LUẬN VĂN:
Kinh tế biển ở Nghệ An trong hội
nhập kinh tế quốc tế
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trên thế giới có 151 quốc gia ven biển, vùng biển rộng gần 109 triệu km
2
,
biển được các nước xác định là vùng đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lý theo
công ước quốc tế. Biển đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia có biển, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền. Bên cạnh đó
tài nguyên trên đất liền ngày một cạn kiệt, còn các tài nguyên, khoáng sản ở biển gần như
nguyên thuỷ, vì vậy các quốc gia có biển đều có chiến lược phát triển hướng ra biển, tăng
cường tiềm lực để khai thác và khống chế biển.
Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh
tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km
2
, thêm vào đó là đặc điểm không phải quốc
gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển hở thông với Đại Dương. Vì thế,
Việt Nam không những có nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái
tạo và không tái tạo phong phú, quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà còn là cơ hội
giao thương với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong
đó phát triển ngành hải sản, hàng hải, giao thông vận tải biển, các công trình ven biển,
các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế.
Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội trong đó có chiến lược kinh tế biển những
năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đầy
thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA)
và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chiến lược kinh tế biển
của Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối
đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc phòng, tạo thế và lực
để phát triển mạnh kinh tế -xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển Tổ quốc. Để đạt được
mục tiêu đó thì một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ cấu kinh tế vùng
hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng ngập mặn và ven biển, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát triển thương mại-hàng hải trong một chương
trình liên kết các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa
phương thức), kéo theo đó là công nghiệp đóng tàu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, xây
dựng cảng biển và dịch vụ cảng biển, tạo nên cơ cấu kinh tế công nghiệp ven biển hiện đại,
nơi có số lượng và cường độ giao dịch thương mại-hàng hải diễn ra hết sức lớn.
Là quốc gia nằm bên bờ biển Đông, nước ta có vùng biển rộng 1 triệu km
2
, dài
3.260 km trải dài ở cả ba hướng Đông, Nam và Tây Nam. Ven bờ biển nước ta gần 300
đảo lớn nhỏ với diện tích 1.700 km
2
gồm 2 quần đảo lớn là Trường Sa và Hoàng Sa. Biển
Đông Việt Nam là con đường chiến lược và giao lưu thương mãi quốc tế giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, tài nguyên, khoáng sản phong phú và đa dạng là điều kiện
thúc đẩy khai thác hiệu quả các nguồn lợi từ biển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH đất
nước.
Từ lợi thế vị trí địa lý, vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
nước ta là hết sức quan trọng. Ngày 5/6/1993 Bộ Chính Trị ra Nghị Quyết 03- NQ/TƯ về
một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt - trong đó khẳng định
đẩy mạnh kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ngày
22/9/1997 Bộ Chính trị ban hành chị thị số 20-CT/TƯ đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
theo hướng CNH, HDH. Cho đến Hội nghị lần thu IV Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá X đã thông qua Nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Như vậy,
bây giờ chúng ta nhìn về kinh tế biển một cách toàn diện hơn.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; phát huy vai trò của biển và
vùng ven biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh- quốc phòng, Nghệ
An là một tỉnh có biển hải phận rộng 4.230 hải lý vuông. Có chiều dài bờ biển hơn 82km
trải dài từ Quỳnh Lập-Quỳnh Lưu cho đến Cửa hội - Cửa Lò. Bờ biển có nhiều kiểu địa
hình phức tạp bình quân cứ 20 km có một cửa sông, đầm phá vũng vịnh nhỏ. Biển Nghệ
An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Vùng ven biển Nghệ An
thuộc 5 huyện, thị thành phố: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Thị
xã Cửa Lò. đảo Mắt, đảo Ngư nằm giữa biển có hệ sinh thái đặc trưng của biển và vùng
ven biển đối với phát triển kinh tế - xã hội về trí chiến lược an ninh, quốc phòng của
Tỉnh, ngày 12/2/2007 Tỉnh uỷ Nghệ an ban hành NQ 16 về ”chương trình hành động,
phối hợp các ngành, nghề phát triển kinh tế biển”. Từ thực tế trên, vấn đề "Kinh tế biển
ở Nghệ An trong hội nhập kinh tế quốc tế" được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ
kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2 Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/05/1993 Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 03 - NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước
mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng
cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; Ngày 22/9/1997 Bộ Chính trị ban
hành Chỉ thị số 20-CT/TW về mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá
hiện đại hoá. Từ những quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X đã thông qua nghị quyết về Chiến lược phát triển biển Việt
Nam đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, biển, đảo góp phần qua trọng trong sự nghiệp,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh.
Vấn đề của kinh tế biển là chủ đề mới được đề cập gần đây, do đó số công trình
nghiên cứu chưa nhiều, chưa đa dạng chủ yếu chỉ đề cập những dạng sau:
- Thông tin chuyên đề số 08, ngày 25/12/2006 của văn phòng Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam về "Chiến lược và mô hình quản lý biển của một số nước".
- Tạp chí Cộng Sản số 20, ngày 25/9/2007 "Về kinh tế biển".
- Tạ Quang Ngọc, "Để Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về biển và giàu lên
từ biển", Tạp chí Cộng sản, tháng 7/2007.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2007) về "Biển và hải đảo Việt Nam".
- Đỗ Hoài Nam (2003), "Phát triển kinh tế - xã hội và môi trường các tỉnh ven biển
Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Cao Đoàn (1999), "Đổi mới phát triển kinh tế ven biển", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Mai Văn Ngọc (2008), "Phát triển ngành thuỷ sản Quảng Bình theo hướng bền
vững", Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bon (2008), "Kinh tế biển Sóc Trăng", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội.
- Dương Văn Hồng (2008), "Kinh tế biển Trà Vinh", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Mặc dù thời gian qua không ít đề tài nghiên cứu kinh tế biển ở nhiều khía cạnh khác
nhau, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu kinh tế biển
Nghệ An trên phương diện kinh tế chính trị. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không
trùng với các công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của phát triển kinh tế biển nói chung,
đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy tiềm năng, lợi thế để phát
triển kinh tế biển của Nghệ An trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kinh tế biển; đánh
giá thực trạng phát triển kinh tế biển của Nghệ An thời gian qua; đề xuất phương hướng,
giải pháp để phát triển kinh tế biển Nghệ An trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới,
giai đoạn 2009 - 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chú trọng nghiên cứu vấn đề phát triển kinh tế biển Nghệ An trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế biển ở một số
địa bàn như: Thị xã Cửa Lò, Huyện Nghi Lộc, Huyện Diễn Châu, Huyện Quỳnh Lưu
trong khoảng thời gian từ 2003 - 2008.
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý của Chủ Nghĩa Mác- lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm, Nghị quyết cùng với những tổng kết kinh nghiệm của Đảng về kinh tế biển và
kế thừa chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng – lịch sử, luận văn chú trọng sử
dụng các phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lô gích với lịch sử, tổng hợp và
phân tích, so sánh
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ sở chủ yếu của phát triển kinh tế biển;
Khái quát những thành tựu, hạn chế phát triển kinh tế biển của Nghệ An trong thời
gian qua;
Đề xuất phương hướng và giải pháp có tính khả thi để phát triển kinh tế biển Nghệ
An, giai đoạn đến 2015và tầm nhìn 2020.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ BIỂN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Một số khái niệm
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là" thế kỷ của biển và Đại dương". Trong
điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày bị cạn kiệt, không gian kinh tế
truyền thống đã trở nên không còn phù hợp nữa, nhiều quốc gia bắt đầu có chiến lược
quay ra biển và định hình các phương án chiếm biển và khống chế biển, khai thác các
nguồn lợi từ biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới, để tìm kiếm và
bảo đảm các nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn
trong tương lai.
Với việc phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, Nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật
tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Ngày 2 tháng 8
năm 1977, Hội thảo khoa học về biển lần thứ nhất được tổ chức tại Nha Trang đã nêu rõ
phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật về biển và kinh tế
biển. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta đã có một số Nghị
quyết, chính sách phát triển kinh tế biển - Đặc biệt quan trọng nhất phải kể đến Nghị
quyết số 03-NQ/TW, ngày 06/05/1993 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ phát triển
kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia” - trong đó nhấn
mạnh nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái biển, phấn đấu trở thành một
quốc gia mạnh lên từ biển và giàu lên từ biển vào những năm 2020; Ngày 22/9/1997, Bộ
Chính trị đã ban hành chị thị số 20-CT/TW về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo
hướng CNH, HĐH” chủ trương phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh lên từ biển,
đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội biển đảo và ven biển kết hợp với yêu cầu
bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia Như vậy, phát triển kinh tế biển đã được đặt trong
tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới.
Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc,
cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc ta. Lấn biển để dựng
nước đồng thời thông qua biển để giữ lấy nước đây là nét độc đáo trong bản sắc văn hoá
Việt Nam cần được giữ gìn và phát huy trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Công ước năm 1982, vùng biển của nước ta được mở rộng lên đến gần một triệu
km
2
, tiếp giáp với năm vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau. Tuy nhiên, do tính đặc
thù của môi trường biển nên mọi hoạt động của kinh tế biển đều liên quan mật thiết và
chịu sự tác động của đất liền, không thể tách rời kinh tế biển ra khỏi kinh tế đất liền. Vì
vậy, khi xem xét kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở một mức độ,
khía cạnh cần thiết. Do vậy, việc thống nhất trong quan niệm chung về biển, kinh tế biển
và kinh tế vùng ven biển là cần thiết để nghiên cứu nội hàm của chúng.
Theo nghĩa chung nhất và theo truyền thống, biển được quan niệm là một vùng
nước mặn rộng lớn nối liền với các Đại dương, hoặc là các hồ nước mặn có thông với Đại
Dương một cách tự nhiên; đôi khi, biển chỉ là một hồ nước ngọt được khép kín hoặc có
đường thông tự nhiên ra các biển cả lớn. Trong đời sống thông thường biển được hiểu
như một từ đồng nghĩa với Đại Dương hoặc là các vùng nước Đại Dương nói chung [12].
Mặc dù vậy, cái được gọi là kinh tế biển – về mặt khái quát có thể hiểu, bao gồm:
Thứ nhất, toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển như kinh tế hàng hải (vận
tải biển và dịch vụ cảng biển), đánh bắt và nuôi trồng hải sản, khai thác dầu khí ngoài
khơi, du lịch biển, làm muối, dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển, kinh tế đảo
Thứ hai, nó bao gồm cả các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác biển, mặc dù
không hoàn toàn diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này lại liên quan đến yếu tố
của biển hay trực tiếp phục vụ cho kinh tế biển ở vùng ven biển – thông thường đó là
hoạt động đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp vào kinh tế hàng
hải), công nghiệp chế biến dầu, khí, công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản, cung cấp dịch vụ
biển, thông tin liên lạc (biển), nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực
phục vụ kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển
Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển lại bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh
tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hay các
tỉnh tiếp giáp biển - có địa giới tiếp giáp biển) bao gồm cả lĩnh vực nông lâm, ngư
nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn đó.
Như vậy, kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế được diễn ra trên biển và ở
đất liền nhưng có liên quan trực tiếp cho hoạt động khai thác các nguồn lợi kinh tế từ
biển.
Từ những định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu chúng ta thấy đặc trưng của kinh tế
biển khác với các ngành khác, so với một số ngành kinh tế khác. Vì kinh tế biển luôn
mang những tính chất kinh tế đặc thù, mang tính chất đa ngành, đa lĩnh vực: Bao gồm
nhiều ngành, nghề khác nhau, có quan hệ tác động qua lại lệ thuộc lẫn nhau.
1.1.2. Sự cần thiết phát triển kinh tế biển trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Những tất yếu bên trong
Nước ta với diện tích đất liền không lớn, mật độ dân số cao, đặc biệt ở vùng đồng bằng
sông Hồng và các đô thị; có khoảng1/3 dân số cả nước sinh sống ở vùng ven biển và trực tiếp
chịu ảnh hưởng của biển, nhưng chỉ có gần 40% số này sống nhờ hoạt động kinh tế liên quan
trực tiếp đến biển [1, tr.52].
Trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế nhằm thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế, khoa học trong khi nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày một
cạn kiệt và không có khả năng tái tạo. Để đảm bảo khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững với tốc độ hàng năm từ 8% trở lên thì các lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển
và kinh tế ven biển phải được coi trọng và đóng vai trò chủ lực trong phát triển kinh tế [2,
tr.53].
Hướng phát triển ra biển càng cần thiết hơn nữa khi nước ta mở cửa hội nhập trong
điều kiện xuất phát điểm thấp. Mặc dù kinh tế biển nước ta chưa phát triển, chưa bắt kịp
xu thế của thế giới, thì những hạn chế trong việc khai thác vùng gần bờ lại thể hiện càng
rõ hơn khi vươn ra vùng biển quốc tế. Là một quốc gia có biển, một nhân tố được xem
như là đắc địa, Việt nam cần tăng cường hơn nữa những khả năng vươn ra biển và xác
định đây là nhân tố thúc đẩy các vùng trong đất liền phát triển.
Từ vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị rất quan trọng của biển Việt Nam nên trong sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đảng ta xác định một nhiệm vụ, một phương hướng, một quyết tâm chiến
lược: "Việt Nam phải trở thành một quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển" [3, tr.19].
Quốc gia mạnh về biển là quốc gia xây dựng được tiềm lực mọi mặt khai thác hiệu
quả và bảo vệ vững chắc vùng biển của mình. Tiềm lực ở đây là tiềm lực chính trị, tinh
thần, văn hoá, tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực khoa học- công nghệ, tiềm lực quốc
phòng, an ninh- đối ngoại.
Về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, với việc một số
quốc gia ven Biển Đông chưa đạt được thoả thuận về phân định vùng biển, hải đảo đang
tiềm ẩn những bất ổn, dễ dẫn đến xung đột, tác động không nhỏ đến ổn định của khu vực.
Thực tiễn phát triển của đất nước đòi hỏi phải xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
biển một cách khoa học và hợp lý, cần phải có một chương trình hành động toàn diện về
biển và vùng ven biển, nhanh chóng xây dựng một Việt Nam quốc gia mạnh về biển.
Giàu lên từ biển là khai thác hiệu quả cao mọi tiềm năng kinh tế biển đem lại sự giàu có
cho đất nước, cho địa phương vùng ven biển và cho từng gia đình làm kinh tế biển đảo.
Lợi ích kinh tế biển không chỉ xuất từ một địa phương, một ngành mà cần có sự liên
kết một cách khoa học sự phát triển các ngành các lĩnh vực trên toàn vùng, trên địa bàn
cụ thể thành một chương trình đồng bộ thống nhất. Đặc biệt phát triển phải chú trọng mọi
mặt ở những vùng ven biển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định cần phải
xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, trọng tâm, trọng điểm.
Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với đảm
bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển hệ thống cảng biển, vận tải biển,
khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển, đẩy nhanh công nghiệp đóng tàu biển
và công nghiệp khác, chế biến hải sản. Phát triển mạnh, đi trước một bước, một số vùng
kinh tế ven biển và hải đảo [4, tr.93].
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực thì một khuynh hướng cơ bản là phải
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Trước mắt cần
tập trung đầu tư phát triển các lĩnh vực: Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, hải sản, rà
soát và bổ sung quy hoạch hệ thống cảng biển, các cơ sở đóng tàu, hệ thống vận tải và
các dịch vụ hàng hải, phát triển du lịch biển đảo, với cơ cấu ngành, nghề phong phú, hiện
đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, đạt hiệu quả cao. Kết hợp chặt chẽ với phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, tăng cường hợp
tác quốc tế, vừa phát triển góp phần vào bảo vệ quốc gia. Trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán nước ta, đồng thời khai thác tài
nguyên ở hải phận quốc tế. Xây dựng các trung tâm kinh tế, khu kinh tế, khu công
nghiệp, khu chế xuất lớn ở vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động
lực quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ với phát triển
vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển nội địa
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ to lớn đó, trước hết cần phải có chính sách tạo
sức hấp dẫn thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển trên tinh thần chủ động, tích
cực hội nhập. Phát huy triệt để các nguồn lực bên trong, tranh thủ sự hợp tác các nguồn lực
bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh
thổ của mỗi quốc gia.
1.1.2.2. Những tác động từ bên ngoài
Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ dưới tác động thúc đẩy của cách mạng
khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã làm tăng sức ép cạnh tranh và tác động sâu
sắc đến các nền kinh tế. Cùng với đó là tiến trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
ngày càng sâu rộng trong mọi lĩnh vực; các công ty xuyên quốc gia không ngừng điều
chỉnh lại, và hình thành nên các tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực sản xuất kinh
doanh trên phạm vi toàn thế giới; nền kinh tế thế giới cũng như mỗi quốc gia ngày càng
trở nên năng động, liên kết với nhau chặt chẽ hơn; liên kết thương mại toàn cầu, khu vực
và việc hình thành hệ thống tài chính quốc tế đã mang lại những triển vọng phát triển
kinh tế tri thức
Việc hình thành thị trường mang tính toàn cầu đã đem lại nhiều cơ hội, đồng thời
cũng nhiều thách thức và nguy cơ đối mặt với các nước tham gia thị trường toàn cầu,
nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong bối cảnh đó nước ta phải phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực chuẩn bị
lực lượng về mọi mặt, vươn lên để hội nhập kinh tế quốc tế, bằng nhiều cách điều chỉnh
chiến lược, chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại
hàng hoá, dịch vụ, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật giữa nước ta và các nước khác
ngày một dễ dàng hơn. Thị trường thế giới ngày một trở nên thống nhất và sự tác động
qua lại của các quốc gia cao lên, từ đó làm cho các nước thường xuyên phải điều chỉnh
chính sách một cách linh hoạt thích ứng với xu thế chung của quá trình hội nhập kinh tế.
Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh phức tạp, đặc
biệt là đấu tranh chống lại sự chi phối, áp đặt của các cường quốc kinh tế và các công ty
xuyên quốc gia, không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần phát triển
kinh tế, củng cố an ninh, chính trị, độc lập tự chủ về kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc của mỗi quốc gia, thông qua việc thiết lập chặt chẽ với nhau, trong sự tác động
qua lại, đan xen nhiều chiều. Các nước đang phát triển trong đó có nước ta chủ động lựa
chọn phát triển ngành, nghề có lợi thế cao trong quá trình cạnh tranh, phát triển và xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh, biển đóng một nhân tố vô cùng
quan trọng của mỗi quốc gia có biển trong quá trình phát triển của mình. Nhiều quốc gia
có biển đã có những chính sách giữ gìn tài nguyên khoáng sản trong vùng biển của nước
mình rất nghiêm ngặt, và coi đó là một nguồn dữ trữ quan trọng, bên cạnh đó lại khai
thác ở những vùng biển khác. Và có chiến lược đầu tư cho khoa học - công nghệ biển,
đặc biệt chú trọng vào công nghệ khai thác, bảo vệ tài nguyên biển và được xem là một
trong bốn mũi nhọn quan trọng của thế kỷ XXI.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số, nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất
liền, nhất là tài nguyên không còn khả năng tái tạo được ngày càng cạn kiệt đã đem lại lợi
thế vô cùng lớn cho các quốc gia có biển, từ đó cũng nẩy sinh ra nhiều mâu thuẫn về
quyền lợi giữa các nước có biển và những quốc gia không có biển gây nên những tranh
chấp phức tạp và gay gắt về chủ quyền, và quyền lợi từ biển.
Trước tiên là sức ép về dân số đang gây một áp lực ngày càng mạnh trong quá trình
tính toán để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Dân số tăng khó
kiểm soát bên cạnh đó nguồn tài nguyên trên đất liền ngày một cạn dần, trong tình trạng
đói nghèo vẫn là sự thách thức của mỗi quốc gia ngày một gay gắt không những về đói
nghèo mà mật độ không gian để sinh tồn ngày càng thu hẹp. Chỉ còn một cách là nhìn ra
biển với tư duy kinh tế đang được hình thành ở những quốc gia có biển, cách nhìn về
biển cũng khác đi rất nhiều và đề cập nhiều hơn từ một vài thập kỷ gần đây.
Không những về không gian sinh tồn, mà môi trường sống cũng xuống cấp, môi
trường sống liên quan trực tiếp đến sự sống của con người đặt ra yêu cầu cấp bách cần
phải có thái độ ứng xử mới đối với trái đất, tồn tại hay không tồn tại, trong đó rừng và
biển phải như thế nào?
Mặc dù vậy sức ép không dừng ở đó, vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm, ở biển
được coi như một giải pháp lâu dài và quan trọng trong tương lai của mỗi quốc gia.
Cuối cùng, là sự phát triển kinh tế (nóng) của nhiều quốc gia trong những năm gần
đây, việc thiếu hụt năng lượng đã đặt ra cho những quốc gia này đang nỗ lực vào nghiên
cứu, tìm kiếm những nguồn năng lượng mới. Như sức gió, thuỷ triều, địa nhiệt ở trên
mặt biển và trong lòng Đại Dương.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, cùng với đấu tranh và hợp tác quốc tế trong khai
thác phát triển kinh tế biển ngày một phát triển. Hiện nay những nước có biển, trên thế
giới và trong khu vực có chiến lược phát triển biển rõ ràng, tăng cường tiềm lực khai thác
và khống chế biển.
Sự nổi lên của kinh tế Trung Quốc, đã đưa ra một chiến lược phát triển kinh tế biển, từ
khi cải cách nền kinh tế, mở cửa, kinh tế nước này đã phát triển năng động của dải ven biển;
trong sự thành công đó là lấy các thành phố ven biển làm cửa ngõ giao lưu thương mãi quốc
tế và làm đầu tàu kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển, đây là những bài học phát huy yếu tố lợi
thế của biển và vùng ven biển. Bên cạnh đó mốt số nước có chiến lược phát triển kinh tế biển
như:
Chiến lược biển của Mỹ:
Hoa Kỳ, xem biển là đường vận tải hàng hoá, hành khách, là nguồn năng lượng,
nguồn dược liệu. Hàng năm, các cảng biển quốc gia đạt doanh thu hơn 700 tỷ USD. Từ
dịch vụ vận tải hàng hoá, vụ vận chuyển hành khách đã thu 12 tỷ USD mỗi năm. Các
dịch vụ này tạo ra 13 triệu việc làm. Hoạt động khai thác dầu khí ngoài khơi mở rộng tới
các vùng nước sâu hàng năm tạo ra 25 - 40 tỷ USD. Việc khai thác Đại Dương ngày càng
tăng và thu về cho nước Mỹ hàng tỷ USD từ các ngành công nghiệp biển như các chế phẩm
sinh học và các dược liệu biển. Thuỷ sản là một nguồn lợi mang lại thu nhập và nhiều việc
làm cho nền kinh tế, đồng thời hình thành nên di sản văn hoá cho cộng đồng ngư dân. Tổng
giá trị thương mãi của ngành đánh bắt cá hàng năm đạt hơn 28 tỷ USD, dịch vụ câu cá biển
giải trí hàng năm đạt khoảng 20 tỷ USD, dịch vụ bán cá cảnh hàng năm đạt khoảng 3 tỷ
USD. Hàng năm, hàng trăm triệu khách đến du lịch ở những bãi biển nước Mỹ, tiêu hàng tỷ
USD tạo ra hàng triệu việc làm. Trên thực tế, ngành du lịch và giải trí là những ngành tăng
nhanh nhất, làm giàu cho nền kinh tế, tạo việc làm cho những người dân ven biển nước Mỹ.
Nhận thức được điều này, chính phủ Mỹ đã xác định một khung chính sách mới về
biển, khung chính sách này mang tính cách mạng, ở cấp quốc gia, được xây dựng và tăng
cường vai trò của nhà nước, của các vùng, các cộng đồng các địa phương.
Tăng cường công tác phối hợp lãnh đạo ở cấp quốc gia. Ở cấp liên bang, các bộ
ngành thuộc chính phủ và cơ quan độc lập có vai trò quan trọng trong việc xây dựng
chính sách biển. Cần tăng cường các hoạt động phối hợp với nhau và với chính quyền
trung ương, vùng và cộng đồng địa phương, việc tăng cường khả năng trao đổi và phối
hợp sẽ cải thiện đáng kể hiệu quả của chính sách biển quốc gia.
Tăng cường tiếp cận vùng. Việc đảm bảo đầy đủ tham gia của nhà nước, các vùng,
các cộng đồng và chính quyền địa phương vào xây dựng triển khai chính sách biển là một
yếu tố cơ bản của khung chính sách biển Quốc gia. nhiều vấn đề về biển và vùng biển nổi
lên hiện nay, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của những nhà làm chính sách ở trung
ương, địa phương, cũng như đông đảo của những bên liên quan.
Phối hợp quản lý các vùng ngoài khơi. Khu vực biển ngoài khơi rộng lớn của Hoa
Kỳ ngày càng trở nên hấp dẫn cho các hoạt động kinh tế, nhiều hệ thống cơ sở được
thành lập nhằm phục vụ các hoạt động khai thác Đại Dương trong thời gian dài, các hoạt
động đánh bắt và khai thác các nguồn năng lượng. Tuy nhiên, phải xác định rõ các chức
năng quản lý mới, thành lập các cơ sở nuôi trồng thuỷ sản, khai thác các nguồn năng
lượng gió
Ngoài những chính sách trên, khung chính sách biển Quốc gia mới của Mỹ còn đề
cập đến việc tăng cường tổ chức, tăng cường đầu tư khoa học công nghệ và thăm dò, xây
dựng một kỷ nguyên mới về thu thập dự liệu và hệ thống thông tin, các chính sách thúc
đẩy công tác giáo dục, đào tạo làm nền tảng tương lai về biển [8, tr.18-21].
Chiến lược biển của Liên bang Nga.
Hiện nay, Liên bang Nga đang ở vị thế mới trong việc phục hồi vị thế của mình trong
lòng Đại Dương, và đây được coi là nhiệm vụ quan trọng. Để giải quyết những vấn đề có
tính chiến lược, việc thống nhất mọi nỗ lực của các cấp khác nhau trong nước Nga là hết sức
cần thiết. Nhiệm vụ này được đề cập trong chương trình định hướng mục tiêu toàn diện Liên
bang về (Đại dương, gọi tắt là chương trình Đại dương) nhằm tạo ra những chương trình cần
thiết về vật chất hoá các lợi ích quốc gia và vị thế địa chính trị nước Nga trên biển.
Chương trình Đại Dương nhằm đưa ra một giả pháp toàn diện với vấn đề thăm do và
khai thác hiệu quả Đại Dương nhằm phục vụ hiệu quả kinh tế và bảo vệ an ninh của nước
Nga.
Chương trình Đại Dương là một công cụ điều hoà sự phối hợp giữa các chương
trình liên bang và khu vực để đưa ra các giải pháp cho từng vấn đề riêng lẻ cho Đại
Dương, và định hướng cho các chương trình này cho mục tiêu chung của chính sách quốc
gia, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích quốc gia vị thế địa chính trị. Cụ thể là:
Làm cho nước Nga trở nên năng động hơn trên Đại Dương gắn liền với mục tiêu
phát triển quốc gia:
Định hướng các hoạt động của nước Nga trên Đại Dương nhằm đạt được những kết
quả củ thể có tính khả thi trong một tương lai gần nhất;
Tạo điều kiện tối đa cho việc nâng cao hợp tác hiệu quả các hoạt động của các cấp
chính quyền liên bang cũng như chính quyền các nước cộng hoà liên bang trên Đại
Dương.
Chiến lược biển của Canada.
Canada đã đưa một chiến lược biển rất ngắn gọn, có phụ đề rất gợi cảm: “Biển của
chúng ta, tương lai của chúng ta” , phản ánh những quan điểm, tư tưởng chủ đạo, những
nét định hướng chính và những giải pháp chủ yếu nhất nhằm thực hiện chiến lược này.
Đối với Canada, trong các vùng biển đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử
đất nước và trong tương lai, biển cũng tiếp tục đem lại cho quốc gia nhiều hứa hẹn và
triển vọng hơn nữa. Chiến lược biển của nước này kêu gọi tất cả mọi người cùng phối
hợp, cộng tác để đem lại cho biển ngày một trong lành, an toàn và thịnh vượng, đem lại
lợi ích cho tất cả mọi người Canada hôm nay và mai sau.
Các nguyên tắc xây dựng chiến lược hoạch định chính sách gồm: phát triển bền
vững, quản lý hội nhập và tiếp cận thận trọng.
Phát triển nguồn tài nguyên biển hiện tại và trong tương lai phải được tiến hành sao
cho không tổn hại đến việc thoả mãn nhu cầu của các thế hệ trong tương lai.
Quản lý hội nhập là việc cam kết cho hoạch định và quản lý tổng thể của con người,
trong đó xem xét các yếu tố cần thiết nhằm duy trì và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên
biển, cùng chia sẻ không gian biển.
Tiếp cận thận trọng là cam kết bảo tồn, quản lý khai thác nguồn tài nguyên biển để
bảo vệ nguồn tài nguyên này và giữ gìn môi trường ,hệ sinh thái biển. Mục tiêu chiến
lược là thúc đẩy hoạt động quản lý biển, tìm kiếm nguồn tài nguyên biển, và thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
Các nước ở vùng Đông và Đông Nam Á cũng đang khởi động chương trình về biển
xây dựng vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ thành một cực tăng trưởng mới trong khuôn khổ
khu vực mẫu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Trước xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển
của đất nước thì nền kinh tế biển đóng một vài trò quan trọng quá trình phát triển.
1.1.3. Những tính quy định phổ biến đối với kinh tế biển trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển:
Còn gọi là công ước luật biển hay hiệp ước luật biển, là một hiệp ước được hình
thành trong hội nghị về luật biển của liên hợp quốc lần thứ III diễn ra từ năm 1973, sau
nhiều chỉnh sửa cho đến 1982 đã được thực hiện trong hiệp ước năm 1994. Công ước luật
biển là một bộ các quy định về sử dụng biển và Đại Dương trên thế giới (chiếm 70% diện
tích bề mặt trái đất). Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho IV hiệp ước
năm 1958 đã hết hạn. Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong
việc sử dụng biển, Đại dương; có các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh,
bảo vệ môi trường và quản lý khai thác các tài nguyên trên đó.
Nội dung Công ước bao gồm một loạt điều khoản. Những điều khoản quan trọng
nhất quy định về việc thiết lập các giới hạn, giao thông đường biển, trạng thái biển đảo,
và các chế độ quá cảnh, các vùng đặc quyền kinh tế, quyền tài phán thềm lục địa, khai
khoáng lòng biển sâu, chính sách khai thác, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa
học, và dàn xếp các tranh chấp.
Công ước quy định giới hạn cho các vùng khu vực, tính từ đường cơ sở (baseline)
và được định nghĩa rõ ràng. Bao gồm:
Thuỷ: Bao phủ tất cả vùng biển và đường thuỷ ở bên trong đường cơ sở (phía đất
liền). Tại đây, quốc gia ven biển được tự do áp đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử
dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại, tự do trong các
vùng nội thuỷ.
Lãnh hải: Vùng nằm ngoài đường cơ sở có chiều rộng 12 hải lý. Tại đây, quốc gia
ven biển được quyền tự do đặt luật, kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên.
Các tàu thuyền nước ngoài được quyền "qua lại không gây hại" mà không cần xin phép.
Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và dò thám không được xếp vào dạng "không gây
hại". Nước chủ quyền cũng có thể tạm thời cấm việc "qua lại không gây hại" này tại một
số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo: Công ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo, cũng
như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như
thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng
nhất, đảm bảo rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước
bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi như là một phần của
lãnh hải quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai
có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ có thể vẫn thực thi
luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.
Vùng đặc quyền kinh tế: Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc
gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác đối với tất cả các tài nguyên
thiên nhiên. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường
thuỷ và đường không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Nước ngoài cũng có
thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
Thềm lục địa: là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental
margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của
một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng
không được vượt quá 350 hải lý,tính từ đường cơ sở của lãnh hải, hoặc không tính quá
100 hải lý bên ngoài đường đẳng sâu 2.500m. Đối với thềm lục địa, nước ven biển có chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên,
quyền chủ quyền của nước ven biển trên thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc
vào quyền có tuyên bố hay không.
Cùng với các điều khoản, định nghĩa các ranh giới trên biển, Công ước còn quy định
các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển và bảo vệ quyền tự do nghiên
cứu khoa học trên biển. Công ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát
khai thác tài nguyên, khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia,
được thực hiện thông qua ủ uỷban đáy biển quốc tế [11].
Từ rất lâu cho đến nửa đầu thế kỷ XX, các quốc gia ven biển chỉ có vùng biển hẹp
(lãnh hải) trực thuộc chủ quyền rộng 3 hải lý (theo quy ước mỗi hải lý bằng 1,852m) còn
phía ngoài lãnh hải 3 hải lý là vùng biển chung, mỗi cá nhân, các tổ chức được quyền đi
lại và khai thác tự do. Cho nên, ngay từ thế kỷ XV khi các quốc gia mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của mình ra biển, có sự tranh đua về mở rộng thị phần khai thác các nguồn lợi từ
biển, không gian biển ngày một trở nên quyết liệt, lúc đó con người nhận thức về biển là
"biển cả không phải là tài nguyên vô tận mà biển là của chung, các quốc gia bình đẳng
trong việc khai thác, sử dụng biển" [10, tr.14].
Vào năm 1994 cho đến bây giờ, Công ước quốc tế về luật biển mới được các quốc
gia ký vào năm 1982 (Công ước 1982), phê chuẩn vào ngày 16/11/1994 có hiệu lực pháp
luật quốc tế. Cũng vào năm đó nước ta cũng phê chuẩn công ước 1982 vào năm 1994 về
luật biển quốc tế. Cùng với sự ra đời công ước 1982, đã ghi rõ: Biển cả là vùng không
nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thuỷ của một quốc gia ven biển cũng
như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo.
Như vậy, theo công ước về biển năm 1982, phạm vi vùng biển nước ta được mở
rộng một cách đáng kể, khoảng vài chục nghìn km
2
đã lên đến gần một triệu km
2
cùng
với năm vùng biển có phạm vi quản lý khác nhau. Như vậy, nước ta diện tích về biển
không còn thuần tuý như cũ nữa mà mở rộng hướng ra biển, không chỉ còn biên giới
chung với Trung Quốc, Campuchia mà hầu hết nước khu vực Đông Nam Á như
Philippin, Malaixia, Indonexia, Thái Lan.
Với việc phê chuẩn công ước của liên hợp quốc về biển Việt Nam, tích cực tham gia
vào các hoạt động trên biển.
Căn cứ vào công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982. Cùng luật biên giới
quốc gia năm 2003, biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, góp phần giữ vững ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh đất nước.
Để tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước về biên giới quốc gia; xây dựng biên
giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung theo nghị quyết số15/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của
Quốc Hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Những quy định chung mang tính chất pháp lý đối với biển Việt Nam.
Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và
mặt thẳng đứng theo hướng đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần
đảo trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Vùng biển, lòng đất, vùng trời của
nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó chế độ pháp lý quy chế quản lý và
bảo vệ vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
biển năm 1982 và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam ký hoặc gia nhập.
Trong điều 4, Luật biên giới quốc gia năm 2003, các từ dưới đây được hiểu như sau:
- Đường cơ sở: là đường gẫy khúc nối liền các điểm đã lựa chọn tại gần nước thuỷ
triều thấp nhất dọc bờ biển và các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam xác định công bố.
- Vùng tiếp lãnh hải: là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải có chiều rộng mười
hai hải lý.
- Vùng đặc quyền kinh tế: là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải và hợp với lãnh
hải thành một vùng biển rộng hai trăm hải lý tính từ đường cơ sở, trừ trường hợp điều
ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan có quy
định khác.
Thềm lục địa: là đáy biển và lòng đất dưới biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục
địa mở rộng ra ngoài lãnh hải cho đến bờ ngoài của rìa lục địa mà Việt Nam là quốc gia
ven bờ có chủ quyền, quyền tài phán được xác định theo Công ước của Liên Hợp Quốc
về luật biển năm 1982, trừ trường hợp điều ước quốc tế giữa nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan có quy định khác.
- Đi qua không gây hại trong lãnh hải: là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh
hải Việt Nam nhưng không làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự, môi trường
sinh thái của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt
Nam và Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982.
Trong đó, biên giới quốc gia trên biển được hoạch định và đánh dấu bằng các toạ độ
trên bản đồ trên hải đồ và ranh giới ngoài lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải
của quần đảo của Việt Nam được xác định theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật
biển năm 1982 và các điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các
quốc gia hữu quan.
Các vùng ranh giới phía ngoài vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa xác định chủ quyền, quyền tài phán của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982 và các điều ước quốc tế
giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
Biên giới quốc gia trong lòng đất là mặt thẳng đứng từ biên giới quốc gia trên đất
liền và biên giới quốc gia trên biển xuống lòng đất. Ranh giới trong lòng đất thuộc vùng
biển là mặt thẳng đứng từ các đường ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa xuống lòng đất xác định chủ quyền, quyền tài phán của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam theo Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982 và các
điều ước quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.
Như vậy khu vực biên giới trên biển của Việt Nam tính từ biên giới quốc gia trên biển vào
hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo;
Lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt
Nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo. Việc xây dựng,
quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới là sự nghiệp của toàn dân do nhà nước
thống nhất quản lý. Nhà nước và nhân dân thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực hiện chính sách xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị ổn định lâu dài với các nước
láng giềng; giải quyết các vấn đề biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên cơ sở tôn trọng,
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau.
- Các hành vi bị nghiêm cấm:
Xê dịch phá hoại mốc biên giới; làm sai lệch; chệch hướng đi của biên giới quốc
gia; làm đổi dòng chảy tự nhiên của sông; suối biên giới; gây hư hại mốc quốc giới;
Phá hoại an ninh, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới, xâm canh, xâm cư ở khu
vực biên giới; phá hoại công trình biên giới;
Làm cạn kiệt nguồn nước, gây ngập úng, gây ô nhiễm môi trường, xâm hại tài
nguyên thiên nhiên và lợi ích quốc gia;
Qua lại trái phép mốc biên giới quốc gia; buôn lậu. Vận chuyển trái phép hàng
hoá, tiền tệ, vũ khí, ma tuý, chất nguy hiểm về cháy, nổ qua biên giới quốc gia; vận
chuyển qua biên giới quốc gia văn hoá phẩm độc hại và các loại văn hoá khác mà Nhà
nước cấm nhập khẩu, xuất khẩu:
Bay vào khu vực cấm bay; bắn, phóng, thả, đưa qua biên giới quốc gia trên không
phương tiện bay, vật thể, các chất hại hoặc có nguy cơ gây hại cho quốc phòng, an ninh,
kinh tế, sức khoẻ của nhân dân, môi trường, an toàn hàng không và trật tự, an toàn xã hội
ở khu vực biên giới. Và các hành vi khác vi phạm pháp luật về biên giới quốc gia.
Tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt
Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập; tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác phải đi nổi và treo cờ
quốc tịch.
Tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu thuyền chở
chất phóng xạ, chất nguy hiểm độc hại khác khi thực hiện quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải Việt Nam phải mang đầy đủ các tài liệu, áp dụng các biện pháp phòng
ngừa đặc biệt theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc gia nhập. Các tàu thuyền khi tiến hành các hoạt động khác trong lãnh hải Việt
Nam phải được cơ quan thẩm quyền Việt Nam cho phép.
Trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lý do đặc biệt khác hoặc theo đề
nghị của nước hữu quan, người, phương tiện, hàng hoá có thể bị hạn chế hoặc tạm ngừng
qua lại biên giới quốc gia, kể cả việc đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Các
tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về biên giới quốc gia thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [13].
1.2. MỘT SỐ CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH TÌNH HÌNH KINH TẾ BIỂN TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.2.1. Các chỉ tiêu kinh tế
Tiềm năng tài nguyên biển nước ta phong phú và đa dạng có ý nghĩa quan trọng
trong phát triển đất nước, mở rộng giao lưu quốc tế và ngày đóng một vai trò to lớn trong
sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc, hội
nhập kinh tế quốc tế, vị trí, vai trò của biển lại càng quan trọng hơn. Song sự thành công
hay thất bại đều do yếu tố của lực lượng sản xuất quyết định, nguồn lực con người quyết
định sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi thời đại, ngoài yếu tố của lực lượng sản xuất
thì lợi thế về tài nguyên là động lực thúc đẩy quá trình phát triển nhanh hơn và bền vững
hơn. Nước ta có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, có bờ biển dài hơn 3.260km, là quốc
gia có nguồn tài nguyên biển phong phú, sẽ tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát
triển:
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng xác định:
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế toàn diện, có trọng
tâm, có trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển
gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển hệ thống
cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển;
đẩy mạnh các ngành đóng tàu và công nghiệp khai thác, chế biến hải sản; phát
triển mạnh, đi trước một số ngành kinh tế ven biển và hải đảo [ ].
Như vậy, Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ các bộ phận cấu thành kinh tế biển.
Dưới đây là sự phân tích làm rõ những nhân tố và các chỉ tiêu đã đạt được của một số bộ
phận cấu thành kinh tế biển.
* Phát triển đồng bộ và hiệu quả việc nuôi trông, đánh bắt, chế biến bảo vệ nguồn
lợi hải sản.
+ Việt Nam có chiều dài bờ biển 3.260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh
tế có hơn 1 triệu km
2
, có 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vịnh, đầm phá, và nhiều
ngư trường. Biển nước ta có khoảng 2.100 loài hải sản, trong đó có 130 loài hải sản khác
nhau với trữ lượng là 3 triệu tấn, tiềm năng nuôi trồng thuỷ hải sản là rất lớn 1,7 triệu ha
mặt nước nội địa; 300.000 ha bãi biển; 400.000 ha hồ chứa sông, suối nhỏ; 600.000 ha ao
hồ nhỏ, ruộng trũng và hàng trăm nghìn ha bồi ven biển có thể đưa vào nuôi trồng thuỷ
hải sản. Theo Bộ Nông nghiệp & PTNT có thể sử dụng 60% diện tích mặt nước để nuôi
trồng thuỷ sản mà vẫn đảm bảo cân bằng sinh thái. Các mặt nước đó không những cho
sản lượng lớn mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của sông, rừng ngập mặn,
bảo đảm nhịp độ tái tạo, duy trì thuỷ sản biển và ven biển. Về khả năng chế biến, cả nước
có 332 nhà máy chế biến đông lạnh, có khả năng xuất khẩu 600.000 tấn/ năm. Hàng chục
cảng cá, bến cá được xây dựng không chỉ ven biển nơi đông dân cư, nghề cá mạnh như ở
Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An, Khánh Hoà, mà còn trên các đảo: Bạch
Long Vĩ, Cát Bà, Phú Quốc, Côn Đảo, đã hình thành các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề
cá, có những trung tâm này ngoài cầu cảng, bến neo đậu tàu thuyền và các cơ sở dịch vụ
khác: Như vật tư, ngư cụ, nước đá, cung ứng xăng dầu, đóng sửa tàu, chế biến thuỷ sản
và chợ cá Về lao động nghề cá, đến năm 2004 toàn quốc hiện nay có 4 triệu người;
trong đó, lao động khai thác 684.000 người, lao động nuôi trồng thuỷ sản 2.228.000
người, lao động chế biến 502.000 người, lao động thương mại và dịch vụ nghề cá
586.000 người. Về trình độ ngành thuỷ sản: có trên 10,1% lao động có trình độ đại học,
gần 15,1% trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật, còn lại chưa qua đào tạo. Ngư dân
nước ta có tính cần cù, chịu khó và sáng tạo trong lao động sản xuất [23].
Vị trí của ngành thuỷ sản: Với lợi thế tự nhiên và tiềm năng sông, biển, bãi triều mặt
nước và nuôi trồng thuỷ sản, ngành thuỷ sản Việt Nam đã đóng góp một vai trò hết sức
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với nông nghiệp và lâm nghiệp thuỷ sản đã
cung cấp thực phẩm chủ yếu cho toàn xã hội. Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục
thống kê, GDP của ngành thuỷ sản giai đoạn 1995- 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên
24.125 tỷ đồng; Tỷ trọng GDP của thuỷ sản trong tổng GDP của toàn quốc liên tục tăng,
từ 2.9% (năm 1995) lên 3,4% (năm 2000) và 4% vào năm 2005. Trong cơ cấu GDP nông
nghiệp, ngành thuỷ sản chiếm 20%, đóng góp một số lượng hàng hoá xuất khẩu quan
trọng và đóng một phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ta (năm 2007 chiếm
8,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X và Nghị quyết TW4 (khoá X) về chiến lược biển Việt Nam 2020 đã tiếp tục khẳng định
ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng phát triển mạnh nhất là về
nuôi trồng, cần phấn đấu vươn lên hàng đầu trong khu vực. Các địa phương có biển nhận
thấy điều kiện phát triển thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh [24].
Năm 2006, sản lượng ngành thuỷ sản đạt gần 3,7 triệu tấn, tăng 6,6% so với năm
2005, đạt 107,4% kế hoạch năm. Trong đó, sản lượng khai thác hải sản trên 2 triệu tấn,
tăng 0,32% so với năm 2005. Sản lượng nuôi trồng 1,7 triệu tấn tăng 17,8% so với năm
2005. Giá trị sản xuất thuỷ sản năm 2006 đạt 47,711 tỷ đồng, tăng 8,1% so với năm 2005;
Tỷ trọng thuỷ sản trong nông nghiệp 21,3% [25, tr.2].
+ Phát triển hệ thống Cảng biển, vận tải biển và công nghiệp tàu biển
- Cảng biển, vận tải biển:
Theo sự phân tích của Mác lưu thông hàng hoá là một khâu không thể thiếu trong
một quá trình sản xuất hàng hoá. Lưu thông hàng hoá là cầu nối giữa quá trình sản xuất
và tiêu dùng, nó làm cho quá trình sản xuất nhanh hay chậm. Mặt khác, lưu thông cũng
cấu thành giá thành sản phẩm hàng hoá. Như vậy, lưu thông đã tác động lớn đến quá
trình cạnh tranh của sản phẩm. Muốn quá trình lưu thông diễn ra thuận lợi chỉ còn cách là
phát triển nhanh các hệ thống giao thông đường thuỷ, bộ, đường không, phục vụ cho quá
trình sản xuất, kinh doanh giảm giá thành sản phẩm chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Đặc
biệt là vận chuyển khối lượng hàng hoá lớn ngày càng trở nên cần thiết và chiếm ưu thế.
Vì vậy hệ thống cảng biển, vận tải biển phát triển đã thúc đẩy thương mại của các quốc
gia, khu vực phát triển trong quá trình xuất nhập hàng hoá, là động lực thúc đẩy công
nghiệp phát triển, phát triển công nghiệp chi phí vận chuyển đóng một yếu tố lớn, đặc
biệt là vận chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, thậm chí từ châu lục này sang
châu lục khác
Vận tải bằng đường biển giảm được giá thành và số lượng hàng lại lớn. Như vậy, vị
trí địa lý của biển đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Nước ta lại có bờ
biển dài, và có nhiều vị trí xây dựng được cảng biển. Phục vụ CNH,HĐH đất nước.
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường thế giới
trong thời điểm hiện này không chỉ phụ thuộc vào chất lượng giá thành của sản phẩm mà
còn phụ thuộc vào chi phí vẩn tải mà doanh nghiệp đó phải chi trả trong quá trình bao
tiêu sản phẩm. Các mặt hàng được sản xuất trong nước nếu nhập nguyên liệu thô và xuất
sản phẩm bằng đường thuỷ với các tàu biển có trọng tải lớn là kênh tiêu thụ có hiệu quả,
giảm đáng kể chi phí vận tải và tăng hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, yếu tố cảng biển là vấn
đề trọng tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trong việc quyết định lựa chọn vị trí của dự án.
Theo quan điểm truyền thống, cảng biển là đầu mối giao thông, là nơi thực hiện các
thao tác bốc dỡ hàng hoá từ phương thức vận tải biển sang hình thức vận tải khác và
ngược lại. Trong đó vai trò cơ bản của cảng là xếp dỡ hàng hoá, hỗ trợ các công tác xuất
nhập khẩu với tư cách là một cơ sở kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia.