Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Đề tài “Thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa Kế toán kiểm toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Tài chính – Marketing” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.19 KB, 47 trang )

ĐỀ TÀI
“Thái độ đối với việc chấp hành luật giao
thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của
sinh viên ở khoa Kế toán kiểm toán và
quản trị kinh doanh trường Đại học Tài
chính – Marketing”




1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay an toàn giao thông là một vấn đề lớn, được cả xã hội quan tâm. Đi khắp
các nẻo đường gần xa khẩu ngữ “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà” như lời
nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người đang tham gia giao thông, hãy nghiêm
chỉnh chấp hành luật giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho gia đình
mình, góp phần xây dựng xã hội ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn.
Nhưng hàng năm số vụ tai nạn giao thông vẫn không hề suy giảm, ngược lại nó
còn tăng lên rất nhiều mà phần lớn nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn là do ý thức ,
thái độ chấp hành luật lệ giao thông của mỗi người còn hạn chế như: uống rượu bia vượt
quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội
mũ bảo hiểm, chở trên ba người phóng nhanh vượt ẩu…
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Ngân hàng thế giới (WB) thì
mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao thông đường bộ. Thống kê
còn cho thấy, khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Hai cơ quan này
cảnh báo, nếu chính phủ các nước không có biện pháp ngăn chặn tình trạng này thì đến
năm 2020, tai nạn giao thông sẽ đứng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong ở người.
Ở Việt Nam, hằng năm có 12.000 người thiệt mạng vì an toàn giao thông và 30.000
người khác tổn thương sọ não, chủ yếu là do tai nạn xe máy, mô tô, theo Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB), tổn thất vật chất hàng năm ở Việt Nam do tai nạn giao thông


khoảng 885 triệu USD. Con số này còn cao hơn cả giá trị tiền thuốc sử dụng cho cả 84
triệu dân Việt Nam trong năm 2005 (817 triệu USD). Nếu so sánh với tổng thu
ngân sách cả nước thì con số 885 triệu USD chiếm hơn 5,5% tổng thu ngân sách cả
nước/năm. Và nếu so với tổn thất toàn cầu do tai nạn giao thông đường bộ khoảng 518 tỷ
USD/năm (số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, WHO) thì con số tổn thất gần 1 tỷ USD/năm
của Việt Nam là quá nghiêm trọng.
Với sự nhịp sống nhanh và thay đổi hàng giờ như hiện nay nhu cầu đi lại tham gia
giao thông là việc tất yếu của mỗi cá nhân và thái độ của chúng ta khi tham gia giao
thông ảnh hưởng rất lớn tới sự an toàn của bản thân và những người xung quanh. Lứa
tuổi thanh niên trong đó có sinh viên là lứa tuổi mới lớn, không ít người trong đó có tư
tưởng muốn khẳng định bản thân, cá tính của mình. Họ thể hiện cả điều đó khi tham gia
giao thông nhưng họ không lường hết được hậu quả của nó gây nên những tai nạn thương
2
tâm làm thiệt hại nặng nề về người và tài sản, tạo nên gánh nặng cho gia đình và cho xã
hội. Trong tổng số 10.140 vụ tai nạn giao thông, có 37% vụ liên quan đến đối tượng dưới
24 tuổi. Tại thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2005-2010 có tới gần 2.000 trường hợp học
sinh, sinh viên vi phạm an toàn giao thông, trong đó 1.300 trường hợp bị xử phạt hành
chính và 7 trường hợp bị khởi tố do vi phạm luật an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm
trọng.
Xuất phát từ những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài “Thái độ đối với việc
chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa Kế toán
kiểm toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Tài chính – Marketing” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ thái độ của sinh viên ở khoa KTKT và QTKD trường Đại học Tài chính –
Marketing đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi đi mô tô, xe máy, chỉ ra thực
trạng của vấn đề.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao thái độ của sinh viên đối với việc
chấp hành luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Sinh viên khoa KTKT và QTKD trường Đại học Tài

chính – Marketing.
- Khách thể khảo sát: 306 sinh viên khoa KTKT và QTKD.
- Đối tượng nghiên cứu: Thái độ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc
chấp hành luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: cơ sở 3.
+ Thời gian: từ tháng 4 đến tháng 8/2012.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Khi tham gia giao thông, thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô
tô, xe máy của sinh viên ở khoa KTKT và QTKD còn chưa cao, có sự khác nhau giữa các
trường, nam và nữ. Cụ thể chúng tôi đặt giả thuyết là những sinh viên khoa KTKT sẽ
chấp hành luật giao thông tốt hơn sinh viên khoa QTKD.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
3
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thái độ và thái độ của sinh viên đối với
việc chấp hành luật giao thông đường bộ.
- Khảo sát thực trạng thái độ của sinh viên khoa KTKT và QTKD về việc chấp
hành luật lệ giao thông khi tham gia giao thông, ảnh hưởng của một số yếu tố đến thực
trạng này.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao thái độ của sinh viên đối với việc chấp
hành luật giao thông khi tham gia giao thông.
6. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Anket): dùng để tìm hiểu thực trạng thái độ
của sinh viên về việc chấp hành luật lệ giao thông khi tham gia giao thông của khách thể.
- Phương pháp phỏng vấn: dùng để thu thập dữ liệu ban đầu cho việc thiết kế bảng
câu hỏi và bổ sung thêm thông tin cho các kết luận thu được từ việc xử lí số liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thống kê toán học: dùng để xử lí số liệu nghiên cứu.
CHƯƠNG 1

4
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về thái độ trên thế giới
Từ cuối những năm 50 đến nay, các nước phương Tây phục hồi và phát triển trở lại
sau chiến tranh cùng với đó các công trình nghiên cứu thái độ cũng được tiếp tục với
nhiều ý tưởng mới. Tuy nhiên chính lúc này tâm lý học về thái độ cũng lâm vào khủng
hoảng. Trong tâm lý học xã hội, vấn đề thái độ cũng có một vị trí xứng đáng, các nhà
nghiên cứu tiếp tục đưa ra quan niệm mới về định nghĩa, cấu trúc, chức năng… của thái
độ. Thời kỳ này đã xuất hiện các phương pháp đo thái độ gián tiếp qua các chỉ số sinh
học ( phương pháp điện cơ mặt), kỹ thuật đường ống giả vờ, kỹ thuật lấn từng bước một.
Vào năm 1957 có một nghiên cứu đã lý giải tại sao “ Hành vi lại ảnh hưởng tới thái độ
của con người?” đó là thuyết bất đồng nhận thức (Leon Festinger), thuyết tự thể hiện,
thuyết tự tri giác (Darylbem).
Ngoài các vấn đề trên các nhà tâm lý học phương Tây còn tập trung nghiên cứu,
xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của thái độ nhất là các vấn đề vai trò, cấu trúc, chức
năng của thái độ như các nghiên cứu của M.Rokeach (1968), T.M. Ostrom ( 1969)
U.J.Mc.Guire (1969), và J.R.Rempell (1988). Đến năm 1972 cũng có một học thuyết
nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi của con người. Đó là thuyết “ Tự nhận
thức” của Daryl Bem. Hai học thuyết của Festinger và Daryl Bem có ảnh hưởng khá lớn
đến các nghiên cứu sau này. Không những thế các nhà nghiên cứu cũng đưa ra phương
pháp nghiên cứu hình thành, thay đổi thái độ như phương pháp “đường ống giả vờ” cho
phép đo các thái độ của con người do Edward Jones và Harold Sigall (1971) đề ra kỹ
thuật “ lấn từng bước một” của Jonathan Freedman và Scott Fraer (1966).
Trong nghiên cứu tâm lý học giáo dục phương Tây (Learning set), các tác giả
thường coi thái độ học tập là một trong những nhân tố đóng vai trò động cơ thúc đẩy tính
tích cực của học sinh với giáo viên, với môn học, cũng như thái độ trong từng giai đoạn
học tập. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó lại dựa vào “Thuyết hành vi” đề cao vai
trò của các yếu tố do con người tạo nên, như thưởng, phạt mà không chú ý nhiều đến các
yếu tố môi trường, chủ thể trong việc hình thành tri thức, kĩ năng.

5
Xu thế chung của nghiên cứu thái độ hiện nay là nghiên cứu ứng dụng, phục vụ
cho các mục đích vận động bầu cử, tiếp thị, tuyên truyền bảo vệ môi trường, chữa
bệnh….
Theo B.N.Sikhirep, đặc điểm tình hình nghiên cứu thái độ hiện nay ở phương Tây
là một mặt ngày càng có nhiều công trình và các phương pháp cụ thể nghiên cứu thái độ,
mặt khác lại bế tắc về phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực nghiệm.
Sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta xem xét về vấn đề thái độ nếu như chỉ xét nó ở
khía cạnh của các nhà Tâm lý học phương Tây mà bỏ quên các quan điểm của các nhà
Tâm lý học Liên Xô ( cũ).
- Thuyết nghiên cứu thái độ trong tâm lý học nhân cách
Thuyết “thái độ nhân cách” của nhà tâm lý học V.N.Miaxisev cho rằng nhân cách
là một hệ thống thái độ. Theo tác giả, phản xạ có điều kiện chính là cơ sở sinh lí học của
thái độ có ý thức của con người với hiện thực. Miaxisev chia thái độ ra làm hai loại: tích
cực và tiêu cực. Cùng với các quá trình, các trạng thái, các thuộc tính tâm lý, thái độ là
một trong những hình thức thể hiện tâm lý người. Ông cho rằng: “ Thái độ là khía cạnh
chủ quan bên trong có tính chọn lọc cao các mối liên hệ đa dạng của con người với các
khía cạnh khác nhau của hiện thực và với toàn bộ ý thức nói chung. Tuy nhiên, Miaxisev
lại cho rằng các quá trình tâm lý nhu cầu, thị hiếu, hứng thú, tình cảm, ý chí,… đều là
thái độ. Có thể thấy việc xếp ngang hàng quan hệ xã hội với thái độ là chưa thoả đáng,
cũng như coi thuộc tính tâm lý của nhân cách là thái độ cũng chưa có cơ sở.
Tuy vậy, Miaxisev vẫn là một trong những người đặt nền móng cho tâm lý học
theo quan điểm Macxit. Miaxisev cũng đã dùng thuyết thái độ nhân cách để sử dụng
trong y học. Gần đây, khi nghiên cứu nhân cách như một phạm trù cơ bản của tâm lý học,
V.F.Lomop - nhà tâm lý học Xô viết đã đề cập đến thái độ chủ quan của nhân cách, sự
chế định của quan hệ xã hội đối với thái độ chủ quan, sự hình thành thái độ chủ quan
thông qua hoạt động và giao tiếp.
- Thuyết định vị của V.A.Iadov
Dựa trên “thuyết tâm thế” của Uznatze, V.A.Iadov đã phát triển khái niệm tâm thế,
nhằm điều chỉnh các hành vi, hoạt động xã hội của cá nhân. Iadov cho rằng con người có

một hệ thống các định vị khác nhau, rất phức tạp, và hành vi của con người bị điều khiển
bởi các tổ chức “định vị” này. Các định vị này được tổ chức theo bốn bậc với các mức độ
khác nhau, trong một hệ thống định vị, định vị bậc cao có thể chi phối định vị bậc thấp.
6
Điều đó cho phép lý giải hợp lý hành vi xã hội của cá nhân cũng như sự mâu thuẫn giữa
hành vi và thái độ.
Bậc 1: Bao gồm các tâm thế bậc thấp, như trong quan niệm của Uznatze, hình
thành khi có sự gặp gỡ của nhu cầu sinh lý với đối tượng thoả mãn nhu cầu, tâm thế chỉ
là một dạng định vị điều chỉnh hành vi, phản ứng của cá nhân trong những tình huống
đơn giản nhất.
Bậc 2: Các định vị phức tạp hơn được hình thành trên cơ sở các tình huống giao
tiếp của con người trong các nhóm nhỏ.
Bậc 3: Các định vị mà trong đó định hướng chung của các sở thích được hình
thành trong các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.
Bậc 4: Bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị của nhân cách
trong những tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất đối với nhân cách.
Như vậy có thể thấy, hệ thống “định vị” có thứ bậc từ thấp đến cao, điều chỉnh
hành vi của cá nhân trong các điều kiện xã hội ngày nay càng được mở rộng và ổn định
hơn. Từ hệ thống “định vị” chúng ta có thể lý giải một cách hợp lý hành vi xã hội của cá
nhân, cũng như những mâu thuẫn giữa hành vi với thái độ của cá nhân. Đó là vì các "định
vị” ở bậc thấp, bị điều khiển, bị chi phối bởi các "định vị" ở bậc cao hơn. “Thuyết định vị
” đã nghiên cứu thái độ ở một góc nhìn hoàn toàn mới. Nó đã thiết lập được mối liên hệ
giữa những cách tiếp cận hành vi của nhân cách từ các góc độ khác nhau như tâm lý học
đại cương, tâm lý học xã hội. Tuy nhiên thiếu sót chủ yếu của Iadov là đã không làm rõ
khái niệm “định vị” là gì, đồng thời cũng không chỉ ra được cơ chế điều chỉnh hành vi
bằng các “định vị” trong những tình huống xã hội .
Tóm lại, nhờ vận dụng cách tiếp cận hoạt động và nhân cách trong nghiên cứu thái
độ, gắn thái độ với nhu cầu với điều kiện hoạt động, coi thái độ là hệ thống thứ bậc. Tâm
lý học Xô Viết đã đưa ra các cách lý giải hợp lý về sự hình thành thái độ, vị trí của thái độ
với cấu trúc của nhân cách, chức năng của thái độ trong điều chỉnh hành vi xã hội và hoạt

động của cá nhân.
7
1.1.2. Các nghiên cứu về thái độ ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu thái độ ở Việt Nam kế thừa thành tựu của tâm lí học Xô
Viết và Đông Âu cũ.Việc nghiên thái độ ở Việt Nam chưa nhiều, chưa được chuyên sâu
như ở Phương Tây và Liên Xô cũ
Hầu hết các nhà tâm lý học ở Việt Nam đều xuất phát từ quan điểm tâm lý học
hoạt động khi nghiên cứu con người trong đó có vấn đề thái độ. Thái độ được tác giả đề
cập trên bình diện lý luận, chủ yếu là khái quát hoá những vấn đề lý luận về thái độ như
định nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của thái độ ( Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thuỷ, Lê Đức
Phúc, Trần Hiệp…).
Trên bình diện thực tiễn, nhiều công trình nghiên cứu khá công phu chủ yếu tập
trung nghiên cứu về thái độ học tập trên đối đối tượng là học sinh, sinh viên từ đó rút ra
những kết luận làm cơ sở cho công việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã chú trọng
nghiên cứu tới vấn đề thái độ trên nhiều đối tượng khác nhau và có nhiều ứng dụng vào
hiệu quả phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Nghiên cứu của tác giả Vũ Dũng với đề tài: “Thái độ và hành vi của người dân
với môi trường”. Quan điểm của tác giả trong đề tài này đó là:
- Thái độ có ảnh hưởng lớn đến của con người đối với môi trường.
- Thái độ với môi trường sẽ quy định một cách thức nhất định cho hành vi của con
người đối với môi trường.
- Thái độ là một thành tố cơ bản tạo nên ý thức của con người đối với môi trường.
Khi thái độ tích cực thì con người sẽ nhận thức rõ hơn sự cần thiết và trách nhiệm của
mình đối với việc bảo vệ môi trường.
Nhiều tác giả nghiên cứu về thái độ học tập của học sinh, sinh viên và bước đầu đã
xác định được vai trò, vị trí của thái độ trong hình thành động cơ học, tính tích cực học
tập, hứng thú học tập. Các tác giả cũng đã cố gắng tìm ra các chỉ báo chi tiết về thái độ
học tập, những vấn đề chung của thái độ như: cấu trúc của thái độ, mối quan hệ của thái
độ với các khái niệm khác.

Như vậy, mảng đề tài về thái độ được khá nhiều tác giả Việt Nam quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên đề tài nghiên cứu về vấn đề chấp hành đúng luật giao thông khi tham gia
giao thông còn ít.
8
1.2. Lý luận về thái độ
1.2.1. Khái niệm thái độ
Mỗi cá nhân khác nhau có những cách nhìn nhận cuộc sống theo cách riêng của
mình, từ đó cũng hình thành các thái độ khác nhau đối với các mặt của đời sống như:
“thái độ làm việc”, “ thái độ học tập”, “ thái độ đối với việc tuân theo các chuẩn mực xã
hội”….Khi đề cập đến thái độ trong các ví dụ trên chúng ta thấy, mọi người thường hiểu
chúng là đạo đức, quan điểm, lối sống của một người trước một số đối tượng nhất định
như: hàng hoá, hay các chủ thể nào đó. Nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp
nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã có sẵn cơ chế tâm lý tạo ra
định hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ có sẵn đó, tri giác về đối tượng, cũng như
tri giác về sự bị chi phối, về vận động thì tri giác gắn liền với tư thế.
Trong Từ điến Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, thái độ được hiểu là “ mặt
biểu hiện bề ngoài của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc gì, thông qua nét mặt, cử chỉ,
lời nói, hành động”. Thái độ còn là “ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo
một hướng trước sự vật hay vấn đề gì”.
Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học xuất bản cho rằng: “Thái độ là tổng thể
nói chung những biểu hiện ra bên ngoài ( bằng nét mặt cử chỉ, lời nói, hành động) của ý
nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề hoặc một
tình hình nào đó.
Trong từ điển Anh - Việt, “Thái độ” được viết là “Attitude” và được định nghĩa là
“ cách ứng xử, quan điểm của một cá nhân”.
Như vậy, các từ điển định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là “ cách ứng xử của
cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”. Nó được cấu thành rất phức tạp,
với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách sử dụng từ ngữ khi định nghĩa về thái độ là
khác nhau.
Còn ở Việt Nam thì khái niệm thái độ thường được các nhà tâm lý học quan niệm

là sự biểu hiện thuộc tính cơ bản của nhân cách, thái độ là một bộ phận cấu thành đồng
thời là một thuộc tính cơ bản của ý thức.
Theo tác giả Nguyễn Khắc Viện thì trước một hiện tượng nhất định, nhiều người
thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối
như đã có sẵn, có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ những
9
thái độ sẵn có, tri giác về đối tượng cũng như tri thức bị chi phối về vấn đề thì thái độ gắn
liền với tư thế ”.
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích các định nghĩa, các cách hiểu về
thái độ của các nhà tâm lý học chúng tôi xin đưa ra cách hiểu của mình về khái niệm thái
độ như sau: “ Thái độ là trạng thái tâm lý chủ quan của cá nhân, sẵn sàng phản ứng theo
một khuynh hướng nhất định ( tích cực hay ngược lại) đối với một đối tượng nào đó,
được thể hiện thông qua nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi của chủ thể trong
những tình huống, những điều kiện cụ thể.”
1.2.2. Đặc điểm của thái độ
Thái độ có 5 đặc điểm:
Thái độ là trạng thái thần kinh của hệ thần kinh
Thái độ là sự sẵn sàng của sự phản ứng
Thái độ là trạng thái có tổ chức
Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ
Thái độ điều khiển và ảnh hưởng tới hành vi
Ngoài ra thái độ còn có những đặc điểm sau:
- Tính phân cực: bất kỳ một thái độ nào cũng được biểu hiện bằng sự đồng tình
hay phản đối, tích cực hay không tích cực.
- Tính ổn định: Thể hiện ở thời gian tồn tại của thái độ, mối quan hệ giữa ba thành
phần của thái độ. Hệ thống thái độ đã hình thành ở người trưởng thành thì đó là thuộc
tính tâm lý khá bền vững.
- Cường độ: là sự thể hiện mạnh hay yếu của thái độ.
- Mức độ: thái độ thể hiện nhiều hay ít, cùng một tính chất nhưng mức độ biểu
hiện có thể là không giống nhau.

Như vậy trong những tình huống, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể thì thái độ tồn tại
như một trạng thái, một tâm thế chủ quan, chi phối sự định hướng, quyết định hành vi
phản ứng của cá nhân được biểu hiện ở hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ ở bên ngoài hay những
xúc cảm bên trong cá nhân. Vì vậy chúng ta phải có cái nhìn vừa khoa học, vừa linh hoạt
khi nghiên cứu và đánh giá về thái độ con người.
1.2.3. Mối quan hệ của thái độ và các khái niệm có liên quan
Thái độ là mặt biểu hiện sinh động nhất của nhân cách con người vì nó gắn liền
10
với thuộc tính sâu xa và nhạy cảm nhất của mỗi cá nhân: nhu cầu, tình cảm, tâm thế,…
khi nhu cầu được thỏa mãn thì người ta có thái độ hài lòng, phấn khởi, ngược lại khi nhu
cầu không được thỏa mãn thì gây ra thái độ khó chịu, bực bội. Do tính phức tạp đó mà
nghiên cứu thái độ phải xem xét đến những biểu hiện đa dạng của nó trong các mối quan
hệ với các khái niệm liên quan đến nó.
- Mối quan hệ giữa thái độ và ý thức cá nhân
Ý thức: “Hình thức phản ánh bậc cao, đặc trưng của loài người, là năng lực nhận
thức được phổ biến và cái bản chất trong hiện thực khách quan đồng thời là năng lực định
hướng, điều khiển một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với hoàn
cảnh tự nhiên xã hội”. Cấu trúc của ý thức gồm ba thành phần: nhận thức, thái độ, và sự
năng động của ý thức.
Chức năng của ý thức là định hướng, điều chỉnh, điều khiển hành vi hoạt động của
con người. Thái độ cũng là một nhận thức, biểu hiện mối quan hệ ngược lại của ý thức
với hiện thực, tuy nhiên không phải lúc nào ý thức cũng điều khiển được thái độ. Thái độ
có thể biểu hiện bột phát không ý thức, thái độ có thể biểu hiện tự nhiên không ý thức, có
thể thiếu ý thức hoặc không ý thức…
Như vậy, thái độ và ý thức có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Thái độ phản ánh các
hiện tượng của thế giới khách quan có chọn lọc, đồng thời là hình thức tác động trở lại
của con người đối với hiện thực. Vì vậy, khi nghiên cứu thái độ phải nghiên cứu thông
qua ý thức và ngược lại.
- Mối quan hệ giữa thái độ và nhu cầu
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của con người cần thỏa mãn để tồn tại và phát triển,

là động lực đầu tiên thúc đẩy con người hoạt động.
Nhu cầu có vai trò quyết định tới sự phát triển của nhân cách, là nền tảng của động
cơ, mục đích của hoạt động thúc đẩy cá nhân hành động để chiếm lĩnh đối tượng. Khi
nhu cầu được thỏa mãn sẽ đồng thời củng cố các thành phần của thái độ con người: quan
điểm, nhận thức, cảm xúc, cách cư xử của đối tượng thỏa mãn nhu cầu.
Do thái độ được hình thành trên cơ sở của nhu cầu và tình huống thỏa mãn nhu
cầu. Vì vậy, nhu cầu là nguồn gốc là cơ sở bên trong của thái độ. Đồng thời phản ánh tính
chất, cường độ, mức độ thỏa mãn, thái độ nhu cầu.
Như vậy, thái độ và nhu cầu có mối quan hệ thân thiết với nhau. Vì thế, khi nghiên
cứu thái độ cũng cần xem xét đến các biểu hiện của nhu cầu.
11
- Mối quan hệ giữa thái độ với hứng thú
Hứng thú là xu hướng chiếm ưu thế của cá nhân nhằm vào đối tượng nào đó có ý
nghĩa trong cuộc sống và tình cảm của nó. Hứng thú là động lực thúc đẩy, duy trì hoạt
động tích cực của cá nhân. Hứng thú là một dạng thái độ đặc biệt, chứa đựng những quan
niệm xúc cảm, cách sử dụng quen thuộc với đối tượng. Vì vậy, biết được cá nhân có hứng
thú đối với đối tượng nào, đồng thời chúng ta biết được thái độ của họ với đối tượng đó.
Hứng thú được hình thành thông qua các quá trình nhận thức: nhận thức ý nghĩa
của đối tượng đối với cá nhân, hình thành cảm xúc tích cực phương thức tác động của cá
nhân với đối tượng. Thái độ của cá nhân thể hiện rõ qua hứng thú. Nếu hứng thú càng
mạnh mẽ, ổn định thì càng củng cố thái độ.
- Mối quan hệ giữa thái độ với hành vi cá nhân
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là phương thức tác động của đối
tượng, có mục đích của con người với hiện thực nhằm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp hay
gián tiếp của bản thân hay xã hội. Tâm lý học xã hội đã xác định hoạt động là một phạm
trù cơ bản, thể hiện tập trung nhất tâm lý con người “ bằng hoạt động trong hoạt động
mỗi cá thể người sinh thành ra mình, tự tạo ra nhân cách của mình”.
Trong mối quan hệ hoạt động – nhân cách – thái độ thì hoạt động là nhân tố trực
tiếp của sự hoàn thành nhân cách quy định thái độ của cá nhân đối với hiện thực. Vì vậy,
thái độ càng được hình thành và phát triển nếu như lĩnh vực được mở rộng, và thái độ

càng được củng cố vững chắc thì càng đảm bảo sự ổn định.
- Mối quan hệ giữa thái độ với tình cảm, xúc cảm
“Xúc cảm tình cảm là sự biểu thị thái độ của cá nhân đối với các hiện tượng xảy ra
trong hiện thực khách quan hay trong cơ thể có liên quan mật đến việc thỏa mãn hay
không thỏa mãn nhu cầu của mỗi người”. Tình cảm là thuộc tính tâm lý ổn định, thể hiện
thái độ của cá nhân đối với hiện thực xung quanh và bản thân.
* Đối với hoạt động của cá nhân
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là phương thức tác động có đối
tượng, có mục đích của con người với hiện thực nhằm thoả mãn nhu cầu trực tiếp hay
gián tiếp của bản thân và xã hội. Tâm lý học hoạt động đã xác định hoạt động là phạm trù
cơ bản, thể hiện tập trung nhất tâm lý của con người bằng hành động, trong hoạt động của
mỗi cá thể sinh thành ra mình tự tạo ra nhân cách của mình.
12
Trong mối quan hệ hoạt động - nhân cách - thái độ thì hoạt động là nhân tố trực tiếp
của sự hình thành nhân cách quy định thái độ của cá nhân đối với hiện thực. Vì vậy, thái
độ càng được hình thành và phát triển nếu như lĩnh vực hoạt động được mở rộng. và thái
độ càng được củng cố vững chắc thì càng bảo đảm sự ổn định bền vững của hoạt động.
* Đối với lý tưởng
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp, được phản ánh vào trong đầu óc của con người dưới
hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ
cuộc sống của cá nhân trong một thời gian tương đối lâu dài vào hoạt động để vươn tới
nó. Lý tưởng vừa mang tính nhận thức sâu sắc, vừa là một tình cảm mãnh liệt và là một
trong những động cơ thúc đẩy con người ta hoạt động. Tính chất của lý tưởng:
- Lý tưởng mang tính chất xã hội, tính lịch sử và giai cấp
- Lý tưởng mang tính chất lãng mạn
- Lý tưởng còn mang tính chất hiện thực. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến tính chất hiện thực của lý tưởng được thể hiện ở 2 mặt sau:
+ Mục tiêu lý tưởng được cá nhân xây dựng trên cơ sở chất liệu của những hình ảnh
từ hiện thực.
+ Khác với ước mơ, lý tưởng bao giờ cũng được xác định bởi sự nhận thức sâu sắc

về những điều kiện chủ quan và khách quan của cá nhân trong quá trình vươn tới để đạt
được mục tiêu. Nhưng ở mức độ nhất định ước mơ chính là mầm mống của sự hình thành
lý tưởng. Vì vậy không được coi thường việc xây dựng ước mơ, hoài bão lớn lao của tuổi
trẻ (đặc biệt là lý tưởng nghề nghiệp)
1.3. Lý luận về thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ khi
đi mô tô, xe máy.
1.3.1. Khái niệm về thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông đường bộ
* Khái niệm Luật
Luật là hệ thống phép tắc, lề lối quy định tổ chức xã hội và hành vi của cá nhân
trong xã hội do Quốc hội định ra và được Nhà nước ban hành.
* Khái niệm giao thông
Giao thông là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên
chở.
* Khái niệm luật giao thông
13
Luật giao thông là hệ thống các phép tắc lề lối do Quốc hội và Nhà nước đưa ra
cho mọi người trong quá trình tham gia sử dụng công trình giao thông, nhằm đảm bảo an
toàn về người, phương tiện và tài sản của Nhà nước và nhân dân trong qúa trình tham gia
giao thông.
* Khái niệm luật giao thông đường bộ
Luật giao thông đường bộ là hệ thống các phép tắc, lề lối do Quốc hội và Nhà
nước đưa ra cho người, phương tiện trong quá trình tham gia hoạt động và sử dụng các
công trình giao thông đường bộ và giao thông đô thị nhằm đảm bảo an toàn về người,
phương tiện, tài sản của nhà nước và nhân dân.
Nói một cách khái quát hơn, luật giao thông đường bộ là một loại chuẩn mực pháp
luật thuộc phạm trù chuẩn mực xã hội, là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, tạo
hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác đảm bảo an toàn giao thông ở nước ta.
Quốc hội khoá XII kỳ họp thứ 4 ngày 13 tháng 11 năm 2008 đã thông qua “ Luật
giao thông đường bộ”, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 để thay thế cho
luật Giao thông đường bộ thông qua ngày 29/6/2001.

Cấu trúc của Luật giao thông đường bộ: Luật giao thông đường bộ ngoài phần nói
đầu, Luật có 08 chương với 89 Điều:
Chương I từ Điều 1 đến Điều 8 đề cập tới “Những quy định chung”.
Chương II từ Điều 9 đến Điều 38, nêu “ Quy tắc giao thông đường bộ”.
Chương III từ Điều 39 đến Điều 52 quy định “ Kết cấu hạ tầng giao thông đường
bộ”.
Chương IV từ Điều 53 đến Điều 57 đề cập “ Phương tiện tham gia giao thông
đường bộ”.
Chương V từ Điều 58 đến Điều 63 quy định “ Người điều khiển phươnng tiện
tham gia giao thông đường bộ”.
Chương VI nói về vận tải đường bộ trong đó:
- Mục 1 nói về Hoạt động vận tải đường bộ bao gồm từ Điều 64 đến Điều 81.
- Mục 2 từ Điều 82 đến Điều 83 đề cập Dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ.
Chương VII từ Điều 84 đến Điều 87 quy định Quản lý nhà nước về giao thông
đường bộ.
Chương VIII từ Điều 88 đến Điều 89 quy định Điều khoản thi hành.
14
Đối tượng áp dụng của luật giao thông đường bộ : Luật giao thông đường bộ áp
dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động, sinh sống trên lãnh thổ nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà nước
CHXHCNVN ký kết hoặc tham gia có quy định khác với Luật này thì áp dụng quy định
của Điều ước quốc tế đó.
Và như vậy, Luật GTĐB cũng áp dụng đối với đối tượng sinh viên, trong đó có
sinh viên của trường Đại học Tài chính Marketing – khách thể nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ bao gồm: Quy định quy tắc
giao thông đường bộ, các điều kiện đảm bảo an toàn GTĐB của kết cấu hạ tầng, phương
tiện và người tham gia GTĐB, hoạt động vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về
GTĐB.
* Khái niệm về thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe
máy

Thái độ đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy là trạng thái
tâm lý chủ quan sẵn sàng phản ứng theo một khuynh hướng nhất định ( tích cực hay tiêu
cực) đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy.
1.3.2. Thái độ của sinh viên khoa KTKTva QTKD của trường Đại học Tài
chính – Marketing đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy.
1.3.2.1. Khái niệm về sinh viên
Từ điển tiếng Việt có định nghĩa sinh viên như sau: Sinh viên là người học ở bậc
đại học ( từ điển tiếng việt – NXB Đà Nẵng – 1998).
Trong tiếng Anh từ sinh viên là Student, trong tiếng Pháp là Etudiant: nghĩa là
người học tập tận tâm, người nhiệt tình tìm hiểu tri thức. Như vậy có thể hiểu sinh viên là
người đang học ở bậc đại học và cao đẳng đã trưởng thành về mặt thể chất, xã hội, tâm lí
và vượt qua kỳ thi tuyển với yêu cầu mang tính quốc gia, ngành nghề rõ ràng, có độ tuổi
từ 18 đến 25. Họ là nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất
hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt này là nguồn bổ sung cho đội ngũ tri thức.
Đây là lực lượng lao động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào các hoạt
động đa dạng có ích cho xã hội.
1.3.2.2. Khái niệm thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông
khi đi mô tô, xe máy.
15
Từ những khái niệm trên về thái độ chúng tôi rút ra khái niệm thái độ của sinh
viên đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy: “Thái độ của sinh viên
đối với việc chấp hành luật giao thông khi khi đi mô tô, xe máy là trạng thái tâm lý chủ
quan của họ sẵn sàng phản ứng theo một khuynh hướng nhất định ( tích cực hay tiêu
cực) đối với việc chấp hành luật giao thông khi khi đi mô tô, xe máy. Thái độ của sinh
viên đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy được thể hiện thông qua
nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi của họ trong những tình huống, những điều
kiện nhất định”.
Đây là khái niệm then chốt của đề tài, từ khái niệm này chúng tôi tiến hành tổ
chức nghiên cứu tìm hiểu thái độ của sinh viên ở trường Đại học Tài chính – Marketing
đối với việc chấp hành luật giao thông khi tham gia giao thông.

1.3.2.3. Các mặt biểu hiện của thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành
luật giao thông khi đi mô tô, xe máy.
Thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông khi tham gia giao
thông là một thuộc tính bên trong trọn vẹn của ý thức tự giác, tích cực của sinh viên đối
với việc tìm hiểu, tuân thủ các quy định về nghĩa vụ và vai trò của người điều khiển
phương tiện khi tham gia giao thông. Hoặc những hành vi tiêu cực như không chấp hành,
cố ý chống đối lại luật… Chúng được biểu hiện ra bên ngoài thông qua nhận thức, xúc
cảm – tình cảm và hành vi tuân thủ và châp hành luật giao thông của sinh viên.
- Về mặt nhận thức: là quá trình các sinh viên tìm hiểu, học hỏi những kiến thức
về các quy định của luật lệ giao thông đem lại cho mình những hiểu biết nhất định.
Những hiểu biết đó có thể chính xác hoặc chưa chính xác nhưng điều quan trọng là phải
có hiểu biết về nó và từ đó hình thành thái độ cho mình và những nhận thức đó thúc đẩy
như thế nào đến hành vi của họ.
- Về mặt xúc cảm – tình cảm: thực hiện vai trò như là động cơ của hoạt động. Đối
với việc chấp hành luật lệ giao thông thì nó được biểu hiện thông qua việc họ thể hiện
cảm xúc ra sao và mức độ nào đối với việc chấp hành luật ( tích cực hay tiêu cực). Việc
họ thể hiện những cảm xúc như vậy ảnh hưởng như thế nào đối với hành vi của mình.
- Về mặt hành vi: Hành vi là sự biểu hiện ra bên ngoài thái độ của cá nhân với đối
tượng, thông qua hành vi mà chúng ta đoán biết được đối tượng. Vì vậy thông qua những
biểu hiện hành vi của sinh viên khi tham gia giao thông chúng ta có thể nhận biết được
16
thái độ của họ khi tham gia giao thông. Trước những nhận thức về luật lệ giao thông như
vậy thì họ thể hiện qua hành vi như thế nào? Có đồng nhất với nhận thức hay không.
1.3.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với việc chấp
hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy.
* Yếu tố môi trường: Môi trường là yếu tố quan trọng trong việc hình thành nhân
cách con người, nó có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, hành vi của mọi người. Những
khuôn mẫu, cách sống, cách sinh hoạt, hành vi tham gia giao thông của mọi người xung
quanh có tác động rõ rệt đến cách nhìn nhận và hành vi của chủ thể. Đồng thời những yếu
tố này có thể mang tính bền vững khó xóa bỏ.

* Yếu tố học tập: Học tập đóng vai trò quan trọng, con người học tập những tri thức
khoa học đúng đắn, học tập các hành vi ứng xử của người khác nhằm ngày càng nâng cao
khả năng nhận thức của mình, biến nó thành cái của mình.
* Yếu tố truyền thông (các phương tiện thông tin đại chúng): Sự tiếp cận của sinh
viên với các phương tiện thông tin đại chúng như đài, sách báo, áp phích quảng cáo có
nội dung liên quan đến an toàn giao thông như thế nào? Những nội dung tiếp thu được
của họ là đúng hay sai…Những yếu tố này có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến thái
độ tham gia giao thông của sinh viên. Vì vậy muốn thay đổi nhận thức thái độ của sinh
viên thì việc tác động vào yếu tố truyền thông cũng mang hiệu quả rất lớn.
Ngoài ra còn có ảnh hưởng của các cơ chế tâm lý xã hội như:
Cơ chế bắt chước: Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành động, hành vi,
tâm trạng, cách thức suy nghĩ, ứng xử của một người hay một nhóm người nào đó. Người
ta bắt chước thái độ hành động của nhau và dần dần có thể hình thành nên thái độ của
mình trước sự vật hiện tượng.
Cơ chế lây lan: Đây là một hiện tượng khi con người ở trong một nhóm xã hội
nhất định, nó gắn liền với hiện tượng lan truyền các tình cảm, xúc cảm, khi con người
hấp thụ các tình cảm, xúc cảm của người khác. Tương tự, khi ở trong một nhóm xã hội,
nhiều người có thái độ phản đối lên án, có cảm xúc thì có thể lây lan cảm xúc sang người
khác và họ cũng có thái độ như vậy.
Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề thái độ đối với việc chấp hành luật giao
khi đi mô tô, xe máy của sinh viên ở khoa KTKT và QTKD trường Đại học Tài chính –
Marketing, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
17
- Thái độ là một vấn đề được nhiều người quan tâm và nghiên cứu đến nó, không
chỉ những công trình nghiên cứu nổi tiếng của các nhà tâm lý học nước ngoài mà cả
những nghiên cứu ở Việt Nam. Có nhiều định nghĩa khác nhau được trình bày và từng
bước các nhà nghiên cứu đã làm sáng tỏ cấu trúc, chức năng, cơ chế hình thành thái độ.
Kết quả cho thấy “thái độ” là một vấn đề phức tạp, do đó có rất nhiều quan điểm khác
nhau về thái độ. Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ, song

phần lớn các nhà tâm lý học đều nhất trí với cấu trúc 3 thành phần của thái độ là nhận
thức, xúc cảm, hành vi.
Thái độ là trạng thái tâm lý chủ quan của cá nhân, sẵn sàng phản ứng theo một
khuynh hướng nhất định (tích cực hay ngược lại) đối với một đối tượng nào đó, được thể
hiện thông qua nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi của chủ thể trong những tình
huống, những điều kiện cụ thể.
Thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy
là trạng thái tâm lý chủ quan của họ sẵn sàng phản ứng theo một khuynh hướng nhất định
( tích cực hay tiêu cực) đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy. Thái
độ của sinh viên đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy được thể
hiện thông qua nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi của họ trong những tình huống,
những điều kiện nhất định.
- Nghiên cứu thái độ đối với việc chấp hành luật giao khi đi mô tô, xe máy của
sinh viên từ đó có biện pháp hình thành thái độ tích cực đối với việc chấp hành luật giao
thông khi đi mô tô, xe máy là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI VIỆC CHẤP HÀNH
LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ KHI ĐI MÔ TÔ, XE MÁY
CỦA SINH VIÊN KHOA KTKT VÀ QTKD TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÀI CHÍNH – MARKETING
18
2.1. Phân tích thái độ của sinh viên trong việc chấp hành luật giao thông:
2.1.1 TĐ chung của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp hành luật giao
thông khi đi mô tô, xe máy:
Nghiên cứu thực trạng thái độ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc
chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy, chúng tôi kết hợp phương pháp điều tra
viết đối với 306 sinh viên khoa KTKT và QTKD, lấy ý kiến đánh giá. Với tư cách là nhà
nghiên cứu, tổng hợp ý kiến tự đánh giá của sinh viên theo tiêu chí thống nhất do chúng
tôi xây dựng tại chương 2, kết quả thu được như sau:
Bảng 2.1: TĐ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp hành luật

giao thông khi đi mô tô, xe máy (Kết quả xử lý chung)
Đánh giá
của sinh
viên
Xếp loại
A B C Tổng cộng
TSĐ ĐTB TB
SL % SL % SL % SL %
Nhận thức
198 64.7 108 35.3 0 0 306 100 810 2.65 1
Tình cảm
185 60.5 114 37.3 7 2.2 306 100 790 2.58 2
Hành vi
161 52.6 144 47.1 1 0.3 306 100 772 2.52 3
Tổng hợp
166 54.3 139 45.4 1 0.3 306 100 777 2.54
Kết quả tại bảng 2.1 cho thấy: Đa số sinh viên khoa KTKT và QTKD được chọn
nghiên cứu có TĐ tích cực đối với đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe
máy Tuy nhiên, bên cạnh những sinh viên có thái độ tích cực và tương đối tích cực đối
với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy thì vẫn còn những sinh viên có
thái độ chưa tích cực.
- Về thứ bậc các thành phần của thái độ (nhận thức, tình cảm, hành vi):
+ Nhận thức xếp thứ hạng cao nhất với điểm trung bình là 2.65
+ Tình cảm xếp thứ hạng 2 (2.58 điểm)
+ Hành vi xếp thứ hạng thấp nhất (2.52 điểm)
- Về mức độ của thái độ:
+ Ở mức độ A: Nhận thức chiếm tỉ lệ cao nhất (64.7%) trong khi hành vi là
52.6%, xúc cảm, tình cảm chiếm 60.5%.
+ Ở mức độ B: Hành vi chiếm tỉ lệ cao nhất (47.1%), tình cảm là 37.3%, nhận
thức thấp hơn với tỉ lệ là 35.3%.

19
+ Ở mức độ C: Tình cảm chiếm tỉ lệ cao nhất là 2.2%, hành vi là 0.3% và không
có sinh viên nào xếp loại nhận thức ở mức độ này.
Như vậy, có thể nói mặc dù sinh viên đã có nhận thức tốt, có xúc cảm tình cảm
tích cực nhưng chưa chuyển biến thành hành vi tích cực.
2.1.1.1. So sánh TĐ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp hành luật
giao thông khi đi mô tô, xe máy:
Bảng 2.2: Bảng so sánh TĐ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp
hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy (Kết quả xử lý theo khoa)
Khoa Đánh giá
của sinh
viên
Xếp loại
A B C
Tổng
cộng
TSĐ ĐTB TB
SL % SL % SL % SL %
Nhận
thức
105 66 54 34 0 0 159 100 423 2.66 1
Tình cảm 101 63.5 52 32.7 6 3.8
159 100
413 2.59 2
Hành vi 84 52.8 75 47.2 0 0
159 100
402 2.53 3
Tổng
hợp
91 57.2 68 42.8 0 0

159 100
409 2.57
Xếp loại
A B C Tổng
cộng
TSĐ ĐTB TB
20
SL % SL % SL % SL %
Nhận
thức
93 63.3 54 36.7 0 0
147
100 387 2.63 1
Tình cảm 84 57.1 62 42.2 1 0.7
147 100
377 2.56 2
Hành vi 77 52.4 69 46.9 1 0.7
147 100
370 2.52 3
Tổng
hợp
75 51 71 48.3 1 0.7
147 100
368 2.50
Qua bảng 2.2: Đa số sinh viên khoa KTKT và QTKD được chọn nghiên cứu có TĐ
tích cực đối với đối với việc chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy. Tuy nhiên
giữa sinh viên khoa KTKT và QTKD vẫn có sự khác biệt, thái độ của sinh viên KTKT
tích cực hơn sinh viên QTKD.
So sánh về thứ bậc các thành phần của thái độ (nhận thức, tình cảm, hành vi) giữa
khoa KTKT và QTKD cho thấy:

+ Nhận thức của sinh viên KTKT chiến tỉ lệ cao hơn so với sinh viên QTKD (2.66
so với 2.63)
+ Tình cảm của sinh viên KTKT cũng chiến tỉ lệ cao hơn so với sinh viên QTKD
(2.59 so với 2.56)
+ Hành vi của sinh viên KTKT và sinh viên QTKD chiếm tỉ lệ ngang nhau lần
lượt là 2.53 và 2.52.
2.1.1.2 So sánh TĐ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp hành luật
giao thông khi đi mô tô, xe máy (Kết quả xử lý theo giới tính)
Bảng 2.3: Bảng so sánh TĐ của sinh viên nam khoa KTKT và QTKD đối với việc
chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy (Kết quả xử lý theo giới)
Khoa
SV
Các
mặt
của

Xếp loại
A B C
Tổng
cộng
TSĐ ĐTB
TB
SL % SL % SL % SL %
QT
KD
Nam
Nhận
thức
53 66.3 27 33.7 0 0 80 100 213 2.66 1
Tình

cảm
49 61.3 30 37.5 1 1.2 80 100 208 2.60 2
Hành
vi
40 50 39 48.8 1 1.2 80 100 199 2.49 3
21
Tổng
hợp
39 48.8 40 50 1 1.2 80 100 198 2.48
KTKT
Nam
Nhận
thức
49 65.3 26 34.7 0 0 75 100 199 2.65 1
Tình
cảm
46 61.3 23 30.7 6 8
75
100 189 2.52 2
Hành
vi
38 50.7 37 49.3 0 0
75
100 188 2.51 3
Tổng
hợp
40 53.3 35 46.7 0 0
75
100 190 2.53
Qua bảng 2.3 cho thấy sinh viên nam của KTKT có thái độ tích cực hơn (53.3%)

so với nam sinh viên của QTKD (48.8%). So sánh về thứ bậc các thành phần của thái độ
(nhận thức, tình cảm, hành vi) giữa nam sinh viên khoa KTKT và QTKD cho thấy:
+ Nhận thức của sinh viên nam QTKD và nam KTKT chiếm tỉ lệ ngang nhau
(2.66 so với 2.65)
+ Tình cảm của sinh viên nam QTKD cũng chiến tỉ lệ cao hơn so với sinh
viên nam KTKT (2.60 so với 2.52)
+ Tuy nhiên hành vi của nam sinh viên KTKT lại cao hơn nam sinh viên
QTKD (2.51 so với 2.49).
Bảng 2.4: Bảng so sánh TĐ của sinh viên nữ khoa KTKT và QTKD đối với việc
chấp hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy (Kết quả xử lý theo giới)
Khoa
SV
Các
mặt
của

Xếp loại
A B C
Tổng
cộng
TSĐ ĐTB
TB
SL % SL % SL % SL %
QT
KD
Nữ
Nhận
thức
40 59.7 27 40.3 0 0 67 100 174 2.59 1
Tình

cảm
39 58.2 28 41.8 0 0
67
100 173 2.58 2
Hành
vi
37 55.2 30 44.8 0 0
67
100 171 2.55 3
Tổng
hợp
36 53.7 31 46.3 0 0
67
100 170 2.54
KTKT
Nữ
Nhận
thức
56 66.7 28 33.3 0 0 84 100 224 2.67 1
Tình 55 65.5 29 34.5 0 0 84 100 223 2.65 2
22
cảm
Hành
vi
46 54.8 38 45.2 0 0
84
100 214 2.55 3
Tổng
hợp
51 60.7 33 39.3 0 0

84
100 219 2.61
Qua bảng 2.4 cho thấy sinh viên nữ của KTKT có thái độ tích cực hơn (60.7%) so
với nữ sinh viên của QTKD (53.7%). So sánh về thứ bậc các thành phần của thái độ
(nhận thức, tình cảm, hành vi) giữa nữ sinh viên khoa KTKT và QTKD cho thấy:
+ Nhận thức của sinh viên nữ KTKT chiếm tỉ lệ cao hơn so với nữ QTKD
(2.67 so với 2.59)
+ Tình cảm của sinh viên nữ KTKT chiếm tỉ lệ cao hơn so với nữ QTKD
(2.65 so với 2.58)
+ Tuy nhiên ở mặt hành vi thì giữa nữ sinh viên KTKT và nữ QTKD lại có sự
giống nhau (2.55).
2.1.2. So sánh biểu hiện thái độ của sinh viên khoa KTKT và QTKD đối với việc chấp
hành luật giao thông khi đi mô tô, xe máy thể hiện qua các mặt
2.1.2.1 So sánh thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành đúng luật giao thông khi đi
mô tô xe máy thể hiện qua mặt nhận thức
* Thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành đúng luật giao thông khi đi mô tô
xe máy thể hiện qua mặt nhận thức về việc chấp hành luật giao thông, giấy tờ phải mang
theo, quy định của luật giao thông, ý nghĩa của các biển báo.
Việc sinh viên chấp hành đúng luật lệ giao thông khi tham gia giao thông (câu 1). Các
loại giấy tờ cần có khi điểu khiển phương tiện (câu 5). Những quy định của luật giao
thông (câu 8). Ý nghĩa của các loại biển báo (câu 11).
Bảng 2.5: Thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành đúng luật giao thông khi
đi mô tô xe máy thể hiện qua mặt nhận thức (Kết quả chung)
23
Qua bảng 2.5 ta nhận thấy:
- Đa số các bạn sinh viên khoa KTKT và QTKD khi được điều tra đạt mức độ
nhận thức tốt (Loại A) và nhận thức khá (Loại B), có 64.7% sinh viên đạt mức loại A và
35.3% sinh viên đạt mức loại B. Trong các mặt nhận thức, sinh viên nhận thức tốt nhất sự
cần thiết của việc chấp hành luật giao thông, tiếp đến là các quy định của luật, nhận thức
về các loại giấy tờ phải mang theo và cuối cùng là ý nghĩa của các loại biên báo. (Xem

bảng phụ lục 3.3)
* Thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành đúng luật giao thông khi đi mô tô
xe máy thể hiện qua mặt nhận thức về việc chấp hành luật giao thông, giấy tờ phải mang
theo, quy định của luật giao thông, ý nghĩa của các biển báo.
Bảng 2.6. Bảng so sánh thái độ của sinh viên đối với việc chấp hành đúng luật
giao thông khi đi mô tô xe máy thể hiện qua mặt nhận thức về việc chấp hành luật giao
thông, giấy tờ phải mang theo, quy định của luật giao thông, ý nghĩa của các biển báo
(Kết quả xử lí theo khoa).
Nội dung nhận
thức về:
Xếp loại
A B C Tổng cộng
TSĐ ĐTB
TB
SL % SL % SL % SL %
Sự cần thiết của
việc chấp hành
luật giao thông
275 89.9 31 10.1 0 0 306 100 887 2.89
1
Luật giao thông 217 70.9 89 29.1 0 0 306 100 829 2.71
2
Tổng hợp các ý
kiến
198 64.7 108 35.3 0 0 306 100 810 2.65
24
Khoa
Nội dung
nhận thức
về:

Xếp loại
A B C Tổng cộng TSĐ ĐTB TB
SL % SL % SL % SL %
QTKD
Sự cần
thiết của
việc chấp
hành luật
127 86.4 20 13.6 0 0 147 100 421 2.86 1
Luật giao
thông
98 66.7 49 33.3 0 0 147 100 392 2.67 2
KTKT
Sự cần
thiết của
việc chấp
hành luật
148 93.1 11 6.9 0 0 159 100 466 2.93 1
Luật giao
thông
119 74.8 40 25.2 0 0 159 100 437 2.75 2
Qua bảng 2.6 chúng tôi phân tích, thống kê về nhận thức của sinh viên khoa
KTKT và QTKD, thu được kết quả sau:
- Nhận thức về sự cần thiết của việc chấp hành luật giao thông giữa sinh viên
khoa KTKT và QTKD có sự khác nhau thể hiện ở tỷ lệ sinh viên đạt mức độ loại A
(Nhận thức tốt) của khoa KTKT chiếm tỷ lệ cao hơn sinh viên của khoa QTKD (93.1%
so với 86.4%).
- Nhận thức về việc chấp hành các quy định của luật, giữa sinh viên khoa QTKD
và khoa KTKT cũng có sự khác nhau thể hiện ở tỷ lệ sinh viên đạt mức độ loại A (Nhận
25

×