LUẬN VĂN:
Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở
tỉnh Quảng Nam hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong chiến lược phát triển của đất nước, vấn đề nông nghiệp - nông thôn - nông
dân có vị trí đặc biệt. Các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng
đều xác định quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước
phụ thuộc rất lớn vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn. Giải quyết tốt vấn
đề nông nghiệp - nông thôn và nông dân đã, đang và sẽ là bài toán then chốt tạo tiền đề
cơ bản cho chúng ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Với khoảng 80% dân số
sinh sống trên địa bàn nông thôn, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia hay
từng khu vực đều phải đặt nông nghiệp - nông thôn như một khu vực kinh tế - xã hội
trọng điểm và giàu tiềm năng, có tính quyết định đối với sự phát triển. Trong bối cảnh này,
nếu giải quyết tốt các vấn đề văn hóa ở nông thôn chúng ta sẽ có những tiền đề và điều
kiện cơ bản để giải quyết các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa khu vực, bởi
phát triển văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội ở
từng địa phương, khu vực và cả nước.
Văn hóa phải được gắn kết với quá trình phát triển kinh tế - xã hội với quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động văn hóa ở nông thôn phải có mục tiêu,
nội dung, các biện pháp và bước đi thích hợp để thực sự đóng vai trò là động lực và mục
tiêu của sự phát triển nông nghiệp - nông thôn. Đây là những vấn đề có tính chiến lược
mà nếu giải quyết tốt sẽ là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho sự phát triển
văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trong
giai đoạn sắp tới.
Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã và đang được
phát động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển văn hóa, phát triển kinh tế - xã
hội ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nông thôn là một khu vực bao gồm hai thực thể xã hội cơ bản: làng - xã và các
thị tứ, thị trấn; trong đó làng xã là thực thể xã hội cơ bản, tiêu biểu cho xã hội nông thôn,
là một khu vực tụ cư của cư dân nông thôn. Trong biến thiên lịch sử, làng - xã và văn hóa
làng - xã có một vị trí đặc biệt. Do đó, nói đến nông thôn trước hết là phải nói đến làng -
xã, từ làng - xã ta có thể có một bức tranh khá toàn diện về xã hội nông thôn trong quá
trình phát triển.
Làng - xã có thể hình dung như một quốc gia thu nhỏ, có đời sống vật chất và
tinh thần bền vững. Vì vậy, trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, phát huy
những giá trị văn hóa làng, kết hợp với những yếu tố hiện đại của cuộc vận động xây
dựng làng văn hóa thực chất là quá trình "tiếp biến văn hóa", là quy luật vận động tất yếu
của văn hóa đương đại trong việc kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc.
Xây dựng làng văn hóa là sự kế thừa và phát triển làng - xã Việt Nam trong điều
kiện mới phù hợp với sự tiến bộ văn hóa xã hội. Làng là cái nôi văn hóa được ví như tấm
gương phản chiếu sinh động nhất truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc: chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần đoàn kết cộng đồng, thuần phong mỹ tục, mối quan hệ xóm giềng, mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình tất cả kết thành tinh hoa văn hóa và bản lĩnh
văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa bởi các thế lực xâm lược đô hộ. Tinh hoa ấy cần
được phát huy mạnh mẽ biến thành động lực tinh thần cho công cuộc xây dựng làng văn
hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở nông thôn, làm nền tảng cho việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Làng văn hóa chính là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng và phát triển các giá trị đạo
đức, tình cảm, lối sống của cộng đồng Và đây cũng chính là mảnh đất có khả năng tiềm
tàng trong việc ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng văn hóa tiêu cực đã và đang tác
động dữ dội đến mọi mặt của đời sống xã hội và gây ra những thay đổi đáng kể trong thang
giá trị xã hội ở thời điểm hiện nay.
Mặt trái của kinh tế thị trường đang có nguy cơ phá vỡ những giá trị văn hóa
truyền thống. Bản sắc văn hóa dân tộc có những lúc, những nơi bị xâm hại bởi các sức mạnh
ghê gớm của nó như: chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng Kinh tế thị trường phát triển,
lũy tre làng không còn là vành đai cát cứ. Nhưng tính cục bộ, địa phương chủ nghĩa, "phép
vua thua lệ làng", tệ cường hào ở nông thôn lại trỗi dậy. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến
sự xáo trộn các mối quan hệ trong làng và giữa các làng, làm nảy sinh hàng loạt vấn đề về ý
thức đoàn kết cộng đồng, diện mạo văn hóa, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Cơ chế thị trường đang len lỏi vào những miền quê xa xôi nhất và có nguy cơ phá
vỡ nét thanh bình của làng - xã xa xưa. "Cây đa, bến nước, sân đình"- hình ảnh tiêu biểu của
làng quê đang có dấu hiệu bị biến dạng. Các tệ nạn xã hội đang có cơ hội và điều kiện
chuyển dịch về nông thôn. Ma chay, cưới xin vẫn có xu hướng quay lại với tập tục rườm
rà, tốn kém, xen lẫn cả mê tín dị đoan
Chính vì vậy, việc xây dựng làng văn hóa là nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị
của văn hóa làng, phát huy tính tích cực của nó. Văn hóa làng vừa là kết quả hoạt động của
những con người ở làng, đồng thời là môi trường, động lực làm cho từng thành viên trong
cộng đồng làng giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp tục tạo ra những giá trị văn
hóa tiên tiến. Và, chỉ khi đó làng văn hóa mới thực sự khẳng định vai trò góp phần điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong cơ chế thị trường, làm động lực phát triển nông thôn ở nước
ta hiện nay.
Quảng Nam cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước đã và đang thực hiện
chủ trương xây dựng làng văn hóa. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam
tuy mới được chú trọng từ khi tái lập tỉnh (1997), song đã đóng góp một phần tích cực
vào nhiệm vụ chính trị của địa phương, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình
hưởng ứng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ những vướng mắc về lý luận
và thực tiễn, chưa tạo ra được những mô hình đảm bảo chắc chắn và phù hợp với từng
miền, vùng dân cư, diện của phong trào còn hạn chế Xác định tầm quan trọng và tính
bức thiết hiện nay của cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, chúng tôi chọn đề tài
nghiên cứu "Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam hiện nay" làm
luận văn tốt nghiệp, nhằm nhận diện và phân tích rõ hơn đặc trưng văn hóa làng, đặc sắc
văn hóa làng Quảng Nam và công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa không hoàn toàn mới xét ở bình diện
cả nước. Nhiều công trình đã được công bố với các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa làng
và xây dựng làng văn hóa như: "Văn hóa làng và làng văn hóa" của GS.TS Nguyễn Duy
Quý, PGS.TS Thành Duy và PGS Vũ Ngọc Khánh; "Văn hóa làng và sự phát triển" của
GS.TS Nguyễn Duy Quý; "Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - xã hội" của GS.
Phan Đại Doãn; "Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay" của Tô Duy Hợp; "Cộng
đồng làng xã Việt Nam hiện nay" của tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh; "Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay" của Thu Linh; "Sự biến đổi của làng
xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông Hồng" của Tô Duy Hợp; "Tín ngưỡng làng xã"
của PGS Vũ Ngọc Khánh; "Nếp cũ - Làng xóm Việt Nam" của Toan ánh; "Hương ước
hồn quê" của Toan ánh; "Bản sắc văn hóa làng trong xây dựng nông thôn đồng bằng Bắc
Bộ" của TS. Lê Quý Đức
ở những công trình trên, các tác giả đã bàn về văn hóa tinh thần và văn hóa vật
chất ở làng xã. Nhiều tác giả đã đề cập đến hội làng, nếp sống, phong tục, tôn giáo, sân
khấu dân gian, văn hóa nghệ thuật dân gian Một số chuyên luận không những có ý kiến
nhận xét về di sản của làng xã, về các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa; mà còn nêu lên những
điểm tích cực và cả những tiêu cực của làng xã trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Tuy nhiên, đối với tỉnh Quảng Nam đây là vấn đề tương đối mới vì cuộc vận
động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam mới được phát động vào ngày 12/7/1997 với
Chỉ thị 04/CT-TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy. Do vậy, đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào mang tính hệ thống dưới dạng một luận văn khoa học giải quyết một cách
thỏa đáng các vấn đề giữa lý luận và thực tiễn xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về văn
hóa và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng làng văn hóa trong xu thế phát triển
toàn diện ở nước ta nói chung và ở Quảng Nam nói riêng; đề xuất những phương hướng
và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam
trong bối cảnh CNH, HĐH đất nước.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Xác định rõ khái niệm văn hóa làng và làng văn hóa làm cơ sở lý luận chung
cho toàn bộ luận văn.
- Khảo sát các làng văn hóa ở Quảng Nam, tiến hành phân loại và rút ra những
đặc trưng của văn hóa làng và làng văn hóa Quảng Nam.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Xây dựng làng văn hóa là một nội dung lớn trong sự nghiệp chung của Đảng và Nhà
nước ta trong bối cảnh hiện nay, do đó có rất nhiều vấn đề mới cần đi sâu nghiên cứu. Tuy
nhiên trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ những
vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa (chủ yếu tập trung nghiên cứu làng người
Việt - đại diện tiêu biểu nhất của làng Việt Nam); phân tích thực trạng xây dựng làng văn
hóa ở Quảng Nam và đề xuất các phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục đẩy mạnh
việc xây dựng làng văn hóa và đời sống văn hóa cơ sở ở Quảng Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa.
- Phân tích cơ sở lý luận chung về xây dựng làng văn hóa trong thời
kỳ CNH, HĐH.
- Thuyết minh có căn cứ khoa học về sự tiếp nối biện chứng từ di sản văn hóa
làng đến việc xây dựng làng văn hóa trong bối cảnh hiện nay.
- Bổ sung một số quan niệm về làng văn hóa và công tác xây dựng làng văn hóa.
- Tiến hành phân loại và rút ra những đặc trưng cơ bản của văn hóa làng và làng
văn hóa ở Quảng Nam.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp có tính khả thi, góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả cuộc vận động xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam nói riêng
và ở nước ta nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy về lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu là phương
pháp điều tra, điền dã, phân tích khảo cứu, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương
pháp so sánh, đối chiếu trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn khách
quan.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có nội
dung gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa.
Chương 2: Làng và văn hóa làng Quảng Nam.
Chương 3: Thực trạng công tác xây dựng làng văn hóa và phương hướng, giải
pháp đẩy mạnh công tác xây dựng làng văn hóa ở Quảng Nam hiện nay.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận
về văn hóa làng và làng văn hóa
1.1. Quan niệm về văn hóa
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX trong lịch sử nhân loại cũng là sự kết thúc của
Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988-1997) nhằm thực hiện Nghị quyết 41/87 ngày
9/12/1986 của Liên hợp quốc. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm của cả nhân loại ở thế kỷ cuối
cùng của thiên niên kỷ thứ hai đối với văn hóa đã phát triển rất sâu và rộng.
Bước vào thế kỷ XX, thuật ngữ văn hóa đã thâm nhập vào đời sống xã hội một
cách sâu sắc, làm thay đổi nhận thức của con người trong các hướng tiếp cận mới phù hợp
với xu thế phát triển của khoa học công nghệ. Văn hóa đã và đang trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Từ đó tạo ra những bước ngoặt
quan trọng trong việc hình thành khung lý thuyết mới trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến
văn hóa - xã hội.
Khái niệm văn hóa, theo nhà ngôn ngữ học người Đức W. Vun-đơ (W.Wundt)
bắt nguồn từ một động từ tiếng La Tinh "Colere" và sau chuyển thành "Cultura" với
nghĩa là cày cấy, vun trồng. Trong sự vận động của ngôn ngữ, "Cultura" chuyển nghĩa từ
trồng trọt cây cối sang hàm nghĩa trồng trọt tinh thần, trí tuệ; gắn bó với con người dưới
dạng thức mới, được biểu hiện trong mô thức phức tạp hơn song lại hàm chứa nội dung
sâu sắc hơn so với nghĩa ban đầu của nó.
Quan niệm về văn hóa được E.B. Tylor đề cập trong công trình "Văn hóa nguyên
thủy" (1871) trở thành định nghĩa đầu tiên về đối tượng nghiên cứu của văn hóa. Theo
ông, "văn hóa hay văn minh theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung bao gồm tri
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói
quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội" [92, tr.
13],
Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa trên thế giới đã tiếp tục đưa
ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo
kháo sát của PGS. Phan Ngọc, cho đến nay đã có trên 400 định nghĩa về văn hóa [62, tr.
19]. Điều này cho thấy "mảnh đất" văn hóa để cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa
dạng và phong phú. Trong bản tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mêhicô do
UNESCO chủ trì họp từ 26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về
văn hóa như sau: "Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín
ngưỡng" [95, tr. 5-6].
Tổng giám đốc UNESCO F.May-ơ (Federico Mayor Zaagoza) cũng có quan
niệm về văn hóa nêu ra trong một bài viết của ông như sau: "Văn hóa là tổng thể sống
động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu
- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [11, tr. 23].
Văn hóa chính là quá trình sáng tạo tự thân của con người trong sự phát triển của
lịch sử - "Đó không phải là các lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự nhiên, mà
chúng biến đổi do tác động của các quan hệ xã hội, do trình độ phát triển văn hóa. Các
lực lượng bản chất người ấy được khách thể hóa thông qua họat động cải tạo thế giới
của con người. Chính họat động này là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời sống
xã hội" [97, tr. 40].
ở Việt Nam, từ quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa: "Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng - Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa" [58, tr. 431], đến nội hàm khái niệm văn hóa mà Hội
nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII xác định: "Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy tự phát triển kinh tế - xã hội"
[24, tr. 10] là sự phát triển các quan niệm về văn hóa của Đảng ta nhằm xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở
thành là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.
Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao động sáng
tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho con người khả năng suy
xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản
sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát
vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Và cũng chính nhờ văn hóa mà con người thể hiện được
phẩm chất, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án "chưa hoàn thành",
đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những "ý nghĩa
mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân mình" [95, tr. 5-6].
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa
hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người,
nhà nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: "Văn hóa là toàn bộ sáng
tạo của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, được đúc kết
thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng
xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản
sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat
động của những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy" [102, tr. 43].
Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là nhằm hình
thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói chung và mỗi con người nói
riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực
giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân, gia đình, xã hội đòi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là
quá trình vận động đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của
cá nhân và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn tới sự
thống nhất cao giữa mỗi cá nhân - gia đình - cộng đồng làng xã và toàn xã hội vì sự tồn
tại và phát triển tiến bộ của con người và xã hội.
1.2. Quan niệm về văn hóa làng
Phác họa một bức tranh tổng quát về văn hóa làng chính là cơ sở và tiêu chí giúp
chúng ta có đủ dữ liệu để khái quát thực trạng văn hóa - xã hội ở nước ta hiện nay.
1.2.1. Làng người Việt
Trong đời sống xã hội Việt Nam cổ truyền, "làng xã có vị trí hết sức đặc biệt:
làng là đơn vị cơ bản hình thành quốc gia dân tộc. Nước (quốc gia) chỉ là tổng số, là kết
quả của sự liên kết các làng, xã, là "liên làng", "siêu làng". Làng có vai trò gắn kết cá
nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Làng là nhân tố giữ vai trò quyết định trong quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc "còn làng thì còn nước"" [31, tr. 7].
Theo "Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam", làng là tiếng cổ của Việt Nam dùng
để chỉ đơn vị tụ cư của người Việt có từ lâu đời. Xã là từ Hán - Việt dùng để chỉ đơn vị
hành chính thấp nhất ở nông thôn Việt Nam [61, tr. 368-706]. Xã của người Việt có thể bao
gồm từ một đến vài làng. Trong trường hợp xã là một làng thì phần lớn tên xã trùng với
tên làng. Trong trường hợp xã bao gồm nhiều làng thì trong ngôn ngữ hành chính làng
được gọi là thôn. Trong ngôn ngữ dân gian và trong cuộc sống đời thường từ làng được
sử dụng phổ biến hơn cả với nhiều hàm nghĩa tình cảm, phi hành chính "làng ta", "làng
mình", "người làng", "sống ở làng, sang ở nước", "một miếng giữa làng" Vì làng có
nguồn gốc bản địa sâu xa và bền vững nên trong lịch sử, xã có thể bị thu hẹp hay phình to
ra tùy theo các quyết định hành chính, nhưng làng là đơn vị khá ổn định không dễ thay
đổi. Bởi vì, theo nhà nghiên cứu Hà Văn Tấn:
"Làng là một đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một
hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã
hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình - tông tộc gia
trưởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Làng được hình
thành, được tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ. Một mặt, làng
có sức sống mãnh liệt; mặt khác, xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc động, không có bất
biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nước qua tác động của những
mối liên hệ làng và siêu làng" [81, tr. 130].
Làng Việt - một thực thể xã hội - dựa trên quan hệ láng giềng kết hợp với quan
hệ huyết thống, là môi trường sinh hoạt văn hóa - xã hội từ bao đời nay đã gắn bó với
cuộc sống của người dân Việt Nam. Lũy tre, cây đa, giếng nước, sân đình là những biểu
tượng đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người Việt Nam.
Làng Việt ra đời vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và hình
thành xã hội có giai cấp và nhà nước đầu tiên, tức vào khoảng thiên niên kỷ thứ I Tr. CN.
Đó là công xã nông thôn thuộc loại hình á châu mà đặc trưng cơ bản của nó là toàn bộ
ruộng đất thuộc quyền sở hữu công xã và công xã đem phân chia cho các gia đình nhỏ
cày cấy. Gia đình nhỏ là đơn vị sản xuất, có nhà cửa, vườn ở và công cụ lao động riêng,
có quyền hưởng sản phẩm lao động do mình làm ra, nhưng không có quyền sở hữu ruộng
đất.
Công xã là tập hợp một số gia đình nhỏ sống quây quần trong một khu vực địa lý
nhất định, gắn bó với nhau trong quan hệ láng giềng. Bên trong công xã, bên cạnh quan
hệ láng giềng, quan hệ huyết thống được bảo tồn lâu dài dưới hình thức họ. Mỗi công xã
có thể có một họ, nhưng thường gồm nhiều họ. Mỗi họ bao gồm những gia đình cùng
huyết thống tính theo hệ thống phụ hệ, được coi là con cháu cùng tổ tiên và cấm lấy nhau.
Chế độ sở hữu ruộng đất của công xã cùng với quan hệ láng giềng và quan hệ
huyết thống đã tạo nên sự gắn bó chặt chẽ của các thành viên của cộng đồng và sự tồn tại
bền vững của công xã. Trong tiếng Việt, những công xã nông thôn đó được gọi là chạ, kẻ,
chiềng và sau được gọi phổ biến là làng.
Như vậy, làng là một tổ chức quần cư tự nhiên của những người dân Việt, là nơi
những người dân Việt sống và đoàn kết với nhau chống thiên tai, địch họa, để lao động,
sản xuất và tổ chức đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Làng là nơi thỏa mãn hầu hết
những nhu cầu cơ bản của mỗi người dân. Làng có giới hạn lãnh thổ và môi trường văn
hóa - tín ngưỡng xác định.
ở giai đoạn đầu tiên trong lịch sử tiến hóa của người Việt, Làng là nơi cư trú của
một dòng họ - Đó là giai đoạn làng công xã thị tộc. Những dấu vết về sự tổ chức làng
theo huyết thống như vậy còn lưu giữ đến ngày nay trong các tên gọi cổ xưa của làng
như: Đặng xá, Ngô xá, Đỗ xá, Trần xá, Nguyên xá, Châu xá, Lê xá Trong đó, "xá" có
nghĩa là nơi ở.
Giai đoạn tiếp theo trong quá trình tiến hóa của làng Việt là giai đoạn làng - công
xã nông thôn. Giai đoạn này bắt đầu từ khi chế độ công xã thị tộc tan rã. Lúc đó, làng
được tổ chức không chỉ dựa vào quan hệ huyết thống mà còn dựa trên quan hệ địa vực.
Theo thời gian, địa vực dần dần trở thành nguyên tắc tổ chức chủ yếu của làng Việt. Để
đạt đến giai đoạn này, làng Việt đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài với nhiều biến
đổi nội tại. Nguồn gốc sâu xa nhất của sự biến đổi là do lực lượng sản xuất phát triển,
trình độ sản xuất của xã hội tiến bộ, khiến cho cách tổ chức làng mạc chủ yếu dựa trên
quan hệ huyết thống không còn đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất. Trong làng
công xã nông thôn, toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở hữu của làng. Làng đem phần sở
hữu ruộng đất đó phân cho các gia đình cầy cấy. Các gia đình phải nộp một phần sản
phẩm cho làng để làng chi dùng vào các việc chung và cống nộp nuôi bộ máy quan lại
nhà nước. Làng để lại một phần nhỏ ruộng đất cày cấy chung, lấy sản phẩm phục vụ
những công việc chung của cộng đồng. Đến giai đoạn này, văn hóa làng phát triển rực rỡ,
tính cộng đồng huyết thống, địa vực đan xen hòa trộn với tính cộng đồng văn hóa - tín
ngưỡng. Bởi thế, trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc chính quyền đô hộ vẫn không
đồng hóa được người Việt trong các làng, văn hóa Hán không lấn át được văn hóa Việt.
Văn hóa Việt được bảo lưu, phát triển trong các làng. Làng Việt không những là "cái nôi"
nuôi nấng văn hóa Việt, mà còn là thành trì vững chắc chống lại các cuộc xâm lăng và
đồng hóa văn hóa.
Từ thế kỷ thứ X trở đi, làng Việt dần dần bị phong kiến hóa. Ruộng đất của làng
về mặt danh nghĩa trở thành ruộng đất của vua. Nhưng nó vẫn được giao cho làng quản
lý, phân phối cho dân cày cấy chủ yếu theo tục "lệ làng" có tham khảo "phép nước".
Trong quá trình phát triển, bên trong làng phong kiến quá trình tư hữu hóa ruộng đất diễn
ra ngày càng mạnh. Đến thế kỷ XVII-XVIII thì ở phần lớn các làng ruộng đất tư đã lấn át
ruộng đất công. Phần ruộng đất công còn lại chỉ đủ để dành cấp cho binh lính, chức sắc
hay đấu thầu chi dùng cho các sinh hoạt cộng đồng. Cùng với quá trình tư hữu hóa ruộng
đất, quá trình phân hóa giai cấp, đẳng cấp và quá trình phong kiến hóa các mặt đời sống
của làng cũng diễn ra mạnh mẽ. Có thể gọi giai đoạn phát triển này của làng là giai đoạn
làng tiểu nông phong kiến công tư điền.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược và chiếm đóng nước ta, chính sách cai trị và
khai thác thuộc địa đã tác động đến làng Việt và làm làng Việt ít nhiều biến đổi. Nhưng cho
đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, về cơ bản làng Việt vẫn chưa ra khỏi giai
đoạn tiểu nông công tư điền lạc hậu của mình.
Các di chỉ khảo cổ thuộc thời văn minh Đông Sơn cho biết, kiểu làng co cụm trên
những gò đồi giữa miền đồng bằng là kiểu làng xuất hiện sớm và phổ biến nhất. Khi tiến
xuống miền đồng bằng, hệ thống đê điều trị thủy - thủy lợi chưa hình thành khiến người
Việt cổ phải chọn chỗ cao ráo trên các triền đồi, gò nhỏ làm nơi trú ngụ. Hơn nữa, kiểu
làng đó có thế phòng thủ, tiện lợi cho việc chống lại các cuộc tiến công từ bên ngoài vào
khi nền an ninh chưa được đảm bảo. ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phần
lớn các con sông đều lên xuống thất thường, nên chỉ sau khi hệ thống đê điều trị thủy đã
khá hoàn chỉnh thì kiểu làng trải dọc theo bờ sông, bờ kênh mới hình thành. Kiểu làng
này trở nên phổ biến hơn sau khi nền an ninh chung đã được đảm bảo bởi quốc gia - nhà
nước. Mãi đến thời cận đại, khi các đô thị cùng hệ thống giao thông đường bộ, đường
thủy đã khá phát triển, khi kinh tế hàng hóa đã xâm nhập và phát triển trong nông thôn,
thì kiểu làng bố trí ở các đầu mối giao thông, các ngã tư, trải dài dọc theo các lộ giao
thông, mới xuất hiện và phát triển. Dọc theo miền duyên hải, có các làng chài co cụm
trên các cồn cát, trên những doi đất ven cửa sông và ven biển, với lối quần cư chật chội
hơn do tính chất của nghề chài lưới.
Một loại làng không phổ biến nhưng khá độc đáo là làng thủy cơ hay còn gọi là
làng vạn chài. Về mặt hình thể thì làng thủy cơ được thành lập trên mặt nước gồm những
chiếc thuyền - nhà của những người làm nghề chài lưới hay chở đò. Làng thủy cơ chưa
bao giờ độc lập về mặt hành chính, mà bao giờ nhà nước cũng ghép nó vào một làng khác
ở trên cạn để quản lý và thu thuế. Về cơ bản, cách thức tổ chức và sinh hoạt cộng đồng
của làng thủy cơ cũng tương tự như các làng Việt khác ở trên cạn.
ở nước ta, cho đến ngày nay, làng thuần nông vẫn chiếm một tỷ lệ áp đảo. Tuy
nhiên, do dân số tăng nhanh, bình quân ruộng đất trên đầu người ngày càng giảm, kỹ
thuật canh tác ngày càng tiến bộ, nên sản xuất nông nghiệp ngày càng tốn ít thời gian
hơn. Vì vậy, các gia đình nông dân có khá nhiều thời gian nhàn rỗi để làm việc khác
ngoài việc trồng trọt. Thực tế cho thấy lưọng thời gian này chủ yếu được dùng để làm các
nghề phụ như đan lát, chế tác các dụng cụ đơn giản, buôn bán nhỏ, chăn nuôi, và những
nghề thủ công truyền thống khác. Do đó, có thể nói rằng đại bộ phận làng ở Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ là loại làng kết hợp nghề nông với các nghề phụ gia đình.
Qua quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và phân công lao động xã hội, từ các
làng tách ra một số loại làng khác là làng nghề, làng buôn.
Làng nghề là làng mà trong đó hoạt động kinh tế đem lại thu nhập chủ yếu cho
dân làng là các nghề thủ công. Làng nghề phát triển ở miền Bắc Việt Nam từ thế kỷ XVI
trở đi, khi kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển ở nông thôn, khi giao lưu kinh tế trong và
ngoài nước được mở rộng. Thông thường mỗi làng nghề có một nghề thủ công chính và
một số nghề phục vụ cho nghề chính đó. Ngày nay, nghề thủ công ở các làng nghề bắt
đầu được cơ khí hóa và công nghệ hóa ở một số công đoạn. Nhưng tính chất thủ công và
bí mật gia truyền vẫn còn đóng một vai trò quan trọng.
Các làng buôn xuất hiện muộn hơn, khi nền kinh tế hàng hóa đã phát triển ở mức
độ khá. Trước đây, sự phát triển của các làng nghề, làng buôn bị níu kéo bởi nhiều trở
lực: từ chính sách trọng nông, ức thương, coi nghề nông là nghề cơ bản ("dĩ nông vi
bản") của nhà nước phong kiến đến tâm lý coi thường thương nghiệp, kỹ nghệ cũng như
truyền thống giữ bí mật nghề nghiệp "gia truyền" một cách thái quá Trong các làng
nghề, làng buôn cách tổ chức đời sống, lối sống, các sinh hoạt cộng đồng đến cung cách
làm ăn vẫn còn in đậm dấu ấn của làng thuần nông. Mặc dù ở đó, so với làng thuần nông,
quan hệ kinh tế, lưu thông hàng hóa diễn ra mạnh hơn.
Từ đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ tiến vào phía Nam, người Việt mang mô
hình làng đến những vùng đất mới. Làng ở ba miền có nhiều nét chung cơ bản. Tuy
nhiên, do môi trường địa lý tự nhiên, văn hóa xã hội có nhiều khác biệt và không gian
ngăn cách, giao thông thủy bộ chưa phát triển nên làng ở phía Nam có nhiều nét khác
biệt so với làng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Chúng khác biệt trong kiểu bố trí, trong cách
thức làm ăn, trong văn hóa, lối sống, trong tổ chức cuộc sống và các sinh hoạt cộng đồng.
Càng đi vào Nam, tính cô lập, cách biệt giữa các làng càng giảm bớt. Làng miền Nam
thường trải dài theo các kênh rạch, đường giao thông, thuận lợi cho việc giao lưu trong một
vùng đất luôn có nền kinh tế hàng hóa khá phát triển. ở Nam Bộ, người Việt chiếm
khoảng 80% dân số và sống trong các làng gọi là ấp. ấp Nam Bộ không hoàn toàn giống
với làng ở miền Bắc: không có hoặc có rất ít ruộng đất công, các quan hệ xóm ấp và luật
tục không phức tạp và chặt chẽ, nên quan hệ giữa người với người thoáng hơn, rộng rãi
hơn. Cư dân có thể dễ dàng di chuyển từ ấp này qua ấp khác để làm ăn, ít phân biệt chính
cư và ngụ cư. Cuộc sống ở ấp Nam Bộ không khép kín. Trong điều kiện kinh tế hàng
hóa, giao thương phát triển, người dân Nam Bộ dễ chấp nhận cái mới, dễ hòa nhập hơn
vào các cộng đồng. Văn hóa của ấp Nam Bộ về cơ bản là văn hóa tổng hợp hài hòa của
cả toàn cộng đồng cư dân miền Nam Bộ, trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam. Tất
cả những điều đó đều được phản ánh trong ý thức của người dân ấp Nam Bộ nói chung
và tâm lý cộng đồng ở đây nói riêng.
Như vậy, việc chọn đơn vị làng làm cơ sở xây dựng nông thôn mới theo định
hướng XHCN, chính là chúng ta đã trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc trong ý nghĩa
chân chính của nó. Chúng ta không chỉ tôn trọng những di sản văn hóa của quá khứ mà
còn biết phát huy những giá trị truyền thống của cha ông phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Văn hóa làng là một môi trường văn hóa tiềm ẩn nhiều sắc thái, bao quát gần như
toàn bộ những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc. ở đó, các thành tố, các giá trị văn hóa
dân tộc được sinh thành, lưu giữ và trao truyền tới mỗi cá thể và cả cộng đồng từ thời đại
này sang thời đại khác như một dòng chảy không ngừng.
1.2.2. Quan niệm về văn hóa làng
Văn hóa làng, hàm chứa nhiều nội dung rất phong phú và đa dạng, tạo nên bức
tranh đa sắc của văn hóa dân tộc. Có thể coi văn hóa dân tộc Việt Nam là một đại lượng lớn
được tạo nên bởi văn hóa làng - những đại lượng nhỏ. "Văn hóa làng xã Việt Nam có vị
trí quan trọng trong diễn trình lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc. Nó luôn luôn bảo
tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nuôi dưỡng sức sống trường tồn của văn hóa dân
tộc" [31, tr. 7].
Văn hóa làng Việt Nam qua hàng ngàn năm phát triển với các bản sắc có giá trị
thực sự là một nền văn hóa của nhân dân và trở thành bộ phận ổn định nhất của văn hóa
dân tộc.
Vậy, văn hóa làng là gì? Theo nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân trong công trình
Văn hóa làng và làng văn hóa thì "văn hóa làng có thể hiểu một cách khái quát nhất là
bản sắc riêng của làng, là toàn bộ cuộc sống của làng với những đặc điểm mang tính
truyền thống từ ăn, ở, đi lại, mọi hoạt động, cách tổ chức, những quy ước, lối ứng xử,
những phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng cho đến cả tâm lý của mọi thành viên
trong làng với những đặc trưng riêng của nó" [63, tr. 16].
Xét tổng thể ở nước ta không có sự đối lập văn hóa giữa làng với làng, giữa làng
với nước. Mặc dù, giữa làng này với làng khác có nhiều nét khác nhau trong tập quán, cả
giọng nói song đó chỉ là sắc thái. Giao lưu văn hóa đã làm cho văn hóa làng có nét chung,
đồng dạng về tư tưởng, về tín ngưỡng, về kiến trúc, điêu khắc, giáo dục và thẩm mỹ
Từng khu vực cư trú có những yếu tố, những sắc thái văn hóa khác nhau, vùng Nam Bộ
khác vùng Bắc Bộ, nhưng cấu trúc tổng thể văn hóa làng tương đối giống nhau. Chúng ta
có thể tán thành quan điểm của nhà nghiên cứu Thu Linh, khi cho rằng: "Văn hóa làng là
một nền văn hóa thuộc về cộng đồng và mang tính chất cộng đồng. Chủ thể làng, tập thể
làng chính là tác giả, là người tạo dựng, sáng lập nên nền văn hóa ấy. ở Việt Nam, một
làng với tư cách là một làng, được xác định không chỉ qua địa bàn cư trú, hoạt động
nghề nghiệp, lịch sử hình thành, kết cấu kinh tế, quan hệ xã hội, mà còn qua cả sinh hoạt
văn hóa có bản sắc riêng của nó nữa" [51, tr. 110].
Do vậy, văn hóa làng là một trong những tiêu chí hàng đầu để xác định và phân
biệt diện mạo của làng này với làng khác. Người sáng tạo ra những giá trị của văn hóa
làng chính là những thành viên của làng. Họ chính là những người vừa tham gia sáng tạo,
vừa tổ chức thực hiện và cũng đồng thời là người chiêm ngưỡng, hưởng thụ những giá trị
văn hóa do chính bản thân mình gây dựng nên. Chính vì vậy, tính nhân dân của văn hóa
làng càng được tô đậm ở tính chất cộng đồng, tính tập thể của nó. Làng là chủ thể tập thể
của văn hóa và thông qua văn hóa làng chúng ta có thể khám phá ra diện mạo văn hóa
chung của cả làng. Đây cũng chính là điều khá lý thú để phân biệt làng này với làng khác
nhằm khẳng định "cái ta" của làng mình. Sự khẳng định và phân biệt này chưa phải đã
đạt tới một trình độ khác về chất. Song, thông qua những biểu biện dù nhỏ vẫn có thể
thấy rõ người nông dân đã có ý thức trong sự khẳng định và phân biệt này.
Khi đưa ra quan niệm về văn hóa làng không thể không khẳng định tính truyền
thống của nó. Nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân đã nhấn mạnh: "Trong nội dung văn hóa
làng, chúng tôi rất lưu tâm đến tính chất truyền thống. Nói truyền thống ở đây, không nên
hiểu đơn giản là những cái thuộc về quá khứ, xa xưa và do đó đi đến chỗ cho rằng, nó
trở nên lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với hiện tại mà chính là những cái đã được
thử thách qua thời gian, là chuẩn mực toàn thể cộng đồng đã lựa chọn, bảo lưu, giữ gìn
và phát triển nó. Mọi sự vận động bao giờ cũng tuân theo quy luật. Mà khi nói đến quy
luật, tức là phải có sự lặp đi lặp lại. Không như xưa kia con người cần phải có nhân
nghĩa, phải "uống nước nhớ nguồn" còn bây giờ chúng ta không cần những thứ đó "
[63, tr. 33]. Điều đó khẳng định rằng, tính truyền thống tức là những giá trị có tính ổn
định, những cái thuộc quy luật, xưa cũng như nay, cần được bảo vệ và trách nhiệm là
phải phát huy nó, "làm cho nó ngày một đa dạng và phong phú tốt đẹp hơn" [31, tr. 8].
Tổng thể những giá trị của văn hóa làng được biểu hiện qua hàng loạt các nhân tố
vừa biểu hiện vừa trầm tích, vừa dễ bắt gặp vừa ẩn chứa trong mình chúng sự khúc xạ phong
phú và đa dạng. Chính vì thế, chúng ta có thể có nhiều cách tiếp cận để phác họa được cấu
trúc của văn hóa làng. Trong luận văn này, chúng tôi tiếp cận văn hóa làng thông qua sự
biểu hiện của các thành tố.
Thành tố đầu tiên - nổi bật nhất cần đề cập đến trong văn hóa làng chính là thái
độ nghiêm túc, cầu tiến trong việc tạo ra môi trường học tập thuận lợi cho con cháu trong
làng.
Sự ra đời những lớp học, trường học do làng đứng ra thành lập và do một người
có học vấn - hoặc là thành viên của làng hoặc được mời từ nơi khác đến để dạy bảo cho
con cháu trong rất nhiều làng để cho chúng biết làm người, biết ăn ở có nghĩa, có tình, có
nhân, có đức đã in đậm tính nhân bản trong văn hóa làng.
Trình độ học vấn của làng này so với làng khác được thể hiện qua số người đi
học và đỗ đạt, trở thành ông nghè, ông cống và những lễ đón họ vinh quy như những
ngày hội tưng bừng náo nhiệt của cả làng. Đây là một nội dung in đậm bản sắc văn hóa
của làng Việt.
Làm nông nghiệp với trình độ kỹ thuật thô sơ như thời trước thì cần có nhiều
nhân lực. Gia tộc gồm nhiều người ở các thế hệ khác nhau trong một/ nhiều nhà, do đó có
vai trò quan trọng hơn là gia đình hạt nhân. Các cụ trước đây, và cả đến ngày nay, rất tự
hào vì con đàn cháu đống, nhất là có đến bốn thế hệ sống chung dưới một mái nhà (tứ đại
đồng đường). Điều này phản ánh hai sở nguyện lớn; ngoài việc có nhiều nhân lực để làm
ruộng, còn có sở nguyện làm cho con cháu kế tục nền nếp gia phong, khẳng định và làm
rạng danh tông tộc đến muôn đời. Dân gian có câu:
"Con nhà tông
không giống lông cũng giống cánh"
"Con hơn cha là nhà có phúc"
Đó là người ông, người bố muốn con cháu mình không chỉ là bản sao chân thực
của chính mình mà còn muốn nó không ngừng tiến bộ để làm rạng danh cho tông tộc và
để đời đời nối dõi tông đường. Quan hệ gia tộc là quan hệ hàng dọc, tạo ra tính tôn ti
nghiêm ngặt, khép kín. Dù về sau, khi đại gia đình vỡ ra thành những gia đình hạt nhân
thì ý thức gia tộc vẫn có một tác động quan trọng trong nếp ứng xử của con người vốn
sống với đồng ruộng. Nhà thờ họ, giỗ họ là những nơi, những lúc các thành viên trong gia
tộc có dịp suy ngẫm sâu sắc về bản thân mình, tưởng nhớ đến công ơn, lời dạy của các
bậc tiên tổ để giữ gìn, kế tục và phát triển gia phong.
Trong tâm thức, người Việt luôn hướng về tổ tiên, những người có công trạng đối
với gia đình mình, làng mình, đất mình. Đình làng là nơi "linh thiêng" nhất đáp ứng được
nhu cầu của cộng đồng người ở làng. Hướng đình, vị trí, qui mô to nhỏ, kiểu cách kiến
trúc của nó được xác định và xây dựng trên cơ sở của điều kiện phong thổ, điều kiện vật
chất do các thành viên trong làng đóng góp và tài năng vận động, quyên góp tổ chức của
lão ông, lão bà, của những nhóm, những cá nhân có điều kiện. Đình miếu tồn tại với cội
rễ vững chắc: "Qua đình ngả nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói ta thương mình bấy
nhiêu" hay "Trúc xinh, trúc mọc đầu đình. Em xinh em đứng một mình cũng xinh".
Người Việt hướng về tổ tiên, biết ơn tổ tiên. Vì "tin vào người khuất mặt, dẫu là
tạm thời, là điều tự nhiên. Đón rước năm mới, đêm giao thừa người chủ nhà trong giây
phút lạc quan, tin vào sự phò trợ của người khai sáng dòng họ và trời đất. Ngày đầu
năm, cổng đình miếu như là phận sự mà không pháp luật nào bắt buộc, để thấy mình gắn
liền với cộng đồng dân tộc, chè chén say sưa dịp tết chỉ làm thỏa mãn thể xác. Muốn
vươn đến tương lai, con người phải đứng vững trên cơ sở quá khứ. Nhân hư đạo bất hư.
Đến đình làng, nào chỉ vì mến mộ, quen thân với những người phụ trách tế lễ, họ có đức
hạnh thì ta tôn trọng, bằng không thì ta bỏ qua. Ta muốn làm trọn phận sự của con người
trước đất nước và vũ trụ, trong hệ thống Thiên, Địa, Nhân, lắm khi linh cảm nhưng
không lý luận được, để rồi lo làm ăn, buôn bán" [60, tr. 22-23].
Triết lý này hướng con người tới thực hiện cái thiện. Và thông qua đó con người
suy ngẫm về quá khứ nhằm mục đích "lo làm ăn, buôn bán" ở
hiện tại.
Trong tổng thể văn hóa làng, đời sống văn hóa tinh thần luôn được duy trì và có
khả năng thâm nhập vào mọi ngõ ngách sâu thẳm của mỗi con người. Đó là những buổi,
những đêm hát đối của những thành viên của phường nón, phường vải, là những cảnh
nông dân vừa làm cỏ lúa, vừa hát cò lả, hát ví, hát trống quân, vừa chèo thuyền trên sông
vừa hò hụi, vừa kéo gỗ, vừa dô ta. Sinh hoạt văn hóa làng có tác dụng một mặt làm đẹp,
làm vui, làm trẻ cho cả cộng đồng làng và những hoạt động chủ đạo của nó. Song mặt
khác, tính chất cộng đồng của văn hóa làng thể hiện là một nền văn hóa chưa được tách
phân, chưa được chuyên môn hóa. Nó hòa quyện, đan xen vào các lĩnh vực khác trước
hết là hoạt động sản xuất vật chất, chứ không phải là sản xuất tinh thần với đầy đủ ý
nghĩa của khái niệm này. Những người tham gia biểu diễn, diễn xuất chính là những
người dân trong làng lấy sản xuất nông nghiệp làm công việc chủ đạo. Sinh hoạt văn hóa
cũng chỉ là một dạng "hoạt động kép" mang tính chất bổ sung chứ chưa phải là một công
việc chuyên nghiệp. Những người tham gia các phường, các hội có liên quan đến sinh
hoạt văn hóa cũng vẫn là những người dân trong làng. Hát xoan, hát chèo, hát tuồng, tế
lễ, rước sách, chạy cờ, đánh trống, khiêng kiệu cũng vẫn là những người nông dân "một
nắng hai sương", chân lấm tay bùn" Kỹ năng, kỹ xảo nổi bật ở họ là cầy cấy, gặt hái,
trồng tỉa chứ chưa phải là hát hay, múa giỏi, diễn tài.
Sinh hoạt mang tính hoành tráng nhất, sinh động nhất ở làng chính là hội làng.
Với ngày hội làng, cái đẹp của lời ăn tiếng nói, cái đẹp của khuôn mặt, của quần áo mới có
dịp được bộc lộ, những khác biệt vừa tinh tế, vừa sắc sảo của cá nhân mới có dịp được phô
diễn trước cộng đồng. Và, cũng chỉ qua hội làng, tất cả những gì còn ở dạng tiềm ẩn,
hoặc vừa phôi thai mới có dịp được biểu hiện và thi thố. Đó chính là giọng hát bổng trầm
trong những làn điệu dân ca, là tài đối đáp; là tố chất nhanh nhẹn, mưu trí, dẻo dai trong
những cuộc thi cờ, đấu vật Nếu ngày thường chúng được bộc lộ một cách thầm lặng thì
trong ngày hội làng được biểu hiện với tất cả dáng vẻ riêng và bản sắc riêng.
Những đêm hội trống chèo róng rả, nhặt khoan cũng là tiếng gọi cư dân các làng
lân cận đến chia vui, thưởng thức lan tỏa ra khắp các làng quê. Sân đình là nơi diễn ra lễ
hội, ngoài phần tế lễ, chẳng bao giờ có ranh giới phân chia đâu là chỗ của người làng
mình, của dân làng lân cận. Tất cả đều hòa đồng trong niềm vui lễ hội, trong niềm vui
văn hóa hào hùng và rực sáng. Vì thế, những hội mà ý nghĩa của nó vượt ra khỏi ranh
giới của làng thì có khả năng dần dần trở thành hội lễ của toàn quốc và được gọi là quốc
lễ. Từ những hội ban đầu xuất hiện ở một làng thuộc một địa phương và từ các vị thần
linh được thờ riêng ở một làng đã trở thành những sự kiện văn hóa có tính chất toàn quốc
- Hội đền Hùng, Hội đền Gióng, hội đền Hai Bà, hội đền Kiếp Bạc, hội đền Hoa Lư là
những bằng chứng như thế.
Các truyện cổ dân gian được các làng bảo lưu, truyền tụng và bổ sung đều có
quan hệ đến cương thường, phong hóa và thái độ hoặc ngợi ca, trân trọng, hoặc trách cứ,
chê bai đối với tất cả những gì là đạo đức và vô đạo đức, góp phần làm cho phong tục
thuần hậu, làm cho nhân dân được coi trọng. ứng xử theo tinh thần đạo đức ấy phải có
trước, có sau, có trên, có dưới theo quan niệm huyết thống, quan hệ tuổi tác, quan hệ chức
tước chẳng những được ghi trong hương ước của từng làng, mà còn được cụ thể hóa, chi
tiết hóa bằng những lễ thức và những hành động cụ thể. Đạo đức thành văn và không
thành văn trong văn hóa làng đã tạo dựng và củng cố cho những quan hệ hài hòa bền chặt
giữa người với người từ thủa xa xưa và được duy trì cho đến ngày hôm nay.
Mặt khác, văn hóa làng cũng phản ánh trình độ phát triển nhất định về phương
diện thẩm mỹ. Cái đẹp ở đây thể hiện sự hài hòa của những quan hệ người với người,
người với thiên nhiên, người với môi trường. Các công trình công cộng như: đình chùa,
miếu mạo, , các tượng Phật, tượng Thần, những chú voi, chú nghê, chú ngựa, những
hình khối, những nét chạm khắc , vừa được thể hiện với nghệ thuật tinh vi, tượng trưng
và cách điệu, lại vừa phản ảnh những nếp nghĩ, nếp cảm của một tâm hồn bình dị, hồn
nhiên gắn kết với nhau và gắn kết với cuộc sống đời thường. Tính chất bình dị, tự nhiên
còn được thể hiện cả trong việc chế tác các nhạc cụ mà người nông dân thường tự tay làm
lấy để sinh hoạt hát múa. Bộ kèn hơi, bộ gõ, mõ, thanh ba, bộ đàn dây, đàn tranh, đàn cò,
đàn nguyệt cũng đều được làm ra từ gỗ, tre, nứa, từ kim loại sẵn có trong tự nhiên.
Những sắc màu được sử dụng trong các làng làm tranh dân gian cũng là những gam màu
đẹp tự nhiên; là chất liệu lấy từ đất đá, cỏ cây, hoa lá. Màu xanh của mạ, màu vàng của
lúa, màu hồng của hoa sen và màu tím hoa sim được đưa vào tranh để vẽ nên đàn gà, đàn
lợn âm dương, những đám cưới chuột, vợ hứng dừa ý niệm và tính tưởng tượng, biểu
cảm và tư duy về đất trời, về hạnh phúc, về sự sinh sôi và phát triển, về nỗi đau và niềm
vui sướng của con người thấp thoáng sau những âm thanh và màu sắc đầy dáng vẻ tự
nhiên và dung dị. Tất vả đều xoắn xuýt, sum vầy, đoàn tụ trong sinh hoạt của cả cộng
đồng làng vừa thanh bình vừa dân dã.
Nghiên cứu văn hóa làng - văn hóa ngôn từ, văn chương truyền miệng, phong
tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo , nghiên cứu cơ cấu xã hội, môi trường xã hội
Việt Nam trong văn hóa Việt Nam, nhiều học giả cho rằng chính "chủ nghĩa gia tộc" là
cái giải thích tinh thần trọng đạo đức của người Việt Nam, là hệ quy chiếu của mọi giá
trị, chuẩn mực. Giá trị tiềm tàng của hệ quy chiếu này giúp để chúng ta phát huy và phát
triển những giá trị đạo đức mới trong thời đại ngày nay.
Trong bức tranh toàn cảnh của văn hóa làng, hương ước là một thành tố không
thể thiếu được.
Mỗi làng - xã Việt Nam có một bản sắc riêng làm nên tính đa dạng phong phú,
nên hương ước cho chúng ta một bức tranh nhiều màu vẻ về sinh hoạt tại các làng xã Việt
Nam cổ. Một đặc trưng hiếm thấy là, trong số lượng lớn hương ước (một số đã xuất bản
thành sách, lưu trữ ở Viện Hán Nôm và Viện Thông tin khoa học xã hội) thì hương ước
của mỗi làng xã không bao giờ trùng lặp nhau về nội dung. Mỗi hương ước đều ẩn chứa
tính đa dạng, tính linh hoạt, tính đặc trưng trong tâm tính người Việt ở mỗi vùng đất khác
nhau. GS Đinh Gia Khánh cho rằng, hương ước "là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến
tổ chức xã hội cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành dần trong
lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết" [44, tr. 62].
Hương ước gồm các điều hay qui ước về nhiều mặt của đời sống làng xã như: cơ
cấu tổ chức và các quan hệ xã hội, sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường, thờ cúng,
khuyến học, bảo đảm nghĩa vụ với Nhà nước, bảo vệ an ninh Những qui ước đó được
tuân thủ qua nhiều thế hệ, trở thành những "thông lệ pháp lý" và là "cương lĩnh" về nếp
sống của từng cộng đồng cư dân Việt ở nông thôn, một công cụ để điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, một tri thức dân gian về quản lý cộng đồng.
Có thể nhận thấy trong bối cảnh hiện nay, sức sống tiềm tàng của văn hóa làng
đang từng ngày được hồi sinh và phát triển phù hợp với nguyện vọng chính đáng của mỗi
người dân nói riêng và cả cộng đồng dân tộc nói chung. Sức sống bền bỉ của văn hóa làng
là dòng chảy không bao giờ cạn trong tâm thức của mỗi con người, và vì thế có thể cho
rằng: "Văn hóa làng là một bộ phận tích hợp các năng lực, tính cách, tâm tư, nguyện
vọng, hoài bão, thị hiếu của mọi người dân trong thiết chế làng và có sức sống mãnh liệt
trong tâm thức của con người từ quá khứ đến hiện tại và tương lai của dân tộc Việt
Nam". Nó là nguồn nội sinh quan trọng trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, phát
triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta.
1.3. quan niệm về Làng văn hóa
Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa làng trong
thời đại mới. Văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng làng văn hóa một cách
vững chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng minh, trong quá khứ lịch sử cũng
như hiện tại và tương lai, làng luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước, là nơi lưu giữ trường tồn những giá trị vật chất, tinh thần và bản sắc
văn hóa dân tộc.
Việc xây dựng làng văn hóa là nhằm phát huy cao độ những giá trị vốn có của
văn hóa làng theo định hướng XHCN, đáp ứng được ước mơ, nguyện vọng chính đáng
của mọi người dân. Đây là cơ sở để hạn chế đẩy lùi những yếu kém đang tồn tại trong
môi trường xã hội nói chung và môi trường văn hóa ở làng quê nói riêng. Có thể nhất trí
với quan niệm của nhà nghiên cứu Hoàng Anh Nhân khi ông cho rằng:
"Làng văn hóa được hiểu như là một mô hình mang tính chủ quan, gắn bó với
tính chủ quan của con người mà nội dung của nó bao hàm sự toàn vẹn về mọi mặt trên
cơ sở những đặc điểm tích cực nhất. Về mặt lý thuyết, nếu như văn hóa làng còn có thể
tồn tại những mặt hạn chế thì làng văn hóa phải được hiểu hoàn toàn ngược lại" [63, tr.
44].
Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành
mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ bản của nông dân, có hệ
thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn
kết và ổn định trong nông thôn, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng an
ninh cần phải đặc biệt chú trọng đến nội dung xây dựng làng văn hóa. Bộ Văn hóa - Thông
tin mà trực tiếp là Cục văn hóa Thông tin cơ sở đã đưa ra 4 tiêu chuẩn để công nhận làng văn
hóa là:
"Một làng (thôn, bản, ấp) được công nhận là làng văn hóa cần phải phấn đấu
thực hiện các tiêu chuẩn sau:
a) Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển.
b) Có đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú.
c) Có môi trường cảnh quan sạch đẹp.
d) Thực hiện tốt pháp luật và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước" [39, tr. 66].
Trên cơ sở các tiêu chí lớn nói trên của Bộ Văn hóa - Thông tin, theo chúng tôi,
một làng văn hóa được xây dựng trên cơ sở đảm bảo các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất kinh doanh phát triển, đời
sống nông dân ngày càng được nâng cao.
Đây là nhân tố hàng đầu để huy động rộng rãi nhân dân tham gia cuộc vận động
xây dựng làng văn hóa. Căn cứ vào điều kiện cụ thể và thế mạnh của từng nơi, các cấp ủy
Đảng và chính quyền cần xác định cơ cấu kinh tế của địa phương mình cho phù hợp.
Trên cơ sở cơ cấu kinh tế đã được xác định, từng địa phương tiến hành chỉ đạo
các ngành, các cấp khai thác triệt để các nguồn lực, quyết định cơ cấu vốn đầu tư và động
viên nhân dân ra sức phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng từng bước tạo ra cơ cấu
kinh tế hợp lý, tạo ra nguồn lực mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
Trong những năm qua, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn nông
thôn, các cấp lãnh đạo đã và đang hỗ trợ người lao động đẩy mạnh thâm canh tăng vụ,
tích cực sử dụng các loại giống mới, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi. Mặt khác,
chú ý sản xuất tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích và hỗ trợ khôi phục các làng nghề
truyền thống, thúc đẩy mở rộng các hoạt động thương mại, dịch vụ phục vụ sản xuất và
sinh hoạt. Nhờ vậy, kinh tế ở nhiều làng đã có những chuyển biến rõ rệt, đời sống của
nhân dân từng bước được cải thiện. Theo số liệu điều tra mức sống dân cư của Tổng cục
thống kê ở xã năm 1997-1998 so với năm 1992-1993 phân theo 7 vùng kinh tế như sau:
Bảng 1.1: Mức sống phân theo vùng kinh tế năm 1997 - 1998
Đơn vị tính: %
Khá lên Giảm đi Như cũ
Chung cả nước 94,80 4,32 0,88
1. Nông dân miền núi, trung du Bắc Bộ 97,77 0,00 223
2. Nông thôn đồng bằng sông Hồng 100,0 0,00 0,00
3. Nông thôn Bắc Trung Bộ 93,65 0,00 6,35
4. Nông thôn Duyên hải miền Trung 89,37 11,63 0,00
5. Nông thôn Đông Nam Bộ 100,0 0,00 0,00
6. Nông thôn Tây Nguyên 100,0 0,00 0,00
7. Nông thôn đồng bằng sông Cửu Long 92,21 7,79 0,00
Nguồn: [93, tr. 12].
Rõ ràng, những năm gần đây mức sống của dân cư đã được nâng lên. Phong trào
đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới ở các làng xã nước ta đang được
đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng. Theo đó việc vận động xây dựng làng văn
hóa đã huy động được cả nhân lực, vật lực, tài lực của các cá nhân và cộng đồng cho hoạt
động của phong trào. Các địa phương cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa lợi thế này để quá
trình xây dựng làng văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu và đạt kết quả cao hơn.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của cuộc
vận động xây dựng làng văn hóa.
Khác với công chức Nhà nước, cán bộ xã có sự kết hợp chặt chẽ cả
bốn yếu tố: người dân, người cùng họ hàng, người đại diện của cộng đồng và người đại
diện cho Nhà nước ở địa phương. Bốn yếu tố này vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, xung
đột nhau trong con người cán bộ xã, chi phối các hoạt động của họ, nhất là trong việc giải
quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Một thực tế đáng quan tâm là, cán bộ xã nói chung chưa được đào tạo cơ bản về
văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ. Hầu hết cán bộ trưởng thành trong số những thanh niên
"không thoát ly được", hoặc là bộ đội xuất ngũ và một số ít cán bộ Nhà nước đã nghỉ
hưu. Do vậy, trình độ kiến thức và năng lực công tác còn yếu về nhiều mặt. Số cán bộ cơ
sở có trình độ văn hóa dưới phổ thông cơ sở chiếm khoảng 50%, trong đó ở một số nơi
(vùng sâu, vùng xa) còn một số cán bộ mới thoát nạn mù chữ, cá biệt có cán bộ chưa đọc
thông, viết thạo. Do vậy, năng lực tổ chức các hoạt động còn lúng túng chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn. Mặt khác, đội ngũ cán bộ cơ sở ngày càng tăng làm cho bộ
máy quá cồng kềnh. Trong cả nước với 10.500 đơn vị cơ sở có tới trên 2 triệu cán bộ xã,