Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Một số vấn đề về phát triển SX trồng trọt theo hướng SX hàng hóa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.78 KB, 45 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, nó không chỉ
là tư liệu sản xuất đặc biệt, mà còn là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với đời sống
xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của nước ta, với sức ép về dân số và tốc độ công
nghiệp hoá, đô thị hoá, sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp,
dịch vụ kéo theo nhu cầu sử dụng đất ngày một tăng mà quỹ đất thì có hạn. Chính vì
vậy, trong quá trình sử dụng đất chúng ta cần phải khai thác, bảo vệ và cải tạo đất
đai sao cho đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển ngày càng nhanh của xã hội. Để sử
dụng nguồn tài nguyên quý giá này được lâu dài thì công tác quản lý đất đai là rất
cần thiết. Nó đòi hỏi phải có sự thống nhất từ trung ương đến địa phương. Kể từ năm
1986 đến nay, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai không ngừng được củng cố và
kiện toàn đã góp phần đắc lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, đưa công tác quản lý đất đai
đi vào nền nếp;
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý đất đai vẫn còn
bộc lộ nhiều hạn chế như tình trạng chồng chéo trong quản lý, nạn tham nhũng... mà một
trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là hệ thống cơ quan quản lý đất đai được
tổ chức chưa hợp lý, cồng kềnh, hoạt động chưa hiệu quả. Điều này chưa đáp ứng được yêu
cầu của công tác quản lý đất đai trong điều kiện tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; đặc biệt là khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO). Đây là lý do để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, đánh giá thực trạng hệ
thống cơ quan quản lý đất đai; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và hoàn
thiện để hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ mà
đất nước đã giao phó. Với ý nghĩa đó, em lựa chọn đề tài: "Nâng cao năng lực trong hệ
thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay" làm đề án môn học;
2. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta bao gồm: Hệ thống cơ quan quản lý đất
đai có thẩm quyền chung, đó là: Chính phủ, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện và UBND
cấp xã; Hệ thống cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền riêng (còn được gọi là hệ thống cơ


quan quản lý có thẩm quyền chuyên ngành hoặc thẩm quyền chuyên môn), gồm: Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường và
cán bộ địa chính cấp xã, phường, thị trấn. Trong khuôn khổ của bản đề án này, em chỉ tập
trung đi sâu nghiên cứu các quy định về cơ cấu, tổ chức; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của hệ thống cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề án này theo đuổi những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây :
1
(I) Nghiên cứu cơ sở lý luận và sự cần thiết của việc thành lập hệ thống cơ quan
quản lý đất đai ở nước ta ; khái quát quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ quan
quản lý đất đai qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước;
(II) Nghiên cứu, đánh giá pháp luật hiện hành về cơ cấu, tổ chức; chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta;
(III) Đánh giá hiệu quả thực trạng hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai
nhằm chỉ ra những tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này;
(IV) Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai
ở nước ta;
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích mà đề tài đặt ra, đề án đã dựa trên phương pháp luận
nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lenin;
quan điểm lý luận, đường lối của Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước và
pháp quyền trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, đề án đã
sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, đánh giá, bình luận;
phương pháp so sánh luật học; phương pháp tổng hợp; phương pháp lịch sử v.v trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu của đề án:
Bố cục của đề tài gồm 3 phần chính: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận.
Trong đó phần nội dung là phần quan trọng nhất chứa đựng các vấn đề cơ bản của đề án
được chia làm 3 chương
Chương I: Tổng quan những vấn đề lý luận về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở

nước ta.
Chương II: Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta
Chương III: Một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực trong hệ thống cơ quan
quản lý đất đai ở nước ta hiện nay
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CƠ QUAN
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA
1. Sự cần thiết của việc Nhà nước quản lý đất đai
1.1. Vị trí và vai trò của đất đai với con người
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là thành quả đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta. Trải qua hàng ngàn năm, nhân dân ta đã phải tốn biết bao cụng sức,
mồ hôi, xương máu mới cải tạo, bảo vệ và bồi bổ được vốn đất như ngày nay.
Không những vậy trong nền kinh tế hiện đại, đất đai còn là một nguồn lực mang tính
đầu vào của nhiều ngành sản xuất quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, đất đai có những đặc
trưng không giống với các tư liệu sản xuất khác. Thứ nhất, về nguồn gốc, đất đai không do
con người làm ra mà do tự nhiên tạo ra, có trước con người và bị giới hạn bởi diện tích,
không gian, cố định về vị trí địa lý ; trong khi đó nhu cầu sử dụng đất (SDĐ) của con người
ngày càng tăng. Nên, đất đai ngày càng trở lên khan hiếm và có giá trị cao. Thứ hai, cũng
giống như bất kỳ tư liệu sản xuất khác, đất đai cũng có độ khấu hao. Độ khấu hao của đất
được chuyển hoá thành giá thành sản phẩm qua mỗi chu kỳ sử dụng. Song khác với các tư
liệu sản xuất khác, đất đai không bao giờ mất hết độ khấu hao nếu sau mỗi chu kỳ sử dụng,
con người biết cách cải tạo, bồi bổ đất đai. Thứ ba, do có giá trị ngày càng cao, có tính bền
vững và cố định về vị trí địa lý nên đất đai được sử dụng làm tài sản bảo đảm trong các quan
hệ thế chấp, bảo lãnh vay vốn và được dùng làm vốn góp liên doanh, liên kết trong hoạt
động kinh tế. Thứ tư, đất đai không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích mọi thành viên trong
xã hội mà còn liên quan đến lợi ích của Nhà nước, là một thành tố quan trọng hàng đầu của
môi trường sống của con người, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh
tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng nên việc SDĐ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
tắc chung của xã hội do Nhà nước đặt ra;

Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, đất đai thuộc quyền sở hữu của của chủ sở
hữu khác nhau: tư nhân, Nhà nước, tập thể ... ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý. Quy định này xuất phát từ nhu cầu nội tại của việc đoàn kết
sức mạnh toàn dân tộc trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành và giữ nền độc
lập. Hơn nữa, việc xác định và tuyên bố đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý còn mang ý nghĩa khẳng định chủ quyền, tính độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia. Mặt khác, hiện nay nước ta còn khoảng gần một nửa diện tích đất chưa sử
dụng (khoảng 10.027.265 ha), chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc. Việc xác lập đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý cũn là cơ sở để Nhà nước xây dựng các
chương trình và kế hoạch cụ thể nhằm từng bước đưa diện tích đất này vào sử dụng góp
phần phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai với vai trò là nguồn lực, nguồn vốn to lớn để
phát triển đất nước;
3
Với vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng như vậy, đất đai luôn đòi hỏi phải có sự quản
lý chặt chẽ, thống nhất và đồng bộ nhằm bảo đảm SDĐ đúng mục đích, tiết kiệm và mang
lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc Nhà nước quản lý đất đai
Luật đất đai 2003 đã quy định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu. Vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai được thực hiện bằng việc Nhà nước thực
hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai;
trao quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho người SDĐ thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất,
công nhận QSDĐ đối với người SDĐ ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người SDĐ
… Việc Nhà nước quản lý toàn bộ vốn đất đai dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ
yếu sau đây:
Thứ nhất, xét về bản chất chính trị, Nhà nước ta (Nhà nước CHXHCN Việt Nam) là
Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi
ích của nhân dân. Về cơ bản, lợi ích của Nhà nước là đồng nhất với lợi ích của nhân dân.
Mặt khác ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, để quản lý toàn bộ vốn đất đai thuộc
quyền sở hữu của mình, nhân dân với tư cách một cộng đồng xã hội không thể tự mình đứng
ra thực hiện các nội dung cụ thể của hoạt động quản lý đất đai mà phải cử người thay mặt

mình đứng ra làm nhiệm vụ này. Người đó chính là Nhà nước CHXHCN Việt Nam ;
Thứ hai, xét về nguồn gốc ra đời và chức năng của Nhà nước, Nhà nước là một tổ
chức chính trị do xã hội thiết lập nên với một trong những chức năng cơ bản là thay mặt xã
hội quản lý, điều phối nhịp nhàng, đồng bộ mọi hoạt động của con người theo một quỹ đạo
chung đảm bảo sự vận động và phát triển của xã hội không rơi vào tình trạng rối loạn, vô tổ
chức. Đất đai có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với toàn xã hội và cả với từng thành viên
sống trong xã hội. Vì thế nên nó không thể không chịu sự quản lý của Nhà nước nhằm dung
hoà lợi ích giữa các thành viên trong xã hội và dung hoà lợi ích giữa cá nhân với lợi ích của
cộng đồng trong quá trình SDĐ vì sự phát triển bền vững ;
Thứ ba, Nhà nước là một tổ chức trong hệ thống chính trị song khác với các tổ chức
chính trị khác; Nhà nước là một tổ chức chính trị - quyền lực được nhân dân trao cho quyền
lực công quản lý xã hội. Để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước có quyền thu thuế; có
quyền ban hành pháp luật; có quyền thành lập bộ máy nhà nước ... để bảo đảm cho pháp luật
được tuân thủ nghiêm chỉnh trên thực tế. Do đó, trong các phương thức quản lý của con
người thì phương thức quản lý nhà nước là phương thức có hiệu quả nhất được sử dụng để
quản lý đất đai - tài sản quý giá nhất của xã hội ;
Thứ tư, như phần trên đã đề cập nước ta còn khoảng gần một nửa diện tích đất tự
nhiên chưa sử dụng (chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc ...) chủ yếu tập trung ở khu vực miền
núi phía Bắc ; phía Tây các tỉnh khu IV (cũ), các tỉnh miền Trung ; các tỉnh Tây Nguyên ...
Đây cũng là những vùng chậm phát triển so với các địa phương khác trong cả nước. Vì vậy
muốn đưa diện tích đất này vào sử dụng cho các mục đích khác nhau của xã hội nói riêng và
thúc đẩy sự phát triển các khu vực này nói chung nhằm thu hẹp khoảng cách so với những
4
địa phương khác đòi hỏi phải đầu tư nguồn vốn ban đầu rất lớn mà ngoài Nhà nước ra không
có bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện được việc này ;
Thứ năm, ở nước ta đất đai là thành quả cách mạng ; trải qua nhiều thế hệ, nhân dân
ta phải tốn rất nhiều mồ hôi, công sức mới khai phá và cải tạo được vốn đất đai như ngày
nay. Mặt khác, Việt Nam vẫn còn là nước chậm phát triển “đất chật, người đông”; diện tích
đất canh tác bình quân một đầu người vào loại thấp trên thế giới (chưa bằng 1/6 mức trung
bình của thế giới), trong khi đó tốc độ phát triển dân số ở mức cao. Vì vậy để quản lý chặt

chẽ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất nông nghiệp vì lợi ích của các thế hệ người
Việt Nam hiện tại và tương lai thì không thể thiếu được sự quản lý của Nhà nước đối với đất
đai nói chung và đối với đất nông nghiệp nói riêng ;
Thứ sáu, đối với một nước nông nghiệp có khoảng 80% dân số làm nông nghiệp như
nước ta. Để xây dựng và củng cố quyền lực của nhà nước trung ương tập quyền thì Nhà
nước phải nắm và quản lý được toàn bộ đất đai. Đây là cơ sở kinh tế đảm bảo sự thống nhất,
tập trung quyền lực vào tay chính quyền trung ương.
1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.3.1. Khái niệm
Theo Từ điển: “Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các
cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo
những mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi;
Quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ
máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống nhất.
Theo nghĩa hẹp là hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý hành chính do cơ quan hành
pháp thực hiện bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước“;
Trên cơ sở khái niệm về quản lý nhà nước nói chung được đề cập trên đây, khái
niệm về quản lý đất đai và quản lý nhà nước đối với đất đai cụ thể như sau:
- "Quản lý đất đai là hoạt động bao gồm việc thiết lập các cơ chế, các chính sách và
các công cụ quản lý, các biện pháp quản lý và việc vận hành cơ chế đó nhằm quản lý và sử
dụng đất hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao";
- " Quản lý nhà nước đối với đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai";
Nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai được quy định tại Điều 6 Luật đất đai
năm 2003.
1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về đất đai
Nghiên cứu về quản lý nhà nước về đất đai cho thấy hình thức quản lý này có một số
đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hình thức quản lý nhà nước về đất đai xuất hiện và gắn liền với sự ra đời
của Nhà nước. Trước hết nhằm bảo vệ những lợi ích của Nhà nước, của giai cấp thống trị

trong lĩnh vực đất đai. Nếu Nhà nước đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân thì mục đích
5
của quản lý nhà nước đối với đất đai không chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà
còn bảo vệ lợi ích của người dân liên quan đến đất đai;
Thứ hai, quản lý nhà nước về đất đai do Nhà nước thực hiện thông qua bộ máy các
cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước (quyền lực công hay còn được gọi là
công quyền). Trong quá trình quản lý đất đai, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật đất đai buộc các đối tượng chịu sự quản lý là tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân SDĐ phải tuân theo;
Thứ ba, phạm vi của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai là lãnh thổ của từng cấp
đơn vị hành chính và toàn bộ vốn đất đai nằm trong đường biên giới quốc gia. Hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai mang tính vĩ mô thể hiện ở việc xây dựng, hoạch định chiến
lược, chính sách về quản lý và SDĐ chứ không hướng vào các hoạt động SDĐ mang tính tác
nghiệp cụ thể.
2. Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở nước ta
2.1. Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ra đời gắn liền với sự xuất hiện của
một hình thức quản lý đất đai của con người: Quản lý nhà nước về đất đai. Hệ thống cơ quan
này được Nhà nước thành lập và bằng pháp luật, Nhà nước quy định cơ cấu, tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm giúp Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ vốn đất đai
trong cả nước theo quy hoạch, kế hoạch chung.
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai là hệ thống cơ quan do Nhà nước
thành lập thống nhất từ trung ương xuống địa phương có cơ cấu, tổ chức chặt chẽ và có mối
quan hệ mật thiết với nhau theo quan hệ "song trùng trực thuộc" thực hiện chức năng,
nhiệm vụ giúp Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước và ở
mỗi địa phương theo quy hoạch, kế hoạch chung;
Hệ thống cơ quan này có đặc trưng là hệ thống cơ quan chuyên ngành được giao
nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai. Trong hoạt động, cơ quan quản lý đất đai cấp dưới
chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan quản lý đất đai cấp trên; đồng thời,
chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Uỷ ban nhân dân (UBND) cùng cấp. Đây chính là

tính chất "song trùng trực thuộc" trong hoạt động quản lý của hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai.
2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất
đai ở nước ta bao gồm: (1) Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền
chung gồm Chính phủ, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã; (2) Hệ thống cơ
quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền riêng gồm Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, cán bộ địa chính xã,
phường, thị trấn. Bên cạnh đó còn có sự tham gia của hệ thống cơ quan quyền lực vào hoạt
động quản lý nhà nước về đất đai với vai trò đại diện cho nhân dân thực hiện chức năng
giám sát;
6
2.2.1. Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu; Luật đất đai 2003,
xác định rõ thẩm quyền của cơ quan đại diện cho nhân dân là Quốc Hội và HĐND các cấp
(HĐND cấp tỉnh, HĐND cấp huyện, HĐND cấp xã) trong việc thực hiện vai trò đại diện chủ
sở hữu toàn dân về đất đai. Các cơ quan này không làm thay chức năng quản lý nhà nước về
đất đai của cơ quan quản lý mà tham gia hoạt động quản lý nhà nước về đất đai với tư cách
giám sát. Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp trong lĩnh vực quản lý đất đai
được thực hiện thông qua các phương thức chủ yếu sau đây:
- Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch SDĐ của
cả nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và SDĐ trong phạm vi cả
nước;
- HĐND các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai tại địa
phương (khoản 1, 2 Điều 7 Luật đất đai năm 2003);
2.2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung
Với chức năng quản lý Nhà nước về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (trong đó có
lĩnh vực quản lý đất đai), Chính Phủ và UBND các cấp có vai trò rất quan trọng trong việc
thực hiện nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Theo đó:
- Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch SDĐ của tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương và quy hoạch, kế hoạch SDĐ vào mục đích quốc phòng, an ninh; thống nhất
quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước;
- UBND các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý nhà nước
về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này (khoản 2, 4 Điều 7 Luật đất
đai năm 2003);
2.2.3. Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai
Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai được thành lập thống
nhất từ trung ương đến địa phương theo 4 cấp đơn vị hành chính:
- Cấp trung ương: Cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai ở trung ương
là Bộ Tài nguyên và Môi trường, là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ
văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực
hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước trong
lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy
văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật;
- Cấp tỉnh: Cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương là Sở Tài nguyên và Môi trường, là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh), giúp UBND
cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ trên địa bàn tỉnh theo
quy định của pháp luật. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
7
biên chế và công tác của UBND cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên
môn, nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Cấp huyện: Cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh là Phòng Tài nguyên và Môi trường, là cơ quan chuyên môn trực
thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có chức năng quản lý Nhà nước về
đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và
bản đồ trên địa bàn huyện theo quy định của pháp luật; Phòng Tài nguyên và Môi trường
chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời

chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài nguyên và Môi trường;
- Cấp xã, phường, thị trấn: Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn (gọi chung là cán
bộ địa chính xã) giúp UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) thực hiện
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường trong phạm vi xã, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài nguyên và Môi trường và cơ quan chuyên
môn giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
2.2.4. Các tổ chức dịch vụ công trong quản lý về SDĐ
Tổ chức sự nghiệp công và tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai là những khái
niệm lần đầu tiên được đề cập trong Luật đất đai năm 2003. Các tổ chức này ra đời nhằm
phúc đáp yêu cầu của công cuộc cải cách các thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng
đất; góp phần đẩy nhanh sự hình thành thị trường bất động sản (BĐS) có tổ chức và làm
"lành mạnh hóa" các giao dịch liên quan đến BĐS. Hơn nữa, sự ra đời của tổ chức sự nghiệp
công và tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai đánh dấu sự chuyển đổi nền hành chính
công mang nặng tính chất quan liêu "cai trị, quản lý" sang nền hành chính mang tính chất
gần dân, tính chất "dịch vụ, phục vụ";
Khái niệm tổ chức sự nghiệp công được Luật đất đai năm 2003 định nghĩa như sau:
"Tổ chức sự nghiệp công là tổ chức do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập, có chức năng thực hiện các hoạt động dịch vụ
công do ngân sách nhà nước chi trả" (khoản 28 Điều 4). Với quan niệm này thì Văn phòng
Đăng ký quyền sử dụng đất (Văn phòng ĐKQSDĐ) là cơ quan dịch vụ công có chức năng tổ
chức thực hiện đăng ký sử dụng đất và biến động về sử dụng đất, quản lý hồ sơ địa chính và
giúp cơ quan tài nguyên và môi trường trong việc thực hiện thủ tục hành chính về quản lý,
sử dụng đất đai; Việc Văn phòng ĐKQSDĐ ra đời với chức năng, nhiệm vụ được xác định
cụ thể trên đây chính là Nhà nước đã xác lập mô hình "một cửa" thực hiện cải cách các thủ
tục hành chính về đất đai; giúp cho cơ quan quản lý nhà nước về đất đai giảm áp lực từ nhu
cầu thực hiện các thủ tục về đất đai từ phía người dân và xã hội;
Bên cạnh đó, một loạt các tổ chức mới có một trong những chức năng là thực hiện
dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp ... trong lĩnh vực đất đai được Luật đất đai năm 2003
cho phép thành lập; đó là: Tổ chức phát triển quỹ đất và tổ chức hoạt động dịch vụ trong
quản lý, sử dụng đất đai;

8
- Tổ chức phát triển quỹ đất: Tổ chức phát triển quỹ đất hoạt động theo loại hình
đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ công ích do UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập để thực hiện bồi thường, giải
phóng mặt bằng trong trường hợp thu hồi đất sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được
công bố mà chưa có dự án đầu tư, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu vực có
quy hoạch phải thu hồi đất mà người sử dụng đất có nhu cầu chuyển đi nơi khác trước khi
Nhà nước quyết định thu hồi đất; quản lý quỹ đất đã thu hồi và tổ chức đấu giá quyền sử
dụng đất theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích đất được
giao quản lý. Việc ra đời tổ chức phát triển quỹ đất đánh dấu việc chuyển đổi công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng từ cơ chế hành chính (do cơ quan công quyền thực hiện) sang
cơ chế kinh tế (do doanh nghiệp thực hiện) đáp ứng đòi hỏi của việc quản lý và sử dụng đất
đai trong điều kiện kinh tế thị trường;
- Tổ chức hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai: Tổ chức sự nghiệp có
thu, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
thì được cấp phép hoạt động hoặc được đăng ký hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng
đất đai;
Các lĩnh vực hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai bao gồm:
- Tư vấn về giá đất;
- Tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Dịch vụ về đo đạc và bản đồ địa chính;
- Dịch vụ về thông tin đất đai;
3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước
về đất đai ở nước ta
3.1. Giai đoạn 1945 – 1959
Sau khi giành được độc lập, cơ quan quản lý đất đai của Phủ Toàn quyền Đông
Dương là Sở Trước bạ - Văn tự - Quản thủ điền thổ và Thuế Trực thu được Bộ Tài chính
tiếp nhận (Sắc lệnh số 41 ngày 03 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch nước). Sau đó ngành Địa
chính được thiết lập (Sắc lệnh số 75 ngày 29 tháng 5 năm 1946 của Chủ tịch nước) với tên
gọi Nha Trước bạ - Công sản - Điền thổ. Kèm theo đó là hệ thống các đơn vị trực thuộc ở 03

cấp tỉnh, huyện, xã nhằm duy trì, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Đến
năm 1953 do yêu cầu của kháng chiến, các Ty Địa chính được sáp nhập vào Bộ Canh nông,
rồi trở lại Bộ Tài chính để phục vụ mục đích thu thuế nông nghiệp.
Cải cách ruộng đất năm 1953 - 1958 đã mang lại sự khởi sắc cho ngành Địa chính.
Đứng đầu là Sở Địa chính thuộc Bộ Tài chính, hệ thống các cơ quan ngành dọc của Sở trực
thuộc Ủy ban hành chính các cấp, có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan khác thực hiện kế
hoạch hóa và hợp tác hóa nông nghiệp nông thôn.
Như vậy, từ 1945 đến 1959 hoạt động của ngành Quản lý đất đai chủ yếu là hình
thành hệ thống cơ quan quản lý đất đai trong chế độ mới với chức năng, nhiệm vụ bảo vệ
chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Trong những năm kháng chiến chống Pháp,
9
ngành Địa chính đã có một số thay đổi về hoạt động góp phần quan trọng thực hiện nhiệm
vụ huy động thuế nông nghiệp phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Sau thắng lợi của cuộc Cải
cách ruộng đất ở miền Bắc (1953 - 1958), ngành Địa chính đã thực hiện tốt các nhiệm vụ: tổ
chức đo đạc, lập bản đồ giải thửa và sổ sách địa chính để nắm diện tích ruộng đất, phục vụ
việc kế hoạch hóa và hợp tác hóa nông nghiệp, tính thuế ruộng đất, xây dựng đô thị.
3.2. Giai đoạn 1960 – 1978
Do sự phát triển quan hệ ruộng đất ở nông thôn và củng cố quan hệ sản xuất Xã hội
chủ nghĩa, ngành Quản lý ruộng đất được thiết lập (Nghị định số 70-CP ngày 09 tháng 12
năm 1960 và Nghị định số 71-CP ngày 09 tháng 12 năm 1960 của Hội đồng Chính phủ),
chuyển từ Bộ Tài chính sang Bộ Nông nghiệp với nhiệm vụ quản lý mở mang, sử dụng và
cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp. Quản lý ruộng đất bao gồm 3 nội dung chủ yếu: Lập
bản đồ, địa bạ về ruộng đất, thường xuyên chỉnh lý bản đồ và địa bạ cho phù hợp với sự thay
đổi về hình thể ruộng đất, về quyền sở hữu, sử dụng ruộng đất, về tình hình canh tác và cải
tạo ruộng đất; Thống kê diện tích, phân loại chất đất; Nghiên cứu xây dựng các luật lệ, thể lệ
về quản lý ruộng đất trong nông nghiệp và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các luật lệ, thể
lệ ấy. Hệ thống quản lý ruộng đất được tổ chức thành 4 cấp: Trung ương là Vụ Quản lý
ruộng đất; cấp tỉnh là Phòng Quản lý ruộng đất; cấp huyện là Bộ phận Quản lý ruộng đất;
cấp xã là Cán bộ quản lý ruộng đất.
Tóm lại, trong giai đoạn 1960 - 1978, ngành Quản lý ruộng đất đã phát triển hệ thống

bộ máy và đội ngũ cán bộ từ Trung ương tới địa phương, mở rộng các nội dung quản lý nhà
nước về đất đai. Cơ quan quản lý ruộng đất có nhiệm vụ chủ yếu là giúp Bộ Nông nghiệp
“quản lý việc mở mang, sử dụng và cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp”. Ngành Quản lý
ruộng đất đã có những đóng góp to lớn trong việc mở rộng và sử dụng có hiệu quả diện tích
đất nông nghiệp, xây dựng kinh tế hợp tác xã và phát triển nông thôn
3.3. Giai đoạn từ 1979 đến nay
Để tăng cường công tác quản lý đất đai, thống nhất các hoạt động quản lý đất đai vào
một hệ thống cơ quan chuyên môn, năm 1979, Tổng cục Quản lý ruộng đất được thành lập -
"Tổng cục Quản lý ruộng đất là cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng, thống nhất quản lý
nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trên lãnh thổ cả nước nhằm phát triển sản xuất, bảo vệ
đất đai, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao đối với tất cả các loại đất"
(Nghị quyết số 548/NQQH ngày 24 tháng 5 năm 1979 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội). Cơ
quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập theo 03 cấp:
- Cấp tỉnh, có Ban Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Sau Luật
Đất đai năm 1987 cho tới năm 1993 hầu hết các Ban Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh đã chuyển thành Chi cục Quản lý đất đai hoặc Chi cục Quản lý ruộng đất
trực thuộc Sở Nông - Lâm nghiệp;
- Cấp huyện, có Phòng Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện,
một số địa phương khu vực đô thị thành lập Phòng Quản lý nhà đất hoặc Phòng Nhà đất; từ
10
năm 1988 - 1994, Phòng Quản lý ruộng đất sáp nhập vào các Phòng Nông Lâm nghiệp hoặc
Phòng Kinh tế;
- Cấp xã, có Cán bộ quản lý ruộng đất chuyên trách.
Trước yêu cầu về tổ chức lại các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường công tác
quản lý đất đai, năm 1994 Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước
được hợp nhất và tổ chức lại thành Tổng cục Địa chính (Nghị định số 12/CP ngày 22 tháng
02 năm 1994 của Chính phủ). Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng
cục Địa chính được quy định tại Nghị định số34/CP ngày 23 tháng 4 năm 1994 của Chính
phủ, theo đó Tổng cục Địa chính là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về đất đai và đo đạc - bản đồ trên phạm vi cả nước. Ngay sau khi thành lập Tổng

cục Địa chính, ở địa phương các Sở Địa chính được thành lập trên cơ sở Ban Quản lý ruộng
đất và trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chi cục Quản lý ruộng đất hoặc Chi cục Quản
lý đất đai. Một số thành phố lớn thành lập Sở Địa chính - Nhà đất. Tại cấp huyện, từ năm
1995 cơ quan quản lý đất đai là Phòng Địa chính (hoặc Phòng Địa chính - Nhà đất) trực
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Tại cấp xã, có Cán bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị
trấn) và thường kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng.
Theo định hướng thành lập các Bộ đa ngành, năm 2002 Bộ Tài nguyên và Môi
trường được thành lập (Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ nhất ngày 05 tháng 8 năm 2002 và và Nghị định số
91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ). Trong cơ cấu tổ chức của Bộ
Tài nguyên và môi trường có 2 đơn vị chuyên trách quản lý nhà nước về đất đai là Vụ Đất
đai và Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai. Ngay sau đó, tại địa phương các Sở Tài nguyên và
Môi trường được thành lập trên cơ sở sáp nhập Sở Địa chính với các đơn vị quản lý nhà
nước về môi trường, địa chất khoáng sản, tài nguyên nước. Chức năng quản lý nhà nước về
đất đai ở cấp tỉnh do một số đơn vị cấp phòng trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực
hiện. Tại cấp xã, có Cán bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị trấn) và thường kiêm nhiệm
thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng và một số chức năng quản lý nhà nước khác thuộc lĩnh
vực tài nguyên môi trường.
11
CHƯƠNG II
HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA
1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Bộ tài nguyên và môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính Phủ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng
thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công và
thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước trong lĩnh vực nêu trên theo quy định
của Nhà nước;
Bộ Tài nguyên và Môi trường ra đời nhằm tăng cường công tác quản lý các nguồn tài
nguyên và môi trường theo xu hướng quản lý tổng hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì
sự phát triển bền vững. Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập căn cứ Nghị quyết số

02/2002/QH11 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khúa XI kỳ họp thứ
nhất quy định về danh sách các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính Phủ.
1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường
1.1.1. Nhiệm vụ và quyền hạn chung
Theo Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì Bộ Tài
nguyên và Môi trường (sau đây gọi tắt là Nghị định số 91/2002/NĐ-CP) có trách nhiệm thực
hiện, nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan
ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Trình Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật khác
về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn,
đo đạc và bản đồ;
- Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, năm năm và
hàng năm về các lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi
trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ, cỏc cụng trỡnh quan trọng của ngành;
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm,
các định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản, môi
trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ thuộc thẩm quyền;
- Tổ chức, chỉ đạo thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt và các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm, các định
mức kinh tế- kỹ thuật của ngành; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về
tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo
đạc và bản đồ.
Bên cạnh nhiệm vụ, quyền hạn chung, Nghị định số 91/2002/NĐ-CP còn quy định
cho Bộ Tài nguyên và Môi trường những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong từng lĩnh vực
được giao quản lý; cụ thể:
12
1.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể
- Về tài nguyên đất

• Xây dựng, trình Chính phủ để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội quyết định
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước;
• Thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai vào mục đích quốc
phòng, an ninh của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trình Chính phủ xét duyệt;
• Trình Chính phủ quyết định giao đất, thu hồi đất trong các trường hợp thuộc
thẩm quyền của Chính phủ;
• Chỉ đạo việc thực hiện công tác điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân
hạng đất và lập bản đồ địa chính; hướng dẫn và tổng hợp số liệu thống kê,
kiểm kê đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính;
• Thống nhất quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển quyền sử
dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đăng ký và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất;
• Hướng dẫn Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong
việc thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật;
• Kiểm tra Uỷ ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc
định giá đất theo khung định giá và nguyên tắc, phương pháp xác định giá
các loại đất do Chính phủ quy định;
- Về tài nguyên nước
• Trình Chính phủ quy định việc phân công, phân cấp điều tra cơ bản và thẩm
quyền cấp, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước; chỉ đạo và kiểm tra việc
thực hiện sau khi được phê duyệt;
• Tổng hợp số liệu, quản lý kết quả điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài
nguyên nước và xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước;
• Quy định và chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên
nước;
• Thường trực Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước;
- Về tài nguyên khoáng sản
• Trình Chính phủ quy định việc phân công, phân cấp điều tra cơ bản địa chất

về tài nguyên khoáng sản; lập bản đồ địa chất trong phạm vi cả nước; quy
định và công bố khu vực cấm hoặc tạm thời cấm hoạt động khoáng sản, khu
vực hạn chế, khu vực đấu thầu hoạt động khoáng sản; chỉ đạo và kiểm tra
việc thực hiện sau khi được phê duyệt;
• Trình Chính phủ quy định thẩm quyền cấp, gian hạn, thu hồi giấy phép hoạt
động khoáng sản và thủ tục cấp, gia hạn, thu hồi, cho phép trả lại giấy phép
13
hoạt động khoáng sản, cho phép chuyển nhượng, để thừa kế quyền hoạt động
khoáng sản, đăng ký hoạt động khoáng sản;
• Xác định khu vực có tài nguyên khoáng sản chưa khai thác; khoanh định khu
vực có khoáng sản độc hại; thẩm định, phê duyệt theo thẩm quyền các đề án,
báo cáo về điều tra cơ bản tài nguyên khoáng sản, khảo sát, thăm dò trong
hoạt động khoáng sản;
• Quy định và chỉ đạo, kiểm tra thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên
khoáng sản;
• Tổng hợp số liệu, quản lý kết quả điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên
khoáng sản, khảo sát, thăm dò khoáng sản; thống kê, kiểm kê, đánh giá chất
lượng, trữ lượng tài nguyên khoáng sản, tổ chức lưu trữ, quản lý tài liệu, mẫu
vật và bảo mật nhà nước về số liệu, thông tin về địa chất và tài nguyên
khoáng sản;
• Thường trực Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản nhà nước;
- Về môi trường
Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định, biện pháp bảo vệ môi trường
(BVMT), các chương trình, dự án về phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm, sự cố môi
trường theo sự phân công của Chính phủ;
• Thống nhất quản lý hệ thống quan trắc môi trường quốc gia; tổng hợp, xử lý
số liệu về quan trắc môi trường và định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường,
dự báo diễn biến môi trường;
• Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh; quy định các tiêu chuẩn môi trường và quản lý thống

nhất việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường theo quy
định của pháp luật;
• Vận động các nguồn tài trợ, tiếp nhận vốn đầu tư của Nhà nước hỗ trợ các
chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ BVMT và quản lý việc sử dụng
Qũy BVMT Việt Nam.
- Về khí tượng thủy văn
• Chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác điều tra cơ bản khí tượng thủy văn; thu
thập, đánh giá các yếu tố, tài liệu khí tượng thủy văn; xử lý, cung cấp thông
tin, tư liệu và dự báo khí tượng thủy văn;
• Thẩm định tiêu chuẩn kỹ thuật khí tượng thủy văn đối với các dự án xây
dựng cơ bản, cải tạo, mở rộng và nâng cấp các công trình khí tượng thủy văn;
tổ chức đăng ký, cấp, thu hồi giấy phép hoạt động của các công trình khí
tượng thủy văn theo quy định của pháp luật;
- Về đo đạc và bản đồ
• Thống nhất quản lý về hoạt động đo đạc và bản đồ; quản lý công tác đo đạc
và bản đồ cơ bản, bản đồ về biên giới quốc gia và địa giới hành chính; quản
14
lý hệ thống địa danh trên bản đồ, hệ thống quy chiếu quốc gia, hệ thống số
liệu gốc đo đạc quốc gia, hệ thống điểm đo đạc cơ sở quốc gia, hệ thống
không ảnh cơ bản và chuyên dùng; cấp và thu hồi giấy phép hoạt động đo
đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật;
• Thành lập, hiệu chỉnh xuất bản và phát hành các loại bản đồ địa hình cơ bản,
bản đồ nền, bản đồ hành chính; quản lý việc cung cấp thông tin, tư liệu và
bảo mật nhà nước về hệ thống thông tin, tư liệu đo đạc và bản đồ;
- Thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực tài nguyên
đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản
đồ theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của
pháp luật;

- Tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi
trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ;
- Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực hiện cơ chế hoạt
động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của
pháp luật; quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn
của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ thuộc Bộ
quản lý theo quy định của pháp luật;
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động của hội và tổ chức phi Chính phủ trong
lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy
văn, đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật;
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, tiêu cực và xử
lý các vi phạm pháp luật về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi
trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ thuộc thẩm quyền của Bộ;
- Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Bộ theo mục
tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt;
- Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các
chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với
cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ;
15
- Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được phân bổ
theo quy định của pháp luật;
Để thực hiện cỏc chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được quy định trên đây, Bộ Tài
nguyên và Môi trường cần có một cơ cấu tổ chức hợp lý, hoạt động hiệu quả;

1.2. Cơ cấu, tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nghị định số 91/2002/NĐ-CP quy định rõ về cơ cấu, tổ chức của Bộ Tài nguyên và
Môi trường; cụ thể:
1.2.1. Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý Nhà nước
Các tổ chức này bao gồm: Vụ Đất đai; Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai; Vụ Môi
trường; Vụ Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường; Vụ Khí tượng thuỷ văn; Vụ khoa
học- Công nghệ; Vụ Kế hoạch- Tài chính; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Pháp chế; Vụ Tổ chức
cán bộ; Vụ Thi đua- Khen thưởng; Cục Quản lý tài nguyên nước; Cục Địa chất và Khoáng
sản Việt Nam; Cục Bảo vệ môi trường; Cục Đo đạc và Bản đồ; Thanh tra; Văn phòng.
1.2.2. Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ
Các tổ chức này bao gồm: (i) Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn quốc gia; (ii)Trung tâm
Điều tra quy hoạch đất đai; (iii) Trung tâm Viễn thám; (iv)Trung tâm Thông tin; (v) Tạp chí
Tài nguyên và Môi trường; (vi) Bỏo Tài nguyên và Môi trường; (vii) Viện Nghiên cứu Địa
chất và Khoáng sản; (viii) Viện Khoa học Địa chính; (ix) Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ
văn; (x) Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường Hà nội; (xi) Viện Chiến lược, Chính
sách về Tài nguyên và Môi trường; (xii) Trường Khí tượng Thủy văn TP Hồ Chí Minh; (xiii)
Trường Trung học Địa chính trung ương 3; (xiv) Trường Trung học Tài nguyên và Môi
trường trung ương; (xv) Văn phòng 33; (xv) Văn phòng Hội đồng đánh giá trữ lượng
Khoáng sản;
Bên cạnh đó, còn có các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, bao
gồm: (i) Công ty Đo đạc ảnh địa hình; (ii) Công ty Đo đạc địa chính và Công trình; (iii)
Công ty Xuất nhập khẩu và Tư vấn dịch vụ Đo đạc bản đồ; (iv) Nhà Xuất bản Bản đồ; (v)
Công ty Vật tư khí tượng thuỷ văn; (vi) Xí nghiệp Khí tượng thuỷ văn;
Như vậy có thể thấy rằng, hệ thống cơ cấu, tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi
trường bao gồm nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau được phân thành các nhóm: nhóm các tổ
chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên từng lĩnh vực cụ thể về tài
nguyên và môi trường; nhóm các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ; nhóm các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Hệ thống cơ cấu, tổ chức như vậy nhằm bảo
đảm cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước. Song bên
cạnh đó nếu không có cơ chế phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể thì sẽ dẫn đến có sự

chồng chéo trong quản lý, dễ phân tán nguồn lực và rơi vào tình trạng biên chế lớn nhưng
hiệu quả làm việc không cao.
2. Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Sở tài nguyên và môi trường
Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
(UBND) tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh),
16
giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trên địa bàn
tỉnh theo quy định của pháp luật;
Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công
tác của UBND cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của
Bộ Tài nguyên và Môi trường;
Thông tư Liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV (sau đây gọi tắt là Thông tư
Liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV) ngày 15/7/2003 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan
chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở địa phương đã
quy định rất cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tài nguyên và Môi trường; cụ thể như sau:
Sở Tài nguyên và Môi trường được thành lập với những nhiệm vụ và quyền hạn như
sau:
Thứ nhất, trình UBND cấp tỉnh ban hành các quyết định về quản lý tài nguyên đất,
tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ
(sau đây gọi chung là tài nguyên và môi trường) ở địa phương;
Thứ hai, trình UBND cấp tỉnh quy hoạch phát triển, chương trình, kế hoạch dài hạn,
5 năm và hàng năm về tài nguyên và môi trường phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế- xã hội của địa phương;
Thứ ba, trình UBND cấp tỉnh quyết định các biện pháp bảo vệ tài nguyên và môi
trường ở địa phương; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện;
Thứ tư, tổ chức, chỉ đạo thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình,
quy hoạch, kế hoạch sau khi được xét duyệt; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và
thông tin về tài nguyên và môi trường;

Thứ năm, về tài nguyên đất:
- Giúp UBND cấp tỉnh lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (SDĐ) và điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch SDĐ cấp tỉnh; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện;
- Tổ chức thẩm định, trình UBND cấp tỉnh xét quy hoạch, kế hoạch SDĐ của huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và kiểm tra việc thực hiện;
- Trình UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển QSDĐ,
chuyển mục đích SDĐ, cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho các đối tượng thuộc thẩm quyền
của UBND cấp tỉnh;
- Tổ chức thực hiện việc điều tra khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất và lập bản
đồ địa chính; đăng ký đất đai, lập, quản lý, chỉnh lý hồ sơ địa chính; thống kê, kiểm kê đất
đai; ký hợp đồng thuê đất theo quy định của pháp luật; đăng ký giao dịch bảo đảm về
QSDĐ, tài sản gắn liền với đất đối với các tổ chức;
- Tham gia định giá các loại đất ở địa phương theo khung giá, nguyên tắc, phương
pháp định giá các loại đất do Chính phủ quy định;
Thứ sáu, về tài nguyên khoáng sản:
17
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn hoặc thu hồi giấy phép khai thác, chế biến
khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn và khai thác tận thu khoáng sản,
chuyển nhượng quyền hoạt động khoáng sản thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh theo quy
định của pháp luật;
- Giúp UBND cấp tỉnh chủ trì phối hợp với các bộ, ngành có liên quan để khoanh
vùng cấm hoặc tạm thời cấm hoạt động khoáng sản trình Chính phủ xem xét quyết định;
Thứ bảy, về tài nguyên nước và khí tượng thủy văn
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động điều tra, thăm dò,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước theo phân cấp; kiểm tra
việc thực hiện;
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động của các công trình
khí tượng thủy văn chuyên dùng tại địa phương; chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện sau khi
được cấp phép;
- Tổ chức việc điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước theo hướng dẫn

của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Tham gia xây dựng phương án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai ở tỉnh;
Thứ tám, về môi trường
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi
trường cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trên địa bàn tỉnh theo phân cấp;
- Tổ chức lập báo cáo hiện trạng môi trường, xây dựng và tăng cường tiềm lực trạm
quan trắc và phân tích môi trường, theo dõi diễn biến chất lượng môi trường tại địa phương
theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án, cơ sở theo phân
cấp;
- Tổ chức thu phí bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật;
Thứ chín, về đo đạc và bản đồ
- Thẩm định và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoặc ủy quyền cấp phép
hoạt động đo đạc và bản đồ cho các tổ chức và cá nhân đăng ký hoạt động đo đạc và bản đồ
ở địa phương;
- Trình UBND cấp tỉnh phê duyệt kết quả kiểm tra, thẩm định chất lượng công trình,
sản phẩm đo đạc và bản đồ địa chính, đo đạc và bản đồ chuyên dụng của tỉnh;
- Tổ chức xây dựng hệ thống điểm đo đạc cơ sở chuyên dụng, thành lập hệ thống bản
đồ địa chính, bản đồ chuyên đề phục vụ các mục đích chuyên dụng;
- Theo dõi việc xuất bản, phát hành bản đồ và kiến nghị với cơ quan quản lý nhà
nước về xuất bản việc đình chỉ phát hành, thu hồi các ấn phẩm bản đồ có sai sót về thể hiện
chủ quyền quốc gia, địa giới hành chính, địa danh thuộc địa phương; ấn phẩm bản đồ có sai
sót nghiêm trọng về kỹ thuật;
Thứ mười, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh
vực tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật;
18

×