Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách Nhà nước. Còn ở các nước đang phát triển như Việt Nam, theo
thống kê của Tổng cục thuế thì 92% ngân sách Nhà nước thuế gián thu chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước, đặc biệt là thuế GTGT. Thuế GTGT là một
loại thuế tiến bộ, điều tiết rộng rãi hầu hết mọi đối tượng trong nhân dân, những người
tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Do đó, thuế GTGT có vai trò rất to lớn trong
mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Trong tiến trình hội nhập, thuế lại càng có vị thế
lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vì vậy, công tác quản lý thuế mặc nhiên trở thành
mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Những kiến thức về thuế và quản lý thuế
đang là nhu cầu thường trực không chỉ đối với các nhà quản lý, các doanh nhân, mà
còn cần phổ cập đến tất cả mọi công dân, những ai đang chịu sự điều chỉnh của các sắc
thuế hiện hành.Trong tình hình kinh tế hiện nay, nguồn thu từ viện trợ nước ngoài đã
giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành quan hệ có vay, có trả. Thuế là công cụ góp
phần bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định xã hội, chuẩn bị
điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài
Sau hơn 12 năm thi hành Luật thuế GTGT, bên cạnh những thành tựu đạt được,
còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Các vụ gian lận thuế GTGT ngày càng nhiều, các hình
thức ngày càng tinh vi hơn cho thấy vấn đề gian lận thuế GTGT đã trở nên vô cùng
nguy hiểm và đáng báo động bởi nó tạo ra sự bất công bằng cho các đối tượng nộp
thuế. Do nhiều người chưa hiểu rõ về thuế GTGT, ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế
cũng như ý thức trong việc góp phần tham gia chống thất thu thuế chưa cao. Đồng thời,
do thời gian áp dụng còn nhiều thay đổi chưa hoàn thiện nên luật thuế GTGT còn một
số bất hợp lý chưa được thay đổi phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay, do đó
công tác quản lý thuế GTGT còn gặp một số khó khăn, hạn chế. Một trong những vấn
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
1
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
đề quan trọng góp phần khắc phục những hạn chế trên là phải tăng cường hiệu quả
công tác quản lý thuế GTGT cho các cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương.
Chi cục thuế quận 2 đã luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, điều kiện kinh tế-xã hội (KT-XH) phát triển
khá, cùng với sự cố gắng, nổ lực phấn đấu trong công tác quản lý của Chi cục thuế
quận 2 nên kết quả thu ngân sách đã đạt kết quả khá cao, hầu hết đều đạt và vượt mức
dự toán, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn chưa tương
xứng với khả năng của quận, công tác quản lý thuế vẫn còn yếu kém và lúng túng,
chưa phát huy được hết khả năng, hiệu quả của mình. Đặc biệt là các khoản thu về thuế
GTGT, vẫn còn tình trạng nợ đọng, vẫn còn thất thu cả về đối tượng nộp thuế (ĐTNT)
lẫn doanh thu và mức thuế.
Để góp phần đảm bảo công bằng giữa các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế thì việc
nghiên cứu cơ chế thi hành Quản lý thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá
thực trạng và những giải pháp để hoàn thiện pháp Quản lý thuế GTGT. Chính vì lý lẽ
đó nên em chọn nghiên cứu đề tài: “Công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế
Quận 2”.
2. Mục đích, lý do chọn đề tài:
Là một sinh viên năm cuối, trong khung chương trình đào tạo, em được học về
thuế GTGT. Qua quá trình học em nhận thấy bản thân em và các bạn sinh viên khác rất
lúng túng trong việc hiểu về bản chất của các hành vi vi phạm thuế GTGT, cách tổ
chức quản lý thuế GTGT. Do đó, khi chuẩn bị chọn đề tài viết khóa luận tốt nghiệp,
với lòng ham mê học hỏi cùng với những thắc mắc muốn được giải đáp em đã chọn đề
tài về công tác Quản lý thuế GTGT và thực tiễn thi hành nhìn từ những hành vi vi
phạm.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Chỉ trong một thời gian ngắn, mà vốn kiến thức và khả năng phân tích tổng hợp
còn nhiều hạn chế, do đó em chỉ xin trình bày trong khóa luận này những tìm hiểu của
riêng mình dựa trên quá trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định của Quản
lý thuế GTGT nhìn từ những hành vi vi phạm, từ đó có thể góp phần kiện toàn về mặt
pháp lý quy định của công tác quản lý thuế GTGT.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
2
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong khóa luận em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích so
sánh, thống kê, tổng hợp. Với những kiến thức, những tài liệu tích lũy được trong quá
trình học tập tại Khoa Tài chính - Kế toán – Ngân hàng của Trường Kỹ Thuật Công
Nghệ TP.HCM; bằng khả năng tổng hợp; liên kết logic; đánh giá vấn đề trên cơ sở lý
luận biện chứng, em mạnh dạn đưa ra những quan điểm, ý kiến của cá nhân mình.
5. Bố cục của khóa luận:
Chương I: Lý luận chung về thuế GTGT và công tác quản lý thuế GTGT.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế quận 2.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế
quận 2.
Do thời gian có hạn, trình độ nghiên cứu và khả năng đánh giá, nhìn nhận vấn đề
còn nhiều hạn chế nên khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong
nhận được sự góp ý chân thành từ phía quý thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn
thiện hơn.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
3
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Chương I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ GTGT –
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ GTGT
1.1 Thuế giá trị gia tăng
1.1.1 Khái niệm thuế GTGT
Thuế GTGT (hay còn gọi là VAT- Value Added Tax) được phát kiến ra bởi một
người Đức tên là CARL FRIEDRICH VON SIMENS, nhưng những lý luận của ông đã
không đủ sức thuyết phục Chính phủ Đức áp dụng loại thuế này. Đến năm 1954, loại
thuế này mới được áp dụng đầu tiên tại Pháp với tên gọi là TVA (Taxe Sur la Valeur
Ajoutee). Lúc đầu, thuế GTGT chỉ được áp dụng cho lĩnh vực sản xuất trong một số
ngành nghề cá biệt với mức thuế suất là: 16,8%. Mãi đến 1968, thuế GTGT mới được
áp dụng cho mọi lĩnh vực, ngành nghề với 4 mức thuế suất là: 6,4- 13,6- 20 và 25%.
Sau một thời gian sửa đổi, đến năm 1986 thì 4 mức thuế suất đó được thay đổi thành:
5,5- 7- 18,6 và 33,3% Từ đó thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên
thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của Chính phủ nhiều nước. Hiện nay trên thế
giới đã có hơn 130 quốc gia đưa thuế GTGT vào hệ thống thuế khoá của mình. Còn
Đức tuy là nước được biết về thuế GTGT sớm hơn cả nhưng mãi đến năm 1969 mới
bắt đầu áp dụng thuế GTGT với mức thuế suất là 10% và đến năm 1995 tăng lên là
15% Lịch sử áp dụng thuế GTGT ở các nước trên thế giới là bài học kinh nghiệm rất
quý giá cho Việt Nam học hỏi trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT.
Luật thuế GTGT chính thức được Quốc Hội thông qua ngày 10-05-1997 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01-01-1999. Luật thuế GTGT ra đời đã khắc phục được những
nhược điểm của thuế doanh thu như: tránh tình trạng tính thuế trùng lắp, việc thực hiện
tổ chức quản lý dễ dàng và đơn giản hơn, mang tính trung lập và dân chủ cao. Đồng
thời, thuế GTGT cũng đã thể hiện được vai trò rất quan trọng trên mọi lĩnh vực như:
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
4
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
khuyến khích sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, thu hút được các nguồn đầu tư từ nước
ngoài, thúc đẩy công tác hạch toán, kế toán trong sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, góp phần tạo điều kiện chống thất thu thuế, tạo nguồn thu lớn và ổn định cho
ngân sách Nhà nước, góp phần tăng cường quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp
Sau khi thuế GTGT ra đời thay thế cho thuế doanh thu thì hệ thống thuế của Việt
Nam đã có nhiều ưu điểm nổi bật hơn, mang lại nhiều thành công hơn góp phần quan
trọng đưa đất nước phát triển về KT-XH, hội nhập với khu vực và thế giới. Hiện nay,
hệ thống thuế của Việt Nam bao gồm các sắc thuế:
- Thuế giá trị gia tăng;
- Thuế tiêu thụ đặc biệt;
- Thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thuế xuất, nhập khẩu;
- Thuế tài nguyên;
- Thuế nhà đất;
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
- Thuế môn bài;
Việc chuyển sang áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu ở Việt Nam,
vừa nhằm mục đích từng bước hoà nhập với chính sách thuế của các nước trong khu
vực và trên thế giới, đồng thời vươn tới việc cải cách hệ thống thuế khóa thích hợp hơn
cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
5
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
1.1.2 Bản chất của thuế GTGT
Theo quan niệm của C.Mác, giá trị của hàng hoá, dịch vụ là c+(v+m), trong đó c là
lao động quá khứ được chuyển vào sản phẩm, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra và
đó chính là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ. Nếu sản phẩm này lại là tài
sản cố định hay nguyên, vật liệu cho chu kỳ sản xuất, kinh doanh tiếp theo thì nó lại
đóng vai trò là phần c của sản phẩm mới. Cứ như vậy đến người tiêu dùng cuối cùng,
toàn bộ số c+(v+m) là tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ, đồng thời cũng là tổng các
phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các giai đoạn sản xuất, kinh doanh
khác nhau. Mỗi một sản phẩm, hàng hoá nếu không đi vào tiêu dùng sẽ đi vào quá trình
sản xuất, kinh doanh tiếp theo và lại làm tăng thêm giá trị của hàng hóa. Những giá trị
đó tất nhiên sẽ bị Nhà nước tính thuế, nhưng việc tính thuế trên toàn bộ giá trị hay chỉ
tính thuế đối với phần giá trị tăng thêm thì lại phụ thuộc vào từng sắc thuế.
Quá trình sản xuất ra hàng hoá bao gồm một số bước, giá trị cuối cùng của sản
phẩm là tổng các giá trị tăng thêm ở các giai đoạn đó. Thuế đánh vào tổng giá trị sản
phẩm ở mỗi giai đoạn gọi là thuế doanh thu, còn thuế đánh vào phần giá trị tăng thêm ở
từng giai đoạn gọi là thuế GTGT.
Thuế GTGT là thuế gián thu, được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Do thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm nên dù hàng hoá được mua đi
bán lại kiểu gì, dù bán cho người tiêu dùng trực tiếp hay vòng vo qua nhiều thang,
nhiều nấc thì kết quả cuối cùng Nhà nước vẫn thu được một khoản thuế cố định, đó
chính là số thuế của toàn bộ giá trị hàng hoá mà người tiêu dùng cuối cùng phải trả.
Tức là thuế GTGT đánh trên hành vi tiêu dùng, còn các cơ sở sản xuất, kinh doanh với
tư cách là những nhà trung gian nên không phải là người chịu thuế. Vì vậy có thể nói,
bản chất của thuế GTGT là thuế tiêu dùng và đánh vào người tiêu dùng cuối cùng.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
6
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Cũng do thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên
ĐTNT phải là các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã bỏ thêm chi phí vào làm cho giá cả
của hàng hoá, dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, phần thuế mà họ nộp vào ngân sách thực
chất lại là do người mua hàng hoá, dịch vụ đã thanh toán trong giá cả, tức là người tiêu
dùng mới là người chịu thuế. Lúc này các cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng vai trò là
người thu hộ thuế cho Nhà nước và là người nộp hộ thuế cho người tiêu dùng, là một
mắt xích trong hệ thống thu thuế. Vì vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu, điều
tiết vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ một cách gián tiếp, thông qua
giá cả.
Thuế GTGT có tính xã hội hoá cao, đòi hỏi người tiêu dùng phải có ý thức trong
việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế và góp phần kiểm soát chống thất thu cho ngân sách
Nhà Nước. Đặc biệt là đối với ĐTNT trong việc tự kê khai, tính thuế và nộp thuế
GTGT như ở nước ta hiện nay đòi hỏi nhân dân phải có tinh thần tự giác cao và ý thức
chấp hành nghĩa vụ nộp thuế tốt
1.1.3 Đặc trưng của thuế GTGT
Thuế GTGT xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu
huy động ngân sách ngày càng lớn của Nhà nước. Thuế GTGT là nguồn động viên
quan trọng, kịp thời và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Thuế
GTGT được tính và thu vào từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh
doanh nên làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rất rộng, áp dụng cho hầu hết các hàng hoá,
dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong tất cả các ngành nghề, ở
tất cả các giai đoạn.
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, nó là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng
hoá, dịch vụ nhằm động viên một phần thu nhập thông qua sự đóng góp của người tiêu
dùng khi họ sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Thuế GTGT được tính trong giá bán nên
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
7
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
người chịu thuế ít có cảm giác mình bị Nhà nước đánh thuế, do đó thuế GTGT ít gây ra
những phản ứng từ phía người chịu thuế.
Tại Việt Nam, thuế GTGT được ban hành nhằm thay thế cho thuế doanh thu trước
đây, nó đã khắc phục được các nhược điểm của thuế doanh thu. Thuế GTGT chỉ có 4
mức thuế suất giúp cho việc áp dụng trở nên đơn giản hơn so với thuế doanh thu trước
đây (với 11 mức thuế suất). Việc thu thuế từ số ít người sản xuất, kinh doanh thuận tiện
và dễ dàng hơn là thu trực tiếp từ số đông người tiêu dùng. Nghiệp vụ tính và thu thuế
do đó cũng đơn giản hơn, thuận tiện hơn.
Ngày nay, khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phát triển
thì mỗi công đoạn trong quy trình sản xuất sẽ do những người khác nhau đảm trách,
thậm chí giữa những người sản xuất này còn có thể có ít nhất một nhà buôn làm trung
gian. Vì thế, việc thuế doanh thu được tính trên toàn bộ doanh thu của mỗi người, cũng
có nghĩa là thuế doanh thu của khâu này được tính chồng lên thuế doanh thu của những
khâu sản xuất trước đó. Còn thuế GTGT chỉ thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ ở từng khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh, phần giá trị tăng thêm ở
khâu nào chỉ phải nộp thuế ở khâu đó, sang khâu sau, thuế GTGT không tính trên phần
giá trị đó nữa. Do đó, thuế GTGT khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp qua các
công đoạn sản xuất và phân phối hàng hoá, dịch vụ của thuế doanh thu.
Thuế GTGT tăng cường tính dân chủ. Việc thuế doanh thu không được thể hiện rõ
bên cạnh giá bán hàng hoá như bấy lâu nay là không phù hợp với phương châm này, nó
chưa thể hiện được tính dân chủ. Trái lại, thuế GTGT được thể hiện rõ bên cạnh giá
bán làm cho người tiêu dùng biết rõ sự đóng góp của mình vào ngân sách Nhà nước
thông qua việc tiêu dùng, đó là một biểu hiện của dân chủ và công khai. Khi chịu thuế
GTGT, người tiêu dùng có thể cảm nhận được, thậm chí họ cảm thấy hãnh diện hoặc
phiền lòng nếu tiêu dùng những hàng hoá có thuế cao, hoặc họ cảm thấy hài lòng khi
chọn được những mặt hàng tiêu dùng có thuế thấp. Đây là một ưu điểm về tính dân chủ
của thuế GTGT.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
8
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Thuế GTGT mang tính trung lập cao. Một loại thuế được gọi là trung lập khi nó
không gây ra bất cứ ảnh hưởng nào đến hoạt động của doanh nghiệp nếu Chính phủ
không muốn thế. Trong thuế doanh thu các doanh nghiệp có khuynh hướng tối thiểu
hóa số tiền thuế phải nộp bằng cách hội nhập lại theo chiều dọc, mặc dù Chính phủ
không muốn thế, (ví dụ: xí nghiệp sợi có thể kết hợp với xí nghiệp dệt và may để
không phải đóng thuế khi chuyển sản phẩm từ khâu trước sang khâu sau). Còn thuế
GTGT không hề khuyến khích các doanh nghiệp hội nhập như trên bởi vì tổng số thuế
phải nộp trong cả 2 trường hợp là như nhau. Tuy thuế GTGT áp dụng các mức thuế
suất khác nhau đối với các loại hàng hoá khác nhau phần nào có tác động đến quan hệ
sản xuất trong xã hội, nhưng xét về cơ bản, thuế GTGT không can thiệp sâu vào mục
tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo ngành nghề cụ thể.
1.1.4 Phương pháp tính thuế GTGT
- Phương pháp tính Thuế GTGT
Đặc trưng của thuế GTGT là chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của các sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ ở mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Để
thực hiện được việc tính thuế trên phần giá trị tăng thêm đảm bảo không chồng chéo,
trùng lắp, trên thế giới hiện nay có 4 phương pháp tính thuế GTGT như sau:
(1) Phương pháp cộng trực tiếp:
Thuế GTGT phải nộp = (lợi nhuận + tiền công) x thuế suất
(2) Phương pháp cộng gián tiếp:
Thuế GTGT phải nộp = (lợi nhuận x thuế suất) + (tiền công x thuế suất)
Về cơ bản phương pháp này cũng giống phương pháp trên, nhưng được sử dụng
với trường hợp có 2 mức thuế suất khác nhau đối với lợi nhuận và tiền công.
(3) Phương pháp trừ trực tiếp:
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
Thuế Doanh Doanh Thuế suất thuế
G TG T = số bán - số mua x GTGT của hàng
Phải nộp ra vào hoá, dịch vụ
9
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Hay:
Thuế GTGT phải nộp = GTGT x Thuế suất thuế GTGT
(4) Phương pháp trừ gián tiếp:
Thuế
GTGT
phải nộp
=
Doanh số
bán ra
x
Thuế suất
thuế GTGT
-
Doanh số
mua vào
x
Thuế suất
thuế
GTGT
Hay:
Thuế Thuế Thuế
GTGT = GTGT - GTGT
phải nộp thu hộ trả hộ
Phương pháp này rất thuận lợi cho việc tính thuế trong trường hợp thuế suất đầu ra
và thuế suất đầu vào khác nhau.
Trong 4 phương pháp trên thì 2 phương pháp đầu có nhiều hạn chế và khó chính
xác. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều sử dụng cách tính thuế GTGT theo phương
pháp trừ gián tiếp.
Ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng 2 phương pháp tính thuế GTGT là:
(1) Phương pháp khấu trừ:
Số thuế Thuế Thuế
GTGT = GTGT - GTGT
phải nộp đầu ra đầu vào
Trong đó:
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
10
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Thuế Giá tính thuế Khối lượng Thuế suất thuế
GTGT = của hàng hoá x hàng hoá, dịch x GTGT của hàng
đầu ra dịch vụ vụ bán ra hoá, dịch vụ đó
Còn thuế GTGT đầu vào là số thuế được ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng
của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở đó mua vào hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của
hàng hoá nhập khẩu hoặc theo tỷ lệ % quy định.
Nếu thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra thì doanh nghiệp sẽ được Nhà
nước khấu trừ số chênh lệnh đó vào số thuế GTGT phải nộp của kỳ sau. Nếu số chênh
lệch đó lớn hơn 200 triệu đồng hoặc 3 tháng liên tiếp có số thuế đầu vào lớn hơn thuế
đầu ra thì doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hoàn lại phần thuế chênh lệch đó.
(2) Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT:
Số thuế GTGT của Thuế suất thuế
GTGT = hàng hoá, dịch x GTGT của hàng
phải nộp vụ chịu thuế hoá, dịch vụ đó
Trong đó GTGT hàng hóa, dịch vụ bán ra được xác định theo hai cách như sau:
+ Đối với những cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hóa,
dịch vụ có hóa đơn chứng từ, ghi chép sổ sách kế tóan, áp dụng cách thứ nhất với
công thức tính sau:
+ Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện hóa đơn chứng từ bán hàng hóa, dịch
vụ nhưng không đủ hóa đơn mua vào, thì áp dụng theo công thức sau:
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
11
GTGT của hàng hóa= Doanh Thu * Tỷ lệ(%) GTGT tính
Dịch vụ trên doanh thu
GTGT của hàng Doanh số của Gía vốn hàng
hóa, dịch vụ bán = hàng hóa , dịch vụ - hóa , dịch vụ
ra chịu thuế bán ra
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
1.1.5 Vai trò của thuế GTGT
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách mà còn là
công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nó
ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước. Nhà
nước sử dụng thuế nhằm hướng dẫn, điều tiết các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, tiêu
dùng, thực hiện chính sách phân phối và phân phối lại, điều tiết thu nhập, giải quyết
công bằng xã hội Trong đó, thuế GTGT là một khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số thu ngân sách của Nhà Nước, do đó thuế GTGT có vai trò rất to lớn, tác động
đến mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Có thể khái quát các vai trò đó thành ba vai
trò cơ bản như sau:
* Thứ nhất, thuế GTGT là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước.
Thuế GTGT là công cụ tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước. Thuế GTGT tập trung thu ngay từ khâu đầu (sản xuất hoặc nhập khẩu)
nên đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, hạn chế thất thu. Thuế GTGT được
tính và thu vào từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh nên làm
tăng nguồn thu và đảm bảo huy động kịp thời cho ngân sách Nhà nước. Việc khấu trừ
thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua hàng đã thúc đẩy người mua phải
đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị thực của hoạt động mua
bán, góp phần khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để
trốn lậu thuế, giảm thất thu cho ngân sách Nhà nước
* Thứ hai, thuế GTGT là công cụ điều tiết vĩ mô và vi mô nền kinh tế.
Thuế GTGT điều tiết sản xuất và tiêu dùng. Luật thuế GTGT quy định đánh thuế
hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các mặt hàng cụ thể,
thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
12
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
trường, tác động tới việc lựa chọn những hàng hoá, dịch vụ để sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thuế GTGT khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất. Trong hoạt động
đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT mà doanh nghiệp phải trả khi mua sắm
tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại. Còn khi nhập khẩu máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật
tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố
định cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp cũng không phải nộp thuế GTGT. Đồng thời
việc thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư đã làm cho giá thành các công trình đầu tư
trong nước giảm rất nhiều. Do đó, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích đầu tư đổi
mới công nghệ, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá.
Thuế GTGT khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, góp phần bảo hộ sản
xuất trong nước. Hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0%, số
thuế GTGT đầu vào mà doanh nghiệp đã nộp thì sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc
hoàn lại, vì vậy nó là động lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, tăng
cường sự hợp tác thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Thuế GTGT
tạo điều kiện cho hàng hoá xuất khẩu có thể cạnh tranh dễ dàng hơn trên thị trường
quốc tế, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, giải quyết nhu cầu lao động trong xã
hội.
Thuế GTGT góp phần điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân
phối. Thuế GTGT áp dụng mức thuế suất cao đối với các loại hàng hoá, dịch vụ cao
cấp mà chỉ những người có thu nhập cao mới sử dụng hoặc sử dụng nhiều hơn, còn đối
với các hàng hoá thông thường hoặc có tính chất thiết yếu thì thuế GTGT quy định
mức thuế suất thấp hơn, qua đó điều tiết một phần thu của họ.
Thuế GTGT khuyến khích tăng hiệu quả sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, giá
cả hàng hoá được bán ra phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cung cầu, nó phải được người
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
13
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
tiêu dùng chấp nhận, người sản xuất khó có thể thay đổi giá cả theo ý mình. Do đó việc
Nhà nước đánh thuế sẽ làm giảm doanh thu thuần của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp
không cố gắng nâng cao hiệu quả sản xuất để giảm bớt chi phí. Điều đó đã thúc đẩy
các doanh nghiệp phải luôn luôn cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, thúc đẩy nền sản
xuất phát triển.
Thuế GTGT thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán, kế toán, phát
triển quan hệ thanh toán. Việc doanh nghiệp được phép khấu trừ thuế GTGT của hàng
hoá, dịch vụ mua vào cùng với việc thực hiện hoàn thuế GTGT của Nhà nước đã
khuyến khích các doanh nghiệp tự giác ghi chép, quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ,
thúc đẩy việc hoàn thiện công tác hạch toán, kế toán tại đơn vị. Ngoài ra, thuế GTGT
góp phần phát triển hệ thống thanh toán. Việc thuế GTGT đòi hỏi những doanh nghiệp
có hàng hoá xuất khẩu phải thanh toán qua ngân hàng thì mới được hoàn thuế đã thúc
đẩy các doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng, góp phần phát
triển hệ thống thanh toán.
* Thứ ba, thuế GTGT là công cụ kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Vai trò này hình thành ngay trong quá trình tổ chức thực hiện luật thuế GTGT. Để
thu được thuế và đảm bảo thực hiện đúng luật thuế, cơ quan thuế và các cơ quan hữu
quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô và tình hình hoạt động của
các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Từ đó mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những việc làm
sai trái, vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh, cũng như
phát hiện ra những khó khăn mà các cơ sở gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo
gỡ. Thuế GTGT còn thúc đẩy việc mua bán hàng hoá sử dụng đầy đủ hoá đơn, chứng
từ hợp lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Như vậy, qua công tác quản lý thuế có thể kiểm tra, kiểm soát toàn diện
các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý Nhà
nước.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
14
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
1.2 Nội dung công tác quản lý thuế GTGT
1.2.1 Sự cần thiết và khái niệm của công tác quản lý thuế GTGT
• Sự cần thiết của quản lý
Quản lý là một phạm trù để chỉ những mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các
chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý nhằm đạt được những mục tiêu đề án trong
điều kiện có sự biến đổi của môi trường. Tuỳ theo yêu cầu, mục tiêu và phạm vi nghiên
cứu mà ta có thể hiểu chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý ở những chừng mực nhất
định.
Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì chủ thể quản lý đó là bộ máy
quản lý Nhà Nước, thống nhất từ trung ương đến địa phương, thực hiện quản lý trên
mọi mặt của đời sống, kinh tế, văn hoá, xã hội…Đối tượng bị quản lý (đối tượng quản
lý) là con người và cộng đồng người đang và sẽ tham gia vào các quan hệ xã hội, mà
trong đó quan hệ kinh tế được nổi lên như một vấn đề chủ yếu của quản lý.
Quan hệ quản lý không những mang tính chất kinh tế mà còn có tính tổ chức, tính
chất tâm lý xã hội…Tính đa diện đó của quản lý kinh tế quy định tính tổng hợp, tính
liên ngành, liên bộ phận của bất kỳ cơ cấu tổ chức nào.
Tất cả những mối quan hệ và sự tác động hữu cơ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ
chức, tạo nên một vai trò không thể thiếu của các bộ phận, mỗi bộ phận trong cơ cấu
nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của cả quá trình hành động. Và để thể hiện cho toàn
bộ các bộ phận này được gọi là hệ thống quản lý.
• Khái niệm về quản lý thuế GTGT
Mỗi quốc gia ra đời đều phải xây dựng một bộ máy Nhà nước để quản lý và điều
hành chế độ xã hội của mình, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát huy quyền lực của Nhà
nước, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính nhất định. Để có được nguồn tài chính đó,
Nhà nước có thể huy động bằng nhiều cách như: in tiền, phát hành trái phiếu, vay nợ
trong và ngoài nước, thu thuế Tuy nhiên các hình thức như in tiền hay đi vay không
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
15
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
thể sử dụng lâu dài và có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, chỉ có hình thức thu thuế
là hợp lý và lâu bền nhất. Thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ, có vai trò vai trò rất lớn
trong việc huy động ngân sách Nhà nước, nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát huy vai trò
quản lý của bộ máy Nhà nước, do đó công tác quản lý thuế GTGT là một công tác quan
trọng cần phải được hoàn thiện để nâng cao hiệu quả.
Công tác quản lý thuế GTGT là hoạt động của cơ quan thuế nhằm mục đích chủ
yếu là đảm bảo nguồn thu thuế GTGT cho ngân sách Nhà nước, góp phần phát huy tốt
hơn vai trò của luật thuế GTGT.
Do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên thuế GTGT được áp dụng ở các quốc
gia cũng có những đặc điểm khác nhau, vì vậy công tác quản lý thuế GTGT ở mỗi
nước có những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của nước đó. Ngay cả công tác
quản lý thuế GTGT trong mỗi quốc gia ở các cấp khác nhau cũng có sự khác nhau tuỳ
thuộc vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bộ phận, mỗi cấp.
Trong công tác quản lý thuế GTGT, Cục thuế , Chi cục thuế phải phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan hữu quan như: Kho bạc, Hải quan, Quản lý thị trường, Uỷ ban
nhân dân Quận, Sở kế hoạch đầu tư để đảm bảo quản lý triệt để và phát triển nguồn
thu.
1.2.2 Quy trình, nội dung công tác quản lý thuế GTGT
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
16
CƠ QUAN THUẾ
Kiểm tra
thanh tra thuế
Quản lý nợ thuế
và cưỡng chế
thu thuế
Người nộp thuế
Kho bạc
Tuyên truyền
Pháp luật Thuế
và hỗ trợ Người
nộp thuế
Kê khai và Kế
toán thuế
Sơ đồ 1.1: QUI TRÌNH QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ CƠ SỞ
KINH DOANH
TỰ KÊ KHAI - TỰ TÍNH - TỰ NỘP THUẾ
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
• Nội dung quản lý thuế
Khai thuế, tính thuế
- Nguyên tắc tính thuế, khai thuế
+ Người nộp thuế phải tính số tiền thuế phải nộp Ngân sách Nhà nước, trừ
trường hợp cơ quan thuế ấn định thuế hoặc tính thuế theo quy định tại Điều 37 và Điều
38 của Luật Quản lý thuế.
+ Người nộp thuế phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ
khai thuế với cơ quan thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các chứng từ,
tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế.
+ Đối với loại thuế khai theo tháng, quý hoặc năm, nếu trong kỳ tính thuế không
phát sinh nghĩa vụ thuế hoặc người nộp thuế đang thuộc diện được hưởng ưu đãi, miễn
giảm thuế thì người nộp thuế vẫn phải nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan thuế theo đúng
thời hạn quy định, trừ trường hợp đã chấm dứt hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế.
+ Đối với loại thuế khai theo tháng hoặc khai theo quý, kỳ tính thuế đầu tiên
được tính từ ngày bắt đầu hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế đến ngày cuối cùng của
tháng hoặc quý, kỳ tính thuế cuối cùng được tính từ ngày đầu tiên của tháng hoặc quý
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
17
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
đến ngày kết thúc hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế. Kỳ tính thuế năm của thuế thu
nhập doanh nghiệp hoặc thuế tài nguyên được tính theo năm tài chính của người nộp
thuế. Kỳ tính thuế năm của các loại thuế khác là năm dương lịch.
-
- Hồ sơ khai thuế
Hồ sơ khai thuế bao gồm tờ khai thuế và các tài liệu liên quan làm căn cứ để
người nộp thuế khai thuế, tính thuế với cơ quan thuế.
Người nộp thuế phải sử dụng đúng mẫu tờ khai thuế và các mẫu phụ lục kèm
theo tờ khai thuế do Bộ Tài chính quy định, không được thay đổi khuôn dạng, thêm,
bớt hoặc thay đổi vị trí của bất kỳ chỉ tiêu nào trong tờ khai thuế. Đối với một số loại
giấy tờ trong hồ sơ thuế mà Bộ Tài chính không ban hành mẫu thì thực hiện theo quy
định của pháp luật có liên quan.
- Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế:
+ Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế tháng chậm nhất là ngày thứ hai mươi của
tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế.
+ Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế quý chậm nhất là ngày thứ ba mươi của quý
tiếp theo quý phát sinh nghĩa vụ thuế.
+ Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế cả năm chậm nhất là ngày thứ ba mươi của
tháng đầu tiên của năm dương lịch hoặc năm tài chính.
+ Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế chậm
nhất là ngày thứ mười, kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thuế.
+ Thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm chậm nhất là ngày thứ chín mươi,
kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
18
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
+ Thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế đối với trường hợp chấm dứt hoạt động,
chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp hoặc tổ chức lại doanh nghiệp chậm nhất là
ngày thứ bốn mươi lăm, kể từ ngày phát sinh các trường hợp đó.
+
+ Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, thu khác liên quan đến sử dụng đất theo cơ
chế một cửa liên thông thì thực hiện theo thời hạn quy định tại văn bản hướng dẫn liên
ngành về cơ chế một cửa liên thông đó.
- Gia hạn nộp hồ sơ khai thuế:
+ Người nộp thuế không có khả năng nộp hồ sơ khai thuế đúng hạn do thiên
tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ thì được thủ trưởng cơ quan thuế quản lý trực tiếp gia hạn
nộp hồ sơ khai thuế.
+ Thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày đối với việc nộp hồ sơ khai thuế
tháng, khai thuế năm, khai thuế tạm tính, khai thuế theo từng lần phát sinh nghĩa vụ
thuế; sáu mươi ngày đối với việc nộp hồ sơ khai quyết toán thuế, kể từ ngày hết thời
hạn phải nộp hồ sơ khai thuế.
+ Người nộp thuế phải gửi đến cơ quan thuế nơi nhận hồ sơ khai thuế văn bản
đề nghị gia hạn nộp hồ sơ khai thuế trước khi hết hạn nộp hồ sơ khai thuế, trong đó nêu
rõ lý do đề nghị gia hạn có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc
công an xã, phường, thị trấn nơi phát sinh trường hợp được gia hạn nộp hồ sơ khai
thuế.
+
+ Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị
gia hạn nộp hồ sơ khai thuế, cơ quan thuế phải trả lời bằng văn bản cho người nộp thuế
về việc chấp nhận hay không chấp nhận việc gia hạn nộp hồ sơ khai thuế; nếu cơ quan
thuế không có văn bản trả lời thì coi như đề nghị của người nộp thuế được chấp nhận.
-
- Khai bổ sung hồ sơ khai thuế:
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
19
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
+ Người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế có sai
sót, nhầm lẫn gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì được khai bổ sung hồ sơ khai
thuế. Hồ sơ khai thuế bổ sung được nộp cho cơ quan thuế vào bất cứ ngày làm việc
nào, không phụ thuộc vào thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của lần tiếp theo, nhưng phải
trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người
nộp thuế.
+ Trường hợp khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm tăng số tiền thuế phải nộp,
người nộp thuế tự xác định số tiền phạt chậm nộp căn cứ vào số tiền thuế chậm nộp, số
ngày chậm nộp và mức xử phạt theo quy định tại Điều 106 Luật Quản lý thuế. Trường
hợp người nộp thuế không tự xác định hoặc xác định không đúng số tiền phạt chậm
nộp thì cơ quan thuế xác định số tiền phạt chậm nộp và thông báo cho người nộp thuế
biết để thực hiện.
+ Trường hợp khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số thuế phải nộp, người
nộp thuế được điều chỉnh giảm tiền thuế, tiền phạt (nếu có) tại ngày cuối cùng của
tháng nộp hồ sơ khai bổ sung; hoặc được bù trừ số thuế giảm vào số thuế phát sinh của
lần khai thuế tiếp theo.
+ Mẫu hồ sơ khai bổ sung:
Tờ khai thuế tương ứng với tờ khai thuế cần được khai bổ sung, điều chỉnh
thông tin.
Bản giải trình khai bổ sung, điều chỉnh mẫu số 01/KHBS ban hành kèm theo
Thông tư này
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
20
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Tài liệu kèm theo giải thích số liệu trong bản giải trình khai bổ sung, điều
chỉnh tương ứng với các tài liệu trong hồ sơ thuế của từng phần cụ thể tại Thông tư
này.
+
+ Khai thuế giá trị gia tăng
- Trách nhiệm nộp hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng cho cơ quan thuế:
+ Người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng cho cơ quan thuế quản lý
trực tiếp.
+ Trường hợp người nộp thuế có đơn vị trực thuộc kinh doanh ở địa phương cấp
tỉnh cùng nơi người nộp thuế có trụ sở chính: nếu đơn vị trực thuộc hạch toán độc lập
thì đơn vị trực thuộc nộp hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng cho cơ quan thuế quản lý trực
tiếp đơn vị trực thuộc; nếu đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc thì người nộp thuế
thực hiện khai thuế giá trị gia tăng chung cho cả đơn vị trực thuộc.
Nếu đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc có con dấu, tài khoản tiền gửi ngân
hàng, trực tiếp bán hàng hóa, dịch vụ, kê khai đầy đủ thuế giá trị gia tăng đầu vào, đầu
ra muốn kê khai nộp thuế riêng phải đăng ký nộp thuế riêng, cấp mã số thuế phụ thuộc
và sử dụng hóa đơn riêng.
+ Trường hợp người nộp thuế có đơn vị trực thuộc kinh doanh ở địa phương cấp
tỉnh khác nơi người nộp thuế có trụ sở chính thì đơn vị trực thuộc nộp hồ sơ khai thuế
giá trị gia tăng cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp của đơn vị trực thuộc; nếu đơn vị
trực thuộc không trực tiếp bán hàng, không phát sinh doanh thu thì thực hiện khai thuế
tập trung tại trụ sở chính của người nộp thuế.
+ Trường hợp người nộp thuế có hoạt động kinh doanh xây dựng, lắp đặt, bán
hàng vãng lai mà không thành lập đơn vị trực thuộc tại địa phương cấp tỉnh khác nơi
người nộp thuế có trụ sở chính (sau đây gọi là kinh doanh xây dựng, lắp đặt, bán hàng
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
21
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
vãng lai ngoại tỉnh) thì người nộp thuế phải nộp hồ sơ khai thuế cho chi cục thuế quản
lý địa phương có hoạt động xây dựng, lắp đặt, bán hàng vãng lai đó.
+
+
Trường hợp người nộp thuế có công trình xây dựng, lắp đặt ngoại tỉnh liên
quan tới nhiều địa phương như: xây dựng đường giao thông, đường dây tải điện, đường
ống dẫn nước, dẫn dầu, khí v.v., không xác định được doanh thu của công trình ở từng
địa phương cấp huyện thì người nộp thuế khai thuế giá trị gia tăng của doanh thu xây
dựng, lắp đặt ngoại tỉnh chung với hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng tại trụ sở chính.
- Khai thuế giá trị gia tăng là loại khai thuế theo tháng và các trường hợp:
+ Khai quyết toán năm đối với thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp
tính trực tiếp trên giá trị gia tăng;
+ Khai thuế giá trị gia tăng tạm tính theo từng lần phát sinh đối với hoạt
động kinh doanh xây dựng, lắp đặt, bán hàng vãng lai ngoại tỉnh.
+ Khai thuế giá trị gia tăng theo từng lần phát sinh đối với thuế giá trị gia
tăng theo phương pháp trực tiếp trên doanh số của người kinh doanh không thường
xuyên.
- Khai thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ:
+ Người nộp thuế tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế
bao gồm doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định; trừ trường hợp
áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng quy định tại khoản 4 mục
này.
+ Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng tháng áp dụng phương pháp khấu trừ thuế:
Tờ khai thuế giá trị gia tăng theo mẫu số 01/GTGT ban hành kèm theo
Thông tư này.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
22
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ bán ra theo mẫu số 01-
1/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này.
Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ mua vào theo mẫu số 01-
2/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này.
Bản giải trình khai bổ sung, điều chỉnh theo mẫu số 01-3/GTGT ban hành
kèm theo Thông tư này (áp dụng đối với trường hợp tại kỳ khai thuế người nộp thuế có
khai bổ sung, điều chỉnh cho hồ sơ khai thuế của các kỳ khai thuế trước).
Bảng phân bổ số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào được
khấu trừ trong tháng theo mẫu số 01-4A/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này (áp
dụng đối với trường hợp người nộp thuế phân bổ số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
trong tháng theo tỷ lệ (%) doanh thu hàng hoá dịch vụ bán ra chịu thuế giá trị gia tăng
trên tổng doanh thu hàng hoá dịch vụ bán ra của tháng tính thuế).
Bảng kê khai điều chỉnh thuế giá trị gia tăng đầu vào phân bổ được khấu
trừ năm theo mẫu số 01-4B/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này (áp dụng đối với
trường hợp người nộp thuế tính phân bổ lại số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ trong
năm theo tỷ lệ (%) doanh thu hàng hoá dịch vụ bán ra chịu thuế giá trị gia tăng trên
tổng doanh thu hàng hoá dịch vụ bán ra của năm). Số liệu điều chỉnh tăng, giảm thuế
giá trị gia tăng đầu vào phân bổ được khấu trừ được tổng hợp vào Tờ khai thuế giá trị
gia tăng tháng ba năm tiếp theo.
Bảng kê số thuế giá trị gia tăng đã nộp của doanh thu kinh doanh xây
dựng, lắp đặt, bán hàng vãng lai ngoại tỉnh theo mẫu số 01-5/GTGT ban hành kèm theo
Thông tư này.
+ Trường hợp người nộp thuế có dự án đầu tư mới phát sinh thuế đầu vào
nhưng chưa phát sinh thuế đầu ra thì người nộp thuế lập hồ sơ khai thuế riêng cho dự
án đầu tư. Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng tháng của dự án đầu tư bao gồm:
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
23
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
Tờ khai thuế giá trị gia tăng dành cho dự án đầu tư theo mẫu số 02/GTGT
ban hành kèm theo Thông tư này;
Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ mua vào theo mẫu số 01-
2/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này.
- Khai thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng:
+ Hộ gia đình, cá nhân kinh doanh và người nộp thuế kinh doanh vàng, bạc,
đá quý, ngoại tệ lưu giữ được đầy đủ hoá đơn mua vào, hoá đơn bán ra để xác định
được giá trị gia tăng thì áp dụng khai thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực
tiếp trên giá trị gia tăng.
+ Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng tháng tính theo phương pháp trực tiếp trên
giá trị gia tăng là Tờ khai thuế giá trị gia tăng theo mẫu số 03/GTGT ban hành kèm
theo Thông tư này.
+ Hồ sơ khai quyết toán thuế giá trị gia tăng năm tính theo phương pháp trực
tiếp trên giá trị gia tăng là Tờ khai quyết toán thuế giá trị gia tăng theo mẫu số
04/GTGT ban hành kèm theo Thông tư này.
- Khai thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu:
+ Hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh doanh thực hiện lưu giữ đủ hoá đơn,
chứng từ bán hàng, cung cấp dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn, chứng từ mua hàng
hoá, dịch vụ đầu vào nên không xác định được giá trị gia tăng trong kỳ thì áp dụng khai
thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu.
+
+ Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng tháng tính theo phương pháp trực tiếp trên
doanh thu là Tờ khai thuế giá trị gia tăng mẫu số 05/GTGT ban hành kèm theo Thông
tư này.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
24
Khoá luận tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Mỹ Hạnh
+ Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng theo từng lần phát sinh tính theo phương
pháp trực tiếp trên doanh thu là Tờ khai thuế giá trị gia tăng mẫu số 05/GTGT ban
hành kèm theo Thông tư này.
- Khai thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh xây dựng, lắp đặt, bán
hàng vãng lai ngoại tỉnh.
+ Người nộp thuế kinh doanh xây dựng, lắp đặt, bán hàng vãng lai ngoại tỉnh
thì khai thuế gi trị gia tăng tạm tính theo tỷ lệ 2% (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
suất thuế gi trị gia tăng 10%) hoặc theo tỷ lệ 1% (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
suất thuế gi trị gia tăng 5%) trên doanh thu hàng hoá, dịch vụ chưa có thuế gi trị gia
tăng với chi cục thuế quản lý địa phương nơi kinh doanh, bán hàng
+ Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh xây dựng, lắp
đặt, bán hàng vãng lai ngoại tỉnh là Tờ khai thuế gi trị gia tăng theo mẫu số 06/GTGT
ban hành kèm theo Thông tư này.
+ Hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh xây dựng, lắp
đặt, bán hàng vãng lai ngoại tỉnh được nộp theo từng lần phát sinh doanh thu. Trường
hợp phát sinh nhiều lần nộp hồ sơ khai thuế trong một tháng thì người nộp thuế có thể
đăng ký với chi cục thuế nơi nộp hồ sơ khai thuế để chuyển sang nộp hồ sơ khai thuế gi
trị gia tăng theo tháng.
+ Khi khai thuế với cơ quan thuế quản lý trực tiếp, người nộp thuế phải tổng
hợp doanh thu phát sinh và số thuế gi trị gia tăng đã nộp của doanh thu kinh doanh xây
dựng, lắp đặt, bán hàng vãng lai ngoại tỉnh trong hồ sơ khai thuế tại trụ sở chính. Số
thuế đã nộp (theo chứng từ nộp tiền thuế) của doanh thu kinh doanh xây dựng, lắp đặt,
bán hàng vãng lai ngoại tỉnh được trừ vào số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo tờ khai
thuế gi trị gia tăng của người nộp thuế tại trụ sở chính.
-
- Chuyển đổi áp dụng các phương pháp tính thuế giá trị gia tăng.
Lớp: 07VKT2 SVTH: Châu Thanh Trúc
25