiên cứu tiêu
biểu có thể thấy là:
- Dự án “Đào tạo và nghiên cứu chính sách công” của Viện Khoa học chính trị,
trong đó có khảo sát ý kiến các cán bộ hoạch định chính sách ở địa phương về chất

lượng chính sách.
- Tập hợp các báo cáo phát triển Việt Nam 2005 chuyên đề “Quản lý và điều
hành” của các nhà tài trợ cho Hội nghị nhóm tư vấn các Nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội
ngày 1 và 2 tháng 12, năm 2004 nêu những vấn đề mang tính thực tiễn về chính sách
công trong sự vận động của nó tại Việt Nam ở khía cạnh tầm nhìn và quan hệ đối tác.



- Kỷ yếu hội thảo “Nghiên cứu và đào tạo chính sách công ở Việt Nam của Viện
Ngân hàng phát triển châu á” đi vào những vấn đề rất cơ bản của khoa học và thực
tiễn chính sách công. Các bài viết chủ yếu đi sâu vào lý luận và thực tiễn về công tác
nghiên cứu, đào tạo và mối liên kết giữa chúng với hoạch định chính sách tại Việt
Nam có sự so sánh liên hệ với các nước. ở một nghĩa chung nhất, tài liệu này đề cập
trực diện những vấn đề về tính khoa học, trách nhiệm của chủ thể.
Đáng chú ý là kết quả thu được từ một cuộc khảo sát gần đây ở ba miền Bắc-
Trung-Nam về hoạch định chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cho thấy:
- Các ý kiến trả lời đều cho rằng chất lượng hoạch định chính sách công thấp.
- Cơ quan nghiên cứu (Viện, Trường đại học, ) có vai trò rất nhỏ bé trong hoạch
định chính sách công.
- Các thể chế hiện còn yếu, đặc biệt là thể chế giám sát và đánh giá chính sách
công.
- Lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ có những tác động tiêu cực lên mục tiêu của
chính sách.
Ngoài ra, khi phân tích các chủ thể hoạch định và triển khai chính sách công, các
nhà nghiên cứu theo trường phái lý thuyết “Lựa chọn công cộng” cũng cho rằng: Các
chủ thể hoạch định chính sách công có thể không có tinh thần trách nhiệm, họ thường
có khuynh hướng tối đa hóa các ích lợi của bản thân hay của nhóm, do vậy phải thông
qua sự ràng buộc bằng các qui định, văn bản, nâng cao tính minh bạch, tạo ra các cơ
chế giám sát rộng rãi và ít tốn kém để buộc họ phải làm tốt hơn. Hơn thế nữa, một
khi nhìn nhận đây là hiện thực khách quan, chúng ta hoàn toàn có thể thiết kế qui trình

chính sách tốt hơn để biến các động cơ cá nhân đó phục vụ mục đích chung một cách
hữu hiệu.
Như vậy, dù chỉ ra được tầm quan trọng tiềm ẩn của chúng đối với chính sách
công và hoạch định chính sách công, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu
cụ thể về vấn đề thái độ tôn trọng tính khoa học và nhận thức xã hội trong các quá
trình chính sách: về biểu hiện, mức độ, và tác động của chúng, đặc biệt là gắn với địa
phương, là cấp chính quyền còn ít được chú ý và đã thể hiện rất nhiều yếu kém trầm
trọng cần được khắc phục.



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu thực trạng về thái độ tôn trọng tính khoa học và nhận thức xã hội
trong hoạch định chính sách công ở địa phương. Từ đó xem xét nguyên nhân của các
khiếm khuyết để đánh giá mặt thành công, hạn chế của chính sách công và hoạch định
chính sách công ở địa phương nhằm đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy trình,
nâng cao hiệu quả tác động của chính sách công ở Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách công và các yếu tố ảnh hưởng quy
trình hoạch định chính sách công ở địa phương.
- Khảo sát chu trình hoạch định một số chính sách công ở Đà Nẵng, từ đó có cơ
sở để đề xuất các phương hướng giải pháp khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tinh thần khoa học, nhận thức trách nhiệm
xã hội của chủ thể hoạch định chính sách công.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi: Chính sách công của Nhà nước ở Đà Nẵng từ năm 1998 - 2006 qua
khảo sát chính sách giải tỏa đất đai đền bù.
Đối tượng: Thái độ tôn trọng tính khoa học và nhận thức trách nhiệm xã hội của
chủ thể hoạch định chính sách công ở thành phố Đà Nẵng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Lý luận: Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý thuyết về
khoa học chính sách công, lý luận văn hoá chính trị.
Thực tiễn: Quá trình thực hiện chính sách công của Đảng và Nhà nước ta ở Đà
Nẵng
Ngoài phương pháp luận của CNDVBC và CNDVLS, đề tài sử dụng các phương
pháp cụ thể: Phân tích, tổng hợp, khảo sát văn bản kết hợp quan sát thực tiễn, điều tra
qua bảng hỏi và phỏng vấn sâu,
6. Đóng góp khoa học của luận văn



Lần đầu tiên luận chứng ở quy mô luận văn thạc sĩ một vấn đề cụ thể về chính
sách công gắn với thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách công và hoàn
thiện quy trình chính sách công.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, tìm hiểu
chính sách công ở địa phương, bổ trợ cho các nhà hoạch định chính sách công ở địa
phương những hiểu biết nhất định về chính sách công và quy trình ban hành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
có 3 chương, 8 tiết.




Chương 1
Một số vấn đề lý luận về vai trò của tính khoa học và tinh thần trách nhiệm xã
hội trong hoạch định chính sách công


1.1. Chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công
1.1.1. Chính sách công
Là thuật ngữ ra đời khá muộn, gắn liền với sự thay đổi của bối cảnh chính trị thế
giới. Khoa học chính sách công có cách tiếp cận bắt đầu từ các thể chế, cơ cấu tổ chức
nhà nước, thái độ và hành vi ứng xử của tổ chức và cá nhân (khác với triết học chính
trị), xem đó là những nhân tố chủ yếu khi nghiên cứu sự tác động của chính trị (chính
sách) tới đời sống kinh tế - xã hội. Từ đó đã ra đời hàng loạt cách tiếp cận mới, đặt cơ
sở nền tảng thúc đẩy nghiên cứu chính sách công. Các nghiên cứu tập trung vào những
hành vi ứng xử của các nhà lãnh đạo, khía cạnh tâm lý của quần chúng, nhà lãnh đạo
cũng như các cử tri, khía cạnh bản chất dân tộc và tính toàn cầu, trong đời sống chính
trị - xã hội. Trong đó, đặc biệt dành trọng tâm nghiên cứu cơ sở khoa học của quy trình
ban hành các chính sách công.
Thực tế, từ đầu thế kỷ XX trở lại đây, chính sách của nhà nước có ảnh hưởng vô
cùng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở tất cả các quốc gia. Đối với các nước
XHCN, Đảng Cộng sản cầm quyền, chính sách là công cụ chủ yếu và trực tiếp để nhà
nước điều hành các mối quan hệ trong nền kinh tế như: quan hệ lợi ích giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, giữa nhà nước với nhân dân, Trong quan hệ quốc tế, vấn đề
chính sách cũng luôn thu hút sự chú ý của các đối tác. Do vậy, đã có những cuộc điều
tra nghiên cứu đo được mức độ quan ngại của các nhà doanh nghiệp thuộc các quốc
gia khác nhau trên thế giới về những thay đổi đột ngột của chính sách vĩ mô ở các
quốc gia khác. Kết quả điều tra của W.B cho thấy hiện nay hầu hết trong số họ sống
trong mối lo không dứt về sự thay đổi không đoán trước được của chính sách bản địa
sẽ kéo theo sự đổ vỡ trong kinh doanh, làm giảm sút đầu tư, hạn chế tăng trưởng và
giảm lợi nhuận của các dự án phát triển.
Tại Việt Nam, trong quá trình đổi mới, các nghiên cứu chính sách công có vai trò
hữu ích, quan trọng trong việc định hướng chiến lược, xác định các vấn đề, thu thập



thông tin và xây dựng luận cứ khoa học để hỗ trợ quá trình hoạch định chính sách.

Nhu cầu về nghiên cứu chính sách công vì thế ngày càng quan trọng. Các chính sách
cũng trở nên phức tạp hơn do mở rộng đối tượng tác động, mang tính liên ngành, liên
vùng, yêu cầu cao về khả năng dự báo, khả năng cạnh tranh. Nhận thức về tầm quan
trọng, tính khoa học, lý luận của chính sách công vì thế là tiêu chí đầu tiên cần chú ý.
Thực tế cũng cho thấy dù có chủ trương đường lối đúng nhưng việc cụ thể hóa
bằng chính sách mắc phải hạn chế hoặc chính sách không hiệu quả có khi gây tác hại
không kém chủ trương đường lối sai lầm. Từ đó cho thấy trong bối cảnh hịên nay cần
phải có những nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế - xã hội, chính trị, môi trường mang
tính khoa học làm căn cứ cho quá trình xây dựng chính sách, chiến lược. Hơn nữa điều
đó phù hợp với xu thế phân quyền, trao quyền cho chính quyền địa phương, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, từng người dân để họ đồng thời tham gia vào thị
trường. Do đó, các chính sách phải tính đến tác động, phản ứng của nhiều đối tượng
khác nhau trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Cần nhận thức đúng tầm quan trọng của
sự phối hợp lực lượng nghiên cứu của các Viện, trường, tổ chức phi chính phủ, đoàn
thể quần chúng, các tổ chức quốc tế với các Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách
trong hoạt động nghiên cứu nhằm tham mưu tư vấn cho Chính phủ trong việc hoạch
định, ban hành. Cho nên khoa học về chính sách công đang là tâm điểm thu hút sự chú
ý của giới nghiên cứu chính trị đương đại trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Về mặt định nghĩa, chính sách công là vấn đề luôn gây nhiều tranh cãi. Bản thân
chính sách công liên quan đến hầu hết mọi người nên càng có rất nhiều cách hiểu về
nó xuất phát từ ý đồ tiếp cận chính sách công của người nghiên cứu. Theo kết quả
nghiên cứu, được trình bày trong tài liệu về Khoa học chính sách công của Viện Chính
trị học thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh sắp được hoàn tất và phát hành, hiện đang
có sự phân loại định nghĩa chính sách công theo các nhóm như:
Với tư cách như là sản phẩm có mục đích của nhà nước, chính sách công được
xem là “tất cả những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” (Thomas Dye). Hoặc
ở góc độ cụ thể song có xu hướng khái quát, có định nghĩa như sau: “ Chính sách công
là toàn bộ các hoạt động của nhà nước, đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến
cuộc sống của mọi công dân” (B.Guy Peters). Hay chính sách công được khẳng định




với tư cách một quá trình hành động, một cách ứng xử của chủ thể trước thực tại khách
quan: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một
hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” (J.Anderson). Dù
diễn đạt khác đi song tinh thần chung của các định nghĩa vẫn xoay quanh hai đặc điểm
quan trọng của chính sách công là: tính hành động và tính mục đích ở cấp độ cộng
đồng.
ở một số định nghĩa xem chính sách công như một tập hợp các bước giải quyết
những vấn đề công cộng, chính sách công là một quá trình gồm năm giai đoạn: cảm
nhận tình huống có vấn đề, xác định vấn đề, hình thành các giải pháp, xem xét các
khía cạnh của các giải pháp, chọn một giải pháp rồi thực hiện (John Dewey). Hay:
Chính sách công là một quá trình ra quyết định có tính sáng tạo bao gồm các bước:
tranh luận, đưa ra các giải pháp, lựa chọn, áp dụng - thực thi và kết thúc như Harold
Lasswell sau này đã định nghĩa.
Một cách định nghĩa khác dựa trên các khái niệm cơ bản (đầu vào, chuyển và xử
lí thông tin, đầu ra) của lí thuyết hệ thống: “Chính sách công là những quyết định quan
trọng nhất của xã hội, là những hành động có tính chức năng dựa trên sự đồng thuận
hoặc phê chuẩn của toàn hệ thống, theo đó, chính sách công là một quá trình có tính hệ
thống diễn ra theo sáu giai đoạn: khởi xướng, xem xét, lựa chọn, thực thi, đánh giá và
kết thúc” (Garry Brewer và Peter deLeon).
Ngoài ra, mang khuynh hướng chính trị rõ rệt, mức độ khái quát cao hơn, chính
sách công được cắt nghĩa như là một quá trình chính trị mà vấn đề then chốt là sự tự
đấu tranh vượt lên khẳng định chân giá trị của các ý thức hệ, các tư tưởng của chủ thể.
Với cái nhìn thiết thực của kinh tế học thì chính sách công không có gì khác hơn là sự
can thiệp của nhà nước nhằm sửa chữa những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
(lãng phí nguồn lực, thiếu hiệu quả, độc quyền, bất bình đẳng, các vấn đề an sinh- xã
hội, an ninh, môi trường, quốc phòng, quan hệ đối ngoại) mà tự nó thị trường không
thể khắc phục. Đây chính là cơ sở lí luận cho phương pháp phân tích chính sách công
xuất phát từ góc độ Chi phí - Lợi ích. Tiếp nối các tư tưởng kinh điển, Edward M.

Gramlich năm 1981, cho rằng chính sách công là toàn bộ các chương trình của nhà



nước (Phân bổ các nguồn lực xã hội, Phân phối và ổn định) nhằm hai mục tiêu căn
bản: cung cấp hàng hoá công cộng và cải thiện sự bất bình đẳng.
Khác hoàn toàn với các cách định nghĩa chính sách công nói trên, hướng tiếp cận
nghiên cứu chính sách công của lý thuyết Lựa chọn công cộng (Public Choice School)
đã gây sự chú ý của giới khoa học chính trị trên thế giới và gần đây là ở các nước đang
phát triển khi nó hoài nghi chính khả năng can thiệp của nhà nước, hoài nghi cả tính
duy lí và công bằng của chính sách công. Điều các tác giả này quan tâm nhất không
phải là định nghĩa mà là việc đưa ra các giải pháp cho các vấn đề chính sách. Vì thế
nhận thức của họ về chính sách công rất khác. Họ cho rằng: “Trong tính thực tiễn của
nó, chính sách công chỉ là sự phản ánh nghèo nàn tinh thần và lợi ích công cộng, vì nó
đã bị khúc xạ và bóp méo bởi những lợi ích cá nhân và cục bộ của các nhóm có thẩm
quyền và ảnh hưởng trong bộ máy hoạch định chính sách”. Họ đề cao giá trị thực tiễn
(cái thực sự là) của chính sách công và không cố gắng định nghĩa nó là cái gì. Cũng
như các nhà kinh tế học, giới khoa học chính trị thuộc trường phái Lựa chọn công
cộng phản đối kịch liệt những cách tiếp cận với các giả định có tính lí tưởng và chuẩn
mực đạo đức không thực tế về các chủ thể hoạch định và triển khai chính sách công.
Họ đòi hỏi phải nhìn nhận những nhà hoạch định đó như những người bình thường,
chứ không phải là các ông thánh, với cách thiên hướng về lợi ích cá nhân và các động
cơ tối đa hóa lợi ích đó. Từ đó, họ nhấn mạnh một thực tế là con người dù ở vị trí nào
đều có khuynh hướng vị kỷ và do vậy, nếu không nhìn thẳng vào sự thật này, các
chính sách công “phục vụ các mục tiêu cộng đồng chung” sẽ dễ trở thành ảo tưởng và
bị lợi dụng cho các mục đích cá nhân hay nhóm cục bộ. Nói cách khác, để vươn lên
tầm khoa học, các nghiên cứu chính sách cần nhìn nhận tính vị kỷ, động cơ tối đa hóa
lợi ích cá nhân như những dữ kiện thực tế, cho trước. Chỉ có như vậy, mới có thể đối
phó chính xác với chúng cả bằng việc thiết kế bộ máy, qui trình chính sách, đánh giá
tác động, khả năng thực thi

Như vậy, quá trình xem xét các định nghĩa, các hướng tiếp cận nói trên về chính
sách công cho thấy về nhận thức luận, dù có nhấn mạnh mặt này mặt khác nhưng đều
khẳng định bản chất xã hội - nhà nước của chính sách công.



ở Việt Nam hiện nay, quan niệm về chính sách công nhìn chung chưa có sự nhất
trí về các tính chất, tiêu chí giúp phân biệt chính sách với đường lối, chiến lược, cũng
như khó có thể phân định được chính sách của Đảng với chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên, thực tế điều hành đời sống xã hội ở Việt Nam cho thấy có sự tách biệt chức
năng lãnh đạo (của Đảng) với chức năng quản lý (của Nhà nước), trong đó chính sách
công ngày càng được coi là việc cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, đường lối,
cương lĩnh, chiến lược- các định hướng chính sách của Đảng thành chính sách của Nhà
nước.
Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam qui định vị trí lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với đất nước, với xã hội. Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính
trị Việt Nam. Do đó, chính sách công có thể được hiểu với nghĩa rất rộng là hệ thống
các quan điểm, các quy định thể hiện một thái độ nhất quán, lâu dài của Đảng, Nhà
nước, mà thông qua đó Đảng, Nhà nước hướng dẫn, định hướng, quản lý các hoạt
động xã hội nhằm đạt đến mục tiêu xác định. Ngoài ra, theo tinh thần đó, chính sách
còn thể hiện dưới dạng phi văn bản, ví dụ những chỉ thị, mệnh lệnh bằng lời của các
quan chức có thẩm quyền. Rất nhiều các chỉ thị, nghị quyết, của Đảng, dù không có
tính pháp lý (tức do cơ quan Nhà nước ban hành) vẫn có giá trị mệnh lệnh và do vậy
nó cũng có vai trò như chính sách công. Mặc dù thực tế là vậy, song không thể đánh
đồng Đảng với Nhà nước. Giữa chúng vẫn có sự khác nhau về đặc tính pháp lý, về
phương thức thực thi quyền lực, nên trong khái niệm chính sách hiểu theo nghĩa rộng
như trên không bao chứa khái niệm chính sách công (của Nhà nước), cũng như của các
tổ chức phi nhà nước khác. Tuy vậy, thực tiễn quá trình chính sách ở Việt Nam cho
thấy: Với tư cách là một hình thức thực thi quyền lực chính trị, chính sách công không
thể tách rời khỏi hệ thống chính trị - khuôn khổ chung để thi hành các quyết định

chính trị. Do đặc điểm nói trên mà các nghiên cứu chính sách nhà nước ở Việt Nam
phải tính đến các chính sách của Đảng. Vì thế thông thường nói đến chính sách công
bao gồm các chính sách của Nhà nước, còn các chính sách của Đảng được hiểu là chủ
trương đường lối của Đảng.
Khái niệm: Theo nghĩa chung nhất, chính sách là những hành động ứng xử của
chủ thể tác động tới các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm



đạt mục tiêu nhất định. Do đó, thực thi quá trình chính sách chính là thực thi quyền lực
nhà nước của chủ thể. Bởi trên hết, chính sách công là chương trình hành động hướng
đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng. Nó chính là cái để khẳng
định tính chính đáng của quyền lực nhà nước. ở tầm vĩ mô, có chính sách quốc gia và
ở phạm vi hẹp hơn có chính sách địa phương. Trong đó, địa phương có quyền quyết
định những chính sách thuộc thẩm quyền của mình để phát huy tiềm năng địa phương
và giải quyết các vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội khác có tính đặc thù của mình.
Theo Từ điển chính quyền và chính trị Hoa Kỳ: “Chính sách (policy) là bản
tuyên bố các mục đích chung có thể được chuyển thành kế hoạch hay chương trình có
thể nêu rõ những mục tiêu cần đạt được” [5, tr.687].
Theo giáo trình Học viện HCQG: “Chính sách công là những hành động ứng xử
của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng
nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [13, tr.24]. Khái niệm này
vừa bao hàm các đặc trưng: Chính sách công là do nhà nước ban hành để tác động đến
các đối tượng thuộc cộng đồng một cách ổn định; vừa thể hiện bản chất của chính sách
là công cụ định hướng của nhà nước cho mọi hành vi xã hội đối với các quá trình phát
triển. Tuy nhiên, trong các nền kinh tế thị trường, xuất phát từ sự cần thiết phối hợp
giữa nhà nước với thị trường mà Paul samuelson cho rằng: “chính sách còn là sự thỏa
hiệp của chính phủ đối với nền kinh tế ngay cả khi không ban hành chính sách”. Hoặc
xuất phát từ ý chí của nhà nước trong hoạt động quản lý xã hội mà James E. Anderson
cho rằng: “Chính sách công là những hành động làm hay không nên làm do Nhà nước

quyết định lựa chọn”[8, tr.122]. Quan niệm như vậy về chính sách từ những năm 60-
70 đã bộc lộ rõ: chính sách là sự lựa chọn hành động của nhà nước trong những điều
kiện hoàn cảnh nhất định để đạt được mục tiêu. Do quá nhấn mạnh vai trò của các chủ
thể có quyền lực (thực tế đôi khi diễn ra đúng như vậy) mà đã có quan niệm cực đoan
cho rằng chính sách công là những quyết định ngẫu nhiên, đột xuất của Chính phủ
(Hoa Kỳ). Nó không được giới nghiên cứu và xã hội chấp nhận.
Luận điểm được đặt trọng tâm khi nói về chính sách công là ở chỗ:
- Hướng tới phục vụ số đông trong xã hội dù là trực tiếp hay gián tiếp chứ không
thể phục vụ một cá nhân.



- Là kết quả hành động nhà nước hướng tới chứ không phải là những dự kiến, lời
nói không đi đôi với việc làm, không đi vào cuộc sống.
Theo TS. Ngô Huy Đức: “Chính sách quốc gia (chính sách công) là tất cả những
quyết định và hành động của Chính phủ (ở mọi cấp) có ảnh hưởng đến công chúng”[16,
tr.34]. Theo TS. Lê Minh Quân, TS. Nguyễn Hữu Đổng: “Chính sách với nghĩa chung nhất
là tổng thể các quan điểm, các quy định, các biện pháp, các thủ thuật mà các chủ thể lãnh
đạo quản lý (Đảng, Nhà nước, tổ chức) tác động lên đối tượng (khách thể) quản lý nhằm đạt
đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Trong đó, quan điểm là
nguyên tắc thể hiện bản chất (chính trị, giai cấp) của một chính sách” [34, tr.134].
Đặc điểm của chính sách: Dù tiếp cận theo hướng nào thì chính sách công cũng
mang những nét chung sau đây:
- Chính sách công là những tác động có tính cộng đồng. Rõ ràng dù là trực tiếp
hay gián tiếp thì những kết quả mà nó mang lại luôn ghi dấu ấn lên đời sống cộng
đồng. Hay nói khác hơn tính công cộng, vì cộng đồng luôn bao chứa bên trong những
quyết định chính sách. Tức, ở đây cả người ban hành và đối tượng chịu tác động từ
chính sách công đó đều nhân danh cộng đồng khi ban hành cũng như thực thi chính
sách.
- Là những tác động có mục tiêu, có tính hướng đích (dù ngắn hạn hay dài hạn)

nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của thực tiễn. Bao gồm các biện pháp liên quan với
nhau, phụ thuộc lẫn nhau, được luận giải khoa học (khác với các quyết định nhất thời).
Do đó, chính sách công chính là chương trình hành động của nhà nước (phân biệt rõ
với đường lối - chính sách - biện pháp ở mức độ cụ thể hóa).
- Những hoạt động (được coi là chính sách công) mang tính hệ thống, ổn định và
phù hợp với quan điểm chính trị của chủ thể hoạch định. Dù đơn lẻ hay một chương
trình thì các chính sách công đều nằm trong một chuỗi các tác động có chủ đích của
chủ thể theo một trật tự đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Dù không được đặt ra trực tiếp
nhưng quan điểm chính trị của chủ thể chính sách công là nguyên tắc bất di bất dịch.
Nhờ đó tính không (ít) thay đổi cũng như tính hệ thống của chính sách công được đảm
bảo.



- Quá trình hoạch định chủ yếu diễn ra trong bộ máy nhà nước, là sản phẩm của
quá trình thực thi quyền lực chính trị. Lẽ dĩ nhiên do vậy, chính sách công có tính hợp
pháp giúp phân biệt nó với các chính sách của các tổ chức cá nhân trong khu vực tư
nhân hay của các đảng, đoàn thể xã hội không nắm quyền lực công.
- Quá trình hoạch định bao hàm sự trao đổi thông tin và các nguồn lực, thảo luận,
thương thuyết giữa và trong các thể chế nhà nước, sự tương tác với các tổ chức bên ngoài
nhà nước. Lấy đối tượng tác động là số đông (cộng đồng) nên một đặc điểm không thể thiếu
để có một chính sách công đúng đắn (phù hợp) là sự tham gia rộng rãi của mọi loại đối
tượng trong xã hội. Với tinh thần đó, xem xét cái căn cốt nhất của chính sách công, năm
1993, Paul Sabatier và Hank Jenkins-Smith đi đến nhận định: Việc tạo ra những quan điểm
và sự nhất trí chung giữa các đảng phái là nền tảng của quá trình chính sách.
Ngoài ra, một đặc điểm khá nổi bật ở bản chất chính sách công là tính liên ngành:
kinh tế học, khoa học quản lý, khoa học thông tin, tâm lý xã hội, Và xã hội càng văn
minh thì tính liên ngành trong chính sách công càng mở rộng.
Tóm lại, đặc điểm chính sách công có thể còn rất nhiều song các vấn đề trên là cơ
bản để nhận diện một chính sách công. Trong đó phải kể đến một số tính chất nổi bật của

chính sách công để phân biệt nó với các thực thể khác.
Tính chất cơ bản của chính sách công: Tính cưỡng chế (của quyền lực công - tức
nhà nước), tính thứ bậc (do tính thứ bậc của tổ chức nhà nước), tính mục tiêu (do tính
mục tiêu của quyền lực), tính hệ thống (do sự liên quan giữa các biện pháp trong mối
quan hệ với mục tiêu cuối cùng, cũng như tính khoa học cần có của các chính sách).
Ngoài những tính chất riêng có nói trên, để có một chính sách hiệu quả còn cần
có sự đảm bảo một số tính chất: Tính giai cấp (chính sách đó phù hợp với lợi ích của
giai cấp cầm quyền); tính dân tộc (phù hợp với đặc điểm văn hóa tâm lý thói quen dân
tộc); tính nhân loại (phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại); tính khả
thi kỹ thuật (đủ trình độ, kiến thức chuyên ngành để thực hiện); tính khả thi tài chính
(có đủ nguồn vốn cho việc thực hiện chính sách); tính tối ưu kinh tế (lợi nhuận nhiều
nhất); tính đồng bộ (phù hợp với các chính sách khác)
Nhìn một cách tổng quát nhất, điều không thể phủ nhận là để một chính sách
công thực sự hiệu quả nó phải chứa đựng cả tính khoa học và tinh thần chính trị lấy



phụng sự cộng đồng làm mục tiêu; nó phải vừa nhạy cảm về mặt chính trị - đạo lí, vừa
thể hiện tính thực dụng - hiệu quả.
1.1.2. Chu trình hoạch định chính sách công
Khái niệm: Quá trình hình thành chính sách công trên thực tế là quá trình các
quần thể lợi ích đưa ra yêu cầu của mình và các chủ thể chính sách căn cứ vào yêu cầu
lợi ích của xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích phức tạp. Quy trình hay chu
trình hoạch định chính sách là một khái niệm để chỉ một hoạt động mang tính khép kín
từ khâu đầu cho đến khâu cuối và đó cũng chính là điểm bắt đầu cho hoạt động chính
sách ở mức độ cao sâu hơn. Như vậy nói quy trình hay chu trình hoạch định đều phải
hiểu hoạt động hoạch định chính sách công diễn ra theo một lôgic, có trật tự và đặc
biệt có tính kế thừa rất cao. “Mô hình khái niệm coi quá trình hoạch định và thực hiện
chính sách công như việc lần lượt thực hịên các bước sau: Lập nghị trình hành động,
lập chính sách hay ra quyết định, triển khai thực hiện, đánh giá chương trình hay phân

tích tác động và cuối cùng là những phản hồi dẫn tới việc xem xét lại hay chấm dứt. Vì
vậy nó là chu kỳ khép kín” [5, tr.766].
* Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách chính là các điều kiện tổng quát (tài
chính - con người - thẩm quyền chính trị) để một chính sách có thể thực thi và đem lại hiệu
quả, được hình dung ở các khía cạnh rất cơ bản sau:
- Cơ sở kinh tế: Khoa học kinh tế về sử dụng tài nguyên và các nguồn lực cung
cấp luận cứ và luận chứng cho các vấn đề chính sách.
- Cơ sở chính trị: Chính sách thể hiện bản chất của quyền lực giai cấp, đại diện
cho lợi ích của toàn dân tộc, thể hiện được trình độ phát triển của đất nước thông qua tính
giai cấp - tính dân tộc - tính khoa học có trong chính sách.
- Hệ giá trị của giai cấp cầm quyền (tư tưởng, văn hóa, kinh tế, ): Chính sách
đúng là chính sách đồng thời cũng là lựa chọn chính trị, do đó thể hiện tư tưởng, quan
điểm của giai cấp thống trị trên mọi mặt.
* Quá trình hoạch định và thực thi các chính sách công có thể được coi là bao
gồm 4 giai đoạn chính như sau:
Một là, xác lập nghị trình



Một vấn đề xã hội trở thành chính sách phải trải qua giai đoạn tìm kiếm sự đồng
thuận, thống nhất tư tưởng, cách làm để đạt được mục tiêu. Đây là giai đoạn phát hiện
vấn đề, những bức xúc nổi cộm trong đời sống cộng đồng cần được tháo gỡ.
Yêu cầu cao nhất của giai đoạn này là: khả năng nhìn ra vấn đề, năng lực nhận
thức và biểu đạt nó cũng như cơ chế nêu vấn đề, để một vấn đề xã hội trở thành
chính sách. Từ dữ kiện thực tế, thông qua 3 nguồn cơ bản: Số liệu thống kê; các sự
kiện; các nhận định của nhà chính trị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, mà vấn đề chính
sách nảy sinh. Tuy nhiên đời sống thực tiễn luôn vận động không ngừng và vô cùng
phong phú trong lúc khả năng phát hiện vấn đề của con người lại bị giới hạn bởi nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan. Dù vậy, sự tương tác giữa ba chương trình nghị sự
(nguyện vọng nhân dân, sự ủng hộ của thông tin đại chúng và nghị trình chính thức

của chính quyền được kiểm soát) buộc nhà hoạch định phải chú trọng. Trong đó nổi
lên vai trò của người lãnh đạo vì chính họ kiểm soát chương trình nghị sự. Nếu tầm
nhìn của người lãnh đạo hạn chế hay thiếu trách nhiệm xã hội thì có thể làm cho một
vấn đề quan trọng thành ít hoặc không quan trọng. Đây chính là cách “giấu vấn đề”
như các nhà nghiên cứu chính trị thường nói.
Bên cạnh đó, môi trường (văn hóa, tâm lý dân tộc, tôn giáo, lịch sử ), hoàn cảnh
chính trị (bầu không khí tâm lý xã hội) thích hợp tác động cần thiết đến việc hình
thành một chính sách. Mâu thuẫn biện chứng thường gặp phải ở giai đoạn xác lập nghị
trình là: Mặc dù có khuynh hướng đề cao vai trò cộng đồng nhưng đôi khi ý kiến cá
nhân lãnh đạo - thủ lĩnh chính trị tại một giai đoạn nhất định lại quyết định.
Hai là, xây dựng và ban hành chính sách gồm 2 công đoạn có những đặc điểm
khác nhau về kỹ thuật chuyên môn và chính trị: Đó là xây dựng các phương án và lựa
chọn để ban hành một trong các phương án đó.
Bản thân người xây dựng chính sách xét ở một góc độ khác cũng là đối tượng
chính sách cho nên cũng bị ảnh hưởng phần nào bởi nhu cầu nguyện vọng của họ về
việc chính sách có được chấp nhận hay không. Do đó có vấn đề “thỏa hiệp tiềm ẩn”
ngay trong một tổ chức (tiểu ban xây dựng chính sách) hay ngay trong một cá nhân,
trong giai đoạn này. Thực tế, do không thể tính hết được chi phí và lợi ích nên đôi lúc



có tình trạng thỏa hiệp, tức đi tìm một chính sách đạt được sự nhất trí cao hơn là thuyết
phục để có một chính sách được soạn thảo một cách khoa học.
Trong giai đoạn xây dựng chính sách, yêu cầu tính chuyên môn rất cao. Các
chuyên gia, các nhà tư vấn, các viên chức có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực
chuyên môn tương ứng thường tham gia chính vào giai đoạn này. Bên cạnh đó, đóng
vai trò chính còn bao gồm các ủy ban chuyên môn của Quốc hội, ban chuyên môn của
Đảng, các cơ quan nghiên cứu (Trường đại học, Viện nghiên cứu), các Bộ liên quan,
các tổ chức tư vấn phi chính phủ và đặc biệt là tiểu ban chuẩn bị chính sách, được thành
lập trên cơ sở liên ngành và bao gồm các cá nhân có kiến thức có kinh nghiệm, các quan

hệ chính trị, Cho đến nay, xét trên lý thuyết, so sánh được chi phí với kết quả vẫn là vấn
đề kỹ thuật trung tâm của công việc xây dựng các phương án chính sách.
Việc lựa chọn một phương án chính sách cuối cùng để thông qua và ban hành lại
có tính chất chính trị. Vấn đề tập trung ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi
ích. Lúc đó, việc quyết định phương án nào sẽ được lựa chọn phụ thuộc vào hệ tư
tưởng, quan điểm, các chuẩn mực giá trị của chủ thể hoạch định. Do đó, việc thông
qua và phê chuẩn chính sách mang nhiều tính chính trị hơn. Và để đưa ra một chính
sách, giai đoạn này phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất chính trị cũng như trình độ
chuyên môn nghiệp vụ chính sách của chủ thể.
Cán bộ hoạch định quyết định các loại phương án, trên cơ sở đó định ra các
phương án chính sách được lựa chọn; cụ thể hóa vấn đề chính sách trong các hình thức
văn bản luật, nghị định, quy định hành chính, và các cơ quan có thẩm quyền phê
chuẩn, thông qua trở thành chính thức. Về mặt tổ chức, thông thường sau khi đã xác
định rõ mục tiêu, Chính phủ sẽ thành lập tiểu ban soạn thảo gồm các công chức,
chuyên gia trong lĩnh vực liên quan, có chuyên môn, kinh nghiệm và đại diện lợi ích
các ngành, bộ, nhóm dân cư, có ảnh hưởng bởi chính sách. Sau khi tiếp thu và chỉnh
lý, các phương án sẽ được trình cho các cấp có thẩm quyền để thông qua.
Có 4 yếu tố chính: tính khoa học, tính tiệm tiến, tính đại diện, tính thể chế (tính
chất công cộng) ảnh hưởng đến mọi hoạch định chính sách.
Chung quy, có thể nói một chính sách cần có cả tính khoa học và tính đại diện
cho lợi ích nhân dân. Điều này thể hiện một cách cô đọng tính dân chủ của một chế độ,



một chính sách. Chính tính dân chủ dựa trên nền tảng khoa học giúp giải quyết được
mâu thuẫn giữa tầm nhìn của lãnh đạo (thiểu số) và lợi ích trước mắt của dân chúng
(đa số) trong các quy trình hoạch định chính sách. Do đó, trong quá trình làm chính
sách, tham khảo ý kiến rộng rãi phải dựa trên cơ sở khoa học nếu không như thế dân
chủ sẽ bị lợi dụng để thực hiện lợi ích cục bộ, thậm chí lợi ích cá nhân.
Thực tế cho thấy nội dung phương án chính sách dễ bị ảnh hưởng lợi ích cục bộ

(của cá nhân, của cơ quan được giao hoạch định phương án chính sách) và dù không
xuất phát nhưng dễ dàng thiết kế chính sách theo hướng có lợi cho cơ quan hoạch định
về ngân sách triển khai, biên chế cũng như các thuận lợi khác Đặc biệt các vấn đề
chính sách mang tính cải cách thường động chạm đến lợi ích (ngân sách, biên chế) của
một nhóm người trong xã hội nên quá trình hoạch định sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi suy tính
lợi ích cục bộ của các cơ quan liên quan. Do đó làm hạn chế, cản trở việc đạt được
mục tiêu, có khi không bảo đảm tính khoa học của chính sách.
Ba là, triển khai chính sách
Bao gồm việc ban hành các văn bản có tính pháp lý, quy định trách nhiệm, quyền
hạn cũng như việc thực thi các hành động và biện pháp cụ thể như: Nguồn lực cho
chính sách; diễn giải chính sách; các vấn đề về cưỡng chế và khuyến khích việc thực
thi chính sách.
Thông thường, chủ thể triển khai là những tổ chức và cá nhân trong và ngoài
chính phủ, quan trọng nhất là cơ quan hành chính cùng các viên chức của mình. Ngoài
ra, các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng có vai trò quan trọng đặc biệt trong
các chính sách có liên quan đến các hoạt động tranh tụng như các chính sách về phá
sản, chống độc quyền,
Để triển khai chính sách công có hiệu quả, tối thiểu cần đảm bảo các điều kiện:
có đủ nguồn tài chính vật lực - nhân lực cho việc triển khai, đủ thẩm quyền, trình độ
chuyên môn kỹ thuật để cụ thể hóa các mục tiêu thành các chương trình hành động ở
từng nội dung phù hợp với đối tượng chấp hành chính sách. Cơ quan được giao cũng
chính là cơ quan chịu trách nhiệm giải trình với cấp trên về các hoạt động triển khai
chính sách. Bên cạnh đó, do phát huy sự sáng tạo trong khi ứng phó với thực tế, các cơ
quan triển khai chính sách thông thường cũng có những quyền độc lập nhất định trong



việc cụ thể hóa nội dung chính sách. Cho nên cũng rất cần có các cơ quan theo dõi
kiểm tra sự triển khai để có những điều chỉnh kịp thời.
Bốn là, tổng kết, đánh giá chính sách

Đây là khâu rất quan trọng nhưng thực tế thường ít được dành sự quan tâm thích
đáng. Vấn đề chủ thể đánh giá (phân tích từ góc độ thông tin và quyền lực chính trị),
trên thực tế đang đặt ra những mâu thuẫn. Điều đó cho thấy ngày nay muốn nâng cao
chất lượng chính sách công phải yêu cầu rất cao về tính khoa học và trách nhiệm xã
hội trong khâu đánh giá.
Trong rất nhiều tiêu chí, đánh giá một cách khoa học đòi hỏi khả năng đo lường
được chính xác chi phí - kết quả, đòi hỏi khả năng quy được trách nhiệm là rất quan
trọng. Nó cũng là hai vấn đề trung tâm của cải cách hành chính hiện nay trên thế giới.
Công việc này được tiến hành ngay trước khi triển khai, trong cả quá trình xây dựng
chính sách và có ảnh hưởng sống còn đối với chính sách.
ở đây không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật khách quan để hiểu thấu đáo các
tác động của chính sách đó, mà còn mang tính chính trị ngay từ khởi đầu và trong suốt
mọi khâu từ thông qua kế hoạch, xác định hệ tiêu chí, kết luận đánh giá một chính sách
giữa các chủ thể chính trị có liên quan. Theo tính chất và mức độ khái quát, có thể
phân thành 3 loại đánh giá chính: đánh giá chính trị, đánh giá kỹ thuật và đánh giá toàn
diện.
Đánh giá chính trị xem xét tính khả thi chính trị của chính sách, đặc biệt trong
giai đoạn đầu của quá trình, khi chính sách chưa được thông qua, mới đang trong giai
đoạn hình thành những ý tưởng căn bản. Do đặc điểm lịch sử -kinh tế - chính trị - xã
hội Việt Nam, mà có khi đánh giá chính trị được đề rất cao. Tuy nhiên, tính khả thi
chính trị nếu xét một cách khách quan tiến bộ tự nó đã bao hàm nhiều yếu tố tích cực
thúc đẩy hiệu quả chính sách.
Đánh giá kỹ thuật tập trung vào cung cách triển khai một chính sách, các tác
động trực tiếp, các chi phí và lợi nhuận trực tiếp của chính sách. Xem xét các chính
sách đã được triển khai đúng ý định chưa, có đạt hiệu quả đặt ra không, đặc biệt các
nguồn lực được phân bổ cho chính sách có đủ để phát huy hiệu quả?,



Ngoài ra, để đi đến kết luận về mức độ thực hiện mục tiêu tổng thể của chính

sách cần phải đánh giá toàn diện. Khảo sát toàn bộ các mặt, có hệ thống, khách quan
và nghiêm ngặt nhằm đưa ra sự đánh giá về sự thành công trong mục tiêu tổng thể của
chính sách, cũng như tác động gián tiếp của chính sách lên mọi mặt của đời sống nhân
dân.
Cách đánh giá toàn diện làm sáng tỏ các tác động gián tiếp khác (về xã hội, môi
trường, cũng như các tác động chính trị khác không thể quy ra tiền) để đạt tới tính tối
ưu của chính sách. Nhận thức đầy đủ những ưu điểm và hạn chế của phương pháp so
sánh chi phí - lợi ích - cơ sở để một chính sách đảm bảo tính tối ưu. Nó được xem là
kênh phản hồi chính sách chủ đạo. Khuynh hướng đánh giá này đang được chú trọng,
nhiều nước lập ra các ủy ban độc lập để đánh giá các chính sách. Ngày càng nhiều các
cơ quan chính phủ cũng thành lập các bộ phận chuyên đánh giá toàn diện.
1.2. Vai trò của thái độ tôn trọng tính khoa học trong hoạch định chính sách
công
1.2.1. Tính khoa học trong chính sách công, hoạch định chính sách công
Khoa học là một phạm trù chỉ hệ thống tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử
và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên
ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo
thế giới hiện thực. Chính vì vậy mà mọi hoạt động của con người nếu tính đến và biết
tuân thủ quy luật khách quan thì kết quả đem lại sẽ tốt hơn rất nhiều, hạn chế được
những tác hại, rủi ro. Cho nên tiêu chí quan trọng hàng đầu của một chính sách công
trước hết là bảo đảm tính khoa học.
Thực chất của tính khoa học là sự tuân thủ chặt chẽ, nghiêm túc quy luật khách
quan không bị lệ thuộc hay ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì, bởi bất cứ ai.
Từ đó có thể định nghĩa tính khoa học của chính sách công là những đặc điểm
cho thấy chính sách công cũng như quá trình hoạch định được luận chứng trên cở sở
những dữ liệu, cứ liệu, con số thống kê, từ các kết quả nghiên cứu khoa học và quan
sát thực tiễn. Nó được biểu hiện ra trong thái độ coi trọng bản chất khách quan khi
xem xét đánh giá sự vật hiện tượng, tuân thủ nghiêm quy trình hoạch định, đảm bảo
tính tính hợp lý, tính dân chủ, tính tối ưu, tính khả thi trong mỗi phương án được lựa




chọn nhằm xây dựng, triển khai, đánh giá, điều chỉnh để có một chính sách công chất
lượng.
Tính khoa học trong chính sách công và hoạch định chính sách công do đó là
yêu cầu, phẩm chất thiết yếu để một chính sách từ lúc hình thành cho đến khi đi vào
cuộc sống phát huy hiệu quả. Nó có mặt ở trong tất cả các giai đoạn của quy trình.
Tính khoa học (phạm trù khách quan) không phụ thuộc ý chí con người còn thái độ tôn
trọng tính khoa học chính là phạm trù gắn liền trực tiếp với chủ quan. Sự tách bạch đó
chỉ tương đối. Do đó khi nói tính khoa học tức để chỉ tính chất của chính sách (với tư
cách sản phẩm) còn nói thái độ tôn trọng tính khoa học là nói về nhận thức, hành vi
làm chính sách (với tư cách quá trình hoạch định) của nhà hoạch định. Các phân tích
trong luận văn đều sử dụng cả hai phạm trù này.
Tính khoa học có thể được gợi ý từ các tiêu chí như sau:
- Sự tuân thủ quy luật khách quan khi xem xét đánh giá nhận định và lựa chọn
phương án chính sách cũng như triển khai thực thi, tổng kết đánh giá chính sách công.
- Mục tiêu chính sách phản ánh tính tất yếu, quy luật khách quan, phù hợp
nguyện vọng nhân dân, bảo đảm tính giai cấp, tính toàn diện trong phản ánh, ứng xử
với cuộc sống của chính sách.
- Có tính đến yếu tố quốc gia, dân tộc, đặc thù địa phương, tập thể, tổ chức, cá
nhân trong quy trình chính sách.
- Khẳng định giá trị xã hội (dân chủ, công bằng, nhân văn, sáng tạo, ) thông qua
việc phân bổ lợi ích, giải quyết quan hệ lợi ích cho các đối tượng trong xã hội khi có
tác động của chính sách.
- Quy phạm hóa quy trình hoạch định chính sách công theo chuẩn quốc gia và
quốc tế (có tính thời đại, phù hợp thông lệ quốc tế).
1.2.2. Thái độ tôn trọng tính khoa học trong hoạch định chính sách công
Thái độ tôn trọng tính khoa học biểu hiện qua nhận thức cũng như hành vi bảo
đảm trên thực tế chính sách được thiết kế, ban hành và tổ chức thực thi có khoa học.
Đây là đòi hỏi quan trọng để ngày càng nâng cao tính khoa học cho các chính sách. Có

thể biểu hiện thái độ tôn trọng tính khoa học qua các dấu hiệu chính sau:



- Nhận thức được sự vận động của thực tại khách quan như nó vốn có; biết sáng
tạo phù hợp môi trường chính sách. Những người tham gia hoạch định có nhận thức
thống nhất đối với mục tiêu chính sách.
- Đảm bảo tính chính xác trong thiết kế nội dung - một yếu tố quan trọng nhằm
đạt đến hiệu quả của chính sách; đảm bảo tính tối ưu, thực thi đúng, đủ các phương án
chính sách.
- Nhận thức đầy đủ tính thể chế của chính sách và hành động đúng bản chất cộng
đồng (phúc lợi chung) của chính sách công.
- Chú trọng việc nêu vấn đề, phản ánh ý kiến của người dân, tạo cơ hội và nhu
cầu thông tin, tranh luận, thảo luận, phản biện từ phía người dân đối với các chính sách
trong mọi giai đoạn của quy trình hoạch định.
- Sự tham gia, ràng buộc của các bên trong quy trình chính sách phải được đặt ra
một cách có hệ thống, quy củ theo hướng minh bạch hóa, phân cấp, phân quyền, đảm
bảo chính sách phát huy hiệu quả cao nhất.
Từ các dấu hiệu trên, trong quá trình khảo sát, để xác định thái độ tôn trọng tính
khoa học có thể dựa trên các tiêu chí cơ bản như:
- Sự tuân thủ nghiêm ngặt các chu trình, giai đoạn trên cơ sở khoa học -thực tiễn
của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, do đặc tính
quyền lực riêng có của nó cũng như tính đa dạng phức tạp của các loại hình (kiểu)
chính sách mà đôi khi rất khó phận định rõ ràng các giai đoạn. Về điều này, một nhận
xét của chính khách người Anh (Lord Salisbury) đáng lưu tâm: “Không có những cái
gọi là chính sách cố định, bởi chính sách giống như mọi thực thể hữu cơ luôn ở trong
quá trình hình thành”[5, tr.767].
- Đảm bảo nguyên tắc chung là tối ưu hóa chính sách, định hướng cho nhóm xây
dựng chính sách trước khi chi tiết hóa các phương án, trong các khâu xác định nhu
cầu, xem xét tình huống có vấn đề, định ra nội dung, mục tiêu nhiệm vụ. Tính tối ưu

cũng chính là yêu cầu cao nhất của mọi chính sách, nó đồng nghĩa với hiệu quả.
- Xác định rõ mục tiêu chính sách, chú ý tính đa mục tiêu của chính sách. Xây dựng
các phương án giải quyết mục tiêu đó. Nhận thức được các ưu khuyết điểm cũng như chi
phí và lợi ích của từng khả năng để đạt tới mục tiêu.

×