MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Các dân tộc ở Việt Nam có quan hệ lâu đời trên nhiều lĩnh vực trong quá
trình cùng tồn tại và phát triển. Từ khi ra đời và suốt trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh luôn luôn coi việc xây dựng quan hệ
đoàn kết, bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược.
Chính sách dân tộc của đảng vì thế luôn nhằm vào khắc phục từng bước sự chênh
lệch giữa các dân tộc, thực sự bình đẳng, cùng làm chủ tổ quốc, cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn luôn nhấn
mạnh ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, phát huy sức
mạnh của cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc vì mục
tiêu độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Bước sang thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng đất nước, nhân dân ta càng có điềy
kiện để thưc hiện tốt hơn việc tăng cường, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên cao nhất sức mạnh dân tộc để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc là những
vấn đề rất lớn, phức tạp và nhạy cảm, nhiều nội dung của vấn đề này đang cần được
nghiên cứu, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Những vấn đề thời sự liên quan
đến dân tộc, quan hệ dân tộc trên thế giới cũng như trong nước đang làm cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu về những nội dung trở lên rất quan trọng và bức thiết.
Đây chính là lý do tôi chọn đề tài: “Dân tộc và đặc điểm mối quan hệ dân
tộc ở Việt Nam hiện nay” làm bài viết tiểu luận cuối kỳ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
1
Vấn đề dân tộc và đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học xã hội như
triết học, sử học, dân tộc học… Dưới những góc độ khác nhau của môn học đó, vấn
đề dân tộc đã được đi sâu nghiên cứu và đạt được những thành tựu quan trọng về
phương diện khoa học, phục vụ thiết thực cho cuộc sống xã hội. Nhiều công trình
đã làm rõ lịch sử hình thành, phát triển và đặc điểm của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Những vấn đề tình hình kinh tế, xã
hội vùng đồng bào các dân tộc miền núi, những vần dề về thực hiện những chính
sách dân tộc của Đảng nhằm xây dựng, củng cố khối đoàn kết, bình đẳng giữa các
dân tộc, cụ thể hơn có những công trình đi sâu nghiên cứu các vấn đề về xã hội văn
hoá, giáo dục…
Dưới góc độ chính trị xã hội, việc nghiên cứu vấn đề dân tộc chủ yếu là tìm
ra những vấn đề có tính quy luật của quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, quá
trình phát triển phồn vinh và xích lại gần nhau của các dân tộc, sự thiết lập quan hệ
đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc. Quan hệ dân tộc cũng như quan hệ giai cấp
và các mối quan hệ xã hội khác đều có những cơ sở khách quan, nhưng yếu tố để
bảo đảm cho nó tồn tại, phát triển và vận động theo những xu hướng nhất định có
tính qui luật của nó.
3. Mục đích, nhiệm vụ
Mục đích: Nhằm bước đầu đặt ra những vần đề cần đi sâu nghiên cứu và tìm
hiểu một số yếu tố rất cơ bản là cơ sở khách quan bảo đảm cho sự phát triển vững
chắc quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Nhiệm vụ: Là luận giải một cách khái quát về quan hệ dân tộc và đặc điểm
quan hệ dân tộc của nước ta, làm căn cứ khoa học để nhận biết, xây dựng và tiếp
cận những yếu tố cụ thể tác động đến sự phát triển quan hệ dân tộc ở nước ta hiện
nay.
2
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp chủ yếu là phân tích, tổng hợp vấn đề.
5. Bố cục.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm hai nội dung chính.
Nội dung 1: Khái niệm dân tộc.
Nội dung 2: Đặc điểm của mối quan hệ dân tộc.
NỘI DUNG
I. Khái niệm dân tộc.
3
Hiện nay, trong ngôn ngữ diễn đạt hay trong nhận thức, quan niệm của
chúng ta, khái niệm dân tộc được hiểu rất đa nghĩa, đa cấp độ. Khái niệm này được
sử dụng trong nhiều ngành khoa học bởi dân tộc không chỉ là đối tượng riêng của
ngành dân tộc học ở mức độ khác nhau, dân tộc và các vấn đề dân tộc đều được các
khoa học như: sử học, tâm lý học, văn hoá học… nghiên cứu. Tuy nhiên, các dân
tộc là đối tượng nghiên cứu trực tiếp của khoa học dân tộc học - một ngành khoa
học ra đời từ thế kỷ XIX và ngày càng phát triển, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Một khái niệm trong khoa học xã hội và nhân văn được định nghĩa, được hiểu khác
nhau là hiện tượng phổ biến, với tư cách là đối tượng của một ngành khoa học cụ
thể, ở nước ta cần sớm có quan niệm thống nhất dựa trên những tiêu chí chung của
khái niệm dân tộc, bởi vấn đề không chỉ liên quan đến nhận thức khái niệm dưới
góc độ khoa học mà còn liên quan đế nhận thức trong hoạt động thực tiễn. Khái
niệm dân tộc liên quan trực tiếp đến việc xác định thành phần dân tộc trong một
quốc gia đa dân tộc, giải quyết các quan hệ dân tộc mà trực tiếp là việc đưa ra và
thực hiện đúng chính sách dân tộc.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: dân tộc được hiểu theo 4 nghĩa, trước hết
dân tộc là cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các
quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hoá và tính cách, ví
dụ như: Dân tộc Việt, dân tộc Nga…
Thứ hai, dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một
ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành trong lịch sử từ sau bộ
lạc. Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc, đoàn kết các dân tộc để cứu nước.
Thứ ba, dân tộc nói tắt có nghĩa là dân tộc thiểu số.
Thứ tư, dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước,
có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh
tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung.
Trong từ điển bách khoa Việt Nam, khái niệm dân tộc được định nghĩa: “
Dân tộc. 1. dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội
4
được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu do sự
tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang
tính tộc người ( ethnie) của bộ phận tộc người. tính chất của dân tộc phụ thuộc vào
những phương thức sản xuất khác nhau. Bước vào giai đoạn công nghiệp, rõ rệt
nhất là ở các nước phương Tây, do yêu cầu xoá bỏ tính cát cứ của các lãnh địa
trong một dân tộc, nhằm tạo ra một thị trường chung, nên cộng đồng dân tộc được
kết cấu chặt chẽ hơn. Kết cấu của cộng đồng dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào
hoàn cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội trong khu vực và bản thân. 2. Dân tộc (ethnie)
còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người, ví dụ dân tộc Tày, dân tộc
Bana…Cộng đồng có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation)
sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những
đặc điểm ngôn ngữ, văn hoá và nhất là ý thức tự giác tộc người”
1
Khi đưa ra khái niệm dân tộc - tộc người, các nhà dân tộc học đều quan tâm
đến những tiêu chí xác định dân tộc. Cũng như việc xác định các tiêu chí khác nhâu
dẫn đến các định nghĩa hay quan niệm chưa hoàn toàn thống nhất.
Về phương diện dân tộc học, theo cách hiểu truyền thống thì dân tộc là khái niệm
dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định được hình thành và phát triển trong
những điều kiện lịch sử nhất định với một số đặc trưng cơ bản là:
- Có một lãnh thổ chung.
- Phương thức sinh hoạt kinh tế chung.
- Ngôn ngữ giao tiếp chung.
- Tâm lý chung biểu hiện trong văn hoá dân tộc.
Quan niệm này cho đến nay vẫn tồn tại trong nhiều công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước. Tuy nhiên, vấn đề xác định các tiêu chí tộc người là rất phức
tạp. Ở Việt Nam, nhiều quan điểm về tiêu chí xác định thành phần dân tộc đã được
1
. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1995, t.1 (A-Đ)
tr 655.
5
tập hợp trong cuốn sách Vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở Miền
Bắc Việt Nam.
2
Đa số các nhà dân tộc học Việt Nam cho rằng, cộng đồng tộc người hay là
dân tộc phải được coi là đơn vị cơ bản để tiến hành xác minh thành phần các dân
tộc. Khi nêu lên tầm quan trọng của lãnh thổ như là một điều kiện quan trọng của
lãnh thổ như là một điều kiện quan trọng làm xuất hiện và tồn tại tộc người, nhưng
trong tình hình biến động về lãnh thổ diễn ra phức tạp, ở nhiều quốc gia đa dân tộc,
vấn đề lãnh thổ tộc người rất khó xác định. Bởi vậy, lãnh thổ hay địa vực cư trú
không được coi là tiêu chí khi xác định thành phần tộc người ở Việt Nam. Thông
qua các hội thảo khoa học, hầu hết các ý kiến đều tán thành ba tiêu chí xác định
thành phần dân tộc, đó là những đặc trưng về tiếng nói, về đặc điểm sinh hoạt văn
hoá và ý thức tự giác tộc người được coi là tiêu chuẩn chủ yếu
3
. Đây cũng là quan
điểm của dân tộc học hiện nay.
Như vậy, từ quan niệm truyền thống, coi cộng đồng tộc người hay dân tộc là
một tập đoàn người tương đối ổn định hoặc ổn định, được hình thành trong quá
trình lịch sử dựa trên những mối liên hệ chung về địa vực cư trú, sinh hoạt kinh tế,
tiếng nói, những đặc điểm sinh hoạt – văn hoá, và dựa trên ý thức về thành phần và
tên gọi chung, các nhà khoa học đã thống nhất đưa ra một quan niệm về dân tộc,
làm cơ sở để xác định các thành phần dân tộc ở nước ta là: Dân tộc là một cộng
đồng người tương đối ổn định hoặc ổn định, được hình thành và phát triển trong
lịch sử với ba đặc trưng làm tiêu chí cơ bản:
1. Cộng đồng về ngôn ngữ.
2. Các đặc điểm chung thuộc bản sắc văn hoá.
3. Ý thức tự giác tộc người.
- Cộng đồng ngôn ngữ:
2
. Xem: Viện Dân tộc học: Vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1975.
3
. Bế Viết Đẳng: Mấy ý kiến về công tác xác định thành phần các dân tộc ở MIền Bắc nước ta hiện nay. Thông báo
Dân tộc học, số 1- 1972, tr.10-25.
6