LUẬN VĂN:
Cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật sư
ở Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi bộ máy nhà nước, trong đó có hệ
thống tư pháp phải đổi mới cho phù hợp. Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã có nhiều nghị
quyết về hoàn thiện nhà nước và pháp luật, trong đó có một số nghị quyết về đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII);
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII); Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII); Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị (khóa IX) "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới"; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về
"Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"; và gần đây là Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X. Theo đó đổi mới hệ thống tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt động
là nhằm xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng ta về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp nói chung đó là vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan và tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư là vấn đề
trung tâm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để
luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế
độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát
huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức
luật sư đối với thành viên của mình [25, tr. 6].
Trong 20 năm đổi mới (1986 - 2006), kể từ khi cải cách tư pháp được khởi
động, chúng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư. Nhờ
đó, tổ chức và hoạt động luật sư trong thời gian qua không những đã đáp ứng kịp thời
một phần nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, tổ chức; góp phần quan
trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác,
phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp, mà còn góp phần từng bước tạo lập
môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương
mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu, tổ chức và hoạt động luật sư còn
bộc lộ nhiều hạn chế. Đội ngũ luật sư còn thiếu về số lượng. Số lượng luật sư hiện có so
với dân số cả nước vẫn còn quá thấp. Sự phát triển luật sư còn mất cân đối giữa các
vùng, miền. Chất lượng đội ngũ luật sư hiện nay chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu
của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động luật sư chưa đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của luật sư là
do công tác quản lý luật sư còn nhiều bất cập và hạn chế. Có thể khẳng định rằng, việc quản
lý luật sư thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức, thực hiện chủ yếu theo kinh
nghiệm, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách cơ bản về lý luận, chậm tổng kết thực tiễn.
Những yếu kém và hạn chế trong công tác quản lý luật sư thể hiện ở chỗ nhà nước chưa
quy định rõ nội dung quản lý nhà nước và nội dung tự quản, chưa phân định rõ thẩm quyền
quản lý. Tổ chức luật sư toàn quốc với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
trong phạm vi toàn quốc để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành
nghề chưa được thành lập. Do vậy, trong quản lý luật sư vẫn còn tình trạng thiếu tập trung,
thiếu thống nhất từ phía nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, làm cho công
tác quản lý luật sư còn lúng túng, hiệu quả không cao.
Trong thời gian qua, đội ngũ luật sư ở nước ta ngày càng phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Hoạt động luật sư cũng ngày càng được mở rộng trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, tổ chức và hoạt động luật sư hiện nay đã làm tăng
thêm tính phức tạp trong công tác quản lý ở lĩnh vực này. Nâng cao vai trò của nhà
nước trong việc phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp
vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư, phục vụ đắc
lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ rất bức xúc
hiện nay.
Hơn nữa nghề luật sư có tính đặc thù, các luật sư hoạt động độc lập, tự chịu
trách nhiệm, ngoài việc tuân thủ pháp luật còn phải tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư trong hành nghề. Nhà nước không thể làm thay chức năng của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và cũng không thể can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của
luật sư. Để tổ chức và hoạt động luật sư hoạt động có hiệu quả thì không thể thiếu vai
trò quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Việc phân định rõ và hợp lý
giữa công tác quản lý nhà nước về luật sư và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư theo hướng nhà nước chỉ làm những gì thuộc về chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp phát huy vai trò tự quản đối với luật sư và tổ
chức hành nghề luật sư, tăng cường ý thức trách nhiệm của cá nhân luật sư trong hành
nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành
nghề, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội là yêu cầu cấp bách trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và thực
trạng tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta, việc nghiên cứu thực hiện đề tài luận văn
"Cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật sư ở Việt Nam hiện nay" là cần thiết, có ý nghĩa cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Thông qua việc nghiên cứu sẽ làm rõ thêm, bổ sung thêm cơ
sở lý luận, cơ sở thực tiễn đối với quản lý luật sư nhằm từng bước hoàn thiện quản lý
luật sư trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, việc nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý luật sư vẫn còn
chưa được chú trọng đúng mức. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về vấn đề quản lý luật sư.
Trong lĩnh vực luật sư và hành nghề luật sư đã có một số đề tài nghiên cứu, đó
là:
- Đề tài cấp Bộ năm 2005: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam" do đồng chí
Nguyễn Văn Thảo, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài;
- Đề tài cấp Bộ năm 2005: "Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu cầu và
định hướng phát triển" do Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuân, Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài;
- Đề tài nhánh 05 thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước mã số KX 04 giai
đoạn 2001 - 2005: "Cải cách tổ chức và hoạt động Bổ trợ tư pháp trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuân, Tổng
biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài;
- Luận án Tiến sĩ năm 2003 của Phan Trung Hoài về "Hoàn thiện pháp luật về
tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam";
- Luận văn Thạc sĩ năm 2001 của Dương Đình Khuyến về "Vấn đề xã hội hóa
hoạt động luật sư và tư vấn pháp luật".
Những công trình nghiên cứu khoa học trên đây đề cập nhiều về thực trạng tổ
chức luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam, góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận
và thực tiễn về tổ chức và hoạt động luật sư. Trong số đó có nhiều kiến giải, luận điểm
khoa học đã được vận dụng vào thực tiễn.
Tuy nhiên, những công trình trên không tập trung nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề quản lý luật sư mà chỉ đi vào một khía cạnh nhất định của nội dung quản lý nhà nước
đối với tổ chức và hoạt động luật sư.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật
sư, góp phần từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý luật sư ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề về hành nghề luật sư; nội dung của quản lý
luật sư trong điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Xây dựng cơ sở lý luận đổi mới quản lý luật sư ở Việt Nam hiện nay nhằm hoàn
thiện tổ chức và hoạt động luật sư, đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý luật su.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý luật sư để làm rõ thực tiễn quản lý luật
sư ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý luật sư trong điều kiện cải cách tư pháp
ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Đồng thời sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, đối
chiếu, phương pháp thống kê.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ những vấn đề về lý luận, đưa ra những luận cứ khoa học quan trọng về
đổi mới quản lý luật sư ở nước ta. Trên cơ sở đó, đưa ra phương hướng đổi mới quản lý
luật sư trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo để nghiên cứu, xây dựng
cơ chế quản lý luật sư ở Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời cũng là cơ sở để bổ
sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư,
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận về quản lý luật sư
1.1. Khái niệm luật sư và hành nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm luật sư
ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn tồn tại hai khái niệm "luật sư" và "luật gia". "Luật
sư" và "Luật gia" được hiểu khác nhau và đôi lúc còn có sự nhầm lẫn.
Theo cách giải thích của nhiều từ điển và qua tìm hiểu thực tiễn của một số
nước, thuật ngữ "Jurist" (luật gia) được hiểu là người có kiến thức về pháp luật, những
chuyên gia luật. Có thể hiểu đó là tất cả những người có bằng cử nhân luật trở lên.
ở Việt Nam, "luật gia" được hiểu rất rộng, không chỉ những người có bằng cử
nhân luật trở lên mà cả những người không có bằng cử nhân luật nhưng có kiến thức về
pháp luật và đã, đang làm công tác pháp luật trong cơ quan, tổ chức. Hội viên Hội luật
gia được hiểu là công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức tốt, đã hoặc đang làm công
tác pháp luật trong cơ quan, tổ chức với thời gian từ ba năm trở lên, chấp nhận Điều lệ
của Hội [33, tr. 7-8].
Thuật ngữ "Lawyer" (luật sư) là luật gia được đào tạo về kỹ năng hành nghề,
được gia nhập Đoàn luật sư, qua đó được công nhận là luật sư để hành nghề chuyên
nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp luật hoặc một trong hai lĩnh vực này.
Tương đương với hai thuật ngữ trong tiếng Anh "jurist" và "lawyer" là hai thuật
ngữ trong tiếng Pháp "juriste" (luật gia) và "avocat" (luật sư, trạng sư).
Có thể nói, khái niệm "luật sư" luôn là vấn đề gặp nhiều khó khăn trong quá
trình xây dựng pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư. Tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài cho thấy, không phải nước nào họ cũng đưa ra khái niệm hoặc định nghĩa về luật
sư. Khái niệm luật sư không phải có sự hiểu biết thống nhất hoặc quy định giống nhau ở
các nước trên thế giới. Hầu hết ở các nước có nghề luật sư phát triển, việc đưa ra khái
niệm hoặc định nghĩa về luật sư chỉ mang tính quy ước, khái niệm luật sư thường mang
tính hình thức hơn là khái niệm về mặt nội dung.
Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 của nước ta đã chính thức hóa thuật ngữ
"luật sư". Tuy nhiên, Pháp lệnh chưa đưa ra được một khái niệm hay định nghĩa hoàn
chỉnh về luật sư. Theo quy định của Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, người muốn
trở thành luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư. Thành viên của Đoàn luật sư là các luật sư
và luật sư tập sự. Một người muốn trở thành luật sư hoàn toàn do Hội nghị toàn thể
Đoàn luật sư quyết định.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 được ban hành thay thế Pháp lệnh tổ chức luật sư
năm 1987. Pháp lệnh này đã đưa ra được khái niệm luật sư, cụ thể theo Điều 1 Pháp lệnh
luật sư năm 2001: "Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Pháp
lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý
khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo
quy định của pháp luật " [43, tr. 8].
Luật luật sư được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 22/6/2006
quy định, trong đó Điều 2 quy định: "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành
nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức " [37, tr. 1]. Như vậy, khái niệm luật sư ở nước ta được thể hiện theo
hướng luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề luật sư và hành nghề luật sư.
Điều kiện hành nghề luật sư là được nhà nước cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư
và gia nhập một Đoàn luật sư. Như vậy, ở nước ta luật sư là luật gia, có thể là thành
viên Hội luật gia, nhưng luật sư và luật gia là hai khái niệm khác nhau, là luật gia chưa
hẳn đã phải là luật sư.
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng, không thể thiếu đối với luật sư là phải
được đào tạo nghề sau khi đã tốt nghiệp đại học luật. Chức năng của luật sư là cung cấp
dịch vụ pháp lý cho cá nhân, tổ chức, bao gồm việc tham gia tố tụng để bào chữa hoặc
biện hộ cho bị can, bị cáo, đương sự, thực hiện tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ chức,
làm các dịch vụ pháp lý khác và hưởng tiền thù lao do khách hàng trả. Trách nhiệm xã
hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Luật sư độc lập, tự chịu
trách nhiệm trong hành nghề, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà
luật sư gây ra cho khách hàng. Trách nhiệm vật chất của luật sư là trách nhiệm vô hạn.
Ngoài việc phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật, luật sư còn phải tuân theo các quy tắc
hành nghề, trong đó có các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư do tổ chức xã
hội - nghề nghiệp luật sư ban hành. ở nước ta không có sự phân chia thành hai loại luật
sư là luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn.
1.1.2. Khái niệm hành nghề luật sư
ở Việt Nam lâu nay vẫn sử dụng các cụm từ "nghề luật sư", "nghề nghiệp luật
sư" và "hành nghề luật sư". Thực ra gọi như vậy không hoàn toàn chính xác về mặt
ngôn ngữ. Bởi vì, "luật sư" là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng để chỉ một
nghề. Trong tiếng Anh người ta dùng "Lawyer" (luật sư) và "practice law" (hành nghề
luật). Tuy nhiên, việc sử dụng các cụm từ "nghề luật sư" hay "nghề nghiệp luật sư" và
"hành nghề luật sư" là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, có thể chấp nhận được, bởi
vì nếu dùng cụm từ "nghề luật" thì e rằng theo cách hiểu của ngôn ngữ Việt Nam sẽ quá
rộng, không phải chỉ là việc bào chữa, biện hộ trước tòa án và làm tư vấn pháp luật
(cung cấp dịch vụ pháp lý) của luật sư.
Theo thói quen sử dụng ngôn ngữ Việt Nam trong văn nói cũng như trong văn
viết thì cụm từ "nghề luật sư" có thể được chấp nhận, cũng giống như nói "kiến trúc sư" và
nghề "kiến trúc sư", "thày thuốc" và "nghề thày thuốc" v.v Pháp lệnh luật sư năm 2001
chính thức chấp nhận các cụm từ "nghề luật sư", "nghề nghiệp luật sư" và "hành nghề
luật sư".
Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì "hành nghề luật sư" được
hiểu là việc luật sư tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ
pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ theo quy định của pháp luật.
Luật luật sư đã khái quát hơn, mở rộng hơn khái niệm "hành nghề luật sư".
Theo đó, hành nghề luật sư là việc luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia
tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và làm các dịch vụ
pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
"Hành nghề luật sư" theo quy định của Luật luật sư là phải hành nghề chuyên
nghiệp, có trình độ chuyên môn sâu về kiến thức pháp lý và kỹ năng hành nghề. Việc
hành nghề luật sư chủ yếu phải bằng trình độ và kinh nghiệm chuyên môn mà đối tượng
phục vụ là khách hàng. Luật sư cung cấp "dịch vụ pháp lý" cho khách hàng và nhận thù
lao từ khách hàng.
Theo thông lệ của các nước trên thế giới, cũng như theo quy định của pháp luật
Việt Nam thì nội dung của hành nghề luật sư bao gồm việc tham gia tố tụng với tư cách
là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hình sự; hoặc tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự hoặc hành chính; hoặc
tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; tư vấn pháp luật, soạn thảo hợp
đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; đại diện ngoài tố tụng để thực hiện các
công việc có liên quan đến pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức và thực hiện
dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Các luật sư được hành nghề tự do, tự do lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề
hoặc là Văn phòng luật sư, hoặc là Công ty luật, hoặc là làm việc theo hợp đồng cho Văn
phòng luật sư, Công ty luật, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Các luật sư tự tổ chức
việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật.
1.2. Quản lý luật sư
1.2.1. Đặc thù của nghề luật sư và vấn đề quản lý luật sư
1.2.1.1. Đặc thù của nghề luật sư
Chức năng xã hội của luật sư là tham gia bảo vệ công lý, góp phần bảo đảm
công bằng xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại
diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Các nước trên thế giới và các nước
trong khu vực đều có quan niệm chung coi nghề luật sư là một nghề đặc biệt so với các
ngành nghề khác. Tính đặc thù của nghề luật sư được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn và cũng không dựa vào
vốn mà chủ yếu dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của luật sư. Nghề
luật sư gắn với pháp luật và việc thi hành pháp luật. Chính vì vậy luật sư trước hết là
một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có những kỹ năng nghề
nghiệp thực thụ, các luật sư cần có kiến thức pháp luật, thông thạo kỹ năng nghề nghiệp
để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, luật sư với tư cách là một người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các chủ thể pháp lý nên luật sư có nhiệm vụ bảo đảm sự công bằng, khách quan của
pháp luật. Thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, luật sư góp phần trực tiếp
vào việc thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Vì thế, các nước trên thế giới
đều cho rằng nghề luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm
bảo công lý.
Thứ ba, nguyên tắc của nghề luật sư là phải độc lập, liêm chính, nhân đạo và
dũng cảm. Tính khách quan trong nghề luật sư được đề cao. Nghề luật sư là nghề không
chịu sự chi phối của quyền lực. Vì vậy, nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín
nghề nghiệp của luật sư và tính chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư.
Đây là yêu cầu cần thiết để luật sư có thể hoàn thành tốt trách nhiệm của mình.
Thứ tư, nghề luật sư là một nghề tự do, các luật sư độc lập trong hành nghề, tự
chịu trách nhiệm về việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật. Hành nghề
luật sư không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn, tuân thủ pháp luật mà còn phải chịu sự
điều chỉnh khắt khe bởi quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.
Thứ năm, tổ chức luật sư không nằm trong bộ máy nhà nước, hoạt động của luật
sư không chỉ liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của công dân mà còn liên quan đến
hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật và có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
của các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, có thể nói
nghề luật sư mang tính "giám sát" hoạt động của các cán bộ và các cơ quan chức năng
của nhà nước.
Những điểm đặc thù trên đây của nghề luật sư là những yếu tố rất quan trọng
quy định và chi phối nội dung, cách thức quản lý luật sư.
1.2.1.2. Vấn đề quản lý luật sư
Khi nghiên cứu pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư của các nước trên thế
giới thấy rằng pháp luật của các nước thường không quy định cụ thể về khái niệm hay
định nghĩa chung về quản lý luật sư. Tựu trung, các nước đều có quan niệm thống nhất
là quản lý luật sư bao gồm hoạt động quản lý nhà nước về luật sư và tự quản của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư, mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đối với luật sư. Quan niệm về quản lý luật sư như
vậy là phù hợp bởi xuất phát từ những đặc thù của nghề luật sư.
Quản lý luật sư ở nước ta cũng được hiểu là hoạt động quản lý nhà nước của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư. Pháp lệnh tổ
chức luật sư năm 1987 đã có quy định những nội dung quản lý luật sư bao gồm nội
dung quản lý nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về luật sư, đồng thời
quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Đoàn luật sư với tư cách là tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư trong việc quản lý luật sư. Có thể khẳng định rằng, Pháp
lệnh tổ chức luật sư năm 1987 quan niệm còn giản đơn về quản lý luật sư, mới chỉ quy
định sơ lược về nội dung quản lý nhà nước và nội dung tự quản của Đoàn luật sư mà
chưa quy định mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 được ban hành, vấn đề quản lý luật sư là một trong
những nội dung quan trọng của Pháp lệnh. Quản lý luật sư bước đầu được thể hiện theo
quan niệm chung nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh nước ta
trong điều kiện chúng ta chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Theo
đó, Pháp lệnh luật sư năm 2001 quy định rõ hơn những nội dung quản lý luật sư, cụ thể
hóa nội dung quản lý nhà nước, phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn luật sư trong quản lý luật sư. Tuy nhiên, cũng như Pháp
lệnh tổ chức luật sư năm 1987, một lần nữa Pháp lệnh luật sư năm 2001 cũng chưa làm
rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư. Điều đó dẫn đến hệ quả là hoạt động quản lý luật sư còn chung chung, có lúc,
có nơi nhà nước làm thay công việc của Đoàn luật sư, can thiệp sâu vào hoạt động nghề
nghiệp luật sư. Ngược lại, có lúc, có nơi còn phó mặc cho Đoàn luật sư, buông lỏng
quản lý luật sư v.v. Thực tiễn 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 cho thấy,
quản lý luật sư vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao, chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế về nghề luật sư. Cho đến nay khái niệm quản lý luật sư vẫn luôn là vấn đề gây
nhiều tranh luận, vì vậy cần phải được tiếp tục nghiên cứu nhằm đổi mới và hoàn thiện
nó ở Việt Nam trong điều kiện chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
1.2.2. Quản lý nhà nước về luật sư
Quản lý nhà nước về luật sư là một trong những nội dung quan trọng có ý nghĩa
quyết định trong việc quản lý luật sư. ở tất cả các nước trên thế giới và trong khu vực,
vấn đề quản lý nhà nước về luật sư đều được đặt ra. Các nước có hệ thống pháp luật và
tư pháp khác nhau thì vấn đề quản lý nhà nước về luật sư cũng khác nhau, vai trò và
mức độ quản lý nhà nước về luật sư cũng khác nhau.
Các nước có nghề luật sư hàng trăm năm nay như Anh, Pháp, Đức v.v , vai trò và
mức độ quản lý nhà nước về luật sư có những giới hạn nhất định. Nhà nước quản lý luật
sư chỉ thông qua việc ban hành khung pháp luật thống nhất, thực hiện việc kiểm tra,
thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật đối với luật sư. Nhà nước không giám sát, tác động
hay can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Có thể khẳng định rằng, ở những
nước có nghề luật sư phát triển, nhà nước không quản lý luật sư bằng các biện pháp
hành chính, không can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư mà chỉ xây dựng
một hành lang pháp lý chặt chẽ để các luật sư hoạt động. Điều này không đồng nghĩa
với việc nhà nước không quản lý hoặc buông lỏng quản lý luật sư. Để nhà nước chỉ
quản lý luật sư bằng pháp luật thì đòi hỏi pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư được
nhà nước xây dựng và ban hành phải hoàn thiện, đồng thời luật sư phải có trình độ
chuyên môn, tính chuyên nghiệp cao, tổ chức luật sư cũng được phát triển ngang tầm.
Đối với những nước nghề luật sư mới được hình thành thì việc quản lý nhà
nước về luật sư là cần thiết và có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển luật sư và hành
nghề luật sư. Nhà nước quản lý luật sư bằng việc ban hành các văn bản pháp luật để tạo
cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động luật sư nhưng đồng thời phải hỗ trợ về mọi mặt
để tổ chức, hoạt động luật sư tồn tại, củng cố và phát triển.
Có thể khái quát chung, quản lý nhà nước về luật sư là sự tác động của các chủ
thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới tổ chức, hoạt động luật sư
nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước. Đó là sự tác động của các cơ quan nhà
nước (cơ quan hành pháp hoặc cơ quan tư pháp) khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn được nhà nước giao cho trong việc quản lý luật sư.
Nghề luật sư ở Việt Nam mới được hình thành và phát triển. Vì vậy, quản lý
của nhà nước về luật sư càng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc quản lý nhà
nước về luật sư ở nước ta không phải ngoại lệ mà nó phù hợp với thông lệ quốc tế, phù
hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển
nghề luật sư ở nước ta, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, việc quản lý nhà nước về luật
sư cũng khác nhau.
Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 và Quy chế Đoàn luật sư ban hành kèm theo
Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
quy định nhiều cơ quan có thẩm quyền quản lý, bao gồm cả cơ quan quyền lực, cơ quan
hành chính nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, Pháp lệnh tổ chức luật sư
năm 1987 và Quy chế Đoàn luật sư không quy định rõ nội dung và thẩm quyền quản lý
của từng cơ quan, tổ chức, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý luật
sư, đặc biệt là không quy định quyền năng cho các cơ quan quản lý nhà nước xử lý
những vi phạm Pháp lệnh tổ chức luật sư, Quy chế Đoàn luật sư của các Đoàn luật sư.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã khắc phục những yếu kém và nhược điểm của
Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 nói chung và vấn đề quản lý nhà nước về luật sư
nói riêng. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì quản lý nhà nước về luật
sư là hoạt động không thể thiếu, là sự tác động của các cơ quan hành chính nhà nước
(Chính phủ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh) chủ yếu bằng pháp luật nhằm thực hiện các chức
năng của nhà nước. Nội dung quản lý nhà nước đã đi theo hướng phân định rõ nội dung
và thẩm quyền quản lý nhà nước, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền về quản lý
luật sư.
Trong thời điểm ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì những quy định của
Pháp lệnh luật sư 2001 về nội dung quản lý nhà nước về luật sư là một bước tiến lớn so
với Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987. Tuy nhiên, xét về mặt thực tế khi thực hiện
những nội dung quản lý nhà nước về luật sư theo quy định của Pháp lệnh thì hiệu lực,
hiệu quả quản lý chưa cao. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu nhằm từng bước đổi mới,
hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về luật sư trong thời gian tới theo hướng xây dựng
cơ chế quản lý luật sư vừa thống nhất, chặt chẽ, phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý,
nội dung quản lý và đồng thời phù hợp với trình độ, năng lực của đội ngũ luật sư ở nước
ta.
1.2.3. Tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
Tổ chức xã hội nói chung là hình thức tổ chức tự nguyện của nhân dân, hoạt
động theo nguyên tắc tự quản nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các thành
viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà
nước mà còn được tiến hành bởi các tổ chức xã hội và cá nhân công dân. Là một bộ
phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một loại hình tổ chức xã hội do nhà nước cho
phép thành lập, được hình thành theo quy định của nhà nước. Muốn trở thành thành
viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện do nhà nước
quy định. Hoạt động nghề nghiệp của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự quản
lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là một bộ phận của tổ chức xã hội
trong hệ thống chính trị, được thành lập để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
luật sư, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật, quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo
quy định của pháp luật.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là hoạt động
nhân danh chính tổ chức mình để tham gia quản lý luật sư. Đồng thời, trong một số
trường hợp do pháp luật quy định, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoạt động
quản lý luật sư nhân danh nhà nước. Nhà nước thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư bằng việc cho phép tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư được thành lập và quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của chúng. Tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoạt động tự quản theo Điều lệ do các thành viên xây
dựng trên cơ sở đồng thuận và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo Điều lệ và
theo quy định của nhà nước, trong đó nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công việc
nội bộ của chính tổ chức này cũng như không sử dụng quyền lực của mình để sắp xếp
người lãnh đạo, hay cách chức của họ trong tổ chức. Có thể nói rằng, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư được hình thành để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ quan nhà nước
giải quyết một số công việc về luật sư và hành nghề luật sư.
Mỗi giai đoạn của quá trình phát triển nghề luật sư, vai trò tự quản của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư sẽ khác nhau và phụ thuộc vào trình độ, tính chuyên
nghiệp của luật sư. Nếu nội dung quản lý luật sư nặng về quản lý nhà nước, coi nhẹ tự
quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoặc ngược lại coi nhẹ quản lý nhà
nước, nặng về tự quản đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển nghề luật sư.
Nghiên cứu pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam trong quá
trình hình thành và phát triển nghề luật sư, chúng ta thấy rằng, vấn đề tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được quy định rất khác nhau trong các giai đoạn
lịch sử. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 đã thể hiện việc xã hội hóa lĩnh vực luật sư
một cách triệt để, quy định chức năng tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư rất lớn. Nhà nước đã giao cho Đoàn luật sư nhiều quyền, từ việc công nhận luật sư,
giám sát hoạt động hành nghề đến việc thi hành kỷ luật luật sư v.v Pháp lệnh luật sư
năm 2001 quy định về quản lý luật sư được thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư. Sau gần 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư, công tác quản lý hành nghề luật
sư đã đạt được những kết quả nhất định. Nhìn chung, các Đoàn luật sư đã có nhiều cố
gắng trong việc thực hiện chức năng tự quản của mình. Ban chủ nhiệm nhiều Đoàn luật
sư đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp trong việc quản lý về luật sư, trong việc kiểm
tra hoạt động hành nghề của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, kịp thời phát hiện và
xử lý các biểu hiện vi phạm pháp luật và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư.
1.2.4. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư
Nghề luật sư có những đặc thù riêng nên trong việc quản lý luật sư cũng có
điểm khác biệt so với việc quản lý đối với các ngành nghề khác. Việc quản lý luật sư ở
các nước đều là sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, nghề luật sư là một nghề tự do nên vai trò quản lý của tổ
chức nghề nghiệp đến đâu, còn nhà nước quản lý hoạt động này như thế nào là tùy
thuộc vào quy định của từng nước.
Cùng với sự hình thành và phát triển của nghề luật sư thì tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư cũng được hình thành và phát triển tương ứng. Tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các luật sư. ở những
nước mà nghề luật sư đã có từ lâu như Anh, Pháp, Đức v.v thì tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư ở những nước đó rất phát triển và đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động nghề nghiệp của luật sư. ở những nước này pháp luật quy định cho các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có nhiều chức năng trong việc quản lý đối với
hành nghề luật sư.
Thông thường, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở các nước được hình
thành ở hai cấp là cấp trung ương và địa phương (đó là tổ chức xã hội -nghề nghiệp ở
cấp tỉnh hoặc ở các Bang, các địa hạt). Riêng ở Pháp các Đoàn luật sư, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư được thành lập bên cạnh các Tòa án trong cùng quản hạt với
Tòa thượng thẩm. Cho dù ở những nước nghề luật sư thực sự phát triển hay không thì
nhiệm vụ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư sẽ là việc quản lý hành nghề luật
sư thông qua các việc như: bảo đảm cho luật sư hành nghề đúng pháp luật và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho luật sư; kiểm
tra, giám sát việc hành nghề của luật sư trong phạm vi lãnh thổ của mình; kiểm tra giám
sát việc tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, quy tắc hành nghề
luật sư; giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến luật sư như cấp chứng chỉ hành
nghề hàng năm cho luật sư, giải quyết khiếu nại tố cáo, xử lý kỷ luật luật sư v.v
Nghề luật sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật.
Chức năng xã hội cao cả của luật sư là phụng sự công lý, công bằng xã hội. Hoạt động
của luật sư ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung và có
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan
tiến hành tố tụng và mục đích cao cả của hoạt động tư pháp. Do đó, rất cần đến sự quản
lý của nhà nước. Chính vì thế, việc quản lý luật sư không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội
- nghề nghiệp của luật sư mà nhà nước cần có vai trò quan trọng trong việc quản lý.
Các nước đều quy định cho một cơ quan nhà nước (Tòa án tối cao hoặc Bộ Tư
pháp) công nhận luật sư và cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý danh sách luật sư. Sở
dĩ nhà nước cần phải nắm việc công nhận luật sư là vì nghề luật sư là nghề tự do nên
cần phải được nhà nước cho phép thì mới được hành nghề. Ngoài việc cấp phép, ở mỗi
nước đều có những quy định cụ thể về việc quản lý đối với hoạt động luật sư. Đặc biệt
là các nước ở Châu á như Trung Quốc, Hàn Quốc thì Bộ Tư pháp quản lý các hoạt
động có liên quan đến luật sư và cả Đoàn luật sư.
Như vậy, việc quản lý luật sư không hoàn toàn giao phó cho các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất định, cũng có sự can thiệp của quyền lực nhà
nước. Đó là quyền hành pháp hay quyền tư pháp là phụ thuộc vào phương thức tổ chức
quyền lực của từng nhà nước cụ thể. Bên cạnh sự quản lý của nhà nước thì các nước đều
rất chú trọng đến vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp luật sư. Nhưng vấn đề tự
quản đối với luật sư đến đâu là do quy định của từng nước.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) thì cần có cơ chế phát huy tính tự chủ, tự quản của các
luật sư thông qua tổ chức nghề nghiệp của họ, đồng thời tăng cường sự quản lý của nhà
nước đối với đội ngũ luật sư. Để phát triển nghề luật sư ở Việt Nam đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay thì vai trò quản lý của nhà nước cần được tăng cường một bước. Vấn đề
này cần được thể hiện theo hướng bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, nhưng
vẫn bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các luật sư trong hành nghề và khuyến
khích hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Quản lý nhà nước đối với hành nghề luật sư được thể hiện bằng việc nhà nước
ban hành các văn bản pháp luật về hành nghề luật sư, tổ chức đào tạo, cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư, đăng ký hoạt động cho Đoàn luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư
và kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Nhà nước cần quan tâm đến việc đào tạo và
phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, có đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao và quy định cụ thể, chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề và đặc
biệt về hình thức hành nghề của luật sư. Công tác quản lý nhà nước đối với nghề luật sư
cần xuất phát từ đặc thù của nghề luật sư.
Vai trò tự quản của các Đoàn luật sư cũng cần được đẩy mạnh sao cho phù hợp
với đặc thù của nghề này. Các Đoàn luật sư thực hiện chức năng quản lý các luật sư và
việc hành nghề của họ trong phạm vi những nhiệm vụ, quyền hạn như đăng ký cho
người có Chứng chỉ hành nghề luật sư được gia nhập Đoàn luật sư, quản lý danh sách
luật sư của Đoàn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các luật sư, giáo dục, bồi dưỡng chính
trị, nghiệp vụ cho các luật sư, ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp và giám
sát việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của luật sư, nhận yêu cầu của cơ quan tiến hành
tố tụng và phân công luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối
với luật sư của Đoàn về việc vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, quyết
định khen thưởng cho các luật sư có thành tích xuất sắc trong hoạt động nghề nghiệp
của mình, xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
và Điều lệ Đoàn luật sư, tổ chức lấy ý kiến và tập hợp ý kiến đóng góp, kiến nghị của
luật sư trong việc xây dựng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước v.v
Quy định như vậy vừa phát huy được tính tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật
sư, vừa phát huy được vai trò quản lý nhà nước và đặc biệt có sự phối hợp giữa quản lý
nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức nghề nghiệp luật sư. Điều này được thể hiện ở
chỗ để được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề do nhà nước cấp và phải
được đăng ký gia nhập một Đoàn luật sư. Đoàn luật sư chịu trách nhiệm giám sát, theo
dõi hoạt động hành nghề của các luật sư là thành viên của Đoàn mình và báo cáo định
kỳ tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp và ủy ban nhân dân. Nhà nước quản lý hành
nghề luật sư thông qua việc kiểm tra, thanh tra và báo cáo của các Đoàn luật sư. Khi
phát hiện luật sư có vi phạm thì Đoàn luật sư là cơ quan đầu tiên có trách nhiệm xem
xét và xử lý. Trong trường hợp xóa tên thì phải thông báo cho Bộ Tư pháp. Để bảo đảm
quyền cho luật sư, cần quy định cho luật sư có quyền được khiếu nại tố cáo. Cơ quan
đầu tiên có trách nhiệm giải quyết là Đoàn luật sư. Trong trường hợp không đồng ý với
việc giải quyết đó thì có thể được khiếu nại tới cơ quan nhà nước là Bộ Tư pháp hoặc ủy
ban nhân dân.
Vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác quản lý
luật sư giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư là xác định rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước về luật sư với quản lý luật sư của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước quản cái gì, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư quản cái gì cần phải được làm rõ.
1.2.5. Nguyên tắc quản lý luật sư
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động có mục đích nào, quản lý luật sư được
tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đó chính là những tư tưởng chủ đạo
rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý thực hiện có hiệu
quả các công việc của mình khi được phân công. Các nguyên tắc quản lý luật sư được
xác định là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý,
từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật. Các nguyên tắc trong quản lý
luật sư được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, thể hiện tính chất pháp lý của nó tạo
ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách thống nhất và chính xác trong hoạt
động quản lý của mình.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp luật sư là những nguyên tắc cơ bản, chủ yếu trong quản lý luật sư ở các nước
trên thế giới. Đây là những nguyên tắc chi phối mọi hoạt động quản lý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
ở Việt Nam, nguyên tắc quản lý luật sư nằm trong hệ thống các nguyên tắc quản
lý nhà nước nói chung. Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý luật sư ở Việt Nam là:
* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh, thống
nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,
đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân. Pháp
chế xã hội chủ nghĩa thể hiện mối tương quan giữa hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực
lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và hành vi xử sự của công dân đối với
những quy phạm pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng
chủ đạo, cơ bản thể hiện bản chất và đặc điểm của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên
tắc này mang tính khách quan trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ,
công chức nhà nước và mọi công dân.
Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước
sử dụng pháp luật với tính chất là một phương tiện quan trọng để đảm bảo thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên phương tiện này chỉ thực sự phát huy vai
trò, tác dụng khi nó được tôn trọng một cách nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp
chế xã hội chủ nghĩa với nội dung là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng,
đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân trở
thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy
nhà nước, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992
(sửa đổi năm 2001) quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" [28, tr. 17].
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc chung trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, trong tổ chức và hoạt động
luật sư ở nước ta, việc tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu
cần thiết và khách quan.
Nghề luật sư là một nghề đặc thù trong xã hội, do đó nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa cần được áp dụng đầy đủ trong tổ chức và hoạt động luật sư nói chung và trong
hoạt động quản lý sư nói riêng. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động quản lý luật sư có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối
với từng hoạt động khác nhau như:
- Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật
sư;
- Hoạt động tổ chức thực hiện những văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và
hành nghề luật sư. Mọi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, mọi luật sư phải nghiêm chỉnh thực hiện.
* Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai trò tự quản
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Ngoài nguyên tắc quản lý chung, mỗi nghề khác nhau trong xã hội còn chịu sự
chi phối của những nguyên tắc quản lý đặc thù với nghề nghiệp đó. Đối với nghề luật sư
cũng vậy, thông lệ chung của các nước trên thế giới và khu vực thì việc quản lý luật sư
ngoài việc thực hiện theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật còn được thực hiện theo nguyên
tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề.
Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy vai trò tự quản của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là nguyên tắc riêng, nguyên tắc đặc thù của
nghề luật sư. Nguyên tắc này thể hiện tầm quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối
với luật sư, đồng thời khẳng định vai trò tham gia quản lý luật sư của tổ chức xã hội -
nghề nghiệp, mối quan hệ, sự phối hợp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tăng cường quản lý nhà nước đối với luật sư và
phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách của nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Đảm bảo thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về luật sư với phát huy
vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có nghĩa là:
- Thể chế hóa đầy đủ, phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước, nội dung
quản lý nhà nước, nội dung tự quản và sự phối hợp trong công tác quản lý luật sư giữa
nhà nước và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư trong việc quản lý luật sư. Đồng thời trong quá trình thực hiện những
quy định của pháp luật về quản lý luật sư cũng cần được quán triệt và thực hiện triệt để
nhằm phát huy hết hiệu lực, hiệu quả quản lý luật sư của nhà nước và tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của luật sư.
Để phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý luật sư cần vận dụng một cách phù hợp,
sáng tạo các nguyên tắc quản lý luật sư trong các giai đoạn phát triển của nghề luật sư.
Nhà nước không thể áp dụng một cách máy móc các nguyên tắc quản lý, đề cao nguyên
tắc chung, coi nhẹ nguyên tắc riêng, nguyên tắc đặc thù hoặc ngược lại.
1.2.6. Nội dung quản lý luật sư
Muốn tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động luật sư nhằm củng cố vai trò
của luật sư đối với đời sống kinh tế - xã hội, cần thiết phải xác định những nội dung cụ
thể của hoạt động quản lý luật sư. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý phải xác lập
một cách rõ ràng các công việc cần phải thực hiện, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện nhằm đảm bảo chúng có khả năng thúc đẩy một cách mạnh mẽ tổ chức và
hoạt động luật sư đi vào nề nếp và thực sự có hiệu quả. Nội dung quản lý luật sư có tính
đồng bộ, toàn diện bao gồm những nội dung quản lý nhà nước và nội dung quản lý luật
sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
- Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về luật sư, một trong những vấn đề
quan trọng là cần phải xác định rõ những nội dung mà nhà nước cần thực hiện. Thông lệ
chung trên thế giới, nội dung quản lý nhà nước về luật sư thường tập trung vào những
vấn đề như xây dựng chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư, ban hành và
hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư,
kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư.
Tuy nhiên, những nội dung quản lý nhà nước về luật sư được quy định phải
tương ứng với sự phát triển của luật sư và nghề luật sư, phù hợp với điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội của mỗi nước.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung quản lý nhà nước cần được thể hiện trên các
mặt như:
+ Xây dựng chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư;
+ Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư
và hành nghề luật sư;
+ Đào tạo nghề luật sư,
+ Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư; cấp, thu hồi Giấy đăng ký hoạt
động của tổ chức hành nghề,
+ Cho phép thành lập, giải thể tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư;
+ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về
luật sư và hành nghề luật sư,
+ Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư và thực hiện quản lý
nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư.
Về lâu dài, nhà nước chỉ "nắm những các cần nắm" như việc ban hành văn bản
pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư; thực hiện việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm.
- Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư ngày càng được
khẳng định. Để phát huy hiệu quả quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật
sư thì những nội dung quản lý luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư cũng cần
được cụ thể hóa trên cơ sở nhà nước giao cho họ những quyền hạn và trách nhiệm.
Nhìn chung, hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư chỉ tập
trung vào việc giám sát hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm giám sát việc tuân
theo pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, xử lý kỷ
luật luật sư v.v.