Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

LUẬN VĂN: Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn Thực trạng và những tác động potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 82 trang )










LUẬN VĂN:

Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn -
Thực trạng và những tác động





















MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước đã mang lại cho bộ mặt kinh tế - văn hoá - xã hội
những khởi sắc to lớn. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn tới những biến đổi
mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt của nông thôn và đô thị Việt Nam. Tuy nhiên ở một bộ phận
dân cư còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế nhất là ở vùng xa, vùng sâu. Sự phát
triển kinh tế ở cả nông thôn và thành thị trong những năm gần đây không những đã thúc đẩy
sự phát triển ở nông thôn Việt Nam mà còn đặt ra nhiều vấn đề và thách thức. Năng suất
nông nghiệp tăng cao trong thời gian qua, một mặt đã giúp đảm bảo an ninh lương thực cho
đất nước, mặt khác tạo ra sự dôi dư lao động ở nông thôn. Trong điều kiện khan hiếm đất ở
nông thôn, đặc biệt là đất nông nghiệp, và mức tăng dân số cao so với khu vực thành thị, dư
thừa lao động đang là vấn đề nổi cộm ở nông thôn và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Thất
nghiệp và bán thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề lớn vì khả năng tạo ra việc làm cho
lao động nông thôn còn rất hạn chế. Tất cả các nhân tố này cùng với khoảng cách về thu
nhập giữa thành thị và nông thôn đã sinh ra các dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Cùng
với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đang tiếp diễn ỏ Việt Nam, khu vực thành thị sẽ
tiếp tục được mở rộng, trong khi nông thôn ngày càng bị thu hẹp. Việc xuất hiện các dòng di
cư lao động lớn từ nông thôn ra thành thị, vì vậy là điều không tránh khỏi.
Ở thập niên 90 (thế kỷ XX), nước ta đã chứng kiến các dòng di dân, đặc biệt là di dân
nông thôn – đô thị diễn ra hết sức mạnh mẽ và phức tạp. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng
với quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá cũng như sức ép về dân số, việc làm, đất đai,
nghề nghiệp… làm cho di dân nông thôn – đô thị có chiều hướng ngày càng gia tăng, đặc
biệt là tập trung vào các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Thực tiễn này đặt ra
những bức xúc cần được giải đáp về di dân, nó thu hút được sự chú ý của xã hội, nhất là giới
nghiên cứu khoa học xã hội.
Trước đây, hầu hết các nghiên cứu về di dân tập trung vào loại hình di dân có tổ chức
với mục tiêu chủ yếu là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hình thức di dân
này. Dưới góc độ xã hội học chưa có nhiều các nghiên cứu về di dân tự do, di dân tạm thời




nông thôn – đô thị. Mặt khác các nghiên cứu này chủ yếu tập trung quan tâm đến ảnh hưởng
tiêu cực; mặt tích cực, những lợi ích từ di dân mang lại chưa đề cập phân tích một cách cặn
kẽ và thoả đáng.
Thực tế, di dân nông thôn – đô thị, trong đó có di dân tạm thời là nhân tố tích cực
trong việc giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, tạo tiền đề cho phát
triển kinh tế hộ gia đình và góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Ngoài
lợi ích kinh tế, di dân tạm thời nông thôn – đô thị còn mang về những tri thức mới, kinh
nghiệm mới trong đó có năng lực tư duy, sự năng động, ý thức làm giàu và những yếu tố giá
trị mới, tiến bộ. Để kiểm nghiệm và đánh giá được một cách khách quan những tác động tích
cực trên, cần có những nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu.
Trong luồng di cư nông thôn – đô thị hiện nay, đã xuất hiện xu hướng nữ hoá trong di
cư do các ngành công nghiệp dệt may, dịch vụ … tuyển lao động nữ là chủ yếu. Đây là một
xu hướng tất yếu do cấu trúc của cơ cấu kinh tế quyết định. Bên cạnh những khía cạnh tích
cực do di cư lao động nữ mang lại như giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn, tăng
thu nhập, phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác tình trạng phụ nữ di cư đi làm xa nhà đã gây
ra những ảnh hưởng tiêu cực lâi dài và quan trọng đến gia đình và xã hội. Đó là việc tổ chức
cuộc sống gia đình bị đảo lộn, vai trò tham gia công việc lao động sản xuất, nội trợ, chăm
sóc giáo dục con cái, chăm sóc người cao tuổi , mối quan hệ trong gia đình lỏng lẻo ảnh
hưởng đến cuộc sống ổn đinh và hạnh phúc gia đình. Người phụ nữ vốn được coi là trụ cột
quan trọng thứ 2 trong việc tổ chức cuộc sống gia đình, quán xuyến nhà cửa, tay hòn chìa
khoá, thực hiện các chức năng tâm lý, tình cảm… Họ là trung tâm của đời sống tình cảm gắn
kết các thành viên trong gia đình, là người góp phần quan trọng điều chỉnh các quan hệ gia
đình và xã hội, bảo vệ gia đình và góp phần cơ bản vào việc phòng chống tệ nạn xã hội từ
gia đình. Nhưng khi người phụ nữ di cư, tuy kinh tế có phần được cải thiện nhưng cuộc sống
gia đình thiếu đi sự đầm ấm, yên vui, nhiều trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, học hành
sa sút, bị buông lỏng giáo dục. Cuộc sống của nhiều nam giới cũng trở nên bất ổn. Từ đó,
nhiều trẻ em và nam giới dễ bị rơi vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút,




mại dâm. Một số cặp vợ chồng rơi vào tình trạng quan hệ phức tạp hoặc lỏng lẻo, hạnh phúc
gia đình không đảm bảo dẫn đến ly hôn.
Ngoài ra, đối với bản thân lao động nữ nông thôn di cư thường có trình độ văn hoá,
học vấn, hiểu biết về xã hội thấp Điều kiện sống và làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm
tại thành phố lại đầy khó khăn, cạm bẫy, khả năng tự bảo vệ hạn chế nên họ cũng dễ bị lạm
dụng thể chất và tinh thần.
Trước những thực trạng nêu trên, để góp phần làm rõ thêm tác động tích cực của di
dân lao động nữ nông thôn – đô thị, đặc biệt là vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ
gia đình nông thôn, tác giả lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: Di cư mùa vụ của lao
động nữ nông thôn - Thực trạng và những tác động (Nghiên cứu trường hợp tại huyện Giao
Thuỷ, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định)
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, di dân ở Việt Nam là một hiện tượng
kinh tế xã hội mang tính quy luật, một cấu thành gắn liền với quá trình phát triển. Di dân là
một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất của sự
phát triển không đồng đều giữa các vùng miền lãnh thổ, giữa các quốc gia. Dưới tác động
của toàn cầu hoá những khác biệt mức sống, chênh lệch thu nhập, cơ hội việc làm, tiếp cận
dịch vụ xã hội là các nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư trong và ngoài nước hiện
nay. Di cư được các gia đình nông thôn sử dụng như một chiến lược sống để đối phó với
cảnh nghèo nàn, tạo thêm thu nhập trong thời kỳ nông nhàn.
Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu di dân nội
địa bao gồm những nghiên cứu ở cấp độ lý thuyết và cấp độ thực nghiệm. Trong số các
nghiên cứu về lao động nữ di cư ở cấp độ lý thuyết, đáng chú ý hơn cả là công trình nghiên
cứu về phụ nữ di cư ở nông thôn – đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh [39]. Đây là những công
trình nghiên cứu trên phạm vi quốc gia, khách thể nghiên cứu là phụ nữ nói chung trong độ
tuổi lao động (từ 18 đến 55 tuổi) và chủ yếu hướng vào những vấn đề liên quan đến đời sống
kinh tế của lao động nhập cư.




Nghiên cứu di dân ở Việt Nam thường phân biệt giữa di dân có tổ chức và di dân tự
do. Nổi bật trong số nghiên cứu di dân có tổ chức là những công trình nghiên cứu về di dân
do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kinh tế nông nghiệp, Bộ lao động thương
binh xã hội (Cục di dân) tiến hành vào các năm 1996, 1997, 1998. Các nghiên cứu này cho
ta thấy từ năm 1960 đến nay đã có hơn 6 triệu người di cư và trên 1,7 triệu ha đất nông
nghiệp đã được khai hoang đưa vào sản xuất. Xu thế di dân có tổ chức là các đợt chuyển
dịch dân cư lớn đến các vùng kinh tế mới trong thời gian từ 1976 đến 1990. Tuy nhiên,
nhiều công trình nghiên cứu về các xu hướng di cư nói chung đã cho thấy, sau những năm
90, di cư tự do có xu hướng gia tăng (Dự án VIE/95/004)[5;6;7].
Nhiều nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, quá trình di cư không chỉ bị thúc đầy bởi
những chính sách di dân trực tiếp mà bởi cả những chính sách kinh tế - xã hội trong quá
trình đổi mới [3]. Sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng phạm vi đô thị cũng là một trong những
nguyên nhân tạo ra luồng di cư nông thôn – đô thị. Để phản ánh tình hình này và tìm hiểu
những vấn đề liên quan đến di dân, nguồn nhân lực, việc làm, đô thị hoá… một số cơ quan
khoa học, cơ quan chủ quản Việt Nam đã phối hợp với đối tác nước ngoài triển khai những
dự án nghiên cứu ở tầm vĩ mô tình trạng di dân tự do vào thành phố Hà Nội (Viện kinh tế
nông nghiệp - 1999); thành phố Hồ Chí Minh (Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh - 1997)
v.v…
Ngoài những công trình trên, nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu về một số cộng
đồng di cư cũng đã được công bố. Trong đó, các tác giả đã chú trọng tới ảnh hưởng của di
dân đối với cộng đồng gốc và nơi đến của người nhập cư. Đồng thời, một số vấn đề cụ thể
có liên quan tới di dân cũng đã được đặt ra. Ví dụ: chiến lược sinh tồn của người nhập cư,
những khuôn mẫu đang thay đổi (Nguyễn Văn Chính, 2002); nguồn gốc xã hội và kinh tế
của nhập cư (Nguyễn Thị Hoà - 1999); vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư
(Đặng Nguyên Anh, 1998) v.v…
Theo tác giả Đặng Nguyên Anh trong báo cáo về "Di dân và giảm nghèo ở nông thôn
- Một số vấn đề và chính sách" cho rằng: Di dân ở Việt Nam là một hiện tượng kinh tế xã

hội mang tính quy luật, một cấu thành gắn liền với quá trình phát triển. Di dân thực tế là sự



dịch chuyển của dân số đến nơi đất lành chim đậu. Thông qua khối lượng hàng, tiền mà
người lao động mang, chuyển, gửi về cho gia đình, di cư đang góp phần điều chỉnh lại sự
chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Do đó dưới giác độ nghiên cứu này thì di cư nông thôn - đô thị là nhân tố tích cực trong việc
cải thiện cuộc sống, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hộ gia
đình của người di cư, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Những nghiên cứu về di dân ở Việt Nam trên cấp độ thực nghiệm, đa phần là tìm hiểu
và phân tích những vấn đề mang tính chất vĩ mô ở quy mô quốc gia. Vì vậy nó đóng góp
quan trọng vào việc hoạch định những chính sách phân bố dân cư của Đảng và Nhà nước.
Những vấn đề được quan tâm nhiều nhất là đặc trưng cơ bản của người di cư, nguyên nhân
di chuyển, đánh giá tác động của di cư vv Những nhân tố được quan tâm xử lý là: cơ cấu
tuổi, giới tính, lý do di cư, loại hình di cư, các loại hình nghề nghiệp của người nhập cư, khả
năng tìm kiếm việc làm và thu nhập, sự tác động và ảnh hưởng của nơi nhập cư, xuất cư
Nhìn chung, những nghiên cứu này đều tập trung phân tích thông tin ở góc độ kinh tế và chỉ
ra được các biểu hiện về hành vi. Những tác động của di dân ở khía cạnh ảnh hưởng đến gia
đình, con cái, hạnh phúc gia đình, những rủi ro phụ nữ gặp phải … của phụ nữ di cư còn rất
ít được đề cập. Đặc biệt phần phân tích các vấn đề liên quan đến nữ lao động di cư gần như
chưa có hoặc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong những nghiên cứu này.
Có thể nói di dân đến các thành phố lớn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm trong thời gian vừa qua. Các tác giả thường tập trung tìm nguyên nhân của vấn đề di dân
vào thành phố và nhấn mạnh đến những thuận lợi cũng như bất lợi của những người nhập cư
và những cư dân tại chỗ dưới tác động của quá trình này (Nguyễn Văn Tài, 1998; Nguyễn
Văn Năm, 2002). Những nghiên cứu này tập trung tìm hiểu vì sao người dân ra đi? Vì sao
người ta đến nơi này chứ không phải nơi khác? Làm thế nào để quản lý được làn sóng nhập
cư đang đổ vào các thành phố lớn như Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh? Làm thế nào
để giải được bài toán về lao động trong quá trình đô thị hoá tại các thành phố lớn v.v…

Về khách thể nghiên cứu, nhiều cuộc nghiên cứu coi những người nhập cư như một
nhóm người đồng nhất, hoặc lấy hộ gia đình như một đơn vị nghiên cứu để phân tích, bỏ qua



những khác biệt về giới tính, tuổi tác và đặc điểm tâm lý, xã hội khác. Một số cuộc nghiên
cứu đã tách riêng những người nhập cư nữ để nghiên cứu những đặc điểm của nhóm nhập cư
này nhưng không phân biệt giữa nhóm nhập cư là trẻ em và những người nhập cư lớn tuổi
(Hà Thị Phương Tiến, Hà Quang Ngọc - 2000). Đã có một số nghiên cứu về di cư lao động
nữ nông thôn – thành thị, thường là những nghiên cứu trường hợp, nghiên cứu định tính từ
góc độ xã hội học và cả nhân học hoặc là nghiên cứu dưới góc độ gia đình và giới, thậm chí
có cả một số tác giả người nước ngoài (nghiên cứu phụ nữ bán hàng rong).
Từ việc phân tích một số nghiên cứu về di dân ở Việt Nam, có thể thấy phần lớn
trong số đó là những nghiên cứu thực nghiệm, tập trung vào góc độ kinh tế, việc phân tích
giới còn mờ nhạt, những thông tin phân biệt giới chưa được thu thập một cách đầy đủ. Đặc
biệt các chỉ báo để đo lường các nguyên nhân xuất cư, sự đóng góp của bản thân những
người nhập cư đối với nơi xuất cư, cũng như sự hoà nhập, những nguyện vọng và sự thay
đổi vị trí, vai trò của phụ nữ di cư trong gia đình như thế nào cũng chưa được đề cập một
cách thoả đáng.
Về phương pháp, đa số các công trình nghiên cứu về di dân ở Việt Nam từ trước đến
nay đều sử dụng phương pháp định lượng trong việc thu thập và phân tích thông tin. Những
nghiên cứu bằng phương pháp định tính còn khá ít.
Mặc dù đã có những nghiên cứu như vậy, nhưng chúng tôi nhận thấy còn có khoảng
trống trong nghiên cứu di dân tại Việt Nam về các khía cạnh xã hội như vấn đề lao động di
cư nữ và đặc biệt là những tác động kinh tế - xã hội của nó tới bản thân người phụ nữ di cư,
đến gia đình, con cái, hạnh phúc gia đình nói chung và những rủi ro mà phụ nữ gặp phải
trong quá trình di cư. Thái độ của người dân nơi đi và nơi đến trong quá trình sử dụng lao
động nữ nhập cư…
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1- Mục đích nghiên cứu

Đánh giá thực trạng các hình thức di cư của phụ nữ và đề xuất các giải pháp giúp phụ
nữ di cư được an toàn



Phân tích ảnh hưởng của việc phụ nữ đi làm ăn xa đối với đời sống, hạnh phúc gia
đình và nuôi dạy con cái
Làm rõ những nguy cơ của vấn đề gia đình khi phụ nữ đi làm ăn xa và các giải pháp
khắc phục
3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc trưng nhân khẩu học của hộ gia đình và cá nhân người di cư mùa
vụ.
- Tìm hiểu việc đóng góp kinh tế của người di cư mùa vụ vào thu nhập của hộ gia
đình.
- Tác động của vấn đề di cư đối với bản thân người phụ nữ di cư
- Tác động của vấn đề di cư đối với đời sống gia đình của người di cư (ảnh hưởng
tích cực và tiêu cực về , giáo dục con cái, các quan hệ gia đình…)
4- Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1- Đối tượng nghiên cứu
Phụ nữ di cư: bao gồm cả phụ nữ hiện đang di cư và phụ nữ đã có thời gian di cư
nhưng hiện đã trở về quê hương
Người thân của phụ nữ di cư: Chồng, con, bố mẹ
Chính quyền địa phương nơi xuất cư
4.2- Khách thể nghiên cứu
- Hộ gia đình của người di cư
- Nhóm phụ nữ di cư
- Lãnh đạo địa phương có phụ nữ di cư
4.3- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 6 xã thuộc huyện Xuân Trường và huyện Giao Thuỷ.
Nghiên cứu tại một số địa điểm tại địa bàn thủ đô Hà Nội nơi có phụ nữ ở các xã nghiên cứu

đang làm việc
5- Khung lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu



5.1- Khung lý thuyt
* H bin s c lp
- Đặc tr-ng nhân khẩu, kinh tế- xã hội của gia đình ng-ời di dân:
. Quy mô gia đình
. Số nhân khẩu phụ thuộc trong gia đình
. Thu nhập hộ gia đình
. Cơ cấu nghề nghiệp
. Mức sống của hộ gia đình
. Mạng l-ới xã hội của gia đình
. Tổng số ng-ời di dân trong gia đình
- Đặc tr-ng nhân khẩu, kinh tế- xã hội của ng-ời di dân
. Tui
. Trình độ học vấn
. Nghề nghiệp ở nông thôn
. Tình trạng hôn nhân
* Hệ biến số phụ thuộc
- Gia ỡnh
. Đóng góp ca ngi di c vào thu nhập hộ gia đình
. Hiệu quả sử dụng phần đóng góp của ng-ời di dân
. Mi quan h v chng v cỏch t chc cuc sng gia ỡnh
. Tỏc ng ti chm súc cỏc thnh viờn trong gia ỡnh v giỏo dc con cỏi
- Bn thõn ngi ph n di c:
. Nõng cao hiu bit v vai trũ ca ngi ph n trong gia ỡnh




. Những nguy cơ và rủi ro phụ nữ gặp phải trong quá trình di cư lao động của mình
* Biến số can thiệp
- Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước
- Đô thị hoá
- Thị trường lao động
5.2- Câu hỏi nghiên cứu
Những tác động do việc di cư của phụ nữ mang lại đối với:
- Kinh tế gia đình
- Chăm sóc và giáo dục con cái
- Bản thân người phụ nữ
- Hạnh phúc gia đình
Những nguy cơ, rủi ro người phụ nữ đi làm ăn xa có thể gặp phải?
5.3- Giả thuyết nghiên cứu
- Di d©n mùa vụ của phụ nữ n«ng th«n đóng góp đáng kể vào thu nhập và cải thiện
đời sống hộ gia đình.
- Di cư lao động nữ có tác động tiêu cực tới chăm sóc gia đình và giáo dục con cái
6- Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận chung
Đảm bảo nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và phân tích hệ thống.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích số liệu định lượng



Xử lý và phân tích thứ cấp dựa trên bộ số liệu nghiên cứu định lượng đã có của cuộc
khảo sát “Các hình thức di cư của phụ nữ và thực trạng tác động tới gia đình và bản thân phụ
nữ đi làm ăn xa” do Hội LHPN tỉnh Nam Định tiến hành vào tháng 5 năm 2009. Việc sử
dụng bộ số liệu này đã được sự đồng ý của thủ trưởng cơ quan Hội LHPN tỉnh Nam Định.

Mẫu nghiên cứu: thực hiện 360 phỏng vấn định lượng, trong đó với 300 bảng hỏi
thực hiện phỏng vấn tại 6 xã; Trong đó 3 xã: Xuân Vinh, Xuân Trung, Xuân Châu; thuộc
huyện Xuân Trường và 3 xã: Giao Hà, Giao Thanh, Bình Hoà thuộc huyện Giao Thuỷ của
Nam Định và 60 bảng hỏi phỏng vấn phụ nữ Nam Định di cư làm ăn tại Hà Nội.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Luận văn sẽ bổ sung vào các phân tích thứ cấp bằng những phỏng vấn sâu các đối
tượng: người di cư, chồng, con, bố mẹ của người phụ nữ di cư để làm rõ hơn cho những
phân tích của mình
Số lượng phỏng vấn sâu dự kiến thực hiện: 18 trường hợp phỏng vấn sâu chia đều
cho 6 xã.
- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: thu thập và phân tích số liệu phát triển kinh
tế xã hội và những tài liệu có liên quan tại địa bàn nghiên cứu.
7- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn bao
gồm 3 chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận của nghiên cứu
Chương II: Thực trạng di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn
Chương III: Tác động của di cư



Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
1- Các khái niệm có liên quan
1.1- Di cư (Migration) :
Hiện tại, không có một định nghĩa chính xác và cũng không có một mô hình cụ thể
nào về di dân trên thế giới. Có quốc gia xác đinh di dân là quá trình con người di chuyển nơi
ở và đã đến nơi ở mới từ 5 năm trở lên, quốc gia khác lại cho rằng di cư cần phải chia ra làm
hai loại: di cư ngắn hạn và di cư dài hạn. Trong khi một số quốc gia cho rằng phải nhìn nhận
di cư như là sự thay đổi nơi cư trú cũng như các đặc trưng kinh tế - văn hoá – xã hội của cả

cộng đồng, thì một số quốc gia khác khằng định phải định nghĩa di cư như là quá trình cá
nhân thay đổi nơi cư trú và sự biến đổi các giá trị của bản thân để hoà nhập vào một môi
trường mới. Hạn chế này là do tính chất phức tạp và sự thay đổi không thể xác định trước
của các quá trình biến đổi dân số do di cư gây ra.
Di dân là quá trình phân bố lại lực lượng lao động và dân cư và là nhân tố quan trọng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về di dân, tuy nhiên các nhà
nghiên cứu thừa nhận rằng:
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một không
gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Với định
nghĩa này di dân đồng nhất với sự di động dân cư.
Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự chuyển dịch dân cư từ một vùng lãnh thổ này đến một
đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất
định. Định nghĩa này khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển với việc thiết lập nơi cư trú
mới.
Theo Henry S.Shryock, di dân là một hình thức di chuyển về địa lý hay không gian
kèm theo sự thay đổi thường xuyên giữa các đơn vị hành chính. Theo ông những thay đổi
nơi ở tạm thời, không mang tính lâu dài như thăm viếng, du lịch, buôn bán làm ăn, kể cả



qua lại biên giới, không nên phân loại là di dân. Theo tác giả di dân còn phải gắn liền với các
quan hệ xã hội của người di chuyển. Tóm lại, di dân là sự di chuyển của người dân theo lãnh
thổ với những chuẩn mực về không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư
trú.
Có nhiều cách phân loại di dân theo các góc độ khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích
nghiên cứu và những người làm nghiên cứu khác nhau. Cách phân loại chỉ các tính chất
tương đối và không tách bạch với nhau. Sau đây là một số cách phân loại cơ bản di dân:
Theo khoảng cách di chuyển: Đây là cách phân loại di dân quan trọng thông qua sự
phân biệt di dân xa hay gần giữa nơi đi và nơi đến. Theo địa bàn nơi đi và nơi đến thông
thường di dân được chia thành:

. Di dân nông thôn – đô thị
. Di dân nông thôn – nông thôn
. Di dân đô thị - nông thôn
. Di dân đô thị - đô thị
Theo tính chất di dân thì có di dân ép buộc và di dân tự nguyện. Di dân tự nguyện là
trường hợp người di chuyển tự nguyện di chuyển theo đúng mong muốn hay nguyện vọng
của mình. Trong khi đó, di dân ép buộc diến ra trái với nguyện vọng của người dân.
Theo độ dài thời gian cư trú:
- Di chuyển ổn định: Bao gồm các hình thức thay đổi nơi cư trú thường xuyên và nơi
làm việc với mục đích định cư sinh sống lâu dài tại nơi ở mới.
- Di chuyển tạm thời: sự vắng mặt tại nơi ở gốc là không lâu, khả năng quay trở về là
chắc chắn.
- Di dân mùa vụ, di chuyển con lắc: là dòng di chuyển của cư dân nông thôn vào
thành thị trong những dịp nông nhàn hoặc trong điều kiện thiếu việc làm thường xuyên, việc
làm có thu nhập. Hình thái di cư này có xu hướng gia tăng trong thời kỳ đầu công nghiệp
hoá ở các nước đang phát triển.



Theo đặc trưng di cư: Di cư có tổ chức và di cư tự phát
- Di cư có tổ chức là hình thái di chuyển dân cư được thực hiện theo kế hoạch và các
chương trình mục tiêu nhất định do nhà nước, chính quyền các cấp đã vạch ra và tổ chức, chỉ
đạo thực hiện với sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Di cư tự phát: hình thái di dân này mang tính cá nhân do bản thân người di chuyển
hoặc bộ phận gia đình quyết định, không có và không phụ thuộc vào kế hoạch và sự hỗ trợ
của nhà nước và các cấp chính quyền. Di cư tự phát phản ánh tính năng động và vai trò độc
lập của cá nhân và hộ gia đình trong việc giải quyết đời sống, tìm công ăn việc làm.
1.2- Gia đình (family):
Gia đình là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các
quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh

từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Gia đình có thể hiểu
như một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn định, độc lập
tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù. Những
thành viên gia đình được gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hoá, tình
cảm một cách hợp pháp, được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.(18, tr.229)
Gia đình là tầng thấp nhất của cấu trúc xã hội và cấu trúc văn hoá, là một phương
thức tồn tại của các cá nhân cho đến tận ngày nay. Cùng với sự phát triển của kinh tế - văn
hoá – xã hội của đất nước, đời sống gia đình cũng có những biến đổi mà ta có thể ít nhiều
quan sát và cảm nhận được.
Ngày nay, khi bàn về gia đình nông thôn Việt Nam, chúng ta có thể nói gia đình dần
chuyển đổi từ gia đình nông thôn truyền thống sang gia đình nửa truyền thống hay nửa nông
nghiệp. Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa thống nhất được định nghĩa và cách lý giải
về gia đình nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, xét về khía cạnh cơ cấu và chức năng thì
gia đình nông nghiệp truyền thống có một số đặc điểm như:
- Xu hướng nhất thể hoá cấu trúc gia đình trong xã hội nông nghiệp truyền thống có
cơ sở từ sự giống nhau trong phưong thức sản xuất nông dân. Trong phương thức này,



những hộ gia đình và những người sản xuất có mối liên hệ với nhau, về cơ bản tự cấp tự túc
hoàn toàn, trao đổi với thiên nhiên nhiều hơn là với xã hội.
Gia đình nông thôn truyền thống Việt Nam mang trong mình tính đa chức năng mà ở
đó các thành viên trong gia đình có thể sống trọn đời trong phạm vi gia đình và làng xóm.
Tất cả các chức năng như: thoả mãn nhu cầu tình cảm, duy trì nòi giống, sản xuất và tái sản
xuất, xã hội hoá, giáo dục… đều từ gia đình mà có. Dấu ấn của gia đình gần như là tuyệt đối
với mỗi cá nhân.
Cùng với đổi mới kinh tế, ngày nay xuất hiện tính đa khuôn mẫu của gia đình trong
xã hội công nghiệp hoá. Phương thức sản xuất thay đổi, phân công lao động cũng thay đổi
theo, mỗi người ngày càng phụ thuộc vào hàng hoá và dịch vụ do người khác sản xuất ra. Xã
hội công nghiệp đã dần tách nơi sản xuất ra khỏi nơi ở, quá trình phi nông nghiệp hoá diễn

ra khiến người nông dân dần tách khỏi đồng ruộng và thôn xóm của họ. Tất cả điều này đã
tác động đến đời sống gia đình, cấu trúc gia đình, những mối quan hệ và những chức năng
bên trong gia đình.
Các giá trị truyền thống trong gia đình nông thôn vẫn tồn tại trong xã hội công nghiệp
hoá: là đơn vị sản xuất, ruộng đất vẫn là trung tâm của đời sống, sự chia sẻ lao động giữa
chồng – vợ, bố mẹ - con cái vẫn được duy trì. Nhưng bên cạnh gia đình truyền thống đã xuất
hiện gia đình nửa truyền thống hay nửa nông nghiệp. Đó là những gia đình sản xuất nông
nghiệp, sống ở nông thôn nhưng có vợ hoặc chồng làm các công việc ngoài nông nghiệp.
Đề tài sẽ đi sâu tìm hiểu một số vấn đề của gia đình nông thôn dưới tác động của đổi
mới kinh tế, cụ thể là của vấn đề phụ nữ - người vợ, người mẹ trong gia đình di cư, từ đó tìm
hiểu sự thay đổi vai trò của người đàn ông và người phụ nữ trong gia đình, sự thay đổi trong
chức năng sản xuất, trong giáo dục và dạy dỗ con cái, nhận thức về đời sống gia đình và xã
hội….
1.3 Quan hệ gia đình
Quan hệ gia đình là khái niệm rộng, bao hàm nhiều nội dung và các mối quan hệ
tương tác qua lại giữa các thành viên trong gia đình.



Quan hệ gia đình trong luận văn này tập trung chủ yếu vào mối quan hệ vợ chồng trên
khía cạnh phân công công việc gia đình; mối quan hệ giữa người mẹ và việc chăm sóc giáo
dục con cái; mối quan hệ giữa người con đối với việc chăm sóc người cao tuổi trong gia
đình.
Phân công lao động gia đình là khái niệm liên quan đến vai trò giới. Phân công lao
động gia đình thường đề cập đến việc ai làm gì trong gia đình và vì sao có sự phân công này.
Xem xét sự phân công lao động trong gia đình có người phụ nữ di cư có gì khác với gia đình
bình thường, những khác biệt trong sự phân công lao động đó có tác động gì tới gia đình và
bản thân những người phụ nữ di cư.
Bạo lực gia đình là các hành vi dẫn đến hoặc có thể dẫn đến, làm tổn hại hoặc đau
đớn về mặt thân thể, tình dục hay tâm lý đối với thành viên gia đình. Bạo lực gia đình là bạo

lực xảy ra ở lĩnh vực riêng tư, thường là giữa những người thân theo pháp lý hoặc ruột thịt.
Nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là bất cứ ai song thường là phụ nữ, trẻ em, người già
(Liên hợp quốc 1993)
1.4 Giáo dục và chăm sóc trẻ em
Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi
Nội dung giáo dục và chăm sóc trẻ em được thể hiện rất rõ trong Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục Trẻ em sửa đổi năm 2004/
Một trong các nguyên tắc thể hiện rất rõ trong Luật là không phân biệt đối xử với trẻ
em bao gồm việc phân biệt trai gái, con đẻ hay con nuôi… Mọi trẻ em đều được bảo vệ,
chăm sóc và được hưởng các quyền theo quy định của Pháp luật. Các quyền của trẻ em phải
được tôn trọng và thực hiện. 10 quyền cơ bản của trẻ em bao gồm:
1. Quyền được khai sinh, có quốc tịch
2. Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo
đức
3. Quyền được sống chung với cha mẹ



4. Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự
5. Quyền được chăm sóc sức khoẻ, trẻ dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khoẻ ban đầu,
được khám bệnh, chữa bệnh miễn phí ở cơ sở y tế công lập
6. Quyền được học tập
7. Quyền được vui chơi giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du
lịch phù hợp với lứa tuổi và lành mạnh
8. Quyền được phát triển năng khiếu
9. Quyền được bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội
10. Quyền có tài sản.
Trách nhiệm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em thuộc về gia đình, nhà trường, Nhà
nước, xã hội và công dân.
1.5 Người cao tuổi và gia đình có người cao tuổi

Người cao tuổi: Người cao tuổi được xác định dựa trên tiêu chí tuổi. Cụ thể là tất cả
những người từ 61 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi. Cách xác định này có điểm thuận
tiện là dựa trên số liệu về năm sinh, người nghiên cứu có thể dễ dàng và nhanh chóng tiếp
cận đối tượng cần điều tra.
Gia đình có người cao tuổi: là gia đình có ít nhất một trong các thành viên là người
cao tuổi.
2- Lý thuyết về di cư, cách tiếp cận
2.1- Lý thuyết đô thị hoá ra đời nhằm nhấn mạnh mối quan hệ giữa đô thị hoá và thu
nhập bình quân. Lý thuyết này cho rằng những người dân nông thôn quyết định ra đi bởi họ
bị việc làm với đồng lương cao ở thành phố hấp dẫn thu hút. Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro
hay bị thất nghiệp ngay tại thị trường lao động ở thành phố trong thời gian chờ đợi cơ hội
thu nhập và việc làm với mức lương cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn.
2.2- Lý thuyết “hút – đẩy”:



Các nhà xã hội học người Anh vào thế kỷ XIX đã bàn luận và đưa ra lý thuyết này,
việc ra đời của lý thuyết gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở
Anh. Họ cho rằng di cư để tìm kiếm cơ hội mới và để gạt bỏ rủi ro ở nơi đang sống, lực hút
bao giờ cũng lớn hơn lực đẩy đối với những người di cư. Thông thường người di cư sẽ lựa
chọn giữa lực hút và lực đẩy, cuối cùng họ thường chọn lực hút bởi con người thường bị ước
muốn tốt đẹp hơn thôi thúc di cư thay vì chạy khỏi tình thế không thoả mãn hiện thời.
Everetts Lee (1966) đã xây dựng lý thuyết này trên cơ sở tóm tắt các quy luật di dân
và phân loại các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quá trình di chuyển. Đó là những nhân tố cơ
bản liên quan đến nơi đi (lực đẩy) và nơi đến (lực hút).
- Lực đẩy: Là những yếu tố, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, chính trị, văn hoá…. ở
vùng xuất phát không đáp ứng các nhu cầu sống (nhu cầu vật chất, tinh thần, nhu cầu về lao
động – việc làm…) đã đẩy họ ra ngoài nơi họ đang sinh sống, khiến họ phải đi tìm vùng đất
mới nhằm thoả mãn các nhu cầu của họ.
Trong quá trình di cư từ nông thôn ra đô thị, lực đẩy được xác định tập trung là do sự

khan hiếm về đất canh tác, thiếu việc làm, thừa lao động, tiền công ít ỏi, mong muốn tìm đến
vùng đất hứa có khả năng kiếm việc làm, tăng thu nhập để đầu tư cho con cái học hành với
mong muốn cải thiện cuộc sống của thế hệ tương lai… tại các vùng nông thôn. Ngoài ra còn
có thể tính đến những yếu tố có tính phi kinh tế có tính đặc thù riêng của người di chuyển
như các yếu tố tinh thần, tình cảm, đặc điểm cá nhân…
- Lực hút: Là những điều kiện, yếu tố thuận lợi về tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị,
văn hoá ở nơi đến (vùng nhập cư) đã cuốn hút người di cư ở nơi khác di chuyển đến làm
việc và sinh sống.
Lực hút ở đô thị thường là cơ hội sống thuận tiện, có khả năng tìm kiếm việc làm có
thu nhập cao hơn, có triển vọng cải thiện đời sống hơn, thuận tiện trong sản xuất kinh doanh,
có điều kiện tốt hơn về giáo dục, y tế, dịch vụ xã hội so với ở nông thôn.



Tuy nhiên lý thuyết hút đẩy không phải là lý thuyết hoàn chỉnh có thể thuyết phục
được tất cả mọi người vì nó không lý giải được tại sao trong cùng một hoàn cảnh có một số
người di cư, còn số khác thì không.
Trong đề tài này, lý thuyết hút đẩy được dùng để giải thích nguyên nhân di cư của
người phụ nữ, giải thích được lý do thúc đẩy “người phụ nữ nông thôn rất găn bó với gia
đình, làng xóm, coi trọng sự ổn định, không muốn có những biến đổi, ngại đi xa”[39;tr45]
lại rời bỏ quê hương, thậm chí xa gia đình, chồng con để vào thành phố.
2.3- Lý thuyết mạng lưới xã hội
Xác định được các yếu tố cấu thành nên mạng lưới các quan hệ xã hội giữa các cộng
đồng nơi đi và nơi đến, giữa người di cư và người không di cư, lý thuyết nhấn mạnh vai trò
của mạng lưới xã hội này trong việc thúc đẩy quá trình di cư chi phối động lực và quyết
định di cư và đặc biệt hướng di chuyển (lựa chọn nơi đến).
Thừa nhận ảnh hưởng quan trọng của các yếu tố kinh tế trong di cư, song theo lý
thuyết mạng lưới xã hội thì ngay cả khi động lực kinh tế không còn mạnh mẽ và sự chênh
lệch về mức sống giữa các khu vực không nhiều, di dân vẫn tiếp tục diễn ra với quy mô ngày
càng lớn. Điều này là do quá trình di dân được duy trì và thúc đẩy cùng với sự phát triển của

mạng lưới xã hội đã được hình thành theo thời gian. Do đó mọi nỗ lực nhằm can thiệp, tác
động trực tiếp vào quá trình di cư sẽ không đem lại hiệu quả dưới ảnh hưởng của mạng lưới
xã hội này.
2.4- Lý thuyết xã hội học về di dân của E.G. Ravenstain (1885)
Điểm mạnh của lý thuyết xã hội học về di dân của Ravenstain là đã khái quát hoá
được những quy luật của di dân. Cụ thể như:
- Trong một quốc gia, những người dân gốc thành phố, thị xã thường ít di chuyển hơn
so với những người ở các vùng nông thôn.
- Xác định động lực chính của di dân là động cơ kinh tế.
- Phần lớn nữ giới di sân theo khoảng cách ngắn hơn so với nam giới.



Phát triển thêm lý thuyết của E.G. Ravenstain, một số nhà nghiên cứu khác đã dựa
trên các quy luật của di dân của ông để xây dựng và phát triển sâu thêm những lý thuyết di
dân mới như lý thuyết lực hấp dẫn xem xét mối quan hệ nghịch giữa số người di chuyển và
khoảng cách di chuyển, hoặc lý thuyết cơ hội sống cho rằng khoảng cách cơ học không có ý
nghĩa quan trọng, người di cư lựa chọn định cư tại những nơi có các cơ hội cuộc sống mà họ
chấp nhận được, cho dù khoảng cách di chuyển có thể lớn. Đó là cơ sở hình thành nên quyết
định di dân.
2.5- Tiếp cận hệ thống
Hệ thống xã hội được xã hội học sử dụng để chỉ một phức thể các bộ phận có các đặc
trưng như: sự phụ thuộc lẫn nhau – sự biến đổi bộ phận này làm biến đổi bộ phận khác, cân
bằng động – mỗi khi có sự thay đổi, các bộ phận có xu hướng biến đổi và kết hợp với nhau
để lập lại trạng thái ổn định; tính chỉnh thể - hệ thống là một chỉnh thể, một toàn thể các bộ
phận liên kết với nhau tạo nên
một thực thể tương đối bền vững, ổn định. Hệ thống xã hội được hiểu là phức thể bao gồm
các cá nhân, các nhóm xã hội liên hệ lẫn nhau tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Xã hội học
dùng phương pháp tiếp cận hệ thống để nghiên cứu tính tổ chức và mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành hệ thống.[38; tr 109 – 168]

Tiếp cận hệ thống cho phép xem xét xã hội nông thôn của địa bàn nghiên cứu như
một hệ thống xã hội thu nhỏ. Có thể nhìn nhận xã hội nông thôn được nghiên cứu trong mối
tương quan và tương tác với các hệ thống ngoài và khác với nông thôn. Ví như xem xét sự
tương tác giữa nông thôn và đô thị, sự tương tác giữa cá nhân và cộng đồng, làng, xã. Theo
quan điểm của Parsons, đó là đi từ cá nhân – cái vi mô đến xã hội – cái vĩ mô, ông gọi đó là
“hệ thống trong hệ thống”[8]
Cách tiếp cận hệ thống phổ quát và phổ dụng nhất là phân tích xã hội nông thôn theo
các phạm trù xã hội cơ bản:
1) Các nhóm cấu thành xã hội nông thôn là những người dân nông thôn
2) Những người dân nông thôn có những mối quan hệ xã hội khác nhau



3) Hành vi của họ, các hoạt động xã hội của họ chính là hành động trong các quan hệ
xã hội hiện thực và trong khung cảnh xã hội nói chung.
Từ đó, người ta có thể phân nhóm những người dân nông thôn này thành những nhóm
xã hội khác nhau, tính đến cơ cấu xã hội dựa trên những mối quan hệ xã hội mà mỗi người
dân nông thôn có và xem xét đến các hoạt động xã hội của người dân nông thôn (hoạt động
sản xuất, hoạt động nông nghiệp, phi nông nghiệp…) rồi tính đến vấn đề thiết chế xã hội mà
ở đó có sự thống nhất giữa cơ cấu xã hội và hoạt động xã hội [10].
Cách tiếp cận này cung cấp cho nghiên cứu cái nhìn tổng thể khi triển khai vấn đề,
cần phải đặt người di cư trong gia đình họ, trong mối quan hệ với làng xã, với xã hội nơi họ
sinh sống, quan trọng nhất là thấy được sự tương tác của cá nhân họ đối với môi trường
nông thôn (nơi đi) và môi trường đô thị (nơi đến); ảnh hưởng của quá trình tương tác đó đến
đời sống vật chất, tinh thần, lối sống, nếp sống của bản thân người di cư mùa vụ và gia đình
họ.
Nhìn chung, cách tiếp cận hệ thống đòi hỏi cần phải tổng hợp các nhóm xã hội nông
thôn, các cơ cấu và thiết chế xã hội nông thôn. Từ đó, xem xét sự tương tác, mối quan hệ của
chúng, dấu ấn của chúng lên gia đình nông thôn có người di cư và bản thân người di cư.













Chương II
THỰC TRẠNG DI CƯ MÙA VỤ CỦA LAO ĐỘNG NỮ NÔNG THÔN
1. Mô tả địa bàn nghiên cứu
Nam Định là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1.672 km
2
,
dân số gần 2 triệu người. Toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố và 9 huyện với
tổng số 229 xã, phường, thị trấn. Dân cư nông thôn chiếm 81%; số dân trong độ tuổi lao
động là 1.370.000 người với 74,9% làm nông nghiệp, thời gian lao động nông nhàn không
có việc làm chiếm 30%, do đó nhiều người lựa chọn di cư đi làm ăn xa để tăng thu nhập,
trong đó có đến 40% lao động nữ.
Về di cư và xuất khẩu lao động: Theo thống kê trên địa bàn tỉnh Nam Định có gần
10.000 người đi xuất khẩu lao động. Khoảng 80% trong số họ làm việc tại Đài Loan và
Malasia. Phần lớn những người xuất khẩu lao động là phụ nữ và thường làm việc trong các
nhà máy hoặc làm giúp việc gia đình. Từ năm 2000 trở lại đây, số lượng người đi xuất khẩu
lao động tăng lên hàng năm. Bên cạnh việc xuất khẩu lao động, còn có một số lượng lớn
người ra thành phố tìm việc làm trong thời gian nông nhàn hoặc đi làm ăn xa từ 1 năm trở
lên.
Huyện Xuân Trường

Huyện Xuân Trường có dân số là 181.984 người trong đó có 95.689 người trong độ
tuổi lao động. Diện tích đất canh tác bình quân đầu người là 446m
2
, thấp hơn 60% so với
bình quân của cả nước. Số hộ nghèo và tỷ lệ thất nghiệp cao; tỷ lệ hộ nghèo = 7,15%; theo
thống kê trên địa bàn huyện hiện nay có khoảng hơn 10.000 người thiếu việc làm phải di cư
tới các thành phố tìm việc hoặc đi xuất khẩu lao động. Tính đến năm 2009 có khoảng trên
4.000 phụ nữ đi àm ăn xa thường xuyên từ 1 năm trở lên.
Huyện Giao Thuỷ
Huyện Giao Thuỷ có dân số 206.247 người, diện tích canh tác trung bình là 172m
2
chỉ
tương đương với 16% diện tích canh tác bình quân quốc gia. Trong tổng số 106.848 người



trong độ tuổi lao động có tới 22.923 người thuộc diện thiếu việc làm (chiếm khoảng 22,4%)
trong đó 10.293 là phụ nữ. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện là 5.389 người (10,7%) trong đó có
819 phụ nữ nghèo là chủ hộ.
Số liệu được dùng để phân tích trong luận văn này được lấy từ cuộc khảo sát tại 6 xã
Xuân Vinh, Xuân Châu, Xuân Trung huyện Xuân Trường và xã Giao Thanh, Giao Hà, Bình
Hoà huyện Giao Thuỷ. Có thể khái quát chung nhất đặc điểm tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của các địa phương tiến hành nghiên cứu thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Mô tả tình hình kinh tế xã hội của các xã nghiên cứu

S
T
T

Xã Diện

tích đất
tự
nhiên
(ha)
Diện
tích đất
canh
tác (ha)

Diện tích
canh tác
bình
quân đầu
người
(m
2
/người)
Dân số
(người)
Dân số trong
độ tuổi lao
động (người)
Nam Nữ Nam Nữ
1

Xuân Vinh

730

4

56

324

5800

6215

2259

2727

2

Xuân Châu

592,22

547,91

570

3049

2997

2052

2660


3

Xuân Trung

221

139

205

4323

4501

2040

2493

4

Giao Thanh

613,3

471,1

583

3488


3673

1689

1821

5

Giao Hà

629,46

501,23

432

4876

5077

3430

3570

6

Bình Hoà

625,98


465,08

432

422
4

4353

3430

3570

Qua bảng số liệu trên có thể nhận thấy tỷ lệ đất canh tác của các địa phương không
cao, trong khi đó dân số trong độ tuổi lao động nhiều, đặc biệt là dân số nữ trong độ tuổi lao
động. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới dư thừa lao động và tạo nên tình trạng thiếu việc
làm thường xuyên tại nông thôn. Tại địa bàn nghiên cứu, ngoài làm nông nghiệp với diện
tích đất hạn chế, tổng thời gian tập trung làm nông nghiệp chỉ hết từ 3 đến 4 tháng. Các nghề
phi nông nghiệp chủ yếu do nam giới đảm nhiệm: xây dựng, gạch, ngói, thợ mộc tuy nhiên
những công việc này cũng chỉ đảm bảo được từ 5 đến 7 tháng, số tháng còn lại là thiếu việc



làm, chỉ có một số lượng nhỏ phụ nữ làm nghề buôn bán nhỏ. Do đó phụ nữ thiếu việc làm
tại chỗ nhiều hơn nam giới. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới việc di cư tìm việc làm tại các
thành phố lớn.
Theo thống kê của UBND các xã nghiên cứu, ngoài số lượng di cư đi xuất khẩu lao
động và đi học thì số người di cư trong nước tìm kiếm việc làm năm 2008 được xác định
như sau:
Bảng 2.2: Số người di cư năm 2008

STT

Xã Nam Nữ Nghề
nghiệp
Nơi đến chủ yếu
ĐKH CKH ĐKH CKH
1
Xuân Vinh

800 200 900 100 Tự do HN, TP. HCM
2
Xuân Châu

287 57 815 103 Tự do HN, QN, LC, TP.HCM
3
Xuân Trung

350 0 350 150 Tự do HN, TP. HCM
4
Giao Thanh

350 125 400 150 Tự do HN, TP. HCM
5
Giao Hà

700 700 1000 1200 Tự do HN, QN, LC, TP.HCM
6
Bình Hoà

745 248 347 80 Tự do HN, QN, LC, TP.HCM

Số liệu di cư trên cũng chỉ đảm bảo tính chính xác tương đối, trong thực tế số người
di cư bao giờ cũng cao hơn số liệu thống kê của xã. Qua số liệu sơ bộ trên ta có thể nhận
thấy, trên địa bàn nghiên cứu, số lượng lao động nữ di cư cao hơn so với nam giới.
2. Đặc điểm lao động nữ di cư mùa vụ ở Nam Định
2.1 Đặc trưng chủ yếu của người di cư và gia đình người di cư
Có thể tổng hợp những đặc điểm chung nhất của người di cư và đặc trưng gia đình
của họ thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.3: Đặc trưng của người di cư và gia đình người di cư
Số lượng Tỉ lệ %



Tuổi
< = 34 131 36.4( 33,3)
35 – 49 170 47.2
= > 50 56 15.6
Trình độ học
vấn
Mù chữ 3 0.8
Biết đọc, biết viết 5 1.4
Tiểu học 56 15.6
Trung học cơ sở 263 73.1
Trung học phổ thông 30 8.3
Trung cấp/nghề 2 0.6
Cao đẳng, đại học 1 0.3
Dân tộc
Kinh
360 100
Khác 0 0
Tôn giáo



Phật giáo 162 45.0
Thiên chúa giáo 26 7.2
Tin lành 2 0.6
Khác 1 0.3
Không tôn giáo 169 46.9

Tình trạng
hôn nhân
Chưa kết hôn
1 0.3
Có chồng đang chung sống 349 96.9
Li thân/li hôn 3 0.8
Goá 7 1.9
Số con trong
1 45 12.5
2 187 51.9

×