LUẬN VĂN:
Vấn đề tôn giáo và chính sách
đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở nước
ta hiện nay
Mở đầu
Tôn giáo là một phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc. Tôn giáo ra đời và tác động
sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôn giáo không chỉ thuần túy giải thích
sự hình thành, phát triển của tự nhiên và xã hội; không chỉ hướng con người đến những
giá trị của đời sống tinh thần và phương thức để thực hiện những ước muốn hạnh phúc
của con người.
Xã hội càng phát triển, tri thức khoa học mở ra cho nhân loại khả năng nối dài các
giác quan để nhận thức sâu sắc hơn giới tự nhiên và bản thân con người, nhưng không vì
thế mà tôn giáo thu hẹp ảnh hưởng của mình mà trái lại, tôn giáo tiếp tục phát triển cả về
quy mô hệ, phái cả về quy mô thiết chế và tín đồ trên phạm vi toàn thế giới.
Tôn giáo ngày nay còn là công cụ để thực hiện các mục đích phi tôn giáo như
nhân quyền, chiến tranh rất tộc, chiến tranh tôn giáo
Nhưng xét về bản chất và vai trò của tôn giáo dvjcn, đối với văn hóa, giáo dục thì
ngày nay tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa của
từng cộng đồng dân tộc trước xu hướng toàn cầu hóa, cũng như sự tác động của nó đối
với mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng của các quốc gia dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và đang phát
triển.
Nghiên cứu về tôn giáo sẽ góp phần quan trọng để nhận thức và thực hiện quan
điểm đổi mới của Đảng về tôn giáo, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương 1
Nguồn gốc bản chất của tôn giáo
và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
1.1. Bản chất, nguồn gốc tôn giáo
1.1.1. Bản chất
Tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng đa chiều, vì vậy các khái niệm về tôn
giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan là những vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau nhưng
lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, tiếp cận tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan
mang tính tương đối về ranh giới và thuộc tính.
Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt
khỏi giới tự nhiên. Còn tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ chức
có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi.
Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn tại
cho đến ngày nay. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào trong các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo. Mê tín dị đoan là niềm tin mù quáng vào những điều nhảm nhí có thể
làm cho con người bị hủy hoại cả tinh thần, sức khoẻ, tài sản, tính mạng của cá nhân, gia
đình và xã hội.
Do vậy cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân
thì nhà nước và xã hội cần phải quan tâm giáo dục, vận động từng bước loại bỏ dần mê
tín dị đoan, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Khi nghiên cứu nguồn gốc của tôn giáo dưới những góc độ khác nhau. Các Mác
cho rằng: Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người.
Nhưng theo Mác, đó không phải là con người trừu tượng, mà chính là thế giới con người,
là nhà nước, là xã hội. Nhà nước, xã hội trong một trình độ phát triển nhất định của nó đẻ
ra tôn giáo. Vì vậy tìm hiểu nguồn gốc ra đời và điều kiện tồn tại của tôn giáo cũng cần
phải nghiên cứu từ hiện thực đời sống của con người trong các mối quan hệ xã hội nhất
định.
Tôn giáo được hình thành từ các nguồn gốc chủ yếu sau:
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội: đó chính là trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình
độ chinh phục tự nhiên của con người. Mỗi khi con người cảm thấy nhỏ bé, yếu đuối, bất
lực trước tự nhiên thì con người giải thích tự nhiên bằng tôn giáo.
Trong xã hội có giai cấp, khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải xã hội làm ra
nhiều, đi cùng với nó là sự xuất hiện của giai cấp và đấu tranh giai cấp dẫn đến cảnh
"người ăn không hết kẻ lần không ra", xã hội bất công triền miên con người cũng rơi vào
tình trạng bất lực đối với xã hội hiện thực, thì đó là điều kiện cho sự ra đời của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: Chủ nghĩa Mác - Lênin kế thừa và phát triển
nguồn gốc nhận thức của tôn giáo và nhấn mạnh rằng:
ở một giai đoạn lịch sử nhất định thì sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và chính bản thân con người là có giới hạn. Khoa học luôn tìm cách để nâng cao nhận
thức, hiểu biết của con người, song ở trong một thời kỳ lịch sử nhất định thì những điều
mà con người "chưa biết" thường gắn với quan niệm "không thể biết được" đó là mảnh
đất cho sự ra đời của tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức còn gắn liền với đặc điểm của quá trình nhận thức của con
người về thế giới khách quan, đó là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn, là một quá
trình thống nhất giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan của nhận thức. Sự phản
ánh đa dạng phong phú của hình thức quy định khả năng nhận thức đầy đủ, sâu sắc thế
giới khách quan. Nhận thức phải theo một quá trình từ cảm giác, tri thức, biểu tượng,
khái niệm, phán đoán đến suy lý không chỉ tạo ra khả năng nhận thức đầy đủ về thế giới
mà còn có khả năng phản ánh sai lầm và xa rời hiện thực.
1.2. Cơ sở tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta đang tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần phản ánh
lợi ích khác nhau của các tầng lớp xã hội. Sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội vẫn là một thực tế khách quan.
- Sự rủi ro cho con người trước tự nhiên, xã hội còn nhiều.
- Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, giai tầng xã hội diễn ra với nhiều hình thức
khác nhau, vừa tinh vi, vừa đa dạng phức tạp nhất là về tư tưởng.
- Âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch thường gắn với việc truyền bá, lợi
dụng vấn đề tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta.
- Bản thân các tôn giáo ở nước ta đã gắn bó với dân tộc trong suốt quá trình lịch sử
và ngày nay vẫn có giá trị đáp ứng ở mức độ nhất định nhu cầu văn hóa, tinh thần, đạo
đức, lối sống của xã hội.
Vì vậy trong thời kỳ quá độ ở nước ta, tôn giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
về tôn giáo, biểu hiện ở một số nội dung sau:
1.3.1. Tư tưởng đoàn kết lương giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo, đoàn kết các tôn giáo với nhau
nằm trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Người. Đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai
cấp Đoàn kết là một chiến lược lâu dài của cách mạng chứ không phải là khẩu hiệu nhất
thời.
Hồ Chí Minh nói: "Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài.
Đoàn kết là một chính sách dân tộc không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ".
Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ Chí Minh được hình thành trên
cơ sở:
- Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc. Đây là truyền thống quý báu,
là cơ sở động lực cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, chiến thắng kẻ thù xâm lược,
chế ngự thiên nhiên để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
- Đề cao vai trò của quần chúng nhân dân với tư cách là người sáng tạo ra lịch sử.
"Lực lượng nhân dân là lực lượng vĩ đại hơn hết, không ai có thể đánh bại được
lực lượng đó", hay "trong bầu trời không có gì quý hơn bằng
nhân dân".
- Tư tưởng chống chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc là tư tưởng xuyên suốt của Hồ
Chí Minh về cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích các tôn giáo thống nhất
với lợi ích của dân tộc: "Dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới được giải phóng"; "tín đồ
Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Gia Tô tin ở chúa trời cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng.
Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng. Nhưng đối với dân ta đừng làm gì trái ý
dân. Dân muốn gì ta phải làm nấy".
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Công giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo
đều nên phải nỗ lực đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà".
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo
1. Tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Hồ Chí Minh là tôn trọng đức tin của mỗi
người. Năm 1945 chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba
Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đề nghị
Chính phủ ta tuyên bố "tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết".
Trước sự xuyên tạc của kẻ thù về chính sách tôn giáo, Hồ Chí Minh khẳng định
"Vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của mọi người".
2. Nội dung cơ bản về tự do tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
- Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ tự của nhân dân, không ai được
xâm phạm.
- Tôn trọng tự do tín ngưỡng nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn
giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
- Tôn trọng tự do tín ngưỡng đi đôi với bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống
văn hóa mới, xây dựng thuần phong mỹ tục.
- Phải tế nhị, tránh thô bạo trong việc thực hiện xây và chống bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng và bài trừ mê tín dị đoan trong xã hội.
Chương 2
Đặc điểm tôn giáo Việt Nam và phương hướng
công tác tôn giáo của Nhà nước ta hiện nay
2.1. Tình hình, đặc điểm tôn giáo Việt Nam
2.1.1. Việt Nam là một nước đa tín ngưỡng, tôn giáo
Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã ba của Đông Nam châu á, là nơi giao lưu của
các luồng tư tưởng, văn hóa khác nhau, có địa hình phong phú, đa dạng, phức tạp ảnh
hưởng trực tiếp đến nhận thức và thực tiễn cuộc sống của nhân dân.
- Trong lịch sử chống ngoại xâm đã hình thành đậm nét tinh thần uống nước nhớ
nguồn, tôn sùng và đời đời ghi nhớ công lao đối với những người có công với nước với
dân.
- Tâm lý người Việt Nam là cởi mở, khoan dung, dễ giao lưu và tiếp biến các giá
trị tín ngưỡng, tôn giáo.
Chính vì vậy, tôn giáo đã vào Việt Nam sớm, có những tôn giáo có lịch sử hàng
ngàn năm và có hàng triệu tín đồ, nhưng đồng thời có những tôn giáo, số lượng tín đồ
không đáng kể.
Lịch sử dân tộc đã ghi nhận sự đóng góp to lớn của tôn giáo như Phật giáo trong
suốt quá trình lịch sử dân tộc, nhiều chức sắc của hầu hết các tôn giáo và sự đóng góp to
lớn của nhân dân có tôn giáo trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Tuy nhiên lịch sử dân tộc cũng ghi lại sự hạn chế mang tính lịch sử cụ thể của
một bộ phận tôn giáo đã bị các thế lực thù địch lợi dụng làm hạn chế sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.1.2. Đặc điểm đan xen, hoà đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam
Do bản lĩnh người Việt và vị trí địa lý của đất nước, làm cho văn hóa Việt Nam
sớm giao lưu, tiếp biến với các tôn giáo lớn trên thế giới.
- Phật giáo đến Việt Nam từ ấn Độ.
- Đạo giáo, Khổng giáo đến từ Trung Hoa.
- Ki tô giáo đến từ Bồ Đào Nha và kế tiếp là dòng Thừa sai Pari Pháp.
- Hồi giáo gắn liền với nhà nước Champa xưa.
Tính đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện ở các
yếu tố sau:
- Có tôn giáo cùng một lúc thờ đa thần cả thần, thánh, tiên, phật như Phật giáo đại
thừa và điển hình là đạo Cao Đài.
- Người dân Việt Nam cũng thờ đa thần, cả tổ tiên, phật, thần, thổ công, ông táo
- Ngày lễ của các tôn giáo ngày càng được mọi tầng lớp nhân dân tham gia như là
những hình thức văn hóa cộng đồng hướng tới các giá trị tinh thần, tâm linh lành mạnh.
Sự phân biệt tôn giáo không gay gắt.
2.1.3. Yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa và tập quán sản xuất nông
nghiệp lúa nước, gắn với sự đề cao vai trò phụ nữ trong gia đình với tư cách là tính âm -
đất - mẹ - biểu tượng cho sự sinh sôi nảy nở, bền vững, trường tồn, bao dung.
Do vậy Phật giáo, Khổng giáo, Ki tô giáo vào Việt Nam đều được Việt hoá thành
yếu tố nữ như Phật bà, Thánh mẫu, Bà chúa Liễu, Bà chúa Kho, tượng Phật bà quan âm;
Nơi Đức mẹ giáng trần ở La Vang Quảng Trị; Bà chúa nữ ở An Giang, Bà chúa đen ở
Tây Ninh
Yếu tố nữ hoá trong hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam thể hiện bản sắc văn
hóa, tôn trọng phụ nữ của Việt Nam trở thành nhân tố trội trong việc giao lưu, tiếp biến,
Việt hoá các tôn giáo lớn khi vào Việt Nam, đó là tính đặc sắc của văn hóa Việt Nam.
2.1.4. Thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước
Hơn 12 thế kỷ chống ngoại xâm, dân tộc ta đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết
dân tộc và truyền thống "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây". Nên tín
ngưỡng tôn giáo Việt Nam luôn thấm đượm tinh thần ấy.
Tục xây dựng nhà thờ thành hoàng làng để ghi ơn những người có công khai đất
mở làng.
Những vị Vua, Quan hiền tài có công dẹp giặc, cứu nước, khoan dân đều được
nhân dân tôn vinh xây đền thờ để tưởng nhớ, hay những người đổ đạt cao trong thiên hạ
cũng được nhân dân tôn vinh.
Thành hoàng có cả nam hay nữ, có vị là con người lịch sử nhưng có vị là con
người trong huyền thoại hay là con người nữa lịch sử nữa huyền thoại; có thiên thần và
có cả thân thần, có chính thần và có cả tà thần, dị thần như thần ăn xin, thần ăn trộm, thần
tà dâm
Không kể lai lịch đẳng cấp, sang hèn, một khi được nhân dân tôn vinh thừa nhận
làm thành hoàng thì cả cộng đồng, làng xã ấy nhất mực kính trọng. Còn những nghi thức
tà thần dần dần bị loại bỏ trong đời sống tinh thần của nhân dân.
2.1.5. Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam hầu hết là nông dân lao động
Đó là đặc điểm của nền sản xuất lúa nước lạc hậu, tỷ lệ nông dân chiếm đại đa số
trong xã hội. Bản chất của họ là cần cù lao động, yêu nước, căm thù xâm lược, khát vọng
vươn tới ấm no hạnh phúc. Chính vì vậy các tín đồ tôn giáo ở Việt Nam hầu hết gắn bó
với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, đóng góp sức người sức của để giành độc lập dân
tộc, chống kẻ thù chung, luôn luôn mong cho quốc thái dân an, tốt đời đẹp đạo.
Mặt khác các tín đồ tôn giáo Việt Nam không am hiểu sâu sắc giáo lý, nhưng
chăm chỉ thực hiện các nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín ngưỡng một cách
nhiệt tâm.
2.1.6. Một số tôn giáo bị các thể lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng vì
mục đích chính trị
Đặc điểm này hình thành chủ yếu do yếu tố hoàn cảnh lịch sử của một dân tộc
luôn bị xâm lược, các thế lực xâm lược và cầm quyền phản động luôn tranh thủ các yếu
tố tôn giáo vì mục đích chính trị. Thường gắn vấn đề tôn giáo với dân chủ, tự do, nhân
quyền, dân tộc theo quan điểm phương Tây mà không tính đến đặc điểm lịch sử chính trị,
văn hóa, trình độ phát triển kinh tế và dân trí hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn
dân, phục vụ cho những mục đích chính trị đen tối, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
2.2. Quan điểm chính sách đối với tôn giáo
2.2.1. Quan điểm
Từ nguồn gốc, bản chất, vai trò và tính khách quan của tôn giáo đối với đời sống
xã hội nói chung và đối với công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Đảng và
Nhà nước ta nhất quán quan điểm:
1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ
tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
2. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật.
3. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo
và không theo tôn giáo, giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc đề
cao các giá trị tích cực của tục thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ
quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì các lý do tôn giáo tín ngưỡng, đồng thời
nghiêm cấm lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín đị doan, hoạt động
trái pháp luật, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
4. Công tác tôn giáo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các
tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, của các cấp các ngành các địa phương và cơ sở; của
các tổ chức tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
5. Có chính sách cụ thể đối với vấn đề truyền đạo của tôn giáo.
2.2.2. Một số nhiệm vụ của công tác tôn giáo
1. Thực hiện có hiệu quả chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong đó có đồng bào các tôn giáo.
2. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống "tốt đời đẹp đạo"
trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở.
3. Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo dân tộc để phá
hoại đoàn kết dân tộc.
4. Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước ta trên thế giới, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
2.2.3. Một số giải pháp chủ yếu
1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
Nhà nước đã ban hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, làm cơ sở cho cả hệ thống
chính trị và toàn dân nhận thức đúng đắn quan điểm về chính sách tôn giáo của nước ta -
trên cơ sở đó để tuyên truyền vận động đồng bào tôn giáo nói riêng, đồng bào các giới
nhận thức đúng đắn chính sách tôn giáo của nhà nước để tự giác thực hiện.
Chính sách thì không mới, nhưng nhận thức về chính sách là vấn đề mới so với
thực tiễn của quá trình nhận thức thực hiện chính sách tôn giáo của nước ta từ trước đến
nay vì đó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài cùng công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - cho nên việc phát triển bình thường của các tôn giáo
là yêu cầu khách quan cần được tôn trọng theo quy định pháp luật.
2. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị cơ sở.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện nhất quán đồng bộ, bình đẳng mọi
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa ở địa phương và cơ sở. Đổi mới phương
thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức tập hợp đồng bào theo các tôn giáo vào các
hoạt động xã hội - chính trị ở địa phương, làm cho đồng bào giữa các tôn giáo và các giới
đoàn kết tương trợ lẫn nhau, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh.
Tuyên truyền và thực hiện nhất quán chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà
tu hành và tín đồ tôn giáo.
3. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
Đã hình thành cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương và địa phương,
để giúp Chính phủ cụ thể hoá các chính sách đối với đồng bào tôn giáo nhất là các chính
sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, các chính sách khuyến khích các tôn giáo
tham gia hoạt động xã hội; tạo điều kiện để các tôn giáo xây dựng cơ sở thờ tự, mở các
trường đào tạo chức sắc của tôn giáo.
Chủ động đấu tranh ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vào mục đích
chính trị của các thế lực thù địch.
4. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
Đến nay hệ thống tổ chức và cán bộ làm công tác tôn giáo đã được hình thành từ
Trung ương đến cấp huyện. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đã nghiên cứu quán
triệt đường lối quan điểm của Đảng và pháp luật về tôn giáo. Tham mưu cho Chính phủ,
chính quyền địa phương trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Tuy nhiên, công tác tôn giáo là một vấn đề lớn và cực kỳ khó khăn bởi vì mỗi tôn
giáo có hệ thống tổ chức, giáo lý, tín đồ và phương thức sinh hoạt khác nhau. Giá trị tinh
thần, đức tin của mỗi tôn giáo khác nhau, do vậy cán bộ làm công tác tôn giáo cần phải
được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn, chuyên sâu về lĩnh vực, mặt khác phải có
tấm lòng thực sự tôn trọng, hoà đồng, hoà mục, gắn bó với đồng bào tôn giáo, chức sắc,
chức việc và phải có năng lực vận động quần chúng, am hiểu sâu văn hóa đông, tây,
truyền thống dân tộc Thì mới thực sự góp phần giúp Đảng và Nhà nước ta thực hiện tốt
công tác tôn giáo.
Trong thực tiễn ở cơ sở, nhận thức mới về tôn giáo theo pháp lệnh tôn giáo chuyển
biến chậm, nhiều nơi vẫn "nói một đường, làm một nẻo"; nói đến tôn giáo thì luôn có tư
tưởng thiếu thiện chí, gây khó khăn, cản trở ít tạo điều kiện cho bà con trong việc thực
hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Việc vận dụng chính sách tôn giáo trong việc giải
quyết các vấn đề cụ thể ở cơ sở xung quanh thủ tục hành chính còn quá nhiều khó khăn
trở ngại, gây tâm lý không vui trong một bộ phận nhân dân có đạo.
Mặt khác cũng có nơi buông lỏng sự quản lý, không sát thực tiễn, tạo điều kiện
cho việc lợi dụng tôn giáo để xây dựng cơ sở thờ tự trái pháp luật hoặc cho truyền đạo sai
quy định, lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Vì vậy, cần tiếp tục được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Trên đây là một số quan điểm và phương hướng công tác tôn giáo ở nước ta hiện
nay - là cơ sở để bảo đảm cho đường lối chính sách, pháp luật về tôn giáo đi vào cuộc
sống. Cần được tiếp tục quán triệt sâu sắc trong hệ thống chính trị.
Kết luận
Tôn giáo là một phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, đồng thời là một hiện tượng
xã hội, gắn liền với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Tôn giáo ra đời từ nguồn gốc về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, về nhận thức
và tâm lý của con người trước tự nhiên và xã hội và bởi sự chi phối của hoàn cảnh lịch
sử, chính trị, văn hóa của các quốc gia dân tộc.
Bản chất tôn giáo là sự tôn sùng, là đức tin của nhân dân vào một giáo lý nào đó.
Bản thân tôn giáo có giá trị góp phần làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, là chỗ dựa tinh thần để nhân dân lý giải những hiện tượng tự nhiên xã hội xung
quanh hoặc những rủi ro bất hạnh trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tôn giáo, bên cạnh những giá trị và tác dụng của nó đối với một bộ phận nhân
dân, nó còn góp phần vào việc gìn giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa của các cộng đồng dân
tộc, góp phần vận động nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước,
giáo dục thế hệ trẻ.
Nước ta là một nước tôn giáo hình thành sớm và đa tôn giáo. Các tôn giáo đến
Việt Nam thông qua sự giao lưu và tiếp biến văn hóa với các nước phương Đông như ấn
Độ - Trung Quốc; với phương Tây như Bồ Đào Nha, Pháp, và yếu tố nội sinh của dân tộc
cũng sinh ra cái tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam vừa mang tính tự giác vừa mang tính áp
đặt, vừa có mặt tích cực, nhưng lại có mặt tiêu cực trong bối cảnh lịch sử cụ thể của dân
tộc. Nhưng dòng chảy chính của tôn giáo Việt Nam là đồng hành cùng dân tộc, số phận
tôn giáo nằm trong số phận dân tộc vì vậy tôn giáo Việt Nam hoà đồng không phân biệt,
cách biệt giữa những người có đạo và những người không có đạo, người không có đạo
cũng tôn trọng và kế thừa các giá trị cao đẹp của các tôn giáo đồng thời đồng bào theo
đạo cũng tích cực tham gia vào hoạt động của cộng đồng với bổn phận công dân của
mình. Những bậc hiền tài có công với dân với nước được cả những người có đạo và
không có đạo sùng tín như tôn giáo.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ thực tiễn của đất nước
và các giá trị của tôn giáo, Đảng, Nhà nước ta đổi mới nhận thức và thừa nhận tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang tồn tại lâu dài với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhà nước đã ban hành pháp lệnh tôn giáo năm 2004 và
Nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh tôn giáo năm 2005 để cụ thể hoá đường lối của
Đảng. Đó là cơ sở pháp luật cao nhất về chính sách tôn giáo của nhà nước ta.
Pháp lệnh tôn giáo ra đời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật của
nhân dân, đưa công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đi vào nề nếp. Góp phần cùng với
các tầng lớp nhân dân trong các tôn giáo đề cao cảnh giác làm thất bại mọi âm mưu lợi
dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tin tưởng rằng với chính sách mới về tín ngưỡng, tôn giáo sẽ góp phần làm cho
các tôn giáo ở Việt Nam phát huy mặt tích cực, tiếp tục đồng hành cùng dân tộc trên con
đường xây dựng đất nước phồn vinh vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, 2002.
2. Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, BCHTW khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, 2003.
3. Tập bài giảng lý luận về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta, Nxb Lý luận chính trị,2004.
4. Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, Chính phủ, Nxb Pháp lý, 2005.