LUẬN VĂN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể,
mỹ của con người Việt Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề con người, xây dựng và phát triển con người là vấn đề muôn thủa, một đề tài
tưởng chừng đã cũ nhưng luôn luôn mới. Bởi lẽ thế giới xung quanh con người và bản
thân con người luôn vận động, biến đổi. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con
người ngày càng sâu rộng thì những vấn đề về con người đặt ra cũng ngày càng phức tạp,
đa dạng hơn. Con người và phát triển con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Đúng như C.Mác đã dự báo, trong tương lai mọi khoa học đều
gặp nhau ở một khoa học cao nhất, đó là khoa học về con người. Trong giai đoạn hiện
nay, vấn đề xây dựng và phát triển con người đang là một vấn đề thực tiễn sống động,
ảnh hưởng đến các nền tảng phát triển của nhân loại.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn tột bậc là đất nước được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai
cũng được học hành. Thực chất là mong muốn giải phóng triệt để con người Việt Nam,
để có những con người phát triển toàn diện. Giải phóng con người, xây dựng con người
mới phát triển toàn diện đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội là một trong những nội
dung quan trọng, là vấn đề chi phối mọi tư duy và hành động của Hồ Chí Minh từ lúc ra
đi tìm đường cứu nước cho đến lúc về nơi vĩnh hằng. Đó là ước mơ, khát vọng cháy
bỏng, đồng thời là sự nghiệp cao cả và vĩ đại nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó chứa
đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trên các
mặt đạo đức, trí lực, thể lực, mỹ thuật (gọi tắt là đức, trí, thể, mỹ) đã góp phần to lớn vào việc
đào tạo cho cách mạng Việt Nam những con người ưu tú, đủ sức đưa Việt Nam vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách, liên tục giành những thắng lợi to lớn, làm thay đổi sâu sắc địa
vị nước ta từ nước thuộc địa, nô lệ trở thành một nước độc lập và ngày càng có vị thế trên
trường quốc tế.
Phát triển con người một cách toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt mọi chính sách
của Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, là tư tưởng nhân
văn quan trọng trong quản lý xã hội đương đại và là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác
định: “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, lòng khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã
hội” [15, tr.114]. Đây là đường lối đúng đắn và quan trọng, song trong thực tế, ngay đội
ngũ những người tiên phong - cán bộ đảng viên, một bộ phận không nhỏ vẫn chưa đáp
ứng được những mong muốn đó. Vì sao như vậy? rất cần câu trả lời có căn cứ khoa học.
Bước vào thế kỷ XXI, khi đất nước từng bước tiến sâu vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, chủ động mở cửa và hội nhập với khu vực và quốc tế thì hàng loạt
thách thức đã nảy sinh xung quanh việc xử lý vấn đề vì con người, cho con người,
phát huy nhân tố con người. Nói cách khác hầu như các vướng mắc trên con đường
phát triển, đều có nguyên nhân thuộc về vấn đề con người Việt Nam chưa được phát
triển toàn diện - sản phẩm tất nhiên và đặc thù của lịch sử Việt Nam. Vì vậy, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam là hết sức
cần thiết để tìm ra những định hướng, nguyên tắc phương pháp luận đúng đắn cho sự
nghiệp xây dựng con người Việt Nam làm chủ đất nước, đủ tài, đức, sức khoẻ, đưa
đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Làm rõ được vấn đề này thực sự là một đòi hỏi bức
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Song, đây là vấn đề rất lớn, luận văn này
chỉ mong góp phần nhỏ bé làm rõ về mặt lý luận một vài khía cạnh như khái niệm,
cơ sở hình thành, điều kiện và nội dung xây dựng con người phát triển toàn diện
đức, trí, thể, mỹ trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí,
thể, mỹ của con người Việt Nam " làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí
Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu và đã có nhiều công trình khoa học có giá trị được công bố.
- Về các đề tài khoa học:
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX02 (1991- 1995) có đề tài KX02. 05:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và chính sách xã hội đối với con người” do
PGS. TS Lê Sỹ Thắng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, chính sách xã hội của Đảng, Nhà
nước đối với con người.
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH. 04 (1996-2000) có đề tài Tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá và xây dựng con người mới do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ làm chủ
nhiệm. Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và
xây dựng con người Việt Nam mới, mối quan hệ giữa phát triển văn hoá và xây dựng con
người mới
- Về các luận văn, luận án:
+ Nguyễn Hữu Công (2001) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện”, luận án tiến sỹ triết học, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả tập
trung nêu lên tư tưởng về giáo dục, đào tạo phát triển con người toàn diện của Hồ Chí
Minh. Về con đường hình thành và phát triển con người toàn diện theo quan niệm của Hồ Chí
Minh. Từ đó tác giả đưa ra hướng vận dụng và phát huy tư tưởng phát triển con người toàn
diện của Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
+ Phùng Thu Hiền (2002) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”, luận văn thạc sỹ
triết học, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã nêu khái niệm con người,
nhân tố con người, chỉ ra cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố
con người, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
và chỉ ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay.
+ Nguyễn Văn Tuyên (2006) “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt
Nam", luận văn thạc sỹ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn
nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về con người Việt Nam được giải phóng và sự nghiệp giải
phóng con người Việt Nam, từ đó luận văn chỉ ra sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng giải
phóng con người trong công cuộc đổi mới đất nước và chỉ ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
sự nghiệp giải phóng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về sách chuyên khảo
+ Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, H.1995 của tập thể tác giả: Nguyễn Huy Hoan, Nguyễn Xuân Thông, Nguyễn Thị
Minh Hương, Phạm Thị Lai, Nguyễn Thanh Nga. Tập thể tác giả đã sưu tầm, tuyển chọn
đoạn trích trong Hồ Chí Minh toàn tập do Nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần thứ nhất từ
1980 đến 1989 và một số tác phẩm lẻ của Người, một số tư liệu do Viện bảo tàng Hồ Chí
Minh cung cấp. Nội dung “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới” được xắp
sếp theo 6 vần đề sau: Vai trò của con người và ý nghĩa việc xây dựng con người mới; đánh
giá con người; bồi dưỡng con người về trí tuệ; bồi dưỡng đạo đức; xây dựng mục đích và lối
sống; chăm lo lợi ích và đời sống vật chất của con người.
+ PGS. TS Thành Duy (2001): “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong đó
tác giả đã chỉ ra mối quan hệ giữa văn hoá và việc xây dựng con người mới ở Việt Nam, đồng
thời chỉ rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất con người Việt Nam phát triển toàn diện
trong bối cảnh hiện nay.
+ TS Lê Quang Hoan (2002) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người” Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập một số nội dung sau: làm sâu sắc thêm khái
niệm con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trình bày rõ thêm nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người. Tập trung phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người, chỉ ra đặc điểm, nội dung chủ yếu, bản sắc, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát huy nhân tố con
người trong thời gian qua theo yêu cầu CNH, HĐH, kiến nghị phương hướng và một số giải
pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt nam hiện
nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về các bài tạp chí:
+ Tạp chí nghiên cứu lý luận (số 1/2000) đăng bài của PGS Trần Thành - Lê
Quang Hoan “Hồ Chí Minh với vấn đề nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”.
Các tác giả đã khái quát một số nội dung có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh
về vấn đề con người như giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng XHCN, đạo đức cách
mạng .
+ Tạp chí Lịch sử Đảng (số 12/2005) đăng bài của PGS, TS Thành Duy “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người”. PGS, TS Thành Duy đã
khái quát lại tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người: Bản chất con người, những
phẩm chất cơ bản của con người và một số chính sách đối với vấn đề con người.
+ Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông (Học viện Báo chí và tuyên truyền, Số
5/2007) có bài của Lê Thị Hương “Về một số phẩm chất cơ bản cần có và định hướng
phát huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Bài viết chỉ ra một số phẩm
chất của con người trong quan điểm Hồ Chí Minh: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, tinh thần lao động quên mình, có lối sống lành mạnh văn minh và chỉ ra một số định
hướng cơ bản về phát huy tiềm năng và sáng tạo của con người theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Những công trình trên đã nêu lên và khái quát được những nét lớn, chủ yếu trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về giáo dục, đào tạo con người mới xã hội chủ
nghĩa. Một số tác phẩm bắt đầu đi vào khai thác, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của
tư tưởng đó.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con
người Việt Nam còn nhiều mặt, nhiều nội dung chưa được đề cập đầy đủ, nhất là
những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc tạo môi trường và điều kiện cho con
người Việt Nam phát triển toàn diện để có những thế hệ người Việt Nam đủ đức, trí,
thể, mỹ; vừa “hồng” vừa “chuyên” đủ khả năng đưa Việt Nam sánh vai các cường
quốc năm châu như Hồ Chí Minh mong đợi. Vì thế đề tài tác giả chọn không trùng lặp
với các đề tài của những người đi trước. Song kết quả nghiên cứu của những người đi
trước sẽ làm cơ sở để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu góp phần hoàn thiện và làm phong
phú hơn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam”.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống những cống hiến lý luận và thực tiễn của
Hồ Chí Minh trong xây dựng con người Việt Nam trên các mặt đức, trí, thể, mỹ và việc
Đảng Cộng sản Việt Nam kế tục sự nghiệp đó của Hồ Chí Minh trong công cuộc công
nghiệp hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày và làm rõ về mặt lý luận một cách cơ bản, hệ thống những vấn đề như:
khái niệm, cơ sở hình thành và nội dung đức, trí, thể, mỹ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam phát triển toàn diện và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong thực
tế xây dựng con người Việt Nam phát triển về đức, trí, thể, mỹ.
- Trình bày và phân tích định hướng phát triển con người toàn diện của Đảng cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá nhằm kế tục tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới giáo dục đào tạo con người trong
những năm tiến hành công nghiệp hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt
Nam được thể hiện trong những bài nói và viết của Người, các văn kiện của Đảng cộng
sản Việt Nam; hoạt động thực tế của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa (thực chất là con người phát
triển toàn diện).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người Việt Nam phát triển trên các mặt như: đức, trí, thể, mỹ.
- Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện trong công cuộc đổi mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn
đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa
Mác – Lênin: Lịch sử – lôgíc; phương pháp diễn dịch; phương pháp phân tích – tổng hợp,
so sánh; phương pháp khái quát hoá … để làm rõ nội dung cơ bản của đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam phát triển trên các mặt chủ yếu cấu thành phẩm chất, năng lực của
nó, đó là: Đức, Trí, Thể, Mỹ; góp phần làm sâu sắc thêm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với những kết quả đạt được. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường chính trị, cao đẳng và đại
học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1
tư tưởng của Hồ Chí Minh về người việt nam
phát triển các mặt đức,trí, thể, mỹ
1.1. Một số khái niệm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt
Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ
ở Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người, về giải phóng con người và phát triển con
người, coi con người là nhân tố quyết định thành công của cách mạng, luôn quán xuyến
trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người và dân tộc ta. Luận văn này nghiên cứu
một khía cạnh về phát triển đức, trí, thể, mỹ con người Việt Nam sau khi đã được giải
phóng về chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, trong tiết này tập trung làm rõ hai
khái niệm công cụ: con người, con người phát triển toàn diện và bản chất của nó .
1.1.1. Khái niệm con người và bản chất con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm con người, bản chất con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được
nhiều người nghiên cứu và có kết quả công bố. Chúng tôi đồng tình với những đánh giá,
kết luận đã công bố trong các công trình của các nhà khoa học đi trước như Đặng Xuân
Kỳ, Thành Duy, Lê Quang Hoan, Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Hữu Công…. Với tư cách
là một khái niệm công cụ trong nghiên cứu đề tài này, đồng thời để góp thêm ý kiến, làm
sáng tỏ câu trả lời con người là gì, bản chất con người như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng tôi xin nêu mấy vấn đề sau:
1.1.1.1. Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về người: “Chữ người, nghĩa hẹp là
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người” [40, tr.644].
Lý giải thông thường theo định nghĩa này (duy danh), “chữ người” mà Hồ Chí Minh
đề cập ở đây chủ yếu là con người cộng đồng, tồn tại ở ba khu vực địa lý khác nhau
(làng, nước, thế giới) được hiểu ở ba nghĩa: hẹp, rộng và rất rộng và đây chủ yếu là con
người xã hội, có quan hệ xã hội và mang bản chất xã hội. Con người hình thành là do biết
đối xử với người khác, giải quyết các quan hệ xã hội từ hẹp (gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn) trong làng đến quan hệ rộng là đồng bào cả nước, rộng nữa là nhân loại cả thế giới.
Điều này cũng có nghĩa con người không thể tách biệt đồng loại, tách biệt xã hội, ngay
quyền tự nhiên tạo hoá ban cho con người làm cha mẹ, anh em, chú bác chỉ có được trong
quan hệ với cộng đồng xã hội, với làng, với nước với nhân loại thế giới.
Song, sự độc đáo của cách hiểu này là ở chỗ: “Chữ người” (có thể hiểu như là chữ
người viết nghiêng), là chỉ cho con người cá thể (một con người), nhưng con người đó
còn là một con người xã hội, là một thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định.
Cộng đồng đó, không chỉ là cộng đồng ba cấp nhà - làng - nước đã tồn tại từ lâu trong
quan niệm của nhân dân ta, mà còn cụ thể hơn, rộng hơn với 5 cấp là gia đình, họ tộc, làng
xóm, dân tộc và nhân loại như Hồ Chí Minh nêu trong định nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là
để thành người (chữ người) thì điều kiện cần là con người cá thể, con người sinh vật học,
nhưng điều kiện đủ phải là con người xã hội. Nghĩa là nghiên cứu con người, bản chất con
người phải đồng thời chú ý cả hai mặt sinh vật học và xã hội.
Cái độc đáo của định nghĩa này còn hàm chứa tiêu chuẩn con người khi nói đến
nghĩa hẹp, rộng và rộng nữa, tức là nói đến khả năng phát triển của con người, đơn giản
hay phong phú, trình độ cao hay thấp phụ thuộc vào kết quả của quá trình ứng xử, giải
quyết các quan hệ xã hội xuất hiện đơn giản hay phức tạp, gia đình hay quốc gia hoặc
quốc tế. Con người sẽ phát triển hơn khi được giao tiếp rộng hơn, “đi một đàng, học sàng
khôn”.
Cùng dùng với thuật ngữ chữ người, gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào,
nhân loại để chỉ cho “con người”, Hồ Chí Minh còn dùng các thuật ngữ khác như: dân,
dân chúng, quần chúng, sĩ, nông, công, thương, già trẻ, gái, trai, cán bộ, đảng viên…
cũng để nói về “con người”. Mặc dù thuật ngữ “con người” Hồ Chí Minh dùng rất ít (hai
lần), nhưng thông qua các thuật ngữ trên Hồ Chí Minh đề cập đầy đủ các mặt của con
người.
1.1.1.2. Theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi lại…
Đó là những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống con người. Con người sinh vật học và con
người xã hội (con người trí tuệ) đều có nhu cầu (bản năng) ăn, ở, đi lại.
Song, con người khác con vật ở chỗ, trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc
bản năng của con người là bản năng đã được ý thức. ở con người cái bản năng đã được
cải tạo, nhưng không hề bị xoá bỏ, nó vẫn tác động tới toàn bộ đời sống của con người.
Quá trình người hoá là quá trình duy nhất diễn ra trong sự tương tác giữa yếu tố sinh vật
và yếu tố xã hội.
Thực ra không có hai loại con người tức con người sinh vật học và con người xã hội
cùng sống trong xã hội loài người mà chỉ có những con người cụ thể được phát triển từ
con người sinh học thành người khôn và trưởng thành, hiện tồn tại là con người trí tuệ, có
ý thức. Có thể thấy điều này qua cách lý giải của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, dù sống ở quốc gia độc lập hay lệ thuộc, đã là dân thì: “Dân dĩ
thực vi thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, không có ăn là không có trời. Lại có câu có
thực mới vực được đạo nghĩa là không có ăn chẳng làm được việc gì” [42, tr.572]. Và:
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [39,
tr.152]. Chính vì vậy, để dân phân biệt được giá trị của tự do, độc lập:
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn,
2. Làm cho dân có mặc,
3. Làm cho dân có chỗ ở,
4. Làm cho dân có học hành.
Đi đến 4 điều đó để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp
sức được cho tự do, độc lập [39, tr.152].
Điều này có nghĩa là Hồ Chí Minh quan tâm đến nhu cầu tối thiểu của con người,
dù là con người sinh vật học hay con người xã hội để tồn tại như một con người phải có
ăn, mặc, ở, đi lại. Đó là nhu cầu để được sống, có sống mới nói đến làm đạo lý và các
việc cao xa khác như chính trị, quân sự, chinh phục vũ trụ.
Hồ Chí Minh cũng cho rằng con người không phải chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn
có những nhu cầu về tinh thần, và nhu cầu tinh thần là cái đặc trưng của con người, cho
con người. Con người khác con vật chính ở nhu cầu tinh thần. Tất cả những nhu cầu vật
chất và tinh thần đó có được đáp ứng hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã
hội, vào hình thái kinh tế - xã hộ mà họ đang sống. Dân nô lệ, thuộc địa nửa phong kiến
có nhu cầu khác dân tư bản, dân của nước đế quốc thực dân và nhu cầu của con người ở
mỗi quốc gia được đáp ứng cũng khác nhau.
1.1.1.3. Theo Hồ Chí Minh, con người là bộ phận của tự nhiên, nhưng con người
không phải chỉ biết thích nghi với tự nhiên, mà còn chinh phục tự nhiên; không phải chỉ
chịu lệ thuộc vào tự nhiên, mà còn muốn cải tạo, làm chủ tự nhiên, không phải chỉ bằng
lòng với cái tự nhiên vốn có, mà còn tạo ra cái thiên nhiên thứ hai để đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người. Trong hoạt động đầy sáng tạo đó, mỗi con người cụ thể
bao giờ cũng là thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định, tham gia vào chinh phục,
cải tạo tự nhiên theo chức năng và vai trò của cộng đồng mình.
1.1.1.4. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt người này với người khác chủ yếu không
phải là vấn đề chủng tộc màu da (vàng, trắng, đỏ hay đen) hoặc vấn đề dân tộc, mà từ
nhận thức về chủng tộc, dân tộc đi đến nhận thức về giai cấp. Đó là sự vận động của tư
duy Hồ Chí Minh về vấn đề con người. Từ việc tìm câu trả lời: Vì sao người Việt Nam
phải làm nô lệ, phải cùng khổ, mất nước, người Việt Nam da vàng bị mất nhân tính cũng
như nhiều dân tộc thuộc địa trên thế giới đang bị đoạ đày, Hồ Chí Minh đã thấy được
rằng chỉ có thể giải phóng giai cấp mới giải phóng được các dân tộc trên thế giới. Nhưng
Người không đi tới nhận thức một cách cực đoan về vấn đề giai cấp, mà lại luôn luôn kết
hợp dân tộc với giai cấp trong mọi vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề
con người.
1.1.1.5. Từ các vấn đề nêu trên, bản chất con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
bộc lộ rõ ràng. Hồ Chí Minh luôn luôn đặt con người, mỗi cá nhân con người trong mối
quan hệ ba chiều:
Quan hệ với một cộng đồng nhất định, trong đó mỗi người là một thành viên;
Quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp
bức, bóc lột;
Quan hệ với tự nhiên, mà con người là một bộ phận không tách rời, nhưng lại luôn
luôn “người hoá” tự nhiên trong những cộng đồng xã hội nhất định và bị quy định bởi
những chế độ xã hội nhất định.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm mác-xít về con người: "Con người không phải
là một cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [34, tr.11].
Các quan hệ xã hội có nhiều loại, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò chi phối,
quyết định các quan hệ xã hội khác, biểu hiện thành quan hệ giai cấp. Vì nó xác định con
người thuộc các giai tầng xã hội khác nhau. Do vậy, nói đến bản chất con người trong xã
hội có giai cấp thì trước hết phải nói đến tính giai cấp của nó.
Nhưng bản chất con người không phải chỉ do quan hệ sản xuất tạo ra, cũng không
thể chỉ quy bản chất con người vào tính chất giai cấp của nó. Nếu quan hệ sản xuất thể
hiện bản chất tầng một của con người thì các quan hệ xã hội khác thể hiện bản chất tầng
hai của con người và lại được thể hiện thông qua bản chất tầng một, tạo nên những khác
biệt giữa con người với con người, giữa nhà tư sản này với nhà tư sản khác, giữa công
nhân này với công nhân khác, chưa kể sự khác biệt giữa công nhân với tư bản…
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khẳng định quan hệ sản xuất đã phân chia con người
thành “giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”, đồng thời lại thấy chỉ có tổng hoà
tất cả các quan hệ xã hội thì mới tạo thành bản chất con người. Người không coi nhẹ mặt
quan hệ sản xuất, nhưng cũng không tuyệt đối hoá quan hệ sản xuất, và cũng không coi
quan hệ sản xuất là quan hệ duy nhất tạo thành bản chất con người.
Các quan hệ xã hội không phải nhất thành bất biến: có loại thay đổi nhanh, có loại
thay đổi chậm; có loại tồn tại tương đối lâu, trong đó những gì tốt đẹp vẫn được giữ lại để
kế thừa, phát triển trong những điều kiện lịch sử mới (quan hệ đạo đức, quan hệ thiện ác,
quan hệ gia đình, họ tộc, làng xã, dân tộc…), có loại lại bị thay thế bởi cái khác khi
những điều kiện lịch sử cụ thể để nó tồn tại không còn nữa (quan hệ sản xuất, quan hệ
giai cấp).
Từ đó có thể thấy rằng bản chất con người cũng biến đổi cùng với sự biến đổi của
các quan hệ xã hội. Chính điều này mà Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề cải tạo
con người cũ, xây dựng con người mới khi chế độ thực dân phong kiến ở nước ta đã bị lật
đổ, khi cả một dân tộc đã bắt tay vào xây dựng một chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản.
1.1.2. Về phát triển toàn diện con người và bản chất con người Việt Nam phát
triển toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, con người Việt Nam được sự dìu dắt,
giáo dục, đào tạo của Đảng cộng sản và Hồ Chí Minh đã trở thành yếu tố quyết định, là
động lực thực sự cho sự phát triển của cách mạng trong suốt tám, chín chục năm qua.
Hơn thế nữa, đối với Hồ Chí Minh, con người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu
cao cả nhất, là cái đích hướng tới của cách mạng Việt Nam. Chúng ta làm cách mạng là
để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng và phát triển con người, nâng vị thế
của con người lên một tầm cao mới, xứng đáng là chủ thể của mọi quá trình phát triển
trong xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, sau khi giành được chính quyền về tay nhân
dân, dân tộc Việt Nam được giải phóng về chính trị thì phát triển con người về mọi mặt
để không ngừng năng cao trình độ, phẩm chất, năng lực của người chiến sĩ cách mạng,
của công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động (nói chung là người
Việt Nam) là tư tưởng rất quan trọng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Phát triển toàn diện con người, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và đào
tạo con người phát triển toàn diện là các phạm trù được Hồ Chí Minh dùng nhiều, tuy có
khác nhau về từ ngữ nhưng có nội dung, ý nghĩa giống nhau là hình thành con người
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh – thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm phát triển toàn diện con người của Hồ Chí Minh được trình bày một
cách trực tiếp và gián tiếp qua rất nhiều tác phẩm, cũng như qua những hành động cụ thể
trong hoạt động thực tiễn của Người. Đáng chú ý là: “Thư gửi các học sinh” nhân ngày
khai trường đầu tiên của chế độ mới (tháng 9/1945); Hồ Chí Minh chỉ rõ các học sinh
được hấp thụ: “Một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn các năng lực sẵn có của các
em” (TG nhấn mạnh) [39, tr.32]. Quan điểm này trở thành mục tiêu đào tạo của giáo dục
Việt Nam.
Trong Báo cáo chính trị, trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
(tháng 2-1951), lần đầu tiên, vấn đề xây dựng con người mới được Hồ Chí Minh chính
thức nêu ra, cần “Xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho
công cuộc kháng chiến kiến quốc” [40, tr.173]. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
nói chuyện tại Lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I, (12-6-1956), Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp
người, lớp cán bộ mới” [43, tr.183].
Khái niệm người xã hội chủ nghĩa, con người mới xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí
Minh chính thức đề cập tới trong bài nói chuyện với thầy và trò trường Chu Văn An (Hà
Nội) ngày 31-12-1958, Người khẳng định: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: người xã
hội chủ nghĩa” [44, tr.296]. Từ đó, khái niệm con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí
Minh nhắc đến nhiều lần. Nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp
toàn miền Bắc nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tháng 3-
1961, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa” [45, tr.310].
Luận điểm trên của Hồ Chí Minh trở thành luận điểm kinh điển khi đề cập đến vấn
đề xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội. Có thể hiểu luận điểm này với những nội
dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra con người xã hội chủ nghĩa - chủ thể của toàn
bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không thể
nói đến việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, ngược lại, không có những con người
xã hội chủ nghĩa thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ
nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải
được đặt ra ngay từ đầu và phải được Đảng, Nhà nước, nhân dân, mỗi gia đình và cá nhân
đặc biệt quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa, điều đó không có nghĩa
là tất cả mọi người phải và có thể trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ,
thật hoàn chỉnh ngay một lúc. Điều đó chỉ có nghĩa là, trước hết, cần có những con người
tiên tiến, có được những nét tiêu biểu của con người mới xã hội chủ nghĩa có thể làm
gương cho người khác, từ đó lôi cuốn toàn xã hội đẩy mạnh việc xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa
Phát triển toàn diện con người, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đào tạo
con người phát triển toàn diện được Hồ Chí Minh khái quát trong sự nghiệp trồng người
của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp trồng người của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và toàn
dân ta không chỉ giới hạn trong việc vun trồng các mầm non tương lai của nước nhà mà
tiến hành suốt quá trình phát triển của đời người nhằm hình thành ở Việt Nam những con
người mới đủ sức làm chủ cách mạng, làm chủ xã hội phát triển. Đó là những con người
có giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có kiến thức, hiểu biết, nắm vững khoa học kỹ
thuật; có đạo đức cách mạng: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng; sống có lý tưởng, có bản
lĩnh, biết làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân; biết sống “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”; lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, lao động có năng suất, chất
lượng, hiệu quả; không sợ gian khổ, khó khăn, vì lợi ích của bản thân, tập thể và xã hội;
có năng lực để làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Điều này cũng có
nghĩa là kết quả của sự nghiệp trồng người là con người mới phát triển toàn diện.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh nhìn nhận, tiếp cận con người Việt Nam đương đại trên các
mặt chủ yếu hình thành nên phẩm chất và năng lực của nó, đó là: Thể lực, Trí tuệ, Thẩm
mỹ, Đạo đức. Điều này thể hiện qua nhiều bài viết, bài nói của Người như: “Đời sống
mới”, “Thư gửi lớp chuẩn bị tổng phản công” của trường trung học lục quân Trần Quốc
Tuấn ngày 9/11/1949; “Gửi tướng Nguyễn Sơn” tháng 3/1948; “Nhiệm vụ của người làm
tướng” (8/1948) và nhất là trong bài “Gửi các em học sinh” trên báo Nhân dân ngày
24/10/1955.
Trong bức thư này, Hồ Chí Minh đã đứng trên quan niệm về bản chất (những điều
cốt lõi) của con người phát triển toàn diện là Đức, Trí, Thể, Mỹ, để đặt yêu cầu phải rèn
luyện, giáo dục, đào tạo, phát triển con người theo những tiêu chí đó. Người viết:
Đối với các em việc giáo dục gồm có:
- Thể dục: Để làm cho thân thể khoẻ mạnh.
- Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm tri thức mới.
- Mỹ dục: Để phân biệt cái đẹp, cái gì không đẹp.
- Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học,
yêu của công (năm cái yêu) [43, tr.75].
Tư tưởng này được Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định trong “Báo cáo về Dự thảo
Hiến Pháp sửa đổi” tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà
(1959). Người viết: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về Đức dục,
Trí dục, Thể dục” [44, tr.593].
Như vậy, con người phát triển toàn diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh hiện ra
như một thực thể vẹn toàn mà trong nó sự mạnh khoẻ về mặt thể chất, sự phong phú về
mặt trí tuệ (tri thức mới và cũ), sự hiểu biết sâu sắc về cái hay cái đẹp, cái tốt, cái cao
cả cũng như những phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp là những điểm cơ bản và chủ
yếu nhất.
1.2. một số nội dung cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt
Nam phát triển các mặt đức, trí, thể, mỹ
1.2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam phát
triển các mặt đức, trí, thể, mỹ
1.2.1.1. Hồ Chí Minh tiếp thu những kinh nghiệm đào tạo, phát triển con người
của dân tộc Việt Nam
Dân tộc nào cũng phải đào tạo những người lao động. Lao động sản sinh con người
và lao động cũng cải tạo, phát triển con người. Người Việt Nam luôn mong ước trở thành
người lao động giỏi, thành người khổng lồ, thành các thần, các thánh trong lao động
chinh phục tự nhiên, thành các “ông tát bể, ông kể sao, ông đào sông, ông trồng cây, ông
xây rú ” (đồng dao), thành Sơn Tinh chống lại Thuỷ Tinh tượng trưng cho sức mạnh lũ
lụt để bảo vệ sản xuất và an cư lạc nghiệp.
Việt Nam là một quốc gia nằm ở cửa ngõ Đông Nam châu á, khí hậu khắc nghiệt,
môi trường sống khó khăn, thiên tai thường xuyên đe doạ sự tồn vong của cộng đồng và
cá nhân. Việt Nam lại ở cạnh một quốc gia rộng lớn, luôn có tham vọng bành trướng
xuống phía nam. Trong lịch sử, nhân dân ta thường xuyên phải đối đầu với các cuộc xâm
lược không chỉ từ Phương Bắc mà cả Phương Tây. Đặc điểm đó đòi hỏi người Việt Nam
phải luôn cảnh giác, phải quan tâm đến rèn luyện sức khoẻ, luyện võ nghệ, rèn tài và kỹ
năng chiến đấu, hun đúc tinh thần sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, để trở thành người
anh hùng có kỹ thuật xây thành đắp luỹ và kỹ sảo chế tác nỏ thần như An Dương Vương
trong chiến đấu chống ngoại xâm.
Bên cạnh người yêu nước, người lao động, ở Việt Nam cũng sớm hình thành người
văn hoá. Do tiếp biến, giao thoa của các nền văn hoá ấn Độ, Trung Hoa và sau này là
Pháp, đời sống tinh thần, tư tưởng người Việt chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo, Nho
giáo, Đạo giáo và Ki tô giáo. Trong đó Nho giáo có ưu thế hơn so với các tôn giáo khác
bởi nó có một hệ thống phạm trù, khái niệm khá hoàn chỉnh, phù hợp với sự thống trị của
giai cấp phong kiến Việt Nam. Hơn nữa, Nho giáo không chủ trương ngu dân để dễ cai trị
mà còn muốn có một xã hội học tập, mọi người đi học “mấy chữ để làm người”. Nho
giáo còn xây dựng được mẫu người lý tưởng cho xã hội phong kiến đó là những người
“quân tử”, những “kẻ sĩ”, những “đại trượng phu” mà ở họ các năng lực, phẩm chất và ý
chí tinh thần được coi trọng và đề cao. Nho giáo còn đề ra những phương sách cụ thể để
đào tạo và phát triển con người, trong đó nhấn mạnh yếu tố tự giác “tu thân” của các cá
nhân để tề gia mà vươn tới trị quốc, bình thiên hạ.
Trong lịch sử cha ông ta đã sử dụng một hệ thống phương pháp giáo dục, đào tạo,
phát triển con người khá phong phú như:
- Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đức dục với trí dục
- Kết hợp giữa tri và hành.
- Khích lệ, động viên và khuyến khích tinh thần tự giác vươn lên của mỗi con người.
Học tập kinh nghiệm cha ông, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức
cách mạng, lý tưởng, quan điểm sống với tri thức khoa học xã hội nhân văn cho người
Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, có làm tốt điều đó chúng ta mới có thể tạo ra được những
con người mới đức tài vẹn toàn; đạo đức và tài năng, lý trí và tình cảm không thể tách rời
trong nhân cách của người cách mạng. “Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”; “có
tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại để thụt két” [43,
tr.126]. Vì vậy, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đức dục với trí dục là phương pháp hết sức
quan trọng để đào tạo cho cách mạng những con người “vừa hồng, vừa chuyên”.
“Tri và hành” là một phương pháp đào tạo, phát triển con người của nền giáo dục
truyền thống Việt Nam. Mặc dù trong thực tế vấn đề này làm chưa tốt, kinh nghiệm còn
ít, song giá trị tinh thần, tiến bộ và ý nghĩa tích cực của nó trong việc xây dựng, hoàn
thiện và phát triển nhân cách con người là điều đáng ghi nhận và cần phải tiếp thu. Hồ
Chí minh luôn nhấn mạnh kết hợp học với hành, lý luận phải gắn với thực tế, học tập kết
hợp với lao động sản xuất. Hồ Chí Minh viết: “Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế, chỉ
thuộc lòng để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta cần phải gắng
học, đồng thời học thì phải hành” [40, tr.235]; “chỉ biết lý luận mà không biết thực hành
thì cũng là tri thức một nửa lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động
sản xuất” [44, tr.174]; theo Hồ Chí Minh nếu thực hiện tốt “tri và hành”; giữa nhận thức
với hoạt động thực tiễn, làm cho mọi người biết lấy việc phục vụ sự nghiệp cách mạng
của Đảng và của dân tộc làm mục đích tối cao cho việc học tập, nâng cao trình độ mọi
mặt của mình sẽ là biện pháp hữu hiệu thúc đẩy sự ra đời phát triển của con người toàn
diện ở nước ta.
Động viên, khích lệ tinh thần hiếu học, cần học là phương pháp mà cha ông ta ưa
dùng như: niêm danh, yết bảng các sĩ tử thi đỗ; khắc tên vào bảng vàng, bia đá; tổ chức lễ
vinh quy bái tổ một cách trịnh trọng; ban thưởng yến tiệc, mũ áo, ruộng đất, tước lộc
Sinh thời Hồ Chí Minh cũng có những hình thức khen thưởng xứng đáng cho những người
chăm ngoan, học giỏi; tặng giấy khen, bằng khen; danh hiệu học sinh giỏi, danh hiệu cháu
ngoan Bác Hồ, người tốt, việc tốt; gửi ra nước ngoài tiếp tục đào tạo; ưu tiên tuyển chọn vào
biên chế; nâng lương trước thời hạn; đề bạt vào những cương vị lãnh đạo phù hợp
1.2.1.2. Hồ Chí Minh tiếp thu những quan điểm phát triển con người toàn diện
của chủ nghĩa Mác - Lênin
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh được vũ trang những quan điểm cực
kỳ quan trọng:
- Quan điểm duy vật biện chứng về con người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã
hội;
- Sự giải phóng con người trong xã hội tư bản chỉ có thể là kết quả của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản;
- Đặc biệt, Hồ Chí Minh tiếp nhận được quan điểm của các nhà kinh điển về con
người phát triển toàn diện.
theo chủ nghĩa Mác - Lênin, con người phát triển toàn diện là con người phát
triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có trên tất cả các mặt: đạo đức, trí tuệ, thể lực, tình
cảm, năng lực nhận thức và hành động, óc thẩm mỹ và khả năng cảm thụ cái đẹp, hiểu
biết được các hiện tượng tự nhiên, xã hội diễn ra xung quanh, đồng thời có thể sáng
tạo ra những cái mới theo năng lực của họ có lợi cho sự phát triển của mỗi cá nhân và
cả cộng đồng. Lênin coi đó là “những con người phát triển về mọi mặt, được chuẩn bị
về mọi mặt và biết làm mọi việc”.
Vì vậy, phát triển toàn diện con người trước hết là sự phát triển không ngừng của
các mặt hợp thành nhân cách của nó, tạo nên một chỉnh thể sinh động của con người, làm
cho con người có sự phát triển về chất trong nhận thức và thực tiễn của mình. Sự phát
triển mọi mặt của con người không mâu thuẫn với sự phát triển thiên hướng, phát triển
năng khiếu chuyên biệt, mà trái lại, chính sự phát triển toàn diện các mặt là điều kiện, là
nền tảng cho các năng lực chuyên biệt phát triển tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Các nhà kinh điển mác-xít còn chỉ ra những nguyên tắc, điều kiện để đào tạo, giáo
dục những con người phát triển về mọi mặt cho xã hội mới. Đó là sự kết hợp hợp lý giữa
giáo dục đạo đức, thể dục, trí dục và lao động sản xuất và sự kết hợp giữa lao động sản
xuất với thực hiện giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giữa học tập lý luận, kiến thức chung với
hoạt động thực tiễn.
Xã hội ngày càng phát triển, lực lượng sản xuất không ngừng đổi mới và nâng cao.
Điều này đòi hỏi con người phải có tri thức ngày càng cao về mọi mặt để làm chủ quá
trình sản xuất xã hội, làm chủ cuộc sống của bản thân và đóng góp tích cực cho sự phát
triển của cộng đồng. Vì vậy, con người phát triển toàn diện phải là những người có kiến
thức phong phú về tự nhiên, xã hội và nhân văn, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
của xã hội. Do đó, Mác, Ăngghen, Lênin chủ trương phải trang bị cho con người, đặc biệt
là thế hệ trẻ những tri thức khoa học hiện đại vì “khoa học là lực lượng thúc đẩy cách
mạng trong lịch sử” và tương lai “tri thức xã hội sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp” [34, tr.373]. Từ đó các ông cho rằng phải giáo dục, tạo điều kiện để mọi người được
học tập, tiếp cận với các ngành khoa học như vật lý, toán học, hoá học, sinh học, thiên
văn học, cơ học, lịch sử, địa lý, văn học, dân tộc học, triết học, kinh tế học, ngoại ngữ
Theo các nhà kinh điển, không có đạo đức chung chung, trừu tượng, đạo đức bao
giờ cũng nảy sinh trên mảnh đất hiện thực, góp phần giải quyết những vấn đề của cuộc
sống đang đặt ra. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, đạo đức bao giờ cũng mang tính
giai cấp. Các ông đã phân tích sâu sắc tính chất tiên tiến của đạo đức vô sản. Đó là đạo
đức được thiết lập trên cơ sở phương thức sản xuất hiện đại và của những con người
mang tính cách mạng triệt để, đó là đạo đức mới, thấm đậm tính nhân văn, nhân ái sâu
sắc “vì con người, vì cuộc sống tốt đẹp của con người”. Tiêu chuẩn của đạo đức mới là
kiên quyết đấu tranh chống áp bức nô dịch, chống đày đoạ con người, xoá bỏ mọi chế độ
bóc lột người, tham gia lao động tự giác, tích cực vì lợi ích chung của quần chúng cần lao
trên thế giới. Đạo đức vô sản cũng đòi hỏi mỗi cá nhân có cuộc sống riêng trong sáng.
Hiểu theo quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin đạo đức không chỉ hình thành ở con
người những chuẩn mực quan hệ ứng xử như là đức hạnh, mà đó còn là lập trường tư
tưởng, ý thức giai cấp, là nhân sinh quan và thế giới quan khoa học. Cho nên sự phát triển
toàn diện, hài hoà, cân đối của con người, đòi hỏi ở họ phải có đạo đức, lý tưởng, quan
niệm sống đúng đắn, để góp phần tạo lập nên những quan hệ mới tốt đẹp: “Sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của mọi người” và cũng để xoá bỏ
quan hệ người với người là chó sói “hoặc anh cướp đoạt của người khác, hoặc người
khác cướp đoạt của anh. Hoặc anh làm thuê cho người khác, hoặc người khác làm thuê
cho anh. Hoặc anh là chủ nô, hoặc anh là nô lệ”.
Con người phát triển toàn diện là phải biết rung động và cảm thụ cái đẹp, cái cao cả,
có quan điểm thẩm mỹ đúng đắn và có khả năng sáng tạo ra cái đẹp. Mỹ học mác-xít
quan niệm giáo dục thẩm mỹ là giáo dục cái đẹp cho con người, nhằm tạo lập nên quan
hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, giữa con người với tự nhiên cũng như giữa cá nhân
với cộng đồng. Vì vậy, các nhà kinh điển cho rằng để có con người phát triển toàn diện
thì ngay từ bé họ phải được trang bị những kiến thức về hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc, thi
ca
Mác, Ăngghen, Lênin đánh giá cao vai trò của thể lực, sức khoẻ con người. Một
thân thể cường tráng, một lý tưởng, quan niệm sống đúng đắn tích cực, một khối lượng tri
thức phong phú về mọi mặt đó là hình mẫu của con người xã hội xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Việc xuất hiện và phát triển không ngừng con người xã hội chủ
nghĩa, không chỉ phản ánh mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng xã
hội mà còn là điều kiện để thúc đẩy phát triển tự do và toàn diện của các cá nhân. Trong xã
hội mới, sự phát triển toàn diện của cá nhân này không nhằm tước đoạt sự phát triển đầy đủ,
toàn diện của các cá nhân khác, không nhằm đi tới sự áp bức, bóc lột người khác như trong
xã hội có đối kháng giai cấp, mà ngược lại là tạo điều kiện cho các cá nhân và cả cộng đồng
cùng phát triển. Đó là đặc điểm nổi bật thể hiện tính nhân văn sâu sắc của xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Với tư cách là học thuyết tổng kết quá khứ, giải thích và cải tạo hiện tại, chuẩn bị và
hướng dẫn tương lai, chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra những quy luật tất yếu của quá
trình vận động và phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như tiến trình phát triển
của con người nói riêng, đã chỉ ra những con đường, phương hướng cơ bản để xây dựng
xã hội mới và phát triển con người cho xã hội tương lai. Bằng những luận chứng khoa
học các nhà kinh điển mác-xít đã khẳng định: con người phát triển toàn diện là đỉnh cao
trong quá trình phát triển con người, là bước đi tất yếu của nhân loại để giải phóng con
người một cách triệt để nhất, đem lại cho con người sức mạnh và quyền năng mới, xứng
đáng là người chủ chân chính trên trái đất này. Tuy nhiên, các ông cũng lưu ý quá trình
hình thành của con người phát triển toàn diện không phải một sớm một chiều mà diễn ra
lâu dài “chỉ đạt tới sau bao năm lâu dài nữa” và là kết quả tác động tổng hợp của nhiều
nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Bởi vậy, khi xây dựng và phát triển con người
toàn diện cần phải tính đến điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước, yêu cầu đặt ra của cách
mạng của từng thời kỳ, để có những bước đi thích hợp. Làm được như vậy, sự nghiệp đào
tạo, phát triển nguồn lực con người cho chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
mới có thể từng bước trở thành hiện thực sinh động trong thực tiễn cách mạng mỗi nước
cũng như trên phạm vi toàn thế giới.
Lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung mà trực tiếp là lý luận về phát triển con người
toàn diện nói riêng có ảnh hưởng rất to lớn với việc hình thành tư tưởng phát triển con
người toàn diện của Hồ Chí Minh. Có thể nói, đây là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết
định nâng tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh lên ngang tầm thời
đại, làm cho nó có tính cách mạng và khoa học sâu sắc, đồng thời góp phần to lớn vào
quá trình đào tạo, phát triển cho dân tộc và cách mạng Việt Nam những thế hệ người vừa
hồng thắm vừa chuyên sâu, đủ năng lực “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế
giới” [47, tr.512], đưa dân tộc ta từng bước “sánh vai với các cường quốc năm châu” [39,
tr.33].
1.2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam phát triển các
mặt đức, trí, thể, mỹ
Với quan niệm và cách nhìn nhận con người toàn diện như là một thể thống nhất,
sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố, các mặt: thể lực, trí tuệ, trình độ thẩm mỹ, đạo đức
cách mạng , Hồ Chí Minh cho rằng phát triển toàn diện người Việt Nam trước hết phải
tập trung phát triển các bộ phận cấu thành nên chỉnh thể đó.
1.2.2.1. Con người Việt Nam phát triển về mặt đạo đức
Xây dựng và phát triển đạo đức là nhu cầu tất yếu, khách quan của bất cứ xã hội
nào. Bởi đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội cũng như đời
sống của mỗi cá nhân. Đạo đức là gốc của con người. Thực tiễn lịch sử cho thấy, khi con
người được soi sáng bởi một lý tưởng đạo đức tiến bộ, khi sự hiểu biết về cái thiện, cái
ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ được nâng cao thì hoạt động của
họ càng hướng tới phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển xã hội. Vì vậy, từ xưa tới nay, các giai cấp, các dân tộc, các thủ lĩnh, các lãnh tụ đều rất
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mỗi thành viên trong cộng đồng, hướng họ tới
những việc làm có ích cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, coi trọng đạo đức đến đâu, chú trọng đến những nội dung nào của đạo
đức, đề cao những phạm trù nào, đặt đạo đức trên cơ sở thế giới quan nào thì lại tuỳ
thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể và lợi ích của mỗi giai cấp, mỗi tập đoàn trong xã
hội.
Tiếp nối truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc Việt Nam và tiếp thu những tinh
hoa của đạo đức nhân loại, đồng thời căn cứ vào thực tiễn cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh
hết sức chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đạo đức mới - đạo đức cách mạng cho con người Việt
Nam, nhằm phát triển họ về mặt đạo đức.
Khi đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh thường sử dụng các thuật
ngữ “Đạo đức mới” [40, tr.252], “đạo đức cách mạng” [40, tr.252]; “đạo đức xã hội chủ
nghĩa” [46, tr.224]; “đạo đức cộng sản” [45, tr.679]; “đạo đức tập thể” [45, tr.306]; “đạo đức
cách mạng của giai cấp vô sản” [46, tr.375]; đạo đức vô sản” [46, tr.375]
Theo Hồ Chí Minh, gọi “đạo đức mới” bởi vì “đạo đức đó không phải là đạo đức
thủ cựu” [40, tr.252], nó chưa hề xuất hiện trong lịch sử mà chỉ hình thành và phát triển
cùng với tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta. Đạo đức mới khác hẳn với đạo đức cũ:
Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất đầu ngẩng lên
trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không
bao giờ làm mà lại bắt nhân dân ta phải tuân theo để phục sự quyền lợi cho
chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm
gương cho nhân dân noi theo để lợi cho nước, cho dân [41, tr.321].
Gọi là “đạo đức cách mạng” vì nó là đạo đức phục vụ cách mạng, đạo đức mà
người cách mạng cần phải có. Đó là đạo đức được nảy sinh và phát triển trong cuộc đấu
tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ và hy sinh của nhân dân ta. Đạo đức cách mạng
là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” [44, tr.287]; “đặt lợi ích của cách
mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết” [47, tr.439]; “có tinh thần hy sinh
cho cách mạng, có tinh thần trách nhiệm để vượt mọi khó khăn" [42, tr.233]; “trong mọi
công tác, xung phong đi trước là để lôi kéo quần chúng chứ không phải xa rời quần