Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.56 KB, 14 trang )

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước,
vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tinh thần hết sức sâu
sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của
dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Tổng hợp những giá trị tinh
thần đó là tư tưởng Hồ Chí Minh. Vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX
của Đảng đã nêu rõ:
"Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ
yếu cần nắm vững:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.


- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong hơn 70 năm qua, tiếp tục soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
trong thời gian tới.
* Các bài viết
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự
- Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với nông nghiệp, nông dân và nông thôn
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Triết học
- Triết lý hành động Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giáo dục
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Với truyền thống
yêu nước, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên chống thực dân, phong
kiến. Tuy nhiên phong trào khởi nghĩa của các bậc tiền bối Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh… khi ấy đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu là
do các ông chưa đưa ra được đường lối cứu nước đúng đắn.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước (1911).
Sau những năm ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, châu Mỹ la-tinh,
những kết luận được Người rút ra có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc
cho rằng, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng tàn ác, vô nhân đạo, là kẻ thù
của nhân dân lao động khắp thế giới. Theo Người, con đường cách mạng
vô sản là “con đường giải phóng chúng ta”, do đó “muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”, rằng “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình

đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…”.
Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch. Ảnh: Tư liệu
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) của
Người được thể hiện trong luận điểm “Làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
tiến trình vận động của cách mạng Việt Nam. Trước cảnh nhân dân rên
xiết dưới ách áp bức bóc lột hà khắc của Pháp- Nhật, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rút ra kết luận: Nếu không đánh đuổi được Pháp- Nhật thì vận
mạng của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời mà vấn đề ruộng
đất cũng không làm sao giải quyết được”.
Độc lập dân tộc và CNXH tác động biện chứng, tạo tiền đề cho nhau. Có
giành được độc lập dân tộc mới có cơ sở xây dựng CNXH; xây dựng
CNXH là cơ sở để củng cố nền độc lập tự do của Tổ quốc. Sau khi giành
được độc lập dân tộc, Người rất quan tâm đến chất lượng cuộc sống của
người dân, tính ưu việt của chế độ XHCN. Người nói: “Nếu nước độc
lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có
nghĩa lý gì”. Khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành. Bởi vậy, trong các bài nói, bài viết của
Người khi diễn đạt về CNXH đều toát lên chiều sâu nhân văn luôn vì lợi
ích của nhân dân làm mục tiêu tối thượng.
Viết về 30 năm hoạt động của Đảng, đăng báo Nhân Dân (6-1-1960),
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, CNXH
trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc”; rằng “Mục đích của CNXH là gì? Nói một cách giản đơn và dễ
hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động”. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh căn dặn “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế

và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng
CNXH, nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con
đường, bằng nhiều biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa
học, công nghệ, dân tộc và tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất của chế độ
chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn nâng
cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận trong nhận thức và hành động để
tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
được hiện thực hóa, trường tồn với Đảng và dân tộc ta với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nguyễn Thế Tư
Theo Báo Gia Lai
Đọc thêm: />tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-
hoi#ixzz1odeLFS30
Chuyên đề 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì
độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và
giữ nước, ông cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược
mạnh hơn mình gấp bội và từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã
đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu. Trí tuệ đánh giặc,
giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang
truyền thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc
trên thế giới, nâng lên tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư
tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải

phóng giai cấp, giải phóng con người.
1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ
những hình thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành
nên các cộng đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản
chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô
dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất
hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành
vấn đề thời đại.
- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là
độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc.
Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do
của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng
bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập ”(1). Trên đường tiếp cận
chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776
của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách
mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của
các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do.
- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã
được các đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa
nhận, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội
nghị hòa bình Vécxây một bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân
chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý
đến. Người rút ra bài học: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có
thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(2).
- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi

thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng
là:
“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”(3)
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung
ương 8 của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(4). Hồ Chí Minh đã đúc
kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong một câu nói
bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành
cho được độc lập!”
- Cách mạng Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ
lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc
dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc
lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4).
- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc
lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“ thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”(2).
- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền
Nam, mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không
chỉ được tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà
còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng
của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc cần được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành
độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề
lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng
vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập
trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được
đúng đắn vấn đề dân tộc.
- Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con
đường của cách mạng vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người
bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ
nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó,
thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”(5).
- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một
số đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị
trí cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận
điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời
biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc,
rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng
vô sản thế giới.
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện ở những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của
đất nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước
phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa
ở phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(6);

“Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa
trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”(7).
Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng
sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản
Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy
sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(8).
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc
và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói
về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới”(4).
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh
xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân
chủ) để đi tới xã hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa).
Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “ chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp
giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối
quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải
phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả
xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ

Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu
tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh
đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân
tộc ta vậy”. Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật
của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ
trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc
của con người.
Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ
Chí Minh luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang
lại hạnh phúc cho nhân dân.
Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô
sản chính vì cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân
mà còn giải phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức,
bóc lột giai cấp. Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa
xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”, “làm cho
mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên,
trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành
được độc lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói “dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”.
Nhưng sau đó Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân khôn được hưởng
hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(9). Do đó theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự

ham muốn, ham muốn tột bậc, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”(2).
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng
Hồ Chí minh.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa có thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo
con đường của cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách,
Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô
sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc,
một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng
thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách
mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô
sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân
tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh Đảng có vững
cách mệnh mới thành công”(10)
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(2).

- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng
của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng
kiểu mới của Lênin.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của
toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân,
“sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự
tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công – nông,
“công nông là người chủ cách mệnh công nông là gốc cách
mệnh”(11).
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương
cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất
nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự
do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng
lớp nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết:
“Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh
niên, Tân Việt để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung (12)
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng
dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan
điểm giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công
nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”(13). Và
trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa
hiệp”(14).

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc.
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn
tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô
hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách
mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-
1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế
giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược
thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa”(15); “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các thuộc địa”(16), nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa
tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”(6).
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công
nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh
đã đi tới luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc
địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”(6).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của
chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách
mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở
chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa
trong mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng:
“trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(17).
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá

trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn
đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực
lượng vũ trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam
kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở
Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính
chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi
loạn Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích
vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền
thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách
mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa
ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần
trong từng địa phương mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to
lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với
Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán
bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích
vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong
cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học
thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm
mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương
pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan
trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học
đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.

(1) T.Lan: vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976,
tr.15.
(2) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, Nxb Sự thật, Nà Nội,1986, tr.31.
(3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
t.3, tr.1, 198.
(4) (2) Sđd, t.4, tr.4, 480.
(5) Sđd, t.1, tr.469.
(6), (2) ,(3) Sđd, t.1, tr.466,467.
(7) . Sđd, tr.416.
(8) . Sđd, t.10, tr.128.
(9), (2) . Sđd, t.4, tr.56, 161.
(10), (2) . Sđd, t.2, tr.267-268.
(11) . Sđd, tr.266.
(12) Sđd, t.3, tr.3.
(13) Sđd, t.2, tr.266.
(14) Sđd, t.3, tr.3
(15), (5),(6) . Sđd, t.1, tr.273, 274.
(16) Sđd, t.2, tr.128.
(17) Sđd, t.1, tr.36.

×