Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tieu luan hoi nhap kinh te quoc te va xay dung nen kinh te doc lap tu chu pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.1 KB, 25 trang )

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN KINH
TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng phổ biến khách quan trên thế
giới do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao
động quốc tế; dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và kỹ
thuật cũng như đòi hỏi đáp ứng các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế ngày
càng cao… đã cuốn hút hầu hết các quốc gia vào xu thế trung đó với những
mức độ không giống nhau. Toàn cầu hóa kinh tế đã và đang tạo ra những cơ
hội và thách thức lớn cho Việt Nam trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại. Mặc dù đây là vấn đề không mới, nhưng lại là vấn đề lớn và phức
tạp đang đặt ra đối với công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để đề ra
đường lối, chính sách, biện pháp nhằm tranh thủ những cơ hội, hạn chế những
thách thức; không ngừng nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại nói
chung và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng - điều kiện quan trọng để
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho CNXH ở nước ta hiện nay. Vì vây, bản thân chọn; Hội nhập kinh
tế quốc tế và vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta hiện nay
làm chủ đề tiểu luận. Tiểu luận chỉ làm rõ một số vấn đề cơ bản về quá trình
hội nhập kinh tế thế giới; đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ
yếu để phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
1. Bản chất, xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam.
“Toàn cầu hóa” là một thuật ngữ của thập kỷ 90 (thế kỷ XX) nhưng lại
có nguồn gốc từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Quá trình “toàn cầu hóa” đã
được dự báo từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời vào thế kỷ XVI và lúc bấy giờ gọi
1
là quá trình “quốc tế hóa”. Quá trình quốc tế hóa được phát triển mạnh nhờ sự
phát hiện về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa sự phát triển


đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa
học, công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, sự giao lưu quốc tế ngày càng
mở rộng. Chính những sự phát triển đó đã phá vỡ tính chất cát cứ, biệt lập,
khép kín trong phạm vi quốc gia đưa đến sự mở rộng phạm vi hoạt động kinh
tế, như Mác đã nhận định.
Trong tác phẩm “hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải
và phân tích sự cần thiết khách quan phải phá bỏ mọi đường biên giới- kể cả
đường ranh giới trong từng quốc gia - vốn cản trở sự phát triển các mối quan
hệ xã hội. C.Mác nhấn mạnh rằng, kể từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa được tăng cường mạnh mẽ, sự ra đời của nền đại công nghiệp và thị
trường thế giới mở rộng thì lịch sử nhân loại trở thành lịch sử thế giới, lịch sử
toàn cầu. Nó tiếp tục phát triển như dòng chảy tự nhiên, khách quan và sẽ dẫn
đến một thế giới tổng hòa mà các quốc gia, các dân tộc là những thành viên
hữu cơ. Khi mà sự đóng cửa của từng quốc gia riêng bị loại bỏ thông qua
phương thức mới, tiên tiến, thông qua sự phân công lao động tự nhiên giữa
các dân tộc khác nhau, thì lúc đó lịch sử càng mang bản chất lịch sử toàn cầu.
C.Mác từng khẳng định, lịch sử thế giới không phải luôn luôn hiện hữu,
mà là kết quả của một quá trình biến đổi lâu dài, tức là quá trình quốc tế hóa
cần thiết và liên tục của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong lòng các xã
hội nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, lịch sử nhân loại
phát triển như một quá trình khu vực song song; mặc dù trong các quá trình
ấy, sự gắn kết và tiếp nhận ảnh hưởng qua lại giữa các dân tộc (buôn bán, di
dân, các quan hệ văn hóa, tín ngưỡng ) ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn, thì
nó vẫn mang tính cá biệt và hơn thế, trở thành sự cần thiết cho sự phát triển
bên trong vốn thường dễ bị phá vỡ do các nguyên nhân bên ngoài. Các xã hội
tiền tư bản chủ nghĩa thường bị cách ly với thế giới còn lại đến nỗi một khi bị
lịch sử loại trừ thì nó mang theo cả văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất. Chỉ
2
đến chủ nghĩa tư bản, con người mới tạo dựng được một thị trường thống
nhất, một quá trình quốc tế hóa lịch sử trong ý nghĩa tự thân, tức là nó – chủ

nghĩa tư bản đã làm được việc đưa mối quan hệ ngẫu nhiên, mang tính cá biệt
giữa các dân tộc thành hệ quả phổ biến, khắc phục được sự đóng cửa của các
xã hội người khác nhau.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” khi phân tích, mổ xẻ
xã hội tư bản với quan điểm coi lịch sử thế giới là kết quả tất yếu của quá
trình biến đổi lâu dài và liên tục của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã dự báo rằng, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến
phân công lao động rộng rãi, làm mở rộng sự trao đổi hàng hóa, trao đổi hàng
hóa mở rộng ra trên phạm vi thế giới hình thành thị trường thế giới. Thị
trường thế giới lại liên kết các dân tộc, các quốc gia trên toàn cầu. “Đại công
nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp
tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế
giới Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn
tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ
biến giữa các dân tộc Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho
các phương tiện giao thông trở lên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn
đến tất cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của
những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn
lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan
cường nhất cũng phải hàng phục”
1
.
Quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay đổi
chỉnh thể đời sống xã hội, hình thành nên lịch sử thế giới. Lịch sử thế giới là
do sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại tạo nên, nó không chỉ đánh
dấu một cuộc “cách mạng kỹ thuật”, “cách mạng công nghiệp” mà bao gồm
cả cuộc “cách mạng xã hội” làm biến đổi toàn diện diện mạo của đời sống xã
hội. Trong điều kiện đó, không chỉ sản xuất tiêu dùng có tính chất thế giới mà
1
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, T4, Nxb CTQG Hà Nội 1995, tr.598, 601, 602

3
cả sự phát triển của khoa học, văn hóa, tinh thần cũng có tính chất thế giới.
Trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thì quá trình này về
thực chất là quá trình quốc tế hóa tư bản, mà động lực bên trong thôi thúc nó
vẫn là chiếm đoạt lợi nhuận. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: “Vì luôn luôn bị thúc
đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp
toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập
những mối liên hệ ở khắp nơi”
1
.
Như vậy, toàn cầu hóa là trình độ phát triển cao của quốc tế hóa, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế, từ quốc tế hóa về thương phẩm và dịch vụ, mở rộng
mậu dịch quốc tế, hình thành thị trường thống nhất rồi đến quốc tế hóa về tư
bản và quốc tế hóa về sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Gốc rễ sâu xa của hiện
tượng toàn cầu hóa, làm cho sự xuất hiện và biến đổi của nó trở thành một xu
thế khách quan và phổ biến đối với đời sống quốc tế là ở sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, đã vượt ra khỏi khuôn khổ của từng nước, kể cả
phạm vi khu vực, trở thành một lực lượng sản xuất có tính chất quốc tế và quy
mô thế giới.
Trong số những nhân tố tác động trực tiếp tới xu thế toàn cầu hóa cần
phải kể đến sự phân công lao động quốc tế diễn ra ngày một sâu rộng trên
phạm vi toàn cầu với tác động của cách mạng khoa học, công nghệ và sự tích
tụ, tập trung sản xuất dẫn tới sự hình thành nền kinh tế thế giới.
Cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay, đặc biệt là các ngành công
nghệ mũi nhọn, với công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới và công nghệ tự động hóa đã thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của lực
lượng sản xuất.
Trong điều kiện giao thông vận tải và thông tin hiện đại, sự mở rộng
phạm vi toàn cầu của phân công lao động quốc tế đã làm tăng lên mức độ phụ
thuộc và tùy thuộc lẫn nhau một cách tất yếu giữa các nền kinh tế dân tộc.

1
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, T4, Nxb CTQG Hà Nội 1995, tr.601
4
Sự hiện diện nóng bỏng của những vấn đề toàn cầu cấp bách cùng với
sự xuất hiện và bành trướng của các công ty xuyên quốc gia với những lợi thế
về quy mô vốn lớn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị
trường rộng lớn, chi phối hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài cũng là
những nhân tố làm xuất hiện và phát triển mạnh mẽ xu thế toàn cầu hóa.
Dưới sự tác động tổng hợp của các nhân tố đó làm cho xu hướng quốc
tế hóa, khu vực hóa đã chuyển thành xu hướng toàn cầu hóa trong thời đại
ngày nay. Nó là một trong những xu thế tất yếu của lịch sử, do quy luật phát
triển của lực lượng sản xuất chi phối, không thể đảo ngược, cũng không thể
chối từ.
Toàn cầu hóa sở dĩ có sức mạnh to lớn như vậy vì nó gắn liền với xu
thế vận động khách quan của nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên đây là một quá
trình khách quan trong sự phát triển xã hội nên nó phải được thể hiện thông
qua hoạt động chủ quan của con người. Hay nói cách khác, nó là quá trình
thống nhất của cái khách quan và cái chủ quan.
Không thể phủ nhận rằng toàn cầu hóa kinh tế như nó đang diễn ra hiện
nay có tính chủ quan, bị các nước tư bản phát triển chi phối, thao túng, thúc
đẩy nó vì lợi ích của mình. Tuy nhiên, chúng ta cần phải thấy rằng toàn cầu
hóa kinh tế hiện nay về bản chất không hoàn toàn thuộc về chủ nghĩa tư bản,
cũng không hoàn toàn thuộc về một số nước tư bản phát triển hàng đầu ở
phương Tây mà là yêu cầu nội tại của sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất phát triển tất yếu đòi hỏi một quan hệ sản xuất tương
thích với nó. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang bị các nước tư bản
phát triển lợi dụng mượn toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất để đẩy mạnh
hơn toàn cầu hóa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây cũng là quá trình áp
đặt lợi ích và các giá trị phương Tây trên phạm vi toàn cầu, kéo theo việc phổ
biến hóa những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh của

nhân dân thế giới vì một trật tự mới, công bằng; vì một toàn cầu hóa bình
đẳng, dân chủ và tiến bộ…, vì thế sẽ càng gay gắt và khốc liệt hơn. Điều đó
5
cho thấy, toàn cầu hóa còn là một quá trình chính trị xã hội và văn hóa mang
tính giai cấp, tính lịch sử cụ thể. Sự đan xen giữa cái khách quan và cái chủ
quan đã làm cho toàn cầu hóa, về bản chất trở thành một quá trình hết sức
phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực đối với
từng quốc gia cũng như toàn thể nhân loại.
Toàn cầu hóa do bị chi phối bởi tính chất tư bản chủ nghĩa nên nó
không chỉ diễn ra bởi sự cạnh tranh quyết liệt trong kinh tế mà còn diễn ra
cuộc đấu tranh gay gắt thường xuyên trên lĩnh vực chính trị, đặc biệt là giải
quyết vấn đề chủ quyền an ninh quốc gia, khả năng giữ vững nền độc lập tự
chủ của mỗi nước trong quá trình hội nhập, trong cuộc đấu tranh ý thức hệ
cũng như các vấn đề về văn hóa, xã hội và môi trường. Trên tất cả các lĩnh
vực ấy, vấn đề nóng bỏng, bức xúc nhất là giữ vững chủ quyền an ninh quốc
gia, tính độc lập tự chủ trong việc lựa chọn con đường phát triển và thực hiện
được mục tiêu phát triển của mình trong khi không thể lảng tránh toàn cầu
hóa, không thể không hội nhập quốc tế và không thể không nhận thấy sự gia
tăng tính phụ thuộc nền kinh tế giữa các nước với ưu thế thuộc về các nước
lớn.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, các nước tư bản đã và đang sử dụng sức
mạnh kinh tế, kỹ thuật, công nghệ và quân sự ngày càng quyết liệt để khống
chế và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của chúng đối với các dân tộc. Cùng với
sự gia tăng các xung đột dân tộc, sắc tộc và tôn giáo đang gây nên những căng
thẳng ở rất nhiều nơi, sự xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, sự can thiệp
thô bạo của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ dưới chiêu bài bảo vệ dân
chủ, tự do, nhân quyền, với luận điệu quen thuộc “nhân quyền cao hơn chủ
quyền” hòng gây sức ép phá hoại, lật đổ, đe dọa phát động chiến tranh đang
có nguy cơ dẫn tới thảm họa khôn lường đối với các dân tộc. Đó là chưa kể
tới những mưu toan dùng thủ đoạn diễn biến hòa bình, xâm lăng văn hóa, làm

xói mòn quyền lực nhà nước dân tộc mà các thế lực thù địch đế quốc chủ
nghĩa đang ra sức thực hiện trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
6
Rõ ràng, toàn cầu hóa đang diễn ra như một quá trình đầy mâu thuẫn,
một cuộc đấu tranh giữa các chủ thể lợi ích, các mâu thuẫn và xung đột trong
việc giải quyết mối quan hệ giai cấp- dân tộc và quốc tế. Nhận định về xu thế
phát triển của thế giới trong thế kỷ XXI, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Đảng ta đã chỉ rõ: “Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các
tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn,
vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”
1
.
Tóm lại, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ sự tác động lẫn
nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các quốc gia, các dân tộc, các khu vực
trên toàn thế giới; là quá trình tạo ra sự giao lưu, mối liên hệ phổ biến trên
phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, có thể nói là trình độ phát
triển cao của quốc tế hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ quốc tế hóa về thương
phẩm và dịch vụ, mở rộng mậu dịch quốc tế, hình thành thị trường thống nhất
rồi đến quốc tế hóa về tư bản và quốc tế hóa về sản xuất trên phạm vi toàn
cầu. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới mẻ, bởi các yếu tố của nó đã xuất
hiện và chín muồi (dù là chưa đồng đều) từ hàng chục năm nay, còn một số
lĩnh vực của nó thì đã có hàng trăm năm nay - đúng như những lời mà C.Mác
và Ph.Ăngghen đã dự báo khi phân tích, mổ xẻ xã hội tư bản. Chỉ có điều,
trong giai đoạn hiện nay, các thế lực tư bản chủ nghĩa mà điển hình là Mỹ với
ưu thế vượt trội về kinh tế đang ra sức lợi dụng xu thế toàn cầu hóa để chi
phối các nước khác trong vòng ảnh hưởng của mình, giữa một thế giới đầy
biến động phức tạp. Thực tế ấy cho thấy, toàn cầu hóa hiện nay vận động
trong quỹ đạo và chi phối của chủ nghĩa tư bản với ưu thế cũng như lợi ích
thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa có trình độ phát triển cao. Vấn đề đặt ra

đối với chúng ta trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải quán
triệt sâu sắc nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi để vừa bảo đảm lợi ích dân tộc,
vừa tính đến lợi ích của các đối tác, biết khai thác triệt để những mặt tích cực,
1
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr.64
7
những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đồng thời khắc phục đến mức
thấp nhất những tác động tiêu cực, những thách thức, khó khăn do toàn cầu
hóa đưa đến.
Trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hóa đang tăng lên, không một quốc
gia nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Sự xã hội hóa mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất, sự phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại đã làm nảy sinh yêu cầu hợp tác đa dạng, nhiều chiều, ổn định
và bền vững trên phạm vi toàn cầu. Mỗi nước trở thành một bộ phận hữu cơ
của thế giới, nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong sự phụ thuộc và mối
quan hệ qua lại với nền kinh tế khu vực và thế giới. Các quốc gia trên thế
giới, ở mức độ này hay mức độ khác, đều tùy thuộc lẫn nhau, có quan hệ với
nhau. Vì thế, nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế của thời đại
và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế, tuy có thể phải trả giá nhất định, song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự
phát triển của mỗi nước.
Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung ấy của thời đại. Đại hội VI
của Đảng (12/1986) trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia
ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển
quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư
nhân nước ngoài, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Tuy nhiên, trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó còn tiếp diễn,
Mỹ vẫn ngoan cố kéo dài việc bao vây, cấm vận chống nước ta, thì việc thực

hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam trong nửa
cuối những năm 80 của thế kỷ trước, chủ yếu còn nghiêng về một phía- phía
Liên Xô và các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV).
Phải trải qua gần năm năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu vận hành có kết quả. Đứng trước thực tế
8
các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, Đại hội VII của
Đảng (6/1991) mới đề ra luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo tổng
quát cho việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng
rãi ở nước ta: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”
1
; “Đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”
2
.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục cụ thể hóa các luận điểm trên.
Gần đây, Đại hội IX của Đảng lại nhấn mạnh thêm: “Chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ
môi trường”
3
.
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất
nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó
là sự kế thừa phát triển và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất
nước những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời, sau cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta hoan nghênh những người
Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác Chúng ta sẽ mời những chuyên
môn Pháp cũng như Mỹ, Nga, hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong
công cuộc kiến thiết quốc gia”
1
. Cuối năm 1946 trong lời kêu gọi Liên Hợp
Quốc, Người viết:
Trong chính sách đối ngoại của mình nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ
những nguyên tắc dưới đây:
1
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật HàNội, 1991, tr.147
2. ĐCSVN, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật Hà Nội 1991, tr.31
3. ĐCSVN, Sđd, tr.43
1
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, T4, tr.74
2
. Hồ Chí Minh, Sđd, T4, tr.470
9
Một là,. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc
lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng
tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền.
Hai là, Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi
chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
- Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
- Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao
thông cho việc buôn bán, quá cảnh quốc tế.
- Nước Việt Nam tham gia mọi tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh
đạo của Liên hợp quốc.

2

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa
phương châm chỉ đạo hoạt động của Đảng qua 20 năm đổi mới đất nước,
cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước ta
lần lượt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập
quốc tế.
Tháng 12/1987 Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Năm 1989 Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ với
Quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng thế giới; đến tháng 10 năm 1993 đã bình
thường hóa quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới
này.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 01
tháng 01 năm 1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu
dịch tự do ASEAN tức AFTA. Cũng trong tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã ký
hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và một số lĩnh vực
khác với cộng đồng châu Âu (sau đổi thành liên minh châu Âu – EU) đồng
thời bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng tạo diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7 năm 2000, hiệp
10
định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết. Trước đó, từ cuối năm 1994,
Nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Một sự kiện chính trị nổi bật trong nước năm 2007 là Việt nam đã chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới(WTO)
(Ngày11/ 01/ 2007). Đây là vấn đề có tính khách quan do sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Đúng như C. Mác dự báo: “
Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc với nhau đều phụ thuộc vào trình độ
phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản xuất, sự phân công lao động
và sự giao tiếp quốc tế”

1
.
2.Vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, mỗi nước tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế với một mục đích khác nhau. Đối với nước ta, Nghị quyết 07 của
Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa IX (11/2001) về hội nhập kinh
tế quốc tế đã chỉ rõ mục tiêu của chúng ta là để mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, khoa học, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập kinh tế, quốc tế, chúng ta có cơ hội tích lũy được những tiền
đề, những điều kiện cho một trình độ phát triển mới. Trước hết, chúng ta có
cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Mặt
khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá
trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền
kinh tế để tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và
mở rộng quá trình dân chủ hóa xã hội.
1
C.Mác và Ph.ăngghen toàn tập (1995),Tập 3, Nxb CTQG- Hà nội, tr. 30.
11
Với một nền kinh tế yếu kém, không tranh thủ được những cơ hội do
toàn cầu hóa đem lại- dù là toàn cầu hóa đang do chủ nghĩa tư bản chi phối thì
chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. chỉ riêng việc “học
hỏi’’chủ nghĩa tư bản (chứ chưa nói đến việc tranh thủ những nguồn lực,
phương tiện vật chất cần thiết ) đã là một tất yếu khách quan, một yêu cầu bắt
buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển. Như
Lê Nin đã nói, chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác

hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn
của chủ nghĩa tư bản đã thu được. Tuy nhiên, toàn cầu hóa là một quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh vô cùng phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho
chúng ta những cơ hội thuận lợi mà còn nẩy sinh cả những thách thức và khó
khăn lớn. Toàn cầu hóa với thách thức diễn ra hiện nay đặt các nước chậm
phát triển trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so vơi các nước phát triển; làm trầm
trọng thêm những bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo giữa các
nước. Điều này hoàn toàn bất lợi đối với nước ta. Vì vậy, chúng ta cần tỉnh
táo trong từng bước hội nhập, phân tích làm rõ tính hai mặt của toàn cầu hóa,
thấy được những mặt, những xu hướng, những tác động tích cực của nó; đồng
thời, tìm ra những cách thức, biện pháp khắc phục triệt để những tác động tiêu
cực, những nguy cơ, thách thức đặt ra trong quá trình mở cửa và hội nhập để
đẩy mạnh sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập tự chủ về kinh tế là vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng
Việt Nam và nó càng cần được nhấn mạnh khi chúng ta đẩy mạnh mở cửa hội
nhập nền kinh tế khu vực và quốc tế trong xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế
giới hiện nay. Có độc lập tự chủ về kinh tế thì mới có độc lập tự chủ thực sự
về chính trị; điều này đã được lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin khẳng định khi
nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa
kinh tế và chính trị.
12
Quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ đã có nhiều thay đổi cùng với
sự vận động hết sức phức tạp của đời sống kinh tế, chính trị thế giới. Trước
những năm 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế “độc lập tự chủ” được quan niệm là
một nền kinh tế khép kín, có đủ khả năng bảo đảm hầu hết các nhu cầu trong
nước. Theo quan niệm trên, nhiều quốc gia đã tiến hành công nghiệp hoá đất
nước theo mô hình “thay thế nhập khẩu”, tiêu biểu là Cộng hoà dân chủ nhân
dân Triều Tiên, đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, nước này đã có một nền
công nghiệp có khả năng tự đảm bảo tới 93% nhu cầu trong nước. Nhưng chỉ
chưa đầy 10 năm sau, hầu hết các nước phát triển kinh tế theo hướng thay thế

nhập khẩu đều thất bại và sự kiện Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên vỡ
nợ vào cuối những năm 60 của thế kỷ XX đã chứng tỏ quan niệm về xây dựng
một nền kinh tế khép kín trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế là một sai lầm.
Ngày nay, nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu là một nền kinh tế mà
mọi khâu của quá trình tái sản xuất ở trong nước đều gắn chặt với quá trình
phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đó là nền kinh tế phát triển theo
hướng mở cửa, có thực lực kinh tế mạnh, cạnh tranh hiệu quả và đủ sức đối
phó thắng lợi với các thách thức trong quá trình hội nhập. Nhưng vấn đề đặt
ra là: làm thế nào để phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng
XHCN; vừa thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở với phương châm chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã chính thức
gia nhập WTO?
WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, hiện có 151 thành viên
chính thức và 29 thành viên đang đàm phán, chiếm trên 90% giá trị thương
mại toàn cầu. Gia nhập WTO, Việt Nam có nhiều cơ hội lớn để phát triển và
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì:
Thứ nhất, chúng ta được tiếp cận thị trường toàn cầu. Đây là cơ hội lớn
để chúng ta xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra thị trường ngoài nước, đồng
thời là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài; là cơ hội để thu hút vốn,
tranh thủ công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước
13
phát triển, đẩy nhanh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng thực lực kinh tế mạnh
làm nền tảng cho một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ hai, chúng ta được tham gia bình đẳng cùng các nước khác
trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu. Gia nhập WTO chúng
ta có cơ hội bình đẳng trong việc xây dựng “luật chơi”. Điều đó một mặt hạn
chế được những qui định bất lợi trong chính sách của WTO đối với các nước
đang phát triển nói chung, đối với nước ta nói riêng, mặt khác giúp chúng ta
nắm chắc luật chơi để chủ động trong việc hoạch định các chiến lược kinh tế
quốc gia phù hợp với định chế của WTO và phát huy tối đa lợi thế đất nước,

giành quyền chủ động trong hội nhập và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ ba, chúng ta có cơ hội đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế
mới công bằng hơn. Gia nhập WTO chúng ta không chỉ được đối xử bình
đẳng mà còn giành quyền chủ động để khai thác các thế mạnh của đất nước
cho phát triển kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ tư, thực hiện nguyên tắc minh bạch hoá chính sách cũng là một cơ
hội để chúng ta đẩy mạnh việc cải cách nền hành chính quốc gia một cách có
hiệu quả và đồng bộ. Cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ năm, việc chính thức gia nhập WTO sẽ tiếp tục khẳng định vị thế
ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế và là điều kiện để chúng ta
triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: “Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực” (2, tr 34). Đây là cơ hội lớn để
chúng phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, đẩy nhanh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ. Bên cạnh những cơ hội lớn, xuất phát từ sự chênh lệch giữa nguồn lực
nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, chúng ta sẽ phải đối đầu với
những thách thức hết sức khó khăn. Cụ thể như sau:
14
Một là, cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, sâu hơn, rộng hơn không chỉ giữa
các doanh nghiệp mà còn giữa các nhà nước, không chỉ trên thị trường quốc
tế mà ngay cả trên chính thị trường nội địa. Đây là thách thức lớn nhất quyết
định vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Việc xoá bỏ các rào cản
thương mại sẽ dẫn tới việc hình hành một thị trường không biên giới. Các
doanh nghiệp trong nước sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài
ngay chính trên thị trường Việt Nam mà không được hưởng một sự bảo hộ
nào. Cạnh tranh sẽ toàn diện, từ chiến lược công nghệ, thu hút lao động tới
chiến lược sản phẩm. Không chỉ doanh nghiệp cạnh tranh với nhau mà nhà
nước ta cũng cần cần cạnh tranh với các nước khác bằng các chính sách thu

hút đầu tư và bảo đảm cơ sở hạ tầng vật chất cho các doanh nghiệp kinh
doanh thuận lợi.
Hai là, phân phối lợi ích không đồng đều giữa các nhóm nước có nền
kinh tế phát triển ở các trình độ khác nhau và giữa các ngành, các lĩnh vực,
các doanh nghiệp, … dẫn tới những biến đổi phức tạp trong cơ cấu kinh tế.
Nếu như trước đây thuế nhập khẩu cao bảo đảm cho nhiều lĩnh vực sản xuất
trong nước tồn tại, thì bây giờ, cạnh tranh công bằng đặt các doanh nghiệp
này trước sự lựa chọn, hoặc là đầu tư mạnh để thay đổi công nghệ, nâng cao
sức cạnh tranh, hoặc chuyển đổi lĩnh vực kinh doanh nếu không muốn phá sản.
Cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi lớn cả về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ
cấu thành phần kinh tế.
Ba là, sự đan cài lợi ích giữa các quốc gia và sự tác động trực tiếp, theo
nhiều chiều của những biến động trên thị trường quốc tế đối với thị trường
trong nước là những nguy cơ tiềm ẩn có thể dẫn tới những mất ổn định về
kinh tế. Gia nhập WTO còn đặt ra nhiều vấn đề phức tạp trên các lĩnh vực
chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng, … là thách thức không nhỏ
đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đó là nguy cơ chệch hướng
XHCN, làm suy giảm hoặc mất vai trò lành đạo kinh tế của Đảng; nguy cơ du
nhập những giá trị văn hoá phi XHCN, ảnh hưởng tiêu cực tới nền văn hoá
15
dân tộc (một nguồn động lực quan trọng cho phát triển kinh tế); nguy cơ gia
tăng các tệ nạn xã hội, cản trở quá trình phát triển kinh tế đất nước, … Trên
thực tế, không phải tất cả các quốc gia hội nhập quốc tế đều gặt hái thành
công.
3. Một số quan điểm, giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan, là con đường bắt
buộc chúng ta phải đi trong quá trình CNH, HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nhận rõ những thời cơ và thách thức là
vấn đề có ý nghĩa quyết định tới thành công của hội nhập. Nghị quyết Đại hội
đảng X xác định: “khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những

thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO)”, (1, tr 40). Để tận dụng tốt các cơ hội trên cơ sở phát huy tối đa lợi
thế của đất nước và đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra, hạn chế thấp
nhất những ảnh hưởng tiêu cực khi gia nhập WTO, xây dựng và phát triển
một nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ, chúng ta phải tiến hành đồng bộ
một số quan điểm, giải pháp sau đây:
Về quan điểm.
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất,
đồng thời là nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong phát
triển. Chúng ta không chấp nhận hội nhập theo quan điểm của chủ nghĩa tự do
mới, nghĩa là hội nhập kinh tế theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần,
nhưng phải hy sinh sự tiến bộ và công bằng xã hội, sự hy sinh này tất sẽ dẫn
đến triệt tiêu động lực của tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững, và như thế,
rốt cuộc đất nước ta sẽ không tránh khỏi lại rơi vào vòng lệ thuộc của một thứ
chủ nghĩa thực dân mới “ kiểu mới”.
Hai là, phát huy tối đa mọi nguồn lực nội sinh, mà trung tâm là nguồn
lực con người với trí tuệ và bản lĩnh văn hóa dân tộc, đồng thời ra sức tranh
16
thủ các nguồn lực ngoại sinh, tạo thành một hợp lực mạnh để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thế giới cạnh
tranh quyết liệt như hiện nay, không thể có ảo tưởng chỉ dựa một chiều vào
các nguồn lực ngoại sinh để phát triển. Khi chúng ta mới bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “phương châm của ta hiện
nay là:tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ”. Người căn
dặn chúng ta chỉ nên coi việc “các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho
ta”, vấn đề là ơ chỗ “ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta,
phát triển khả năng của ta” và “tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ
lại”

1
. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, chỉ có trên cơ sở phát huy
cao độ nội lực mới có thể tranh thủ và sử dụng tối đa ngoại lực, mới biến
ngoại lực ấy thành nội lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, có hiệu
quả và bền vững.
Thực tiễn thế giới trong những thập niên gần đây đã cho thấy sự phá
sản của “mô hình kinh tế Mỹ la tinh”. Các nước thuộc châu Mỹ la tinh do quá
ỷ lại vào nguồn lực bên ngoài, nhất là nguồn vốn nước ngoài trong phát triển
kinh tế đã đưa nền kinh tế các nước đó đến chỗ không có khả năng trả nợ, tốc
độ phát triển kinh tế - xã hội ở đó thấp hơn nhiều so với một số khu vực khác
trên thế giới. Sự khủng hoảng kinh tế ở Ac-hen-ti-na vừa qua có thể coi là
một minh chứng. Ngược lại, đó là sự thắng lợi của “mô hình kinh tế Đông Á”.
Các nền kinh tế mới công nghiệp hóa (các nước NICs) và nhất là Trung Quốc,
dựa vào nguồn lực trong nước là chính, kết hợp với việc sử dụng một cách
hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài đã tạo nên một sự phát triển
khá ổn định và bền vững với tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng khâm phục.
Bài học thành công và thất bại của các mô hình phát triển kinh tế đó
cho thấy, hiệu quả sử dụng các nguồn bên ngoài, từ vốn, công nghệ, đến kinh
nghiệm quản lý, phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào khả năng hấp thụ ở trong
nước mà hai yếu tố chiếm vị trí quan trọng nhất là người sử dụng và kết cấu
1
Hồ Chí Minh, Sđd, T8, tr.30
17
hạ tầng kém, làm cho khả năng hấp thụ trong nước hạn chế thì không thể có
được việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài, tình trạng thất thoát
vốn sẽ trỏ thành hiện tượng phổ biến và do vậy, tăng trưởng kinh tế không
những được thúc đẩy, mà còn làm cho đất nước lâm vào tình trạng nợ nần
chồng chất, kinh tế suy giảm.
Ba là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với hình thức và bước đi phù
hợp. Vừa không chần chừ, do dự để lỡ thời cơ, vừa không chủ quan, nóng vội

để mở cửa và hội nhập tràn lan mà thiếu sự chuẩn bị chu đáo cần thiết. “Muốn
tập bơi thì phải nhảy xuống nước” - đó là phương châm hành động mà Lênin
từng yêu cầu những người cộng sản Nga cần quán triệt trong thực tiễn. Song
để đảm bảo cho hoạt động thực tiễn thành công, Lênin đồng thời cũng nhắc
nhở các đồng chí mình phải luôn ghi nhớ thành ngữ “Bảy lần đo, một lần cắt”
của chính người Nga.
Bốn là, trong quá trình hội nhập phải luôn kiên trì giữ vững phương
châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia. Theo
phương châm này, một mặt cần thông minh, và nhạy bén xử lý mọi tình
huống, kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích kinh tế- xã hội mà
lẽ ra phải được hưởng; mặt khác, phải chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các
đối tác. Muốn vậy, phải biết kết hợp nhuần nhuyễn nguyên tắc vừa hợp tác,
vừa đấu tranh.
Về giải pháp.
Thứ nhất, đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH nền kinh tế.
CNH,HĐH nền kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta. CNH,HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật để chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại. Gia
nhập WTO chúng ta có cơ hội đẩy nhanh hơn quá trình này, đầu tư nước
ngoài sẽ tăng nhanh, chúng ta sẽ có vốn, sẽ tranh thủ được những thành tựu
mới nhất của khoa học – công nghệ (KH – CN), sẽ học hỏi được kinh nghiệm
quản lý hiện đại…, CNH, HĐH ở nước ta hiện nay cần được thực hiện một
18
cách toàn diện và có chiều sâu, không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh mà phải bao hàm cả lĩnh vực dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, không
chỉ dừng ở việc chuyển từ trình độ thủ công lên trình độ cơ khí mà phải
hướng tới ứng dụng ngay những thành tựu mới nhất của KH – CN hiện đại
gắn với phát triển nền kinh tế tri thức. Để tận dụng tốt cơ hội gia nhập WTO
cho đẩy mạnh CNH,HĐH cần đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới quản
lý, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng đồng

bộ các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó
phải cụ thể hoá lộ trình hội nhập bằng các chương trình, kế hoạch và qui
hoạch phát triển kinh tế; có chính sách hợp lý định hướng và hỗ các doanh
nghiệp thích nghi với lộ trình hội nhập.
Thứ hai, có chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội
nhập WTO.
Chúng ta cần có các chính khách tầm cỡ để tham gia hoạch định chính
sách thương mại toàn cầu và đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế công
bằng. Đẩy mạnh đào tạo các học giả đủ trình độ để tham gia hoạch định các
chính sách quốc gia phù hợp với định chế của WTO và các tổ chức quốc tế
khác nhằm vừa tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và lành mạnh, cho phép
thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả nhất, vừa đảm bảo sự độc lập tự chủ về
đường lối chính trị, đường lối, chính sách và mô hình phát triển kinh tế. Chủ
động đào tạo, bồi dưỡng các nhà quản lý, các nhà khoa học và đội ngũ công
nhân lành nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế để tham gia vào quá trình làm ra các
sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Không thể có nền kinh tế
phát triển ở một quốc gia có nguồn nhân lực kém phát triển, hiện nay chúng ta
có nguồn nhân lực dồi dào nhưng trình độ thấp và không đồng đều. Phát triển
nguồn nhân lực được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trung
tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH. Trong thực
hiện chiến lược này, giải pháp cải cách giáo dục đào tạo được coi là trọng
tâm, cơ bản, tuy nhiên thực trạng nền giáo dục của chúng ta hiện nay còn tồn
19
tại nhiều hạn chế yếu kém chậm được khắc phục. Cần phải rà soát, sắp xếp lại
hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học dạy nghề, đẩy nhanh quá
trình xã hội hoá giáo dục, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh ngay trong hoạt
động giáo dục đào tạo nhằm vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp
ứng yêu cầu của thị trường sức lao động, vừa giảm bớt sức ép về chi phí bao
cấp cho giáo dục của nhà nước. Song song với cải cách giáo dục, nhà nước
cũng cần có chính sách cụ thể nhằm gắn kết quá trình đào tạo và sử dụng

nguồn nhân lực sao cho đạt hiệu quả cao nhất, khắc phục tình trạng doanh
nghiệp nước ngoài không mất chi phí đào tạo nhưng lại được sử dụng nguồn
nhân lực có chất lượng cao hơn các doanh nghiệp trong nước nhờ chính sách
tiền lương linh hoạt và nghệ thuật quản lý kinh doanh.
Thứ ba, có chiến lược mở rộng thị trường trên cơ sở phát huy tối đa lợi
thế so sánh.
Không phải cứ gia nhập WTO là hàng Việt Nam có thể tự nhiên đi vào
thị trường quốc tế, ngoài hạn ngạch sẽ được dỡ bỏ và thuế quan sẽ được cắt
giảm, thị trường các nước phát triển có sự đòi hỏi hết sức khắt khe về chất
lượng hàng hoá, và đây chính là điểm yếu của hàng hoá Việt Nam. Có thể lấy
thực trạng xuất khẩu nông sản để chứng minh.Theo báo cáo của Vụ kế hoạch,
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2003, Trung Quốc là thị trường
tương đối dễ tính, nhưng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
Trung Quốc chỉ đạt 400 - 500 triệu USD, chiếm 1% kim ngạch nhập khẩu
nông sản của nước này. Những con số tương tự đối với thị trường Nhật Bản là
200 triệu USD, chiếm 0,3% kim ngạch nhập khẩu nông sản của Nhật Bản, đối
với thị trường Mỹ là 5,6 - 7 tỷ USD, chiếm 0,4 - 0,5% kim ngạch nhập khẩu
nông sản của Mỹ. Muốn nâng cao chất lượng hàng hoá, trước hết phải thay
đổi tư duy của người sản xuất, sản xuất phải dựa trên nhu cầu của thị trường.
Điều này tưởng chừng đơn giản nhưng lại đang là vấn đề khó khăn nổi cộm
với các nhà sản xuất trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng như trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Gia nhập WTO, các doanh
20
nghiệp lại càng gặp khó khăn khi không được hưởng khoản trợ cấp xuất khẩu
như trước đây. Nhà nước cần giúp các doanh nghiệp trong việc cung cấp
thông tin thị trường, hỗ trợ đổi mới công nghệ, hỗ trợ đào tạo nâng cao tay
nghề của người lao động. Bên cạnh việc mở rộng thị trường thì việc nâng cao
giá trị hàng hoá xuất khẩu cũng là vấn đề đáng quan tâm. Thực tế hiện nay
chúng ta thường xuất thô nguyên liệu hoặc hàng hoá có giá trị thấp, ví dụ 1kg
cà phê có giá bán khoảng 1 USD, các doanh nghiệp nước ngoài sau khi nhập

khẩu, chế biến và bán lại với giá 600 USD. Như vậy, công nghiệp chế biến
chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá trị hàng hoá, chúng ta phải tập trung phát triển
mạnh các ngành công nghiệp chế biến trong thời gian tới, đặc biệt là công
nghiệp chế biến hàng nông sản.
Thứ tư, nâng cao tiềm lực KH - CN nội sinh và xây dựng cơ cấu công
nghệ mới đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập WTO.
Trong điều kiện khoa học và công nghệ đang có bước phát triển nhảy
vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất thì việc nâng cao tiềm lực KH - CN nội sinh và xây dựng cơ
cấu công nghệ mới có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế đất nước, KH - CN quyết định sức cạnh tranh của nền sản xuất. Nâng
cao tiềm lực khoa học công nghệ cần chú trọng phát triển cả khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, kĩ thuật và công nghệ . Phải đổi mới
chính sách trong đào tạo, quản lý, quy hoạch và sử dụng các nhà khoa học,
phải đầu tư hợp lý cho phát triển cơ sở vật chất phục vụ cho nghiên cứu khoa
học, phải khuyến khích và hỗ trợ việc ứng dụng khoa học kĩ thuật vào đời
sống. Cơ cấu công nghệ mới cần được xây dựng theo hướng kết hợp chặt chẽ
cơ cấu công nghệ với cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh
tế; kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại nhằm vừa phát huy
tối đa nguồn lực trong nước, vừa thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu. Cơ cấu
công nghệ mới cần tập trung vào một số lĩnh vực như các ngành năng lượng,
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến, … đây sẽ là
21
những ngành có hiệu quả kinh tế cao và có sức cạnh tranh ở cả thị trường
trong nước và quốc tế trong thời gian tới. Tiếp cận công nghệ mũi nhọn cần
phát huy có hiệu quả vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, bởi
lĩnh vực này đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và trình độ quản lý hiện đại mà
ngoài thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra, chỉ có kinh tế nhà nước
là đáp ứng được. Tham gia lĩnh vực này đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước
phải đổi mới quản lý, sắp xếp lại tổ chức, đẩy mạnh cổ phần hoá, có như vậy

mới vừa giúp doanh nghiệp nhà nước huy động được một lượng vốn lớn vừa
tạo ra sự năng động, linh hoạt trong hoạt đông sản xuất, kinh doanh, đó cũng
là các điều kiện thiết yếu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn với sức cạnh
tranh ngày càng cao. Phát triển doanh nghiệp nhà nước thành các tập đoàn
kinh tế lớn không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà quan trọng hơn, nó
góp phần củng cố vững chắc vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước,
nhân tố cơ bản để xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ.
Như vậy, gia nhập WTO là một thành công, nó tạo ra những cơ hội lớn
mà nếu tận dụng tốt kinh tế nước ta sẽ có sự phát triển mạnh mẽ, mục tiêu cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 là
hoàn toàn có khả năng thực hiện được. Tuy vậy, hội nhập cũng buộc chúng ta
phải đối mặt với những thách thức hết sức khó khăn. Trong tiến trình cách
mạng, đã nhiều lần chúng ta phải đối mặt với những thách thức tưởng chừng
không thể vượt qua, nhưng cuối cùng đã không có thách thức nào cản được
bước tiến của dân tộc Việt Nam. Những thách hức khi gia nhập WTO là
không thể xem thường, nhưng tin tưởng rằng, với quyết tâm của toàn Đảng,
toàn dân, của các cấp, các ngành, của từng doanh nghiệp, chúng ta sẽ vượt
qua, sẽ biến thách thức thành cơ hội mới để phát triển nhanh hơn và đảm bảo
xây dựng một nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ.
22
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay có thể nói
là một quá trình mà trong đó cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất đã
vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc. Nó là một quá trình vừa hợp tác vừa
đấu tranh vô cùng phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho chúng ta những cơ
hội thuận lợi mà còn có cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh. Vì
vậy, việc nhận thức đúng đắn bản chất và nguyên nhân của toàn cầu hóa cũng
như những tác động nhiều mặt của nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
hoạch định đường lối chiến lược và thực thi các chủ trương, chính sách, giải
pháp nhằm: vừa sớm đưa đất nước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực

23
và thế giới; vừa bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Tận dụng thời cơ, hạn chế và khắc phục nguy cơ do toàn cầu hóa kinh
tế nói chung và khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế
giới WTO mang lại trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước, phát huy cao độ tinh thần chủ động sáng tạo của quần chúng
nhân dân, tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức, trong việc hoạch định
đường lối, chính sách và trong việc tổ chức thực hiện…; đó là những điều
kiện tiên quyết để bảo đảm phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
1. Thực chất về toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế
Mở cửa, hội nhập, toàn cầu hóa kinh tế là những bước đi của quá trình tham
gia của một nước vào phân công lao động quốc tế. Xét từ góc độ sản xuất
hàng hóa, mở cửa, hội nhập kinh tế là một quá trình phá bỏ tính chất tự cung,
tự cấp, khép kín của một quốc gia và trong phạm vi quốc gia, để mở rộng giao
lưu buôn bán với các quốc gia khác. Như vậy, kéo theo và vượt lên trên các
quan hệ thương mại, thì sự phân công lao động quốc tế đang ngày một hiện
hữu trong đời sống kinh tế thế giới. Việc một quốc gia tự xác định những giá
trị mà mình đóng góp vào giá trị chung của nhân loại là vấn đề cực kỳ quan
trọng hiện nay. Vậy, về thực chất, toàn cầu hóa là hệ quả của quá trình phát
triển lực lượng sản xuất
với tính chất xã hội hóa ngày càng mang tính toàn cầu, mà động lực và tiền đề
của nó là sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Cho dù toàn cầu
hóa là quá trình phát triển chung của nhân loại, là một xu thế tất yếu, thì quá
trình đó, cũng như các thành tựu của khoa học, công nghệ, luôn chịu ảnh
hưởng mạnh của các thể chế chính trị. Thực tế đã chỉ rõ, người ta ủng hộ rất
mạnh thị trường tự do mỗi khi sản phẩm của họ có sức cạnh tranh mạnh,
nhưng lại quay về "điều tiết" núp dưới mọi hình thức trá hình làm biến dạng

24
thương mại để bảo vệ lợi ích quốc gia và sản xuất trong nước mỗi khi thấy tự
do hóa không đem lại lợi ích gì (những động thái can thiệp của các nhà nước
vào nền kinh tế ngày càng thể hiện rõ vai trò bà đỡ, người tạo luật chơi, nhất
là lúc kinh tế suy thoái, khủng hoảng. Việc cắt giảm lãi suất của Cục dự trữ
Liên bang Hoa Kỳ những tháng đầu năm 2008 là một ví dụ cụ thể). Trong
thương mại quốc tế, những gì họ chiếm ưu thế trong cạnh tranh thì quá trình
tự do hóa diễn ra nhanh hơn, còn những gì bất lợi thì họ chần chừ, lẩn tránh
dưới mọi thủ đoạn, làm biến dạng thương mại, trong đó Mỹ có nhiều vụ việc
(chính sách nông nghiệp với các biến thu là một thí dụ).
Bởi vậy, các thể chế trong hệ thống kinh tế toàn cầu vừa thống nhất
trong đa dạng, vừa chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt. Thống nhất trên
những mục tiêu cơ bản, nhưng lại mâu thuẫn trên những hành động thực
dụng, đặc biệt là giữa các nước công nghiệp phát triển. Bên cạnh đó tính chất
hai mặt của mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng bộc lõ rõ: một mặt,
ngày càng đào sâu hố cách biệt giữa nước giàu và nước nghèo, nếu những
năm 60 các nước công nghiệp hóa chỉ giàu gấp ba lần các nước đang phát
triển, thì nay tỷ lệ đó đã tăng vọt lên 74 lần vào những năm đầu thiên niên kỷ
XXI. Với đà mở rộng thương mại toàn cầu trong 25 năm gần đây, mức thu
nhập bình quân đầu người ở các nước phát triển tăng 71%, trong khi ở các
nước nghèo chỉ tăng được 6%. Mặt khác, nhiều nghiên cứu đã tổng kết là,
một quốc gia nào đó đứng ngoài tiến trình này cũng có nghĩa là tự cô lập
mình với thế giới, kinh tế không những không phát triển được, mà thậm chí
còn ngày càng tụt hậu xa hơn.
25

×