LUẬN VĂN:
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Bước sang thế kỷ XXI, xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới là
bằng mọi cách khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân tộc để hội nhập quốc tế và phát
triển hợp lý, phù hợp với xã hội hiện đại. Để làm được điều đó, nhiều nước đã tìm về
di sản văn hoá (DSVH), bởi DSVH chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm
tàng to lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và
phát huy trong xã hội hiện đại. Văn hoá là tiềm lực tinh thần to lớn của mỗi dân tộc,
thể hiện ra ở những giá trị hàm chứa trong vốn DSVH dân tộc được tích luỹ theo thời
gian lịch sử. DSVH dân tộc giống như một nguồn lực kép: nguồn lực vật thể (hữu
hình) và nguồn lực phi vật thể (vô hình). DSVH trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế
đi vững chắc cho hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay.
Trải qua hàng ngàn năm, những giá trị DSVH phi vật thể và DSVH vật thể Việt
Nam vẫn hiện diện như muôn trùng con sóng cuộn chảy trong dòng sông văn hoá
truyền thống của dân tộc.
Kế thừa di sản quá khứ là quy luật phát triển tất yếu của văn hoá. Muốn kế thừa
và phát huy DSVH thì trước hết cần phải nghiên cứu, tiếp cận mọi phương diện lý luận
về DSVH dân tộc. Đó là một đòi hỏi bức xúc về phương diện lý luận mà quá trình
nghiên cứu đề tài “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
(qua thực tế một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)” có thể tìm được những phương án giải
trình một cách có hệ thống, hợp lý và logic.
Mặc dù chỉ nghiên cứu về DSVH ở đồng bằng Bắc Bộ nhưng đề tài vẫn có
điều kiện hệ thống hoá, bao quát và đi sâu hơn về một số vấn đề lý luận DSVH đương
đại, đóng góp chung vào những thành tựu lý luận về lĩnh vực này.
1.2. Trong xu thế giao lưu hội nhập và toàn cầu hoá hết sức sôi động hiện nay,
vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH lại càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm gìn
giữ và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, để hội nhập mà không bị hoà tan.
DSVH nước ta giống như một kho báu của quá khứ cần phải được kế thừa một
cách khoa học, tích cực, có chọn lọc đúng đắn để tiến hành xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII” của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải
nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người
Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm lối sống, xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội. Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo
đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di
tích lịch sử, văn hoá danh thắng của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và
mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn
hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự
hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp cho nền văn
hoá Việt Nam”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vấn đề
bảo tồn phát huy DSVH dân tộc trong sự nghiệp phát triển văn hoá, nền tảng tinh thần
của xã hội: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hoá
nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát
huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn
hoá với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”.
Xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng, việc thực hiện đề tài nghiên cứu
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (qua thực tế một số
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)” là một hoạt động có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và ý nghĩa thời
sự cấp bách đối với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, đối với các vùng miền cả
nước nói chung.
1.3. DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ có vị trí trọng yếu trong toàn bộ không gian
DSVH phía Bắc nước ta - một vùng văn hoá lâu đời, tiêu biểu cho văn hoá dân tộc
Việt Nam từ ngàn xưa, bao gồm nhiều tiểu vùng văn hoá mở rộng theo đồng bằng Bắc
Bộ, trải dài theo sông Hồng cùng với hệ thống sông ngòi phía Bắc và vùng châu thổ
rộng lớn.
Nghiên cứu, khảo sát DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ sẽ giúp chúng ta khai
thác, tiếp cận những vỉa tầng quan trọng hàng đầu của văn hoá Việt Nam trong tiến
trình lịch sử. Đây là một trong những “địa chỉ” trọng điểm cất giữ những vẻ đẹp tinh
hoa nhất, cốt lõi nhất của văn hoá nước ta. Bởi vậy, muốn xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, cần phải nghiên cứu, kế thừa, bảo
tồn và phát huy DSVH đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, DSVH Việt Nam nói chung.
1.4. Vừa qua, hoạt động bảo tồn, kế thừa và phát huy DSVH đã diễn ra rất đa
dạng tại các địa phương vùng đồng bằng Bắc Bộ. Theo đó, tình hình CNH, HĐH, giao
lưu hội nhập quốc tế ngày càng sôi động, vừa có thời cơ lại vừa có những thách thức
không nhỏ đối với hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hoá. Đã đến lúc cần phải
thực hiện một công trình nghiên cứu chuyên biệt, nhằm khảo sát thực trạng bảo tồn và
phát huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, tìm ra
những thành tựu và hạn chế của hoạt động này, kiến nghị và đề xuất những phương
hướng và giải pháp có tính khả thi, nhằm bảo tồn và phát huy tốt hơn DSVH đồng
bằng Bắc Bộ giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ của hoạt động bảo tồn, phát huy DSVH với quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, hướng tới xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực
trạng bảo tồn và phát huy DSVH ở một số tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ thời gian qua
(bao gồm các tỉnh Hà Tây (cũ), Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh).
Đề tài sẽ cố gắng làm nổi rõ những thành tựu, những mặt tồn tại trong các hoạt
động nêu trên, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, đồng thời đề ra
phương hướng và giải pháp hiệu quả nhất, nhằm bảo tồn và phát huy DSVH trong giai
đoạn tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH tại đồng bằng Bắc Bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Vận dụng các quan điểm mác xít, quan điểm lý luận của Đảng và chính sách
của Nhà nước, những quan niệm của nhân loại tiến bộ về bảo tồn và phát huy DSVH,
kết hợp với những kết quả nghiên cứu tổng kết thực tiễn, đề tài thuyết minh sáng rõ về
mối quan hệ, vai trò của hoạt động bảo tồn, phát huy DSVH với quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
- Khảo sát, điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, phát huy
các DSVH vật thể, DSVH phi vật thể tại một số tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ (chủ yếu
là ở Hà Nội, Hà Tây cũ, Hải Dương và Bắc Ninh) trên các mặt thành tựu, hạn chế, tìm
ra những nguyên nhân dẫn đến thực tiễn đó.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát
huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, đóng góp
những tư liệu cần thiết để hoàn thiện thêm chính sách bảo tồn và phát huy DSVH dân
tộc phù hợp với những đòi hỏi từ thực tiễn của đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, trong
phạm vi cả nước nói chung.
- Qua nghiên cứu, đề tài bước đầu giới thiệu kinh nghiệm thành công của một
số quốc gia trên thế giới về lĩnh vực bảo tồn phát huy DSVH trong phát triển kinh tế
xã hội hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
- Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá, đề tài tiếp cận một
cách có hệ thống những tiền đề lý luận về DSVH, về bảo tồn di sản văn hoá và phát
huy DSVH.
- Theo đó, đề tài nghiên cứu, vận dụng hợp lý những thành tựu về lý luận
DSVH của thế giới đương đại vào thực tiễn nghiên cứu như:
+ Quan niệm của UNESCO về văn hoá và DSVH, về kế thừa, bảo tồn và phát
huy DSVH, về vai trò chức năng của DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển
của văn hoá mỗi dân tộc.
+ Những thành tựu về lý thuyết vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá của giới
nghiên cứu văn hoá học trên thế giới đầu thế kỷ XXI.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phân tích - Tổng hợp tài liệu văn bản
Đề tài sẽ nghiên cứu những văn bản, tài liệu liên quan đến nội dung nghiên
cứu:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hoá, về DSVH, luật
DSVH, về bảo tồn và phát huy DSVH.
- Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về DSVH vật thể, DSVH phi vật
thể.
- Các công trình nghiên cứu, sưu tầm trong nước về DSVH vật thể, DSVH phi
vật thể Việt Nam nói chung, vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
* Điều tra xã hội học, quan sát, khảo tả: phỏng vấn sâu (các nghệ nhân, các
nhà quản lý, cán bộ chuyên trách, người dân tại các vùng miền), bảng hỏi (tổng thể,
chi tiết), thống kê, phân loại
* Lịch sử - Logic: nghiên cứu, phán đoán, suy luận, thuyết minh những cơ sở
lịch sử xã hội hình thành nên DSVH.
* So sánh văn hoá: Đối chứng vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá ở đồng bằng
Bắc Bộ theo hai chiều lịch đại và đồng đại để tìm ra những nét đặc sắc.
* Phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh - Điểm yếu - Thời cơ - Thách
thức: Stengths, Weaknesses, Opportunities, Threatts)
4. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nói tới văn hóa người ta thường đề cập ngay tới di sản văn hoá (Cultural
heritage). Diện mạo văn hoá dân tộc trước tiên dễ nhận ra chính là những tài sản văn
hoá đời trước để lại cho đời sau. Vẻ đẹp giá trị của DSVH giống như những lớp vàng
ròng trầm tích kết đọng thành đồng bằng châu thổ đôi bờ con sông văn hoá miệt mài
uốn lượn qua những bến bờ thời gian. Có lẽ vì thế mà khi nghiên cứu văn hoá, DSVH
là một lĩnh vực được giới nghiên cứu trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm tìm hiểu
trước tiên và khảo sát ở nhiều cấp độ khác nhau trên các phương diện lý thuyết cũng
như thực tiễn.
* Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hoá và di sản văn hoá
Vào thời gian nửa sau thế kỷ XX, các tổ chức quốc tế như UNESCO, UNDP đều nỗ
lực nghiên cứu đánh giá tiềm năng quá khứ của nhân loại, đặc biệt là về di sản văn hoá.
UNESCO chia di sản văn hoá thành hai loại: di sản “văn hóa vật thể” (tangible culture) và
di sản “văn hoá phi vật thể” (nonphysicalculture).
Trên thế giới nhiều học giả đã nghiên cứu khái niệm Di sản văn hoá (Cultural
heritage). Abraham Moles quan niệm DSVH như một “mã di truyền xã hội”, một thứ
“ký ức tập thể”. Feredico Mayor hình dung DSVH như một “hệ thống các giá trị”,
những nhân tố hình thành nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Người Nhật quan niệm giá trị văn hoá như một thứ tài sản - “tài sản văn hoá”
(Cultural propeties) và họ chia di sản văn hoá thành hai loại: tài sản văn hoá “hữu
hình” và tài sản văn hoá “vô hình”. Các thuật ngữ vật thể, phi vật thể, vô hình, hữu
hình giờ đây được sử dụng rộng rãi trên thế giới khi nói về di sản văn hoá.
Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể: Hướng
đến Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19 đến 23/10/2004,
Tuyên bố Yamato về Phương pháp tiếp cận tổng thể trong bảo vệ di sản văn hoá vật
thể và phi vật thể đã được thông qua. Với bản Tuyên bố này, các quan niệm về DSVH
đã được nhân loại định nghĩa cụ thể trên phương diện lý luận theo Công ước và Quy
chế của UNESCO. Đây là những quan niệm cụ thể nhằm giúp nhận diện một cách
đúng đắn khoa học về DSVH vật thể và phi vật thể trên thế giới.
Ở nước ta, nghiên cứu về DSVH trước tiên phải kể đến công trình Việt Nam
Văn hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh từ năm 1938 với quan điểm : “Ta muốn
trở thành một nước cường thịnh về vật chất, vừa về tinh thần thì phải giữ văn hoá cũ
(di sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hoá mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều
hoà tinh tuý của văn hoá phương Đông với những điều sở trường về khoa học của văn
hoá phương Tây”.
Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách Một số vấn đề về bảo tồn
và phát triển di sản văn hoá dân tộc. Trên cơ sở những quan niệm DSVH của quốc tế
và Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đồng thời bước đầu vận
dụng nghiên cứu DSVH nước ta. Năm 2002, Luật di sản văn hoá và văn bản hướng
dẫn thi hành được coi là văn bản pháp quy về DSVH.
Trong sách Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể do Bộ Văn hoá - Thể thao và Du
lịch phát hành năm 2007, GS,TS. Ngô Đức Thịnh (nguyên Viện trưởng viện Văn hoá
dân gian) đã bàn đến Văn hoá phi vật thể: Bảo tồn và phát huy. Trưởng Ban Di sản phi
vật thể Văn phòng UNESCO Pari - ông Rieks Smeets đã nghiên cứu về Bối cảnh,
nhận thức và quá trình xây dựng Công ước về bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể. Tổng
giám đốc ACCU- ông Sato Kunio đề cập đến Các chương trình của ACCU và tầm
nhìn về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể. Hai nhà nghiên cứu Trung Quốc là Cố
Quân & Uyển Lợi nghiên cứu về Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể và những quy tắc
nên theo. Partrik J. Bolyan nghiên cứu Di sản văn hoá phi vật thể, cơ hội và thách thức
đối với Bảo tàng và công tác đào tạo cán bộ chuyên môn bảo tàng.
Công trình Một con đường tiếp cận di sản văn hoá do Bộ Văn hoá - Thông tin
ấn hành, Hà Nội năm 2006 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý luận DSVH cũng
như thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho đề tài. Trong đó tiêu biểu nhất là
các bài: Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá (Vũ Quốc Hiền),
Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững (Lê Thành Vinh); Di tích
lịch sử và văn hoá đồng bằng sông Hồng (Đặng văn Bài); Bảo tồn, tôn tạo và xây
dựng khu di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm (Phan Huy Lê).
Sách Giữ gìn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc Tây Bắc do NXB Văn hoá
Dân tộc - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật phát hành có thể giúp người đọc có thể nhận
diện một số vấn đề lý luận về DSVH.
Trên Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2003, PGS, TS. Nguyễn Văn Huy đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá các
dân tộc hiện nay. Tác giả bài báo đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn của
công tác bảo tồn phát huy DSVH trên phạm vi cả nước.
Cùng hướng nghiên cứu này, Ngô Phương Thảo viết bài Bảo vệ di sản, cuộc
chiến từ những góc nhìn đăng ở Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 289 tháng 07/2008.
Bài viết đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo tác giả thì “Mỗi
ngày, di sản văn hoá càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ lụy của
cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách nhiệm phải gìn giữ các giá trị văn
hoá đã tồn tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong mỗi cộng
đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn trong việc gìn
giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể”.
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá đồng bằng Bắc Bộ.
Gần đây xuất hiện một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như Vai
trò của văn hoá trong Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông thôn vùng đồng bằng
sông Hồng do PGS, TS Lê Quý Đức chủ biên (do NXB Văn hoá Thông tin - Viện Văn
hoá, Hà Nội xuất bản năm 2005). Đây là một công trình khảo sát khá sâu rộng công
phu về văn hoá nông thôn đồng bằng sông Hồng, trong đó đề cập đến lĩnh vực DSVH
trong thời kỳ CNH, HĐH. Võ Quang Trọng nghiên cứu về Bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hoá phi vật thể của Thăng Long Hà Nội (Đề tài khoa học cấp Nhà nước,
Viện nghiên cứu Văn hoá - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam)
Tìm về Di sản văn hoá dân gian trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam (NXB
Thuận Hoá, Huế, 1996), tác giả Chu Quang Trứ đề cập đến di sản văn hoá vùng đồng
bằng Bắc Bộ trong bối cảnh chung của DSVH dân tộc.
Qua công trình Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay ở đồng bằng sông
Hồng (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội - sách do Tô Duy Hợp chủ biên năm 2000),
người đọc có thể tìm thấy phần nào diện mạo DSVH đồng bằng Bắc Bộ.
Sách Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống của người Việt ở đồng
bằng Bắc bộ của TS.Nguyễn Quang Lê (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2001)
đã giúp cho người đọc có cái nhìn hệ thống về DSVH phi vật thể nơi đây.
Năm 2003, Hiếu Giang đã nghiên cứu khá công phu Về giá trị văn hoá phi vật
thể Thăng Long - Hà Nội (Tạp chí Di sản Văn hoá - Bộ Văn hoá Thông tin, số 3). Viết
bài trên tạp chí Văn hoá nghệ thuật năm 2002, nhà nghiên cứu Lưu Trần Tiêu đưa ra
vấn đề Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Viêt Nam. Năm 2006, nghiên cứu sinh Đàm
Hoàng Thụ bảo vệ thành công luận án TS với đề tài: Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản
văn hoá nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay. Có thể xem đây là công trình nghiên cứu
khá sâu về lý luận DSVH.
Năm 2007, trong tư cách một nhà nghiên cứu có nhiều năm quan tâm đến
DSVH, PGS,TS. Nguyễn Chí Bền viết bài nghiên cứu Bảo tồn di sản văn hoá phi vật
thể ở nước ta hiện nay đăng trên báo Văn hoá. Bài báo bàn sâu về cách thức bảo tồn
văn hóa phi vật thể hiện nay. Với kinh nghiệm của một người quản lý văn hóa, tác giả
Nguyễn Hữu Kim - giám đốc Sở Văn hoá ,Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc có nhiều đề
xuất về Bảo tồn và phát triển di sản văn hoá ở Vĩnh Phúc.
Trong thời gian qua, các tạp chí Người đưa tin UNESCO, tạp chí Di sản Văn
hoá (do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ấn hành), tạp chí Văn hiến lần lượt giới thiệu
một số bài viết nghiên cứu về DSVH nói chung, về thực trạng bảo tồn và phát huy
DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm tác giả đã tham khảo, kế thừa kết quả
của một số tài liệu khoa học là cơ sở gợi mở cho hướng nghiên cứu về bảo tồn và phát
huy DSVH đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm: Hồ Chí Minh toàn tập (1995 - 2000), Cơ sở lý
luận văn hoá Mác - Lê nin ; Văn kiện Hội nghị Trung ương V khoá VIII (BCH TW
khoá VIII); Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X; sách Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng của Nguyễn Trung Quế;
Công trình Khảo sát thực trạng văn hoá lễ hội truyền thống của người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ của Nguyễn Quang Lê; Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng
đồng bằng sông Hồng thời kỳ 1996 - 2000 (Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường phát hành tháng 4/1996); Nghề thủ công mỹ nghệ đồng bằng
sông Hồng - tiềm năng, thực trạng và một số kiến nghị, (Đề tài cấp Bộ, Hà Nội, Viện
nghiên cứu Văn hoá dân gian -1999); sách Địa lý các tỉnh, thành phố Việt Nam, Phần
I: Các tỉnh, thành phố đồng bằng sông Hồng (năm 2001); Đề tài khoa học Phát triển
làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá do TS Mai Thế
Hởn (chủ biên) GS,TS. Hoàng Ngọc Hoà, PGS,TS. Vũ văn Phúc (đồng chủ biên)
(2002); Sách Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hoá truyền thống Việt Nam
của Diêm Thị Đường; sách Hệ thống nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng của Đào
Thế Tuấn và Pascal Bergeret; Văn hoá Thăng Long - Hà Nội hội tụ và toả sáng của
GS,TS. Trần Văn Bính (chủ biên); Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn Việt Nam của Nguyễn Sinh Cúc - Lê Mạnh Hùng; Sách Cơ cấu tổ
chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ của tác giả Trần Từ; sách Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn các nước và Việt Nam của Nguyễn Điền (1997); Số
liệu thống kê về cơ sở hạ tầng của nông thôn Việt Nam, NXB Thống kê (2005) v.v
Nhận xét chung
- Phần lớn các công trình nghiên cứu và tư liệu trên đây đều trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến DSVH và thực trạng bảo tồn phát huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ
ở nhiều góc độ lý luận và thực tiễn khác nhau.
- Dường như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt, hệ thống
và quy mô về thực trạng bảo tồn và phát huy DSVH đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình
đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Các công trình chủ yếu nghiên cứu về bảo tồn và phát huy DSVH thuần túy
mà chưa đề cập nhiều đến mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy DSVH và quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH ở đồng bằng Bắc Bộ với những biểu hiện phong phú, đa dạng và
phức tạp của quan hệ này.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, Nội dung đề tài triển khai trong 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo tồn và phát huy DSVH ở đồng bằng
Bắc Bộ trong quá trình CNH, HĐH
Chương 2: Thực trạng bảo tồn và phát huy DSVH thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH ở đồng bằng Bắc Bộ (qua thực tế tại Hà Nội, Hà Tây cũ, Bắc Ninh và Hải
Dương)
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo tồn và phát huy DSVH thời kỳ tiếp
tục đẩy mạnh CNH, HĐH ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài sau khi được thực hiện thành công sẽ góp phần hệ thống hoá lý luận về
văn hoá, lý luận về DSVH, về vùng văn hoá và tiểu vùng văn hoá, về vấn đề kế thừa,
bảo tồn, phát huy DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Đề tài là sự vận dụng lý luận nghiên cứu văn hóa vào một trường hợp cụ thể: tìm
hiểu về DSVH tại một không gian văn hóa vùng (đồng bằng Bắc Bộ).
- Đề tài bước đầu nghiên cứu về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy DSVH
với tiến hành CNH, HĐH trên các phương diện lý luận.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung, gợi mở, góp phần hoàn thiện
chính sách bảo tồn và phát huy DSVH trong cả nước nói chung, vùng đồng bằng
Bắc Bộ nói riêng.
- Đề tài bước đầu hệ thống hoá về DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ, đưa ra các
kiến nghị và giải pháp giúp cho các cơ quan chức năng làm tốt công tác bảo tồn và
phát huy DSVH kết hợp với đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực hiện CNH, HĐH.
- Đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho học viên hệ Cao cấp lý luận chính trị,
học viên Cao học và nghiên cứu sinh tại Viện Văn hoá và phát triển, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- S¶n phÈm cña ®ề tài xuất bản thành sách tham khảo nhằm giới thiệu, quảng
bá hình ảnh DSVH vùng đồng bằng Bắc Bộ.
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY DSVH
Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH
1.1. Lý luận chung về di sản văn hoá
1.1.1. Khái niệm “di sản văn hoá”
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Di sản là cái của thời trước để lại [84, tr. 254]. Di sản văn
hoá theo nghĩa Hán Việt là những tài sản văn hóa có giá trị của quá khứ còn tồn tại trong
cuộc sống đương đại và tương lai. Di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại. Sản là
tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Di sản văn hóa được hiểu bằng sự tổng hợp của
các ý nghĩa nói trên.
Khái niệm DSVH trong tư cách là một thuật ngữ khoa học đã có một quá trình
hình thành khá lâu dài. Điều mà ít ai ngờ tới nhất, chính là thuật ngữ này lại được hình
thành và được biết đến từ cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789. Quá trình tịch thu được
tài sản của tầng lớp quý tộc, tăng lữ, nhà thờ giáo hội để tập trung tất cả lại thành tài
sản quốc gia sau cách mạng tư sản Pháp đã dần dần hình thành khái niệm di sản. Để
tránh sự thất thoát và phá hoại loại tài sản này, nhà nước Pháp lúc bấy giờ đã tiến hành
kiểm kê, mô tả sắp xếp, phân loại các công trình lịch sử để xác định thứ tự ưu tiên
nhằm khôi phục và bảo tồn di sản quốc gia. Di sản lúc đó được hiểu như “ý niệm về
một tài sản chung, tài sản của mọi công dân, chứ không phải của riêng một ai, đó là ý
niệm đã tạo thành cái ý thức về di sản quốc gia”. [83, tr.32]
Năm 1983, Hội nghị Di sản toàn quốc của Vương quốc Anh đã định nghĩa : “di
sản là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hệ hiện nay và
những gì mà một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển
giao cho thế hệ tương lai”. [56, tr.20]
Như vậy, DSVH được hiểu như là tài sản, là báu vật của thế hệ trước để lại cho
thế hệ sau. DSVH là các tài sản văn hóa như các tác phẩm nghệ thuật dân gian, các
công trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc, các tác phẩm văn học mà các thế hệ
trước để lại cho hậu thế mai sau.
Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc, gọi
tắt là UNESCO họp phiên thứ 32 tại Paris từ 29-9 đến 17-10-2003 đã bàn thảo và ra
Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Công ước đã ghi nhận: Các quá trình
toàn cầu hóa và chuyển đổi cơ cấu xã hội cùng với các điều kiện khác đã tạo nhiều cơ
hội đối thoại mới giữa các cộng đồng, đồng thời cũng làm nảy sinh những mối đe dọa
về sự suy thoái biến mất và hủy hoại các di sản văn hóa phi vật thể.
Luật Di sản văn hoá của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định:
“di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản
phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ
này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. [3, tr.17]
Khái niệm di sản là một khái niệm tiến triển, vận động thay đổi theo thời gian.
Ngày nay khái niệm di sản không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm tài sản từ quá
khứ nữa. Bởi lẽ không phải bất cứ cái gì của quá khứ cũng được coi là di sản. Di sản
là sản phẩm của quá khứ nhưng đó là quá khứ đã được lựa chọn theo nhu cầu của xã
hội hiện đại. Di sản là sự lựa chọn từ quá khứ lịch sử những ký ức, báu vật của cộng
đồng, thể hiện nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của xã hội hiện đại. Do đó, sự ra đời
của Luật Di sản văn hóa năm 2001 cùng với các văn bản hướng dẫn đi kèm đã trở
thành cơ sở pháp lý quan trọng, nhằm tăng cường nhận thức và hành động cho toàn xã
hội, tăng cường sự hiểu biết về di sản và quá trình bảo vệ, phát huy kho tàng di sản văn
hóa của dân tộc.
Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong việc phê chuẩn Công
ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 của UNESCO và là thành viên của
Ủy ban Liên Chính phủ tham gia xây dựng phương hướng hoạt động và các chính sách
quốc tế có liên quan đến Công ước này. Di sản văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa,
chuyển tải bản sắc văn hóa của một cộng đồng xã hội. DSVH Việt Nam là tài sản văn
hóa quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của DSVH nhân
loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Như
vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là hoạt động thiết thực nhằm hướng tới xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào việc giữ
gìn và làm phong phú cho kho tàng DSVH nhân loại.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương đường lối và chính sách bảo vệ và phát huy giá trị DSVH nhằm nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. DSVH
Việt Nam khi được bảo tồn, kế thừa và phát huy sẽ có tác dụng tích cực trong xây
dựng và phát triển văn hóa Việt Nam đương đại, kết hợp với quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH, phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.1.2. Phân loại di sản văn hoá
Phân loại (classification) sự vật và hiện tượng là một trong những cách nhận
thức và thâu tóm bản chất của sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội đa dạng phong
phú. Phân loại DSVH là một nhu cầu chính đáng trong nghiên cứu. Theo quan niệm
của UNESCO, DSVH bao gồm hai loại:
Di sản “văn hóa vật thể” (tangible culture) được hiểu là những sản phẩm văn
hóa có thể “sờ thấy được”. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ
yếu dưới dạng vật thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét,
màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. DSVH vật thể được
tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt. Văn hóa vật thể
được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài bản thân con người. DSVH vật
thể luôn chịu sự thách thức của quy luật bào mòn của thời gian, trong sự tác động của
con người thời đại sau. DSVH vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay
đổi rất nhiều so với nguyên gốc. Hiện nay, vấn đề bảo tồn những DSVH vật thể lâu đời
đòi hỏi công nghệ kỹ thuật cao mới có thể phục nguyên lại như cũ.
Di sản “Văn hóa phi vật thể” (intangible culture) là dạng thức tồn tại của văn
hóa không phải chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối trong không gian và thời gian,
mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử của con người
và thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội mà thể
hiện ra. Từ đó người ta có thể nhận biết được sự tồn tại của “văn hóa phi vật thể”.
Đặc trưng rõ nhất của “văn hóa phi vật thể” là nó luôn tiềm ẩn trong tâm thức
của một cộng đồng xã hội và chỉ bộc lộ ra qua hành vi và hoạt động của con người.
“Văn hóa phi vật thể” được lưu giữ trong thế giới tinh thần của con người và thông
qua các hình thức diễn xướng, nó được bộc lộ sinh động trong tư cách một hiện tượng
văn hóa.
“Di sản “văn hóa phi vật thể” (intangible culture) được hiểu là các tập quán, các
hình thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là các công cụ, đồ vật, đồ
tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm và một số
trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển
giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và
nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa
cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về
bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và
tính sáng tạo của con người” [17, tr.142].
Cũng giống như DSVH vật thể, các hiện tượng văn hóa phi vật thể cũng có thể
bị mai một, biến dạng, hoặc mất đi vĩnh viễn bởi thử thách của thời gian, bởi sự vô ý
thức của con người. Trong thực tế, người ta thường có xu hướng thêm bớt hoặc lãng
quên trong quá trình lưu giữ những giá trị phi vật thể. Cho nên, văn hóa phi vật thể vừa
có tính bền vững (trong ký ức của cộng đồng) lại vừa mang tính mong manh, dễ bị tổn
thương (phụ thuộc vào cuộc sống của một cá nhân - nghệ nhân với những may rủi bất
ngờ). Hơn nữa, văn hóa phi vật thể còn có nguy cơ biến dạng rất cao bởi tính dị bản
của nó do sự can thiệp của các nhóm xã hội qua các thời đại. Trên cơ sở đồng thuận
với quan niệm của UNESCO, Luật Di sản văn hoá của Việt Nam phân loại di sản văn
hóa như sau:
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói,
chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng
dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về
y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và các
tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia ( ) Giá trị đặc biệt quý hiếm của bảo vật quốc gia được thể
hiện bằng các tiêu chí sau đây:
a) Hiện vật nguyên gốc, độc bản;
b) Hình thức độc đáo;
c) Có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học thể hiện:
- Là vật chứng của một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân kiệt xuất.
- Là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng - nhân văn, giá trị thẩm mỹ
và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một khuynh hướng, một phong cách, một
thời đại;
- Là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu có giá trị thực tiễn cao, có tác
dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định;
d) Được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận sau khi có ý kiến của thẩm
định của Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia” [3, tr. 46].
Như vậy, rõ ràng là DSVH phi vật thể luôn sống trong tâm trí con người, được
con người nắm giữ các tri thức về nó để trình diễn các kỹ năng thực hành biểu hiện giá
trị của nó. DSVH phi vật thể luôn đồng hành cùng con người, gắn với ký ức của con
người theo dòng lịch sử. DSVH vật thể tồn tại trong tri giác, được nhận biết thông qua
các giác quan của con người, trong sự thừa nhận của một cộng đồng xã hội kéo dài
theo thời gian lịch sử xã hội.
1.1.3. Quan điểm về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Trước hết là quan điểm bảo tồn DSVH. Từ điển Tiếng Việt cắt nghĩa: “bảo tồn
là giữ lại không để cho mất đi”, còn “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác
dụng và tiếp tục nảy nở thêm”.
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn
có của nó. Bảo tồn là không để mai một, “không để bị thay đổi, biến hóa hay biến
thái”. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái niệm “cải biến”,
“nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo tồn “phải được nhìn là
tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích thực và khả năng tồn tại theo thời gian,
dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn.
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể) cần thỏa mãn
hai điều kiện:
- Một là, nó phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá trị” đích thực được thừa
nhận minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
- Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài (tức
là có giá trị lâu dài, có thể “trơ gan cùng tuế nguyệt”) trước những biến đổi tất yếu về
đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH hiện nay với chính sách mở cửa và bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi động.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng “tĩnh”)
Bảo tồn nguyên vẹn văn hóa vật thể ở dang “tĩnh” là vận dụng thành quả khoa
học kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như sự vốn có
về kích thước, vị trí, đường nét màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục nguyên các di sản
văn hóa vật thể cần sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật như: đồ họa kỹ thuật vi
tính công nghệ 3D theo không gian ba chiều; chụp ảnh; băng hình video; xác định
trong lượng, thành phần chất liệu của di sản văn hóa vật thể. Sau khi tiến hành bảo tồn
nguyên vẹn, phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được lưu giữ chi tiết để
không làm biến dạng di sản văn hóa vật thể.
Bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng “tĩnh” là tiến hành điều tra sưu tầm, thu thập
các dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm túc
chặt chẽ, “giữ” chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả bằng băng hình (video), băng
tiếng (audio), ảnh.v.v Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có thể lưu giữ
trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng “động”)
Bảo tồn “động”, tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các
di sản văn hóa vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di
tích, cố gắng phục chế lại nguyên trạng di sản văn hóa vật thể bằng nhiều kỹ thuật
công nghệ hiện đại. Đối với các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn “động” trên cơ sở
kế thừa là bảo tồn các hiện tượng văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng.
Bởi lẽ, cộng đồng không những là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi
vật thể mà còn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy văn hóa phi vật
thể trong đời sống xã hội theo thời gian. Các hiện tượng văn hóa phi vật thể tồn tại
trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói, trong các hình thức diễn xướng,
trong các nghi lễ, nghi thức, quy ước dân gian.
Văn hóa phi vật thể luôn tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ của con người mà
chúng ta thường mệnh danh họ là những nghệ nhân hay là những Báu vật nhân văn
sống. Do đó bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với
việc bảo vệ những Báu vật nhân văn sống. Đó là việc xã hội thừa nhận các tài năng
dân gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất để trong hoàn cảnh có
thể, để họ sống lâu, sống khỏe mạnh, phát huy được khả năng của họ trong quá trình
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Cần phải phục hồi các giá trị văn
hóa phi vật thể một cách khách quan, sáng suốt, tin cậy, chứ không thể chủ quan tùy
tiện. Tất cả những giá trị văn hóa phi vật thể phải được kiểm chứng qua nhiều phương
pháp nghiên cứu có tính chất chuyên môn cao, có giá trị thực chứng, thuyết phục
thông qua các dự án điều tra, sưu tầm bảo quản, biên dịch và xuất bản các dấu tích
DSVH phi vật thể.
Bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng DSVH phi vật thể chính là mong
muốn “lý tưởng” nhất, hoàn hảo nhất. Nếu không thể bảo tồn nguyên dạng thì phải bảo
tồn theo hiện dạng đang có. Bởi theo quy luật của thời gian thì các DSVH phi vật thể
ngày càng có xu hướng xa dần nguyên gốc. Do vậy, nếu không thể khôi phục được
nguyên gốc thì bảo tồn hiện dạng là điều cần phải thực hiện và có ý nghĩa khả thi nhất.
Tuy nhiên, hiện dạng phải có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên dạng. Theo đó,
cần xác định rõ thời điểm bảo tồn để sau này khi có thêm tư liệu tin cậy thì sẽ tiếp tục
phục nguyên ở dạng gốc DSVH.
1.1.4. Kinh nghiệm về bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc của một số nước châu Á
* Xác định DSVH như là tài sản văn hoá
DSVH là bộ phận cơ bản và trọng yếu trong nền văn hóa của mỗi dân tộc, là cốt
lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Trong
quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, nhiều quốc gia châu Á
đều phải xử lý mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
trước sự tác động mạnh mẽ của văn hoá phương Tây. Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc là những nước có nhiều thành công trong việc giải quyết mối quan hệ này.
Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia có chung một hằng số cho lịch sử phát
triển văn hoá dân tộc. Đó là nền văn minh lúa nước. Trước thế kỷ XIX, cả hai nước
đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Trung Hoa, cùng với Triều Tiên là những
nước “đồng văn”. Trong lịch sử, khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, mỗi nước lại
chọn những giải pháp khác nhau, đưa đến cách ứng xử khác nhau đối với DSVH dân
tộc. Trong giai đoạn hiện nay, bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi, văn hoá các dân
tộc có sự gần gũi hơn trong một định hướng chung cho sự phát triển. Do vậy, mô hình
bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc của Nhật Bản qua hơn một thế kỷ mở cửa với
phương Tây có nhiều bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.
Khi tiến hành mở cửa với phương Tây, Nhật Bản vẫn là một quốc gia lạc hậu
hàng thế kỷ so với các nước đã công nghiệp hoá. Với điều kiện như vây, người Nhật
đã huy động mọi tiềm năng sức mạnh dân tộc để phát triển đất nước. Những giá trị văn
hoá truyền thống đã trở thành lực cố kết sức mạnh của toàn dân tộc cho mục tiêu hiện
đại hoá đất nước. DSVH đã được người Nhật quan niệm và đối xử như một tài sản đặc
biệt quan trọng - tài sản văn hoá. Ở thời kỳ đầu, những thành tựu của văn minh
phương Tây đã hấp dẫn người Nhật, khuynh hướng Tây hoá ồ ạt đã làm cho không ít
thành tựu văn hoá truyền thống bị mai một. Cũng trong giai đoạn này, Nhật Bản đã
phá huỷ nhiều công trình kiến trúc lịch sử và chùa chiền liên quan đến Phật giáo và
nghệ thuật truyền thống. Hiện tượng này chấm dứt khi đạo luật về bảo tồn di sản văn
hoá ra đời năm 1897. Kể từ đấy, các yếu tố bản địa được phục hồi với tất cả vẻ đẹp
độc đáo của nó trong một định hướng giá trị mới, biểu tượng cho tinh hoa dân tộc.
Đối
với Nhật Bản, quan niệm di sản văn hoá là tài sản văn hoá không chỉ dừng lại ở nhận
thức mà còn được cụ thể hoá trong những đạo luật, chính sách văn hoá, nổi bật nhất là
Bộ luật bảo tồn các tài sản văn hoá được ban hành vào những năm 80 của thế kỷ trước.
Bộ luật ra đời nhằm thực hiện bảo tồn di sản văn hoá trên cơ sở xác lập quyền sở hữu
và bảo trợ của nhà nước. Trong đó, Bộ luật quy định rõ, mọi tài sản văn hoá đều thuộc
quyền sở hữu của các công dân, các cơ quan sự vụ, các tổ chức chính phủ và phi chính
phủ. Quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản văn hoá bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Việc công nhận quyền của các chủ sở hữu
được đảm bảo bằng một “Giấy chứng nhận” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục cấp. Bộ luật
cũng quy định rõ, chính phủ và các cấp chính quyền địa phương phải tôn trọng
quyền của các chủ sở hữu và quyền sở hữu của những người hữu quan. Như vậy, từ
một khái niệm triết học (di sản văn hoá), các vật thể mang các giá trị văn hoá được
gọi là tài sản văn hoá (thuật ngữ luật học) có thể sở hữu. Khi di sản văn hoá được
công nhận là tài sản văn hoá sẽ tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và
hành động nhằm bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá. Bởi vì, việc bảo tồn và
khai thác tài sản văn hoá chỉ có thực hiện tốt khi nó thuộc quyền sở hữu của một
chủ thể cụ thể nào đó. Nếu chưa được pháp luật công nhận, các di sản đó luôn phải
đứng trứớc nguy cơ bị thất thoát, mai một làm tổn hại đến vốn tài sản văn hoá dân
tộc, một hiện tượng đã xảy ra phổ biến ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Không những được coi là tài sản văn hoá, DSVH còn được xác định là một thứ văn
hoá đặc biệt, thuộc về những chủ sở hữu cụ thể nhưng giá trị của nó luôn là tài sản
quốc gia. Khoản 2 điều 4 của Bộ luật quy định: “Các chủ sở hữu tài sản văn hoá
cùng những người hữu quan sẽ chịu trách nhiệm bảo quản chúng một cách tốt nhất
và khai thác các giá trị văn hoá của chúng với một ý thức đầy đủ rằng: đó là những
tài sản quý báu của quốc gia”.
Vai trò của nhà nước ở đây rất quan trọng, nhà nước bảo trợ việc thực hiện các
quyền trong quyền sở hữu. Chính phủ Nhật Bản nghiêm cấm việc bán các tài sản văn
hoá ra nước ngoài dưới mọi hình thức. Nhà nước bỏ tiến mua lại các tài sản văn hoá
quan trọng, trợ cấp một phần kinh phí và phương tiện kỹ thuật cho việc bảo tồn tài sản
văn hoá thuộc tư nhân đối với các tài sản hữu hình. Nhà nước nắm giữ vai trò điều tiết
hoạt động bảo tồn và khai thác tài sản văn hoá trong tổng thể các hoạt động chung của
toàn xã hội. Do đó, các di sản văn hoá hữu hình được giữ gìn trong các dự án phát
triển. Việc đảm bảo giữ nguyên cảnh quan trong đó di sản văn hoá đuợc bảo vệ chỉ có
thể tiến hành một cách hiệu quả dưới sự quản lý của nhà nước với vốn kinh phí đầu tư
thích đáng, với sự hợp tác của các ngành, các tổ chức liên quan. Qua đó, các hoạt động
bảo tồn văn hoá được tiến hành dưới một hành lang pháp lý. Các di sản văn hoá ở Nhật
Bản được kiểm kê và bảo tồn hiệu quả, tránh được mọi mất mất, thất thoát và hư hại từ
phía thiên nhiên và con người.
Ở Việt Nam, trong quá trình CNH, HĐH, nhiều ngôi nhà cổ, công trình kiến
trúc, DSVH có nguy cơ bị thay thế bằng những ngôi nhà cao tầng, đường cao tốc chạy
dài hay những cây cầu trong các dự án phát triển. Bài toán đặt ra cho Việt Nam là
cần tìm ra được giải pháp thỏa đáng dung hòa giữa bảo tồn văn hóa và phát triển kinh
tế, biến di sản văn hóa thành nguồn tài nguyên quí giá phục vụ cho công cuộc xây
dựng đất nước. Kinh nghiệm của Nhật Bản về vai trò chủ đạo của nhà nước trong công
tác bảo tồn và khai thác các DSVH là một bài học quý cho nước ta trong quá trình phát
triển hiện nay.
Một bài học kinh nghiệm nữa của Nhật Bản trong việc bảo tồn, khai thác các
DSVH là phải có một bộ máy hành chính có tính chuyên biệt và thống nhất cao, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc triển khai, chỉ đạo và giám định thi hành pháp luật. Cục
Văn hoá Nhật Bản là cơ quan duy nhất có chức năng pháp lý điều hành các hoạt động
bảo tồn và phát huy DSVH từ Trung ương đến địa phương. Cơ quan này có nhiệm vụ
phổ biến văn hoá, bảo tồn và sử dụng các tài sản văn hoá, cũng như thực hiện việc
quản lý nhà nước liên quan đến tôn giáo với sự cộng tác của các cơ quan chính phủ
hữu quan. Người đứng đầu Cục Văn hóa Nhật bản có quyền tiến hành hoặc đình chỉ
mọi hoạt động bảo tồn và khai thác DSVH trong trường hợp cần thiết, theo quy định
của pháp luật. Nếu chính quyền các địa phương các cấp muốn tiến hành hoạt động bảo
tồn và khai thác DSVH, phải được uỷ quyền của Cục Văn hoá. Ngân sách cho những
hoạt động của Cục Văn hoá cũng không ngừng tăng theo các năm.
Như vậy, cách thức tổ chức của Cục Văn hoá Nhật Bản và ngân sách dồi dào
của chính phủ nước này đã giúp cho bộ máy điều hành triển khai các hoạt động bảo
tồn và khai thác DSVH một cách hiệu quả.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có Luật Di sản Văn hoá nhưng trên thực tế, nhiều vấn
đề "nóng" như lấn chiếm di tích, trộm cắp cổ vật hay thiếu một quy hoạch tổng thể để
bảo tồn vẫn là những "bài toán khó" mà bao năm nay vẫn chưa tìm được lời giải.
Những bài học của Nhật Bản trên đây có thể là kinh nghiệm quý, góp phần giải quyết
những vấn đề còn tồn tại trong công tác bảo tồn DSVH nước ta.
* Khai thác các giá trị của văn hoá truyền thống trên cơ sở gắn với đời sống
hiện đại
Bảo tồn DSVH không chỉ là cất giữ cho khỏi mất tài sản, để giữ gìn bản sắc dân
tộc hoặc tự ca ngợi mình. Bài học kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc là chủ
trương bảo tồn để phát triển, khai thác các giá trị văn hoá truyền thống là làm cho sống
lại, làm cho các giá trị đó tồn tại trong đời sống, năng động hoá các hình thức tồn tại
của di sản văn hoá trên cơ sở thu hút sự quan tâm của các tầng lớp xã hội, nhờ đó mà
các giá trị được vận hành, thâm nhập vào cuộc sống hiện tại.
Nhật Bản và Trung Quốc đã phát huy được tác dụng giáo dục của văn hoá
truyền thống vì mục tiêu phát triển, làm cho văn hóa truyền thống thêm vững bền, giàu
có, phong phú và cao quý hơn. Những giá trị của DSVH lan tỏa, thấm sâu vào từng
con người và toàn thể cộng đồng, trở thành động lực mạnh mẽ cho các quốc gia này
phát triển toàn diện.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế xã hội, Nhật Bản
đã tiến hành rộng rãi sự hợp tác giữa chính phủ và các tổ chức phi chính phủ, giữa
Trung ương và địa phương, giữa bộ máy hành chính nhà nước và nhân dân và giữa các
thiết chế văn hoá hữu quan. Sự hợp tác với các tổ chức phi chính phủ (chủ yếu là tư
nhân) làm tăng mạnh mẽ nguồn kinh phí cho các hoạt động khai thác di sản văn hoá.
Các công ty tư nhân tăng lượng đầu tư cho lĩnh vực văn hoá để qua đó khuếch trương
danh tiếng và quảng cáo cho thương hiệu của họ. Nhà nước cũng khuyến khích tư
nhân tham gia đầu tư bằng việc áp dụng chính sách miễn giảm thuế cho các công ty
này. Cùng với việc hợp tác như trên, hoạt động khai thác văn hoá truyền thống còn
được mở rộng trên cơ sở hợp tác chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương, giữa nhân
dân và các cơ quan nhà nước. Tại các địa phương, văn phòng hỗ trợ văn hoá vùng của
chính phủ có chức năng phổ biến và đưa giá trị văn hoá thâm nhập vào cộng đồng
nhân dân nơi đây. Qua việc tổ chức các chương trình liên hoan văn hoá toàn quốc, lập
các bảo tàng, hiện đại hoá phương tiện thông tin đại chúng… các tài sản văn hoá tại
các địa phương được “tái sinh” trong sự khẳng định giá trị của mình ngay trong đời
sống hiện tại. Các hoạt động trên thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân, qua đó
giúp họ tiếp nhận một cách tích cực, chủ động đối với các giá trị văn hoá truyền thống.
Trong nhiều trường hợp, vai trò chủ thể tiến hành khai thác tài sản văn hoá
chuyển từ cơ quan nhà nước sang nhân dân. Sự hợp tác rộng rãi của các lực lượng toàn
xã hội trong hoạt động khai thác tài sản văn hoá đã làm tăng lên mạnh mẽ sức sống
của những giá trị truyền thống. Với các hình thức tồn tại khác nhau, được khai thác từ
những mối quan tâm khác nhau, vô số tài sản văn hoá từ truyền thống đã hoá thân vào
cuộc sống hiện tại, trở thành một bộ phận quan trọng và gần gũi với đời sống cộng
đồng.
Ở Trung Quốc, bên cạnh việc hoàn thiện pháp chế về bảo vệ các DSVH lịch sử,
thực hiện phân cấp bảo vệ văn vật, nhà nước yêu cầu các cấp chính quyền đưa việc bảo
vệ văn vật vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vào quy hoạch xây
dựng thành thị và nông thôn, vào ngân sách, vào cải cách thể chế; đồng thời cũng nhấn
mạnh nghĩa vụ bảo vệ của cộng đồng, huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia
công tác bảo vệ văn vật.
Trong quá trình đẩy mạnh hội nhập thế giới, Trung Quốc đặc biệt chú trọng
thúc đẩy việc bảo vệ DSVH thông qua giáo dục cộng đồng. Đề cương về chương trình:
“Mỗi người đều có trách nhiệm bảo vệ di sản văn hóa của đất nước” do Bộ Văn hóa và
Cục Di sản đã công bố từ năm 1989, được quán triệt và thực hiện trong cả nước. Các
viện bảo tàng, nhà tưởng niệm và các cơ quan bảo vệ DSVH đã mở cửa đón công
chúng và cung cấp nhiều chương trình về bảo vệ DSVH. Các phương tiện thông tin
đại chúng thường xuyên đề cập nhiều tới tầm quan trọng và giá trị lịch sử, thẩm mỹ và
khoa học của DSVH Trung Quốc. Nhiều tờ báo lớn đã có chuyên mục về luật bảo vệ
DSVH. Chính phủ Trung Quốc đã xác định: những tài sản văn hoá là do nhân dân tạo
nên, chỉ khi nào bản thân tài sản ấy được nhân dân nhận thức đúng đắn, khi ấy nó mới
có những giá trị đích thực. Đặc biệt từ sau khi gia nhập WTO, công tác bảo tồn, phát
huy và quảng bá DSVH dân tộc của Trung Quốc càng được coi trọng. Trong Báo cáo
Chính trị của Đại hội 17, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào đã chỉ rõ, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh
bảo tồn văn hoá trong quá trình xây dựng một xã hội thịnh vượng hài hoà trên tất cả
các lĩnh vực. Có thể nói, đây là lần đầu tiên, vấn đề bảo tồn văn hoá được đưa vào một
văn kiện chính trị quan trọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chính phủ sẽ thúc đẩy
bảo tồn văn hoá bằng cách tạo ra cấu trúc các ngành công nghiệp, cách thức tăng
trưởng và phương thức tiêu dùng đặt cơ sở trên hiệu quả về năng lượng và tài nguyên,
thân thiện với môi trường.
* Bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng văn hoá ra thế giới
Hiện đại hoá là tiền đề cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Thông qua việc mở cửa với thế giới, các
nước này đã khai mở những tiềm năng giá trị truyền thống mà trước đó vẫn còn bị
khép kín trong biên giới hạn hẹp của quốc gia và khu vực, trong sự độc tôn và đơn
dạng về văn hoá. Tất nhiên, mở cửa đem theo cả những tác động không thuận chiều
đối với bảo tồn văn hoá truyền thống, nhưng không vì thế mà né tránh mà chấp nhận
nó như một tiền đề thực tiễn khách quan. Từ chỗ mở cửa tiếp nhận các giá trị văn hoá
từ các nền văn hoá khác, ngày nay các quốc gia này chủ trương bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hoá truyền thống của mình bằng cách tăng cường truyền bá các giá trị
văn hoá đó ra toàn thế giới, trở thành tài sản văn hoá chung của toàn nhân loại.
Trung Quốc chú trọng mở rộng ảnh hưởng văn hóa của mình ra các nước và khu
vực trên thế giới mà châu Phi là một ví dụ điển hình. Trung Quốc đã ký với các nước
châu Phi các hiệp định văn hóa và dự án văn hóa. Trung Quốc cũng tổ chức hoạt động
“Thực hành văn hóa Trung Quốc ở châu Phi”, cử nhiều đoàn nghệ thuật và nghệ nhân
biểu diễn lần lượt ở các nước châu Phi, những hoạt động này đã nâng cao sức hấp dẫn
về văn hóa của Trung Quốc ở châu Phi.
Chính sách trao đổi văn hoá của Nhật Bản tập trung chủ yếu vào đẩy mạnh văn
hoá Nhật Bản bằng những hoạt động quản lý mà tạo ảnh hưởng ra thế giới. Nhật Bản
gửi các nghệ sĩ của mình sang phương Tây để học hỏi trào lưu mới và tìm những
nguồn cảm hứng mới. Mục tiêu chính của việc trao đổi văn hoá của Nhật Bản là nâng
cao chất lượng (theo tiêu chuẩn quốc tế )của các hoạt động nghệ thuật Nhật Bản nhằm
đạt được sự thừa nhân trong cộng đồng quốc tế. Nhật Bản còn gửi các nghệ sĩ Kabuki
và kịch Noh ra nước ngoài học tập, giới thiệu võ thuật Nhật Bản ra nước ngoài. Nhật
Bản đã nỗ lực truyền bá các hoạt động nghệ thuật tuyền thống của mình ra khắp thế
giới, đầu tư nhiều tiền của cho nỗ lực đẩy mạnh các mối quan hệ trao đổi, hợp tác quốc
tế về văn hoá. Đó là thực hiện các triển lãm tài sản văn hoá Nhật Bản tại nước ngoài,
tổ chức các liên hoan mời các đoàn nghệ thuật dân gian từ các nước đến biểu diễn
cùng với các nhóm nhạc dân gian Nhật Bản. Qua đó, những giá trị văn hoá truyền
thống của Nhật Bản được truyền bá rộng rãi ra khắp thế giới, trở thành tài sản chung
của văn hoá nhân loại. Trong số các nước châu Á, Nhật Bản có lẽ là nước đã thành
công nhất trong việc “xuất khẩu” các hình ảnh văn hóa mang tính thương hiệu, mà mỗi
khi nú xut hin, lp tc khin ngi ta ngh ngay n nn vn húa Nht. ú l cỏc
biu tng mang tớnh truyn thng nh hoa Anh o, Tr o, cỏc mụn vừ thut Sumo,
Judo, Karate, Kendo
1.2. Quan im, ng li ca ng, chớnh sỏch ca Nh nc v bo tn v phỏt
huy DSVH
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, n-ớc Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời. Ngay sau khi giành đ-ợc chính quyền, Đảng và Nhà n-ớc ta đã rất quan
tâm đến giữ gìn DSVH dân tộc. Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lập
tức ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.
Ngày 29/10/1957, Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh
lam thắng cảnh do Thủ t-ớng Chính phủ công bố đã tạo điều kiện cho ngành VHTT
tiến hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh ở
các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc; giúp bảo vệ những di tích quan trọng nhất
của đất n-ớc nh- Đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu, Đình Tây Đằng, Bãi Cọc Bạch Đằng;
xây dựng đ-ợc hệ thống bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Quân đội, Bảo
tàng Hải Phòng, Bảo tàng Việt Bắc và nhiều bảo tàng khác ở cơ sở. Pháp lệnh bảo
vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do Hội đồng Nhà n-ớc công
bố ngày 31/3/1984, đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đối với công tác
giữ gìn DSVH của dân tộc. Những Nghị định, Pháp lệnh này thể hiện quan
điểm của Đảng và Nhà n-ớc ta đối với việc bảo tồn các DSVH ở những thời điểm,
hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội vào thời điểm
đó.
Công cuộc đổi mới là một b-ớc ngoặt quan trọng trong sự nghiệp phát triển
đất n-ớc. Những thay đổi sâu sắc nhất bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, ở đó, thay vì
nền kinh tế quan liêu, bao cấp, Đảng và Nhà n-ớc ta đã chủ tr-ơng thực hiện phát
triển nền kinh tế thị tr-ờng - nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị tr-ờng, có
nhiều thành phần tham gia theo định h-ớng xã hội chủ nghĩa. Để có những thay đổi
mang tính chất cách mạng trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội và văn hóa,
Đảng và Nhà n-ớc ta đã ban hành hàng loạt các chủ tr-ơng, định h-ớng, luật, chính
sách; những văn bản có tác động sâu sắc đến quá trình giữ gìn bảo vệ và phát
triển của DSVH.