Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN:Kiểm sát điều tra tại hiện trường những vụ, việc mang tính hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tây potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.71 KB, 105 trang )









LUẬN VĂN:

Kiểm sát điều tra tại hiện trường những
vụ, việc mang tính hình sự trên địa bàn
tỉnh Hà Tây








Mở Đầu


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
tư pháp nói chung - cơ quan Viện kiểm sát nói riêng là một đòi hỏi có tính cấp bách của
Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với
yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô
tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân


đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp".
Viện kiểm sát nhân dân là một trong các cơ quan tiến hành tố tụng được pháp
luật quy định, có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Để thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát đã tiến hành nhiều
công tác kiểm sát khác nhau, trong đó công tác kiểm sát điều tra là một bộ phận của công
tác này, là kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra tại hiện trường.
Hoạt động của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm hoạt động điều tra vụ án hình sự tại hiện
trường của Cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, thu thập được đầy đủ các thông
tin, tài liệu, chứng cứ phục vụ quá trình điều tra, khám phá vụ án. Trong những năm qua
Viện kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố gắng trong thực hiện công tác kiểm sát các hoạt
động điều tra tại hiện trường các vụ việc mang tính hình sự, góp phần quan trọng trong
hoạt động điều tra khám phá vụ án. Tuy nhiên, công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường
những vụ việc mang tính hình sự vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém như: có nhiều vụ việc
xảy ra Cơ quan điều tra thông báo cho Viện kiểm sát, nhưng Viện kiểm sát không cử
người đến kiểm sát hoạt động, có trường hợp sau khi khám nghiệm hiện trường xong
Viện kiểm sát mới đến. Việc cơ quan Viện kiểm sát tiến hành hoạt động kiểm sát không
thường xuyên, không trực tiếp mà chỉ kiểm sát qua biên bản giấy tờ nên đã dẫn tới thực
trạng: không nắm bắt được chi tiết vụ, việc và những vấn đề phát sinh ngay từ đầu, cho
nên hoạt động kiểm sát điều tra tiếp theo của cơ quan này gặp rất nhiều khó khăn, lúng
túng trong việc nhận định, đánh giá và ra các quyết định. Kiểm sát viên đến hiện trường
còn mang tính hình thức, có mặt cho đúng thủ tục, không thực hiện đúng chức trách
nhiệm vụ được giao, cá biệt có Kiểm sát viên năng lực còn hạn chế, khi đến hiện trường

không biết mình phải làm gì, làm như thế nào. Nhiều vụ việc do công tác giám sát điều
tra hiện trường không tốt, khám nghiệm hiện trường qua loa đại khái, thu thập tài liệu,
chứng cứ không đầy đủ, đã gây rất nhiều khó khăn trong chứng minh tội phạm sau này,
như: nhận định về động cơ, mục đích gây án, số lượng đối tượng gây án, đặc điểm đối
tượng gây án, tài sản chiếm đoạt không chính xác, đầy đủ, từ đó xây dựng các giả thiết
điều tra không đúng, dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm, làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy
tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải hoàn

thiện công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ việc mang tính hình sự sao cho
hoạt động này đạt hiệu quả cao. Thực trạng Hà Tây trong những năm qua công tác khám
nghiệm hiện trường cũng như kiểm sát hoạt động điều tra tại hiện trường còn nhiều sơ
hở, yếu kém, hiệu quả công tác chưa cao, số vụ việc thụ lý nhiều nhưng số vụ án được
giải quyết chiếm tỷ lệ thấp. Chính vì vậy, đây là vấn đề thực tiễn rất cần được sự quan
tâm nghiên cứu, nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực
tiếp nội dung này. Bên cạnh đó những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hiện
trường và khám nghiệm hiện trường tại Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự mới chỉ dừng lại
ở những quy định mang tính khái quát chung, chưa có những quy định cụ thể. Như vậy,
xét ở cả bình diện lý luận và thực tiễn thì việc nghiên cứu đề tài: " Kiểm sát điều tra tại
hiện trường những vụ, việc mang tính hỡnh sự trờn địa bàn tỉnh Hà Tây " là yêu cầu
cấp thiết mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Kiểm sát điều tra tại hiện trường những vụ việc mang tính hình sự là một lĩnh
vực còn rất mới, tuy nhiên đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, như: Ngô
Sĩ Hiền, Học viện Cảnh sát nhân dân: Nghiên cứu dấu vết súng đạn phục vụ điều tra,
Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2004; Nguyễn Mạnh Hiền, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tây: Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn
điều tra các vụ án ma túy - lý luận thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2004; Nguyễn Đức Niên: Tổ chức điều tra
tại hiện trường có người chết trên địa bàn tỉnh Hà Giang của Cơ quan Cảnh sát điều tra
và một số giải pháp nâng cao hiệu quả, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát

nhân dân, 2004; Nguyễn Vĩnh Hà: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra
tại hiện trường các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Phú Yên,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2005; Lê Hải Âu: Tổ chức hoạt
động khám nghiệm hiện trường có người chết chưa rõ nguyên nhân trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2003
Nội dung của những đề tài nêu trên đã đề cập đến chức năng kiểm sát điều tra các

vụ án hình sự và công tác hiện trường, nhưng chỉ dừng lại ở góc độ phân tích, tìm hiểu
các quy định của pháp luật, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào tập trung
nghiên cứu và làm rõ nội dung của công tác kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ việc
mang tính hình sự nói chung nên chưa đưa ra được mô hình kiểm sát điều tra hoàn chỉnh
trong giai đoạn này, mà công tác hiện trường lại quyết định đến 90% hoạt động điều tra
khám phá vụ án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ, việc mang tính hình sự xảy ra trên địa
bàn tỉnh Hà Tây, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hữu hiệu góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động điều tra, khám phá các vụ án hình sự, phục vụ tốt cho cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Tây và trong phạm vi cả nước.
Những nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu đề tài là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hiện trường và kiểm sát điều tra tại hiện
trường các vụ việc mang tình hình sự.
- Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ việc mang tính hình sự.
- Khảo sát thực trạng, đánh giá hoạt động điều tra tại hiện trường, từ đó thấy
được những ưu điểm, những mặt tích cực, những hạn chế để đề xuất những giải pháp,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ
việc mang tính hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tây từ năm 2000 đến tháng 6 năm 2005.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở các quan điểm duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các
phương pháp như phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp so sánh đối chiếu, thống

kê, phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp tổng hợp và
những phương pháp khác.
6. ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Đề tài luận văn đã đưa ra được những nhận thức lý luận mới, đầy đủ, rõ ràng về
hiện trường và hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường các vụ việc mang tính hình sự,
đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường, phát hiện những ưu,
nhược điểm và nguyên nhân của những tồn tại. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát điều tra tại hiện trường những
vụ, việc mang tính hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tây
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa về mặt khoa học pháp lý, góp phần
hoàn thiện những quy định pháp luật còn bất cập và chưa hoàn thiện. Mặt khác, luận văn
còn góp phần mô hình hóa một cách toàn diện về hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện
trường các vụ việc mang tính hình sự, từ đó khẳng định được vai trò, vị trí của ngành
Kiểm sát trong hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường phục vụ công tác điều tra, phát
hiện tội phạm.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hiện trường và hoạt động kiểm sát điều tra tại
hiện trường các vụ việc mang tính hình sự.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra tại hiện trường những vụ việc
mang tính hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Tây từ năm 2000 đến tháng 6 năm 2005
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra
tại hiện trường các vụ việc mang tính hình sự.

Chương 1
Nhận Thức CHUNG Về Hiện Trường
Và Hoạt Động Kiểm Sát Điều TRA Tại Hiện Trường
Các Vụ, Việc MANG Tính Hình Sự


1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm và ý nghĩa của việc nghiên cứu hiện
trường vụ, việc hình sự
1.1.1. Khái niệm hiện trường
Cho đến nay có rất nhiều ý kiến và những quan điểm khác nhau khi đề cập đến
vấn đề hiện trường.
Có quan điểm cho rằng, hiện trường là nơi chứa đựng những thông tin về tội
phạm. Theo quan điểm này, hiện trường là một khái niệm rất rộng, bởi lẽ tính "thông tin"
hàm chứa nhiều nội dung khác nhau, nếu cứ mang thông tin về vụ việc hình sự là hiện
trường thì không thể giới hạn về không gian của hiện trường, không giới hạn, không định
vị được hiện trường thì không thể tổ chức khám nghiệm hiện trường để thu thập dấu vết
hình sự, nếu tiến hành khám nghiệm cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Quan điểm về hiện
trường như trên rất rộng, nhưng lại giới hạn trong hai từ "tội phạm". Tội phạm là gì?
Theo Điều 8 Bộ luật hình sự đã đề cập rất rõ về khái niệm này, nhưng trên thực tế có thể
có những vụ, việc xảy ra sau khi đã khởi tố vụ án mới tiến hành khám nghiệm hiện
trường, nhưng cũng có những vụ việc xảy ra chưa thể xác định được ngay có hay không
có sự việc phạm tội mà phải thông qua hoạt động khám nghiệm hiện trường mới có kết
luận được, nếu khẳng định tất cả hiện trường khám nghiệm đều phải mang thông tin về
tội phạm là chưa thật chính xác, không mang tính khái quát về hiện trường nói chung.
Theo Từ điển tiếng Việt thì: "Hiện trường là nơi xảy ra sự việc" [34]. Khái niệm
này phần nào đã khắc phục được quan điểm nêu trên về hiện trường, nhưng phạm vi của
khái niệm này lại quá rộng và chưa chỉ rõ được tính chất của sự việc xảy ra là sự việc gì,
với khái niệm này cho chúng ta có những nhận định sau:

Thứ nhất: Hiện trường phải là nơi "xảy ra", nghĩa là phải có sự tồn tại của một
địa điểm nhất định, tồn tại trong một không gian nhất định, sự tồn tại đó trong một
khoảng thời gian nhất định. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng mọi sự vật, hiện tượng,
quá trình diễn ra đều tồn tại trong một không gian và thời gian nhất định.
Thứ hai: Hiện trường phải có sự việc xảy ra, sự việc xảy ra là những sự việc
mang tính bất kỳ. Từ khái niệm này cho chúng ta khẳng định rằng: mọi sự vật, hiện

tượng, quá trình xảy ra đều có hiện trường, vì những sự vật, hiện tượng, quá trình đó đều
diễn ra trong một không gian và một khoảng thời gian nhất định và không thể nằm ngoài
điều đó được. Khái niệm này về hiện trường là quá rộng, không mang tính khái quát và
sử dụng tràn lan trên thực tiễn.
Quá trình hình thành khái niệm về hiện trường trong khoa học hình sự có rất
nhiều quan điểm khác nhau, khi đề cập đến khái niệm hiện trường trong cuốn Từ điển
bách khoa Công an nhân dân có viết: Hiện trường là nơi diễn ra sự việc hay hoạt động
thực tế [33, tr. 127]. Với khái niệm này, chúng ta không xác định được đâu là hiện trường
chủ đạo, đâu là hiện trường chính để tiến hành khám nghiệm thu thập dấu vết vật chứng,
sự việc khi "diễn ra" là một chuỗi các hành vi khác nhau, kéo dài trong những khoảng
thời gian khác nhau và tồn tại trong những không gian cũng khác nhau và khái niệm này
cũng rơi vào trạng thái: những sự việc mang tính bất kỳ và những hoạt động thực tế mang
tính bất kỳ. Khái niệm này chưa chỉ ra được sự việc cụ thể.
Khi đề cập đến hiện trường, trong cuốn Giáo trình Kỹ thuật hình sự, tập IV- Đại
học An ninh nhân dân năm 1982 có viết: Hiện trường là nơi có dấu vết, tang vật của tội
phạm hoặc nghi có liên quan đến tội phạm, mà Cơ quan điều tra cần tiến hành khám
nghiệm, với khái niệm này, cho chúng ta những nhận định sau, thứ nhất: Hiện trường là
"nơi" có nghĩa là phải tồn tại một địa điểm nhất định trong một không gian và một
khoảng thời gian xác định; thứ hai: "Có dấu vết, vật chất của tội phạm hoặc nghi có liên
quan đến tội phạm" tức là: phải có sự liên quan đến vấn đề "tội phạm" điều đó đã bó hẹp
phạm vi hiện trường (phải liên quan đến tội phạm), do đó kéo theo công tác khám nghiệm
hiện trường muốn tiến hành phải xác định ngay từ đầu: có dấu vết của tội phạm hoặc có

liên quan đến tội phạm hay không? mà vấn đề này chủ yếu lại là kết quả của công tác
khám nghiệm hiện trường.
Tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: "Điều tra viên tiến
hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm, nhằm phát hiện dấu vết của tội
phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án".
Như vậy, theo quy định của khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự thì hiện
trường phải là "nơi xảy ra" hoặc "nơi phát hiện tội phạm". Trước hết, hiện trường phải là

"nơi" tức là nó phải được tồn tại trong một khoảng không gian và thời gian nhất định, nơi
đó đã xảy ra hoạt động phạm tội hoặc nơi đó đã phát hiện ra tội phạm. Theo nguyên lý về
sự hình thành dấu vết, vật chứng của tội phạm cho thấy, quá trình hình thành dấu vết, vật
chứng là quá trình tác động của vật gây vết lên vật nhận vết và lưu giữ dấu vết tội phạm,
ở đó những phản ánh dấu vết vật chất là do quá trình thực hiện những hành động phạm
tội do tội phạm gây ra. Chính vì thế hiện trường phải tồn tại những dấu vết, vật chứng và
chúng phản ánh sự tác động qua lại giữa thủ phạm với nạn nhân và môi trường vật chất
xung quanh. Nhưng khái niệm này trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng rơi vào nhận định
chủ quan rằng: hiện trường phải là nơi xảy ra tội phạm, nơi phát hiện tội phạm mà Điều
tra viên tiến hành khám nghiệm, khi đề cập khái niệm hiện trường trong quan điểm đầu
tiên, tác giả đã đề cập đến vấn đề như thế nào là tội phạm, tức là phải thỏa mãn những
quy định về tội phạm trong Bộ luật hình sự. Nhưng trên thực tiễn, hoạt động điều tra
khám phá các vụ án hình sự, là quá trình đi từ không đến có, phải xác định một vụ việc
xảy ra có sự kiện phạm tội hay không, tức là phải xác định có vụ phạm tội xảy ra hay
không. Chính vì vậy, khi có sự việc hình sự xảy ra Cơ quan điều tra phải tiến hành khám
nghiệm ngay, sau đó mới kết luận có hay không có sự việc phạm tội để đi đến kết luận có
hay không khởi tố vụ án hình sự.
Theo tác giả, khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự quy định như trên chưa
chặt chẽ, bởi vì Điều tra viên tiến hành khám nghiệm được phải xác định: nơi xảy ra tội
phạm, nơi phát hiện tội phạm, trong khi đó phần lớn muốn xác định được vấn đề này thì
phải tiến hành khám nghiệm hiện trường trước mới kết luận được. Nhiều vụ, việc xảy ra

những thông tin cung cấp ban đầu chưa đủ để có thể nhận định và xác định rõ tình hình
của vụ việc đó có mang dấu hiệu của tội phạm hay không? Muốn xác định được phải có
một khoảng thời gian điều tra làm rõ. Vì vậy, khái niệm về hiện trường trong Bộ luật tố
tụng hình sự quá bó hẹp và không mang tính khái quát cao. Ví dụ: Những vụ hiện trường
có người chết, phải qua quá trình khám nghiệm, thu thập những thông tin, tìm kiếm các
dấu vết, vật chứng xung quanh hiện trường từ đó mới có thể đi đến nhận định ban đầu
nguyên nhân cái chết của nạn nhân là do án mạng, do tự sát, do bệnh lý hay do tai nạn rủi
ro và chỉ xác định nguyên nhân chết là do án mạng mới là căn cứ xác định có dấu hiệu

của tội phạm để tiến hành khởi tố vụ án hình sự.
Dù đề cập hiện trường ở góc độ nào, nghiên cứu vấn đề này ở khía cạnh nào đi
nữa, thì hiện trường cũng phải thỏa mãn những dấu hiệu cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Hiện trường phải tồn tại ở một địa điểm cụ thể trong khoảng không gian
và thời gian xác định. Đây là thuộc tính tất yếu của hiện trường.
Thứ hai: Phải có sự việc mang tính hình sự xảy ra, những vụ việc mang tính hình
sự này có thể bao gồm: những hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong Bộ luật hình
sự; cũng có thể là những vụ việc mang tính hình sự xảy ra, khi xảy ra nó đã xâm hại đến
những khách thể được luật hình sự bảo vệ, như: tính mạng, sức khỏe, tài sản song chưa
thể xác định được các yếu tố của cấu thành tội phạm.
Chính vì vậy khái niệm về hiện trường phải được hiểu là: "hiện trường là nơi xảy
ra vụ việc mang tính hình sự" [16]. Đây là khái niệm mang tính khái quát cao và đầy đủ.
Với khái niệm này đã thỏa mãn được những dấu hiệu đặc trưng, cơ bản của hiện trường:
Thứ nhất: Sự tồn tại của một địa điểm trong không gian và thời gian xác định.
Thứ hai: Xảy ra vụ việc mang tính hình sự, điều này để phân biệt hiện trường các
sự việc khác trên thực tiễn, tránh hiểu khái niệm về hiện trường một cách tràn lan.
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm này.

1.1.2. ý nghĩa của việc nghiên cứu hiện trường vụ, việc hình sự
Nghiên cứu hiện trường vụ, việc hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
công tác bảo vệ và khám nghiệm hiện trường được kịp thời, nhanh chóng, đầy đủ, toàn
diện, phục vụ tốt cho quá trình thu thập dấu vết, vật chứng, tài liệu liên quan nhằm điều
tra khám phá án chính xác.
Hiện trường của vụ việc mang tính hình sự là nơi mà các dấu vết, vật chứng được
tìm thấy, những dấu vết vật chứng này tồn tại là kết quả là quy luật của sự phản ánh vật
chất xung quanh giữa vật gây vết và vật nhận vết, do vậy nó là cơ sở quan trọng trong
việc xây dựng giả thuyết điều tra, nhận định tình hình có hướng điều tra, khám phá án
chính xác, nhanh chóng. Vì vậy, chúng ta cần xác định rằng: thủ phạm khi gây án luôn để
lại dấu vết vật chứng ở hiện trường và bất cứ hiện trường nào của vụ việc mang tính hình
sự đã xảy ra cũng là nơi để lại dấu vết vật chứng của tội phạm. Thủ phạm có tinh vi xóa

dấu vết, thì theo quy luật của sự phản ánh dấu vết, chúng sẽ để lại hiện trường những dấu
vết xóa, nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan điều tra là phải tìm, thu được hết các dấu vết
vật chứng để những dấu vết vật chứng này sẽ chứng minh được: ai là người thực hiện
hành vi phạm tội; theo phương thức thủ đoạn nào và công cụ phương tiện gì mà thủ phạm
sử dụng để gây án.
1.2. Hoạt động khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi
1.2.1. Hoạt động khám nghiệm hiện trường
1.2.1.1. Khái niệm khám nghiệm hiện trường
Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động điều tra được quy định tại khoản 2
Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự. Nhưng tại điều luật này chỉ đề cập đến vấn đề Điều tra
viên phải làm những gì khi tiến hành hoạt động này, cách thức tiến hành ra sao, như thế
nào, mà không đề cập đến công tác khám nghiệm hiện trường là gì.
Trong cuốn Giáo trình Điều tra hình sự năm 2002 của trường Đại học Quốc gia
Hà Nội, có viết về khám nghiệm hiện trường như sau: "Khám nghiệm hiện trường là tổ
chức việc nghiên cứu, phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản dấu vết vật chứng và các

tin tức, tài liệu có liên quan trực tiếp tại hiện trường" [17]. Theo khái niệm này, hoạt động
khám nghiệm hiện trường không phải là hoạt động điều tra theo tố tụng hình sự quy định,
như vậy kết quả của hoạt động thu thập các tin tức tài liệu tuy có liên quan đến hiện
trường vụ việc mang tính hình sự, nhưng liệu chúng có giá trị pháp lý chứng minh tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội hay không.
Trong cuốn Giáo trình Bảo vệ và khám nghiệm hiện trường, Học viện Cảnh sát
nhân dân, xuất bản năm 2004 có nêu khái niệm khám nghiệm hiện trường như sau:
"Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra tố tụng hình sự nhằm nghiên cứu, đánh
giá dấu vết, vật chứng và những tin tức tài liệu tại hiện trường, phục vụ điều tra và xử lý
tội phạm" [16].
Khái niệm về khám nghiệm hiện trường trong cuốn giáo trình của Học viện Cảnh
sát nhân dân đưa ra đã đề cập đến tính căn cứ pháp lý của hoạt động này (được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự), do vậy nó đã thỏa mãn thuộc tính thứ ba của chứng cứ, đó
là tính hợp pháp của chứng cứ. Tuy nhiên quá trình khám nghiệm hiện trường không chỉ

dừng lại ở việc nghiên cứu, đánh giá dấu vết vật chứng cũng như các tin tức tài liệu khác
tại hiện trường, bởi lẽ có những dấu vết vật chứng không thể tiến hành nghiên cứu, xem xét,
đánh giá ngay tại hiện trường được, mà phải nghiên cứu, đánh giá sau đó. Vì vậy, công tác
thu lượm dấu vết vật chứng, bảo quản dấu vết vật chứng là một trong những công tác quan
trọng của hoạt động điều tra tại hiện trường.
Mục đích của hoạt động khám nghiệm hiện trường không chỉ là việc phát hiện,
tìm kiếm, thu lượm dấu vết vật chứng và các tin tức tài liệu làm cơ sở, căn cứ cho hoạt
động chứng minh tội phạm, điều tra, khám phá vụ án, việc thu thập, đánh giá dấu vết vật
chứng sẽ cho Cơ quan điều tra có những nhận định ban đầu để xây dựng các giả thuyết
điều tra, lập các chuyên án phá án, hoặc có kết luận về hiện trường không có liên quan
đến sự kiện phạm tội để chấm dứt các hoạt động tiếp theo. Bởi vậy, tác giả đưa ra một
khái niệm hoàn chỉnh về khám nghiệm hiện trường như sau: khám nghiệm hiện trường là
hoạt động điều tra tố tụng hình sự, nhằm nghiên cứu, tìm kiếm, bảo quản và đánh giá dấu

vết vật chứng, cũng như những tin tức, tài liệu tại hiện trường, phục vụ điều tra và xử lý
tội phạm.
- Cơ sở pháp lý của công tác khám nghiệm hiện trường: tại các điều 110; 111;
150 Bộ luật tố tụng hình sự, quy định tại Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, các văn bản,
chỉ thị của Bộ Công an đã quy định cụ thể về công tác khám nghiệm hiện trường.
- Tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2002 có quy định: "Thẩm quyền điều
tra", có ba loại thẩm quyền điều tra như sau: thẩm quyền điều tra theo đối tượng; thẩm
quyền điều tra theo vụ việc phạm tội; thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ.
- Tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2002 có quy định: "Quyền hạn điều tra
của Bộ đội Biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan
khác của Công an nhân dân; Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra".
- Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định về "khám nghiệm
hiện trường".
Như vậy, các cơ quan tổ chức tham gia hoạt động khám nghiệm hiện trường bao
gồm: Cơ quan điều tra của lực lượng An ninh nhân dân; Cơ quan điều tra của lực lượng

Cảnh sát nhân dân; Cơ quan điều tra của lực lượng Quân đội nhân dân; Viện kiểm sát
nhân dân tổ chức tiến hành các cuộc khám nghiệm hiện trường và trực tiếp tiến hành hoạt
động khám nghiệm hiện trường (quy định tại điều 110; 150 Bộ luật tố tụng hình sự).
Các cơ quan khác tuy không phải là Cơ quan điều tra, nhưng được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra như: Hải quan; Kiểm lâm; Cảnh sát biển; Bộ đội biên
phòng; cơ quan khác của lực lượng Công an nhân dân; Quân đội nhân dân (tại Điều 111
Bộ luật tố tụng hình sự và các điều 12; 15; 18 và 25 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự)
được tiến hành khám nghiệm hiện trường theo sự phân cấp về thụ lý và giải quyết các loại
án hình sự.
Chủ thể tiến hành khám nghiệm: Điều tra viên tiến hành khám nghiệm; theo quy
định này có nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau: Một là, luật tố tụng hình sự là luật

hình thức, quy định về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành các hoạt động, chỉ được phép
làm những gì mà luật tố tụng hình sự quy định, không được phép tiến hành những hoạt
động mà luật không cấm, nhưng không quy định; hai là, tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố
tụng hình sự chỉ quy định Điều tra viên là người được phép tiến hành khám nghiệm hiện
trường, do đó những chủ thể khác cũng tiến hành hoạt động khám nghiệm hiện trường là
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự.
Theo cách hiểu trên là chưa thật đầy đủ và toàn diện, tại khoản 4
Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định như sau: "Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
trong hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Lực lượng Cảnh
sát Biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân; Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định". Tại
Điều 2 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự do ủy Ban Thường vụ Quốc hội ban hành
ngày 20/8/2004 quy định: "Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra bao gồm có Bộ đội Biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Lực lượng Cảnh sát biển, các cơ
quan khác của Công an nhân dân; Quân đội nhân dân quy định tại các điều 19; 20; 21; 22;
23; 24 và 25 của Pháp lệnh", trong đó có hoạt động khám nghiệm hiện trường. Như vậy,
ngoài Điều tra viên tiến hành khám nghiệm, còn có những chủ thể khác, tuy không phải
là Điều tra viên nhưng được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động này. Căn cứ Chỉ thị

02/2001/CT-BCA về công tác khám nghiệm hiện trường của lực lượng Công an nhân dân
và Quyết định số 57/2001/QĐ-BCA (C11), Bộ Công an đã ban hành quy chế phân công
trách nhiệm giữa các lực lượng Công an nhân dân trong công tác khám nghiệm hiện
trường, theo đó còn có một số chủ thể khác cũng tham gia hoạt động khám nghiệm này,
như: cán bộ Cảnh sát giao thông đường bộ; đường sắt; đường thủy; cán bộ Cảnh sát
phòng cháy chữa cháy
Địa điểm tiến hành khám nghiệm hiện trường: theo quy định tại khoản 1 Điều
150 Bộ luật tố tụng hình sự thì hoạt động khám nghiệm hiện trường tại "nơi xảy ra, nơi
phát hiện tội phạm", như phần đầu khi đề cập đến vấn đề hiện trường tác giả cũng đã
phân tích làm rõ khái niệm này. Sau khi nhận được tin báo, Cơ quan điều tra tổ chức
khám nghiệm hiện trường, sau đó mới có kết luận khởi tố hay không khởi tố vụ án hình

sự, bởi lẽ cũng là hiện trường vụ việc có người chết, những nguyên nhân chết là do nạn
nhân tự sát thì không có dấu hiệu của tội phạm, hoặc cái chết tự nhiên; chết do bệnh lý
những trường hợp này đều không có dấu hiệu của tội phạm. Vì vậy, không nhất thiết rằng
các hiện trường được tiến hành khám nghiệm đều phải là nơi xảy ra, hoặc là nơi phát hiện
tội phạm. Do đó, trong thực tiễn hoạt động khám nghiệm hiện trường được tiến hành tại
nơi xảy ra, nơi phát hiện những vụ việc mang tính hình sự.
Về thời điểm tiến hành hoạt động này: tại khoản 2 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình
sự có quy định: "Khám nghiệm hiện trường có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án
hình sự". Trong mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải
thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Từ quy định trên của luật tố tụng hình sự,
chúng ta có thể rút ra một số nội dung sau:
- Thứ nhất: Những hiện trường vụ việc mang tính hình sự do Điều tra viên trực
tiếp tiến hành khám nghiệm, thì trước đó Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát
cùng cấp biết để tiến hành hoạt động kiểm sát khám nghiệm. Khi được thông báo thì lãnh
đạo Viện kiểm sát phải cử Kiểm sát viên đến hiện trường để kiểm sát hoạt động khám
nghiệm, việc có mặt của Kiểm sát viên là bắt buộc theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai: Từ quy định như trên cho ta thấy, những hiện trường vụ việc mang
tính hình sự xảy ra, nhưng không do Điều tra viên tiến hành khám nghiệm mà do những

cơ quan khác không phải là Cơ quan điều tra nhưng được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự, thì không có điều
luật nào trong Bộ luật tố tụng hình sự hay trong Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự có
quy định những cơ quan này trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường phải thông
báo trước cho Viện kiểm sát. Việc không quy định này đã dẫn đến thực trạng: nếu mối
quan hệ phối hợp không tốt giữa Viện kiểm sát và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, thì họ sẽ không thông báo cho Viện kiểm sát đến để
kiểm sát hoạt động khám nghiệm, do vậy nhiều vụ việc khám nghiệm hiện trường sẽ
không có sự tham gia của Viện kiểm sát, đặc biệt những vụ tai nạn giao thông, đây là
những vụ án "nhạy cảm", xác định lỗi của người gây tai nạn và của người bị nạn là khó,

nếu công tác khám nghiệm hiện trường không đầy đủ, không khách quan, không tỷ mỷ,
không cẩn thận, dễ dẫn đến hiện trạng vụ việc giải quyết không đúng, thưa kiện kéo dài
đến các cơ quan chức năng, ảnh hưởng không nhỏ đến các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Những vụ án tuy khởi tố nhưng chứng cứ yếu do công tác khám nghiệm hiện trường
không chi tiết, Tòa án đã hủy án trả hồ sơ để tiến hành điều tra lại, nhưng công tác hiện
trường đến giai đoạn này thì không thể khám nghiệm lại được. Đây cũng là một trong
những quy định chưa chặt chẽ của luật,đang được đặt ra cần phải hoàn thiện.
Những người tham gia vào quá trình khám nghiệm:
Khoản 2 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: " khi khám nghiệm
phải có người chứng kiến; có thể để cho bị can; người bị hại; người làm chứng và mời
nhà chuyên môn tham gia cuộc khám nghiệm". Các lực lượng trinh sát cũng tham gia vào
hoạt động khám nghiệm hiện trường.
Về nội dung khám nghiệm hiện trường:
Khoản 3 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: "Khi khám nghiệm hiện
trường Điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô
hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến
vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường".
Việc lập biên bản phải đúng theo quy định tại các điều 64; 77; 95; 125 và 154 Bộ
luật tố tụng hình sự.

Chỉ khi nào hoạt động khám nghiệm hiện trường do cơ quan có thẩm quyền,
người có thẩm quyền tiến hành lập biên bản theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự, thì những dấu vết vật chứng thu thập đó mới có giá trị chứng minh.
Như vậy, hoạt động khám nghiệm hiện trường là hoạt động mang tính đặc thù,
bởi lẽ công việc này phải tiến hành tại hiện trường - nơi có vụ việc mang tính hình sự xảy
ra. Hơn nữa hoạt động này chính là hoạt động điều tra ban đầu được quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự và do đó kết quả của hoạt động khám nghiệm hiện trường sẽ là cơ sở
cho việc tiến hành các bước của hoạt động điều tra tiếp theo. Vì nó là căn cứ cho hoạt

động khởi tố vụ án, khởi tố bị can, là căn cứ để xây dựng các giả thuyết điều tra. Đòi hỏi
quá trình này phải được tiến hành theo một quy trình nhất định, là sự vận dụng khoa học
và sáng tạo những kiến thức chuyên môn, những phương pháp khoa học, những phương
tiện kỹ thuật vào từng khâu, từng bước của quá trình khám nghiệm hiện trường.
1.2.1.2. Phương pháp và quá trình khám nghiệm hiện trường
* Phương pháp khám nghiệm hiện trường
Trong các tài liệu nghiên cứu đã đề cập đến hai phương pháp cơ bản khi tiến
hành khám nghiệm hiện trường, đó là: phương pháp lần theo dấu vết; phương pháp chia
khu vực.
Phương pháp lần theo dấu vết: Trên cơ sở xác định dấu vết vật chứng tại một
điểm tập trung nhiều nhất, đoàn khám nghiệm sẽ lấy điểm đó làm mốc và khám lần theo
dấu vết tìm thấy cho đến hết, việc khám nghiệm hiện trường theo phương pháp này sẽ
giúp đoàn khám nghiệm mở rộng hiện trường gây án, thu thập đầy đủ dấu vết vật chứng.
Phương pháp chia khu vực: Khi đến hiện trường, các cán bộ khám nghiệm hiện
trường phải tiến hành quan sát địa hình hiện trường gây án để xác định đặc điểm và cấu
trúc của hiện trường, từ đó quyết định áp dụng phương pháp khám nghiệm cho phù hợp,
tránh hiện tượng bỏ sót, khám không đầy đủ, thu thập không toàn diện. Đối với hiện
trường hẹp, có cấu trúc đơn giản thì khám nghiệm hiện trường theo phương pháp lần theo
dấu vết là hợp lý, đối với những hiện trường rộng, có cấu trúc phức tạp, thì phải tiến hành
khám nghiệm hiện trường theo phương pháp chia khu vực.
Dù hiện trường được khám nghiệm theo phương pháp nào, cũng phải tuân thủ

nghiêm ngặt các phương pháp khám nghiệm như sau:
- Phương pháp lôgic biện chứng: Quá trình khám nghiệm hiện trường thực chất
là quá trình nhận thức chân lý của cán bộ khám nghiệm, từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình khám nghiệm là quá trình
phát hiện, khám phá từ hiện tượng đến bản chất của vấn đề, từ nông đến sâu, từ cái đã
biết đến cái chưa biết, từ nguyên nhân đến kết quả Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng

định rằng: mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất, trong mối quan hệ tác
động qua lại với nhau một cách chặt chẽ, gắn bó hữu cơ, không tách rời nhau, đó là một
tổng thể thống nhất và vì vậy thế giới thống nhất bởi tính vật chất và con người có khả
năng nhận thức được thế giới. Điều này có nghĩa là không có cái gì mà con người không
thể nhận thức được.
- Phương pháp quan sát: Quan sát là quá trình tri giác có chủ định, có mục đích,
có kế hoạch của con người đối với hiện thực của thế giới khách quan xung quanh ta.
- Phương pháp đo đạc: Khi khám nghiệm hiện trường phải sử dụng các phương
tiện để đo đạc chính xác, khoa học về kích thước, khoảng cách, trọng lượng, khối lượng,
nhiệt độ, thời gian, tần số, vận tốc
- Phương pháp ghi nhận: Phương pháp này được thực hiện thông qua các hình
thức: chụp ảnh; ghi âm; ghi hình; lập biên bản mô tả chi tiết mọi diễn biến và dấu vết, vật
chứng xuất hiện ở hiện trường, việc ghi nhận này có tác dụng vô cùng to lớn cho việc
xem xét, nghiên cứu, đánh giá dấu vết vật chứng, cũng như cho hoạt động dựng lại, diễn
lại hành vi phạm tội.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Với phương pháp này, giúp Điều tra
viên lý giải được sự hình thành và tồn tại những dấu vết vật chứng ở hiện trường, đồng
thời những dấu vết vật chứng thu được ở hiện trường đều phải được xem xét, đánh giá
trong một tổng thể, so sánh, đối chiếu để tìm ra mối liên hệ giữa chúng, thông qua đó xâu
chuỗi các sự kiện để tìm kiếm sự thật, cũng như loại bỏ những dấu vết tồn tại ngẫu nhiên
tại hiện trường.
- Phương pháp thực nghiệm: Trên cơ sở đối tượng, hoàn cảnh, điều kiện, cơ chế
của sự hình thành dấu vết hình sự, các nhà chuyên môn sẽ tiến hành thực nghiệm: tạo ra

các dấu vết khác trong điều kiện, hoàn cảnh tương tự, nhằm tìm ra sự thật trong mối liên
hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và dấu vết tồn tại ở hiện trường, từ đó xác định giá trị
thật của dấu vết.

Như vậy, việc nghiên cứu kỹ phương pháp khám nghiệm hiện trường giúp cho
các Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như những thành viên khác trong đoàn khám
nghiệm nắm được quy trình tiến hành hoạt động thu thập, phát hiện, bảo quản dấu vết vật
chứng, đảm bảo tiến hành đầy đủ, chính xác, khách quan, không bỏ lọt bất cứ dấu vết
nào.
* Quá trình khám nghiệm hiện trường
Lý luận và thực tiễn về khám nghiệm hiện trường cho thấy, quá trình tiến hành
khám nghiệm hiện trường diễn ra theo quy trình như sau:
- Quan sát hiện trường: quan sát hiện trường, chính là quá trình tri giác về hiện
trường, đây là hoạt động đầu tiên và rất quan trọng đối với Điều tra viên tiến hành khám
nghiệm. Quan sát để định vị được hiện trường, xem xét tính tổng thể hiện trường vụ việc
mang tính hình sự trước khi bắt tay vào khám nghiệm chi tiết. Việc quan sát này giúp cho
Điều tra viên nhận định: hiện trường vụ việc hình sự có cấu trúc như thế nào? Sự sắp đặt
các đồ vật trong hiện trường ra sao? Tử thi nằm ở đâu? Tư thế tử thi như thế nào? Đồ đạc
có bị xáo trộn không? Hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi? Vết máu loang
như thế nào? Giai đoạn này Điều tra viên tiến hành quan sát bằng mắt thường, có sử dụng
một số phương tiện hỗ trợ như: ống nhòm, kính lúp, đèn pin để quan sát toàn bộ khung
cảnh hiện trường vụ việc mang tính hình sự đã xảy ra.
Quá trình quan sát sơ bộ tại hiện trường cũng là quá trình tư duy lôgic, cho
những nhận định ban đầu, cũng như có thể định hướng ngay cho những hoạt động điều
tra tiếp theo tại hiện trường. Ví dụ: khi Điều tra viên đến hiện trường vụ việc hình sự có
người chết, quan sát thấy: nạn nhân nằm chết ở cửa ra vào, áo quần xộc xệch, trên mặt
nạn nhân có nhiều vết bầm tím từ đây Điều tra viên có nhận định: nạn nhân bị tấn công
ngay tại cửa khi ra mở cửa cho thủ phạm; vào hiện trường; Điều tra viên còn quan sát
thấy: trên bàn uống nước còn ấm trà còn ấm, hai chén nước đang uống dở, dưới gầm
giường hai đôi dép để song song, xếp ngay ngắn cho Điều tra viên nhận định: giữa thủ

phạm gây án và nạn nhân có mối quan hệ quen biết và khá thân thiết với nhau, có lẽ đã có
quan hệ tình dục trước khi bị giết chết. Bằng hoạt động quan sát hiện trường đã có thể có

những nhận định ban đầu về sự việc xảy ra, những nhận định này khá chính xác nếu Điều
tra viên có khả năng quan sát tốt và có sự suy luận tư duy lôgic.
Một ví dụ khác về hiện trường vụ việc: Khi nhận được tin báo về vụ mất trộm tại
kho xí nghiệp X, công tác bảo vệ hiện trường đã được tiến hành chu đáo, khi lực lượng khám
nghiệm đến hiện trường để tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên quan sát hiện trường thấy:
cửa ra vào kho không bị phá; trên nóc nhà kho có hai miếng ngói bị dỡ ra, nhưng tấm đan xà
gồ còn nguyên vẹn. Từ đó Điều tra viên có nhận định: nếu hung thủ chui từ mái nhà xuống
thì tấm đan phải bị phá gẫy vì nếu tấm đan không gẫy thì hung thủ không thể chui xuống
được, chỉ chi tiết quan sát rất nhỏ nhưng tinh ý và suy luận lôgic này sẽ cho Điều tra viên
có nhận định: đây là hiện trường giả, rất có thể vụ trộm này do thủ kho gây ra và cố tình
làm giả hiện trường để đánh lạc hướng điều tra của Cơ quan điều tra, sau này với nhận
định ban đầu Cơ quan điều tra đã xác minh và làm rõ thủ phạm gây án chính là thủ kho
của xí nghiệp X. Điều này phù hợp với những nhận định ban đầu về hiện trường, về thủ
phạm.
Quan sát hiện trường là quá trình hết sức quan trọng, việc quan sát phải toàn
diện, toàn cảnh từ xa đến gần, từ diện đến điểm, từ chung đến riêng, có trọng tâm và
trọng điểm. Trong quá trình quan sát, Điều tra viên phải phân tích, xem xét mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi của thủ phạm với dấu vết vật chứng tồn tại ở hiện trường, bởi lẽ:
sự xuất hiện những dấu vết vật chứng này là một tổ hợp, một chỉnh thể thống nhất và nó
chính là kết quả của sự tác động qua lại giữa hiện trường vụ việc mang tính hình sự - với
thủ phạm - và phương tiện công cụ gây án (kết quả này chính là kết quả của quy luật hình
thành dấu vết, vật chứng). Đây chính là quá trình tư duy nhằm nghiên cứu, phân tích,
tổng hợp, so sánh các dữ kiện, các thông tin thu được ở hiện trường, thông qua quá trình
quan sát hiện trường của Điều tra viên. Chú ý, quá trình này phải hạn chế mức tối đa sự
đi lại vì sẽ tạo ra những dấu vết mới hoặc xóa đi những dấu vết vật chứng đang tồn tại ở
hiện trường.
Sau khi tiến hành quan sát sơ bộ Điều tra viên phải đưa ra một số nhận định, định

hướng cho quá trình khám nghiệm tỷ mỷ như:

Với hiện trường vụ, việc mang tính hình sự vừa xảy ra, thì cần lực lượng khám
nghiệm bao nhiêu người? Những phương tiện gì sẽ được hỗ trợ cho cuộc khám nghiệm tỷ
mỷ.
Với cấu trúc hiện trường như hiện tại (hình vuông, hình sin, hình xoáy, chia
nhiều ô ) sẽ tổ chức biện pháp (chiến thuật) khám nghiệm như thế nào để đạt hiệu quả
cao nhất: vừa nhanh, vừa toàn diện, không bỏ sót, không giẫm đạp lên nhau.
Thông qua lối vào, ra của hiện trường có thể xác định hướng đột nhập, và hướng
rút lui của thủ phạm, từ đó có nhận định ban đầu: nơi tập trung nhiều dấu vết nhất của
hung thủ gây án, cũng như phần nào hình dung được toàn bộ diễn biến của hành vi phạm
tội.
Xác định chất lượng và dấu vết nguồn hơi: Sử dụng chó nghiệp vụ truy vết đạt
kết quả.
Trong trường hợp xác định được dấu vết nóng cần tập trung nghiên cứu, phân
tích ngay nhằm thu được những thông tin cần thiết phục vụ cho việc truy bắt thủ phạm
ngay tại hiện trường.
Quan sát hiện trường là một hoạt động cần thiết và quan trọng, thông qua quan
sát mới đi đến nhận định tình hình ban đầu, đây là yếu tố hết sức quan trọng, ai cũng có
thể quan sát, nhưng kết quả của quá trình quan sát của mỗi người là khác nhau. Bởi vì,
mỗi người nhìn nhận vấn đề, tình hình cũng ở góc độ và khía cạnh khác nhau, nó phụ
thuộc vào khả năng tư duy trong quá trình quan sát mà khả năng này phụ thuộc vào hai
yếu tố: Năng lực quan sát và kinh nghiệm bản thân của Điều tra viên.
- Khám nghiệm tỷ mỷ (khám nghiệm chi tiết):
Khám nghiệm tỷ mỷ là giai đoạn Điều tra viên được sử dụng các biện pháp,
phương pháp và phương tiện khoa học kỹ thuật để phát hiện, ghi nhận, nghiên cứu, thu
giữ và bảo quản dấu vết vật chứng trên hiện trường. Khám nghiệm tỷ mỷ là một giai đoạn
then chốt của quá trình khám nghiệm hiện trường, là hoạt động điều tra tại hiện trường
nhằm khai thác thông tin từ những phản ảnh vật chất cụ thể.


Muốn phát hiện và thu lượm đầy đủ dấu vết, hạn chế đến mức thấp nhất việc mất
thông tin của dấu vết hình sự ở hiện trường, quá trình khám nghiệm hiện trường cần phải
được tiến hành một cách khẩn trương, kịp thời nhưng phải thận trọng, tỷ mỷ, chính xác,
khách quan và toàn diện. Việc khám nghiệm tỷ mỷ bao gồm bốn nội dung cơ bản sau: Một
là, hoạt động phát hiện dấu vết; hai là, hoạt động ghi nhận dấu vết; ba là, hoạt động thu
lượm dấu vết vật chứng; bốn là, bảo quản và đánh giá dấu vết vật chứng.
Hoạt động phát hiện dấu vết: Phát hiện dấu vết vật chứng thông qua hai hoạt
động: Thứ nhất, hoạt động quan sát hiện trường - quá trình này Điều tra viên vừa quan sát
vừa phát hiện những dấu vết vật chứng tồn tại ở hiện trường (những dấu vết rõ, dễ thấy);
thứ hai, thông qua việc sử dụng một số các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ, với phương pháp
thích hợp để phát hiện ra dấu vết vật chứng mà mắt thường không thể nhìn thấy hoặc phát
hiện ra được (ví dụ: dấu vết vân tay; dấu vết máu; tinh dịch; lông; tóc; sợi ) quá trình
phát hiện dấu vết vật chứng phải hết sức thận trọng và tỷ mỷ, điều quan trọng đối với
Điều tra viên là không được bỏ sót bất cứ một chi tiết nào dù là nhỏ nhất, tất cả mọi dấu
vết vật chứng đều phải được phát hiện để nghiên cứu, xem xét, đánh giá sau này còn sử
dụng là chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Muốn phát hiện dấu vết được tốt, tránh bỏ sót dấu vết, đòi hỏi phải vận dụng
đúng các phương pháp, chiến thuật khám nghiệm hiện trường đối với từng loại hiện
trường cụ thể, đồng thời phải sử dụng hợp lý, khoa học các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
+ Ghi nhận dấu vết: Đây là hoạt động nhằm ghi nhận các thông tin, tài liệu có
thật được phát hiện trong quá trình khám nghiệm theo đúng trình tự, thủ tục và phương
pháp được pháp luật quy định tại các điều 77; 95; 150 và 154 Bộ luật tố tụng hình sự.
Khoản 3 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: "Khi khám nghiệm hiện
trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô
hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến
vụ án, ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường".
Khi chụp ảnh cần lưu ý: Chụp toàn cảnh, chụp cả hệ thống, sau đó chụp chi tiết
từng dấu vết đòi hỏi: ghi nhận phải trung thực, phản ánh khách quan về hình dạng, kích

thước, màu sắc, đặc điểm của từng dấu vết (chính vì vậy phải có thước tỷ lệ đặt cạnh dấu

vết khi chụp).
Khi lập biên bản khám nghiệm hiện trường, phải mô tả tỷ mỷ, cụ thể, đầy đủ về
hiện trường, về dấu vết, về tử thi về loại dấu vết, hình dạng, vị trí, kích thước, màu sắc,
chiều hướng, số lượng cũng như trạng thái và mối tương quan của dấu vết trên vật mang
vết và với môi trường vật chất xung quanh. Khi mô tả trong biên bản phải mô tả thật kỹ,
tỷ mỷ, ví dụ: khi mô tả dấu vết là thương tích trên cơ thể tử thi cần phải mô tả: chiều
hướng của dấu vết; độ nông sâu; đặc điểm hình thành; miệng vết thương; đáy và bờ mép
của vết thương; những dấu hiệu, dấu vết xung quanh vết thương. Tuy mô tả tỷ mỷ, nhưng
chỉ được ghi nhận một cách trung thực, không được thổi phồng theo ý chí chủ quan mà
chưa được kiểm tra, giám định của các cơ quan chức năng chuyên môn có thẩm quyền, ví
dụ: ghi nhận vật chứng là tiền, vàng, đô la hiện trường chỉ được ghi là "nghi là" và phải
mô tả màu sắc, trạng thái, loại gì , không được khẳng định.
Điều tra viên khám nghiệm hiện trường phải tiến hành vẽ sơ đồ hiện trường và
đánh dấu các dấu vết vật chứng vào bản vẽ sơ đồ hiện trường; vẽ dấu vết; vẽ biểu mẫu;
ký họa
Những hoạt động ghi nhận trên càng tỷ mỷ, càng thận trọng thì hoạt động xem
xét dấu vết vật chứng thu được ở hiện trường có giá trị chứng minh càng cao, cũng như
giúp cho hoạt động dựng lại hiện trường vụ án càng được thuận lợi.
+ Thu lượm dấu vết: Quá trình phát hiện, ghi nhận không thể tách rời với hoạt
động thu lượm dấu vết, nguyên lý hình thành dấu vết vật chứng là nguyên lý của sự phản
ánh, đó là sự tác động qua lại giữa ba yếu tố: vật gây vết - chủ thể - vật mang vết, do đó
phải thu lượm dấu vết trên vật mang vết, nhưng đồng thời cũng phải thu lượm dấu vết
của vật gây vết, vì cần phải lấy mẫu so sánh để sau này còn có hoạt động truy nguyên dấu
vết. Việc thu lượm phải hợp pháp (chủ thể tiến hành cũng như cách thức và phương pháp
tiến hành) phải đảm bảo yếu tố hợp pháp, thì vật chứng mới có giá trị chứng minh.
Quá trình thu lượm dấu vết: Ngoài việc tiến hành thu lượm, phải đảm bảo tính
hợp pháp, đó là người có thẩm quyền và lập biên bản, cần chú ý trong quá trình thu lượm

phải hết sức cẩn thận tránh làm mất đi các dấu vết, hoặc tạo thêm những dấu vết mới do
sự bất cẩn trong công tác (ví dụ: quá trình cầm, nắm, đóng gói ), nguyên tắc nữa đó là:

dấu vết thu được cần bảo quản cho tốt, tránh mất, hư hỏng sẽ làm mất giá trị truy
nguyên dấu vết, hoặc mất đi giá trị chứng minh.
1.2.2. Hoạt động khám nghiệm tử thi
1.2.2.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hoạt động khám nghiệm tử thi
Khám nghiệm tử thi là hoạt động điều tra do Điều tra viên tiến hành, có bác sĩ
pháp y tham gia và có người chứng kiến nhằm nghiên cứu, đánh giá, thu thập thông tin từ
dấu vết bên ngoài, bên trong tử thi; xác định thương tích dẫn đến cái chết của nạn nhân
và cùng với việc nghiên cứu, đánh giá hệ thống dấu vết thu thập được trong hoạt động
khám nghiệm hiện trường để xác định tính chất của vụ việc đã xảy ra có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để quyết định sự việc cần hay không cần khởi tố vụ án hình sự.
Mục đích, ý nghĩa của hoạt động khám nghiệm tử thi:
- Việc khám nghiệm tử thi để xác định rõ tung tích của nạn nhân cũng như hình
dung toàn bộ diễn biến của sự việc đã xảy ra.
- Xác định rõ nguyên nhân chết: chết do án mạng; hay chết do tự sát; hay chết vì
bệnh lý, chết vì đột tử để định hướng cho các hoạt động tiếp theo. Nếu chết do án
mạng, đó là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
- Truy nguyên công cụ, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, cũng như
phương thức, thủ đoạn mà hung thủ dùng để giết nạn nhân.
1.2.2.2. Phương pháp khám nghiệm tử thi tại hiện trường
Thành lập Hội đồng khám nghiệm:
Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định:
- Việc khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến hành có bác sĩ pháp y tham gia
và phải có người chứng kiến.

- Trong trường hợp phải khai quật tử thi, thì phải có quyết định của Cơ quan điều
tra và phải thông báo cho gia đình nạn nhân biết trước khi tiến hành, việc khai quật tử thi
phải có bác sĩ pháp y tham gia.
- Khi cần thiết có thể triệu tập người giám định và phải có người chứng kiến.
- Trong mọi trường hợp, việc khám nghiệm tử thi phải được thông báo trước cho
Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để tiến hành kiểm sát việc khám

nghiệm tử thi.
Tiến hành khám nghiệm:
Từ lý luận và thực tiễn cho thấy khám nghiệm tử thi được tiến hành như sau:
- Khám ngoài: Xem xét, ghi nhận lại vị trí, tư thế, dáng điệu tử thi bằng cách
chụp ảnh, vẽ sơ đồ mô tả tỷ mỷ vào biên bản khám nghiệm hiện trường, khi tiếp cận hiện
trường có người chết, nhằm: hình dung mọi diễn biến của sự việc đã xảy ra; xác định rõ
tư thế của nạn nhân trước khi chết; xác định hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị xáo
trộn? có sự giả tạo hiện trường không? làm giả như thế nào?
Nghiên cứu ghi nhận về đầu của nạn nhân: Đầu được mô tả trong tư thế tương
quan với thân, khi khám ngoài cần chú ý đến các bộ phận ở vùng mặt như: mắt, miệng
nạn nhân mở hay ngậm, màu da như thế nào, các thương tích vùng ngoài ra sao, máu và
tình trạng của tóc, nước bọt, đờm dãi, chất nôn, các chất lạ, vật lạ thâm nhập từ ngoài vào
như: đất, cát, các lá rau, cỏ, tóc xác định hướng chảy của các chất lỏng trên mặt.
Nghiên cứu ghi nhận tình trạng của quần áo ngoài, quần áo trong, cũng như các
dấu vết vật chứng có trên quần áo bằng cách chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả tỷ mỷ vào biên
bản khám nghiệm hiện trường. Chú ý phải mô tả chi tiết, đầy đủ từ màu sắc, chất liệu,
hoa văn cho đến tình trạng của thực tại, như: các vết trày xước, các vết bẩn, kiểu, kích cỡ,
loại vải, mới hay cũ, cúc áo như thế nào, quần áo có bị xộc xệch không?
Nghiên cứu làm rõ các dấu vết khác như: thủng, rách do bị đâm, chém, bắn,
giằng, xé, cắt và phải được mô tả tỷ mỷ về kiểu, loại, đặc điểm, hình dạng, kích thước,

×