Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Giả Lập Mạng Với Honeypots potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 73 trang )

Honeypots 1
Chương I: Tổng quan

Trong những năm gần đây, các cuộc xâm nhập mạng gia tăng đáng kể, do sự
phổ dụng của các công cụ tấn công được tự
động hoặc được lập kịch bản. Điều này đã
thúc đẩy sự quan tâm đến các hệ thống Honeypots, hệ thống này có thể được dùng để
“bẫy” và giải mã các phương pháp tấn công.
Các chuyên gia bảo mật cho biết: các kẻ tấn công hiện đều đang rất ngán ngẩm
khi phải tấn công vào một hệ thống Linux dạng trung bình. Chi phí cho một cuộc đột
nhập thành công vào một hệ thống sử dụng Linux cao hơn nhiều so với chi phí bỏ ra
để đột nhập vào hệ thống sử dụng Windows.
Dự án mang tên Honeypots được tạo ra với mục đích giả lập các hệ thống mạng
Linux bình thường để câu nhử các cuộc tấn công nhằm nghiên cứu độ an toàn
của các hệ
thống máy chủ Linux. Các kết quả nghiên cứu do Honeypots đưa ra cho biết: khoảng thời
gian tồn tại an toàn
của các hệ thống máy chủ chạy Linux đã gia tăng đột ngột trong 2 năm
gần đây.
Honeypots đã chỉ ra rằng: Trong giai đoạn hiện nay, một hệ thống máy chủ Linux
chưa được cài đầy đủ các bản sửa lỗi vẫn có thể “chịu đựng” an toàn trung bình là 3 tháng
trước các cuộc tấn công, khi so sánh với giai đoạn 2001-2002 chỉ là 72 giờ. Một số hệ
thống máy chủ
của dự án đã an toàn trong suốt 9 tháng trời trước mọi cuộc tấn công.
Dự án Honeypots được thiết kế để nhằm mục đích nghiên cứu, dò tìm và thu hút
mọi cuộc tấn công bất kỳ
của Internet vào các hệ thống máy chủ Linux, Windows. Từ
xưa đến nay mọi cuộc tấn công
trên Internet dường như chưa bao giờ giảm. Các nhà
nghiên cứu
của dự án đã chỉ ra rằng: hầu hết mọi cuộc tấn công trên đời đều nhằm vào


các hệ thống sử dụng Windows, đơn giản chỉ vì mức độ phổ biến quá mức
của hệ điều
hành này và độ bảo mật “ngon ăn” đến mức mà mọi kẻ tấn công đều không thể cưỡng
lại được.
Lance Spitzner, chủ tịch của dự án Honeynet, cho biết: “Tấn công vào một người
dùng bất kỳ tỏ ra dễ dàng hơn nhiều so với tấn công vào một hệ thống máy tính
của
ngân hàng. Ngân hàng được bảo vệ rất tốt nhưng người dùng thì không. Chừng nào
không còn đủ người dùng để tấn công thì hãy tấn công ngân hàng”.
___________________________________________________________________________
Honeypots 2
Dự án này không đưa ra các nghiên cứu so sánh với Windows, nhưng Spitzner đã
chỉ ra rằng các cơ quan chuyên về bảo mật như Symantec hoặc Internet Storm Center
(ISC) đã công nhận rằng có rất nhiều cuộc tấn công vào các hệ thống Honeynet Windows.
Một dự án khác của ISC đã đo lường thời gian tồn tại của các hệ thống Windows trước
các cuộc tấn công và cho ra nhiều kết quả khá thú vị như sau:
Thời gian tồn tại trung bình trước các cuộc tấn công của một số hệ thống chạy
Windows trong các thử nghiệm
của ISC đã giảm nhanh từ 55 phút trong giai đoạn mùa
thu 2003 xuống chỉ còn 20 phút vào dịp cuối năm 2004. Thảm hại nhất là vào giai đoạn
mùa xuân 2004, một hệ thống Windows chỉ “kịp sống” có 15 phút trước khi bị hạ gục.
Microsoft vớt vát rằng thời gian tồn tại ngắn như thế - ở ngay cả trong Windows XP
Service Pack 2 - là do có quá nhiều người sử dụng.
Dự án Honeynet đã cân nhắc kỹ trước khi phân bố các hệ thống khắp mọi
nơi
trên thế giới để thu hút các cuộc tấn công. Các máy tính chuyên câu nhử của Honeynet
được phân bố đều trong các mạng gia đình đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dự án đã triển khai 12 trạm honeynet ở 8 quốc gia là Mỹ, Ấn Độ, Anh, Pakistan, Hy
Lạp, Bồ Đào Nha, Brazil và Đức. Bao gồm 24 hệ thống Unix và giả lập Unix, 19 hệ thống
Linux hầu hết là Red Hat bao gồm: 1 hệ thống Red Hat 7.2, 5 hệ thống Red Hat 7.3, 1

Red Hat 8.0, 8 Red Hat 9.0 và 1 hệ thống Fedora Core. Các hệ thống khác nữa bao gồm: 1
chạy Suse 7.2, 1 Suse 6.3, 2 Solaris Sparc 8, 2 Solaris Sparc 9 và 1 hệ thống chạy Free-
BSD 4.4.
Dự án Honeynet là một cuộc nghiên cứu phi lợi nhuận do các công ty bảo mật thành
lập nên, bao gồm các công ty tầm cỡ như: Foundstone, Counterpane, Security Focus và
SourceFire.
I.1 Honeypots
Honeypots là một hệ thống tài nguyên thông tin được xây dựng với mục đích
giả lập đánh lừa những kẻ sử dụng và xâm nhập không hợp pháp, thu hút sự chú ý của
chúng, ngăn không cho chúng tiếp xúc với hệ thống thật.
- Trong lĩnh vực an toàn mạng, một Honeypots là một hệ thống máy tính được thiết kế
đặc biệt để “bắt” tất cả hoạt động và các file được khởi tạo bởi một thủ phạm có ý định
giành quyền truy cập trái phép tới hệ thống. Các Honeypots có thể mô phỏng giả lập
___________________________________________________________________________
Honeypots 3
- Honeypots như một mức bảo vệ firewall hơn là bảo vệ hệ thống mạng. Ví dụ, nếu
một firewall bảo vệ một mạng, thì Honeypots thường được đặt bên ngoài firewall.
Điều này cho phép các thủ phạm trên Internet nhận được quyền truy cập đầy đủ tới bất
kỳ dịch vụ vào của Honeypots. Lưu ý rằng, ý tưởng là ghi lại những hoạt động của thủ
phạm, chứ không phải ngăn chặn chúng khỏi việc giành quyền truy cập tới Honeypots.
- Một Honeypots là một hình nộm được thiết kế để quan sát những cuộc tấn công của
hacker. Một honeynet là một mạng được thiết lập xung quanh những hình nộm để lure
(nhử) và ghi lại những bước tấn công của hacker. Bằng việc nghiên cứu các cuộc tấn
công thật, những người nghiên cứu hy vọng có thể có được những bước tiến mới trong
việc phát triển kế hoạch phòng ngự. Mỗi khi Honeypots có sự tấn công thì người
nghiên cứu có thể học được những kỹ thuật tấn công mới và có thể dùng Honeypots để
tìm ra những rootkit (ẩn nấp và tránh không bị phát hiện, được sử dụng hỗ trợ giấu các
đoạn mã độc), lỗi và các backdoor (cổng sau, được hacker cài vào máy bị tấn công để
sau này quay lại máy đó dễ dàng hơn) trước khi chúng đi vào hệ thống.
Cần phải xây dựng hệ thống phòng ngự và phải có khả năng giấu và dodge (lẩn

tránh) những cuộc tấn công mà hệ thống không thể đáp trả lại. Đây là một vấn đề rất
quan trọng để nghiên cứu một cách an toàn về những máy tính ở những khoảng cách
xa. Thay thế vào việc đi tìm chúng thì chúng sẽ tự tìm đến.
Một hệ thống Honeypots bị tấn công khác chỉ ra rằng hành động đầu tiên của kẻ
tấn công đó là thay đổi password root, password admin của hệ thống (điều này làm cho
người quản trị hệ thống hoặc chủ hệ thống không thể đăng nhập vào). Không một kẻ
tấn công nào quan tâm đến việc kiểm tra sự hiện diện của Tripwire (một hệ thống kiểm
tra tính toàn vẹn của hệ thống), đây là hệ thống được mặc định trong Red Hat Linux và
được sử dụng như là một Honeypots. Một khi Tripwire chạy, tất cả những "hidden"
___________________________________________________________________________
Honeypots 4
Honeypots có sự khác biệt, giữa Honeypots nghiên cứu và Honeypots sản phẩm.
Những Honeypots nghiên cứu dựa trên những thông tin tình báo đạt được về kẻ tấn công
cũng như phương pháp, kỹ thuật của hacker. Trong khi đó, những sản phẩm
Honeypots có mục đích là làm giảm những nguy hiểm cho nguồn lực IT của công ty
và cung cấp những cảnh báo phát hiện cho các cuộc tấn công trên cơ sở hạ tầng mạng,
đồng thời đoán được và làm chệch hướng các cuộc tấn công khỏi hệ thống sản phẩm
trong môi trường giám sát của Honeypots.
Chúng được miêu tả như những mạng các hệ thống sản phẩm được kết nối tới
Internet (có thể không qua firewall). Hệ thống này là một hệ thống sản phẩm chuẩn với
những ứng dụng thực tế được sử dụng bởi các công ty trên mạng. Trong thực tế, nó
hoàn toàn có khả năng là một bản sao (clone) của hệ thống sản phẩm và được triển
khai thành Honeypots, những thông tin confidential (bí mật) được gỡ bỏ hoặc thay thế
bởi những thông tin tương tự nhưng không mang giá trị thực. Cũng có thể chạy một
Honeypots hoặc một honeynet tại nhà hoặc tại những công ty nhỏ. Trong thực tế, có
thể triển khai một phần mềm đơn giản như là Linux honey, như Niels Provos, là những
phần mềm có thể bắt chước những phản hồi của rất nhiều những dịch vụ đã biết. Trong
trường hợp này, có thể thu thập dữ liệu từ những cuộc tấn công bằng những worm tự
động và initial những bước tiếp theo của một cuộc tấn công bởi con người. Tuy nhiên,
illusion (ảo) là giới hạn và không phải bao giờ cũng đạt được một mức độ cao sau khi

những dữ liệu xuyên qua. Để có thể tiếp cận với những hành động xảy ra trong bóng
tối, cần phải có một honeynet: một thiết bị trực tiếp kết nối tới mạng, cái mà có thể bị
probe (dò tìm), bị tấn công. Chỉ cần vài máy tính, một kết nối tới mạng (thậm chí với một
IP động) và một số kiến thức về an toàn thông tin là sở hữu mạng để admit (nhận, nạp)
những hacker từ tất cả mọi nơi trên thế giới.
I.2 Nhiệm vụ của đồ án
Mỗi sinh viên cần làm một đồ án cuối khóa trước khi ra trường để củng cố thêm
kinh nghiệm nghiên cứu cũng như tổng hợp các kiến thức đã được học. Và đồ án của
em là nghiên cứu tìm hiểu về Honeypots. Các bước để nghiên cứu và thực hiện :
___________________________________________________________________________
Honeypots 5
+ Hiện thực hệ thống mạng ảo Honeypots.
+ Chứng minh hệ thống mạng đó tồn tại.
+ Scan port và các dịch vụ giả lập trên mạng đó.
+ Theo dõi và phát hiện ra xâm nhập.
Đó cũng chính là nhiệm vụ cần hoàn thành của đồ án này.
I.3 Cấu trúc đồ án
Tóm tắt đồ án được chia làm 5 chương:
Chương I: Tổng quan
- Giới thiệu về Honeypots.
- Nhiệm vụ và cấu trúc của đề tài.
Chương II: Honeypots
- Các loại hình Honeypots.
- Honeynet.
- Vị trí đặt hệ thống Honeypots.
Chương III: Giả lập mạng với Honeyd
- Cấu hình thiết lập Honeypots.
Chương IV: Hệ thống phát hiện xâm nhập
- Giới thiệu.
- Cấu hình cài đặt.

- Sử dụng.
Chương V: Mô phỏng hệ thống Honeypots
- Chi tiết file mô phỏng giả lập hệ thống Honeypots.
- Kết quả thực hiện.
___________________________________________________________________________
Honeypots 6
Chương II: Honeypots

II.1 Các loại hình Honeypots
Gồm hai loại chính: Tương tác thấp và tương tác cao
+ Tương tác thấp (Low Interaction): Mô phỏng giả lập các dịch vụ, ứng dụng, và hệ
điều hành. Mức độ rủi ro thấp, dễ triển khai và bảo dưỡng nhưng bị giới hạn về dịch vụ.
+ Tương tác cao (High Interaction): Là các dịch vụ, ứng dụng và hệ điều hành thực.
Mức độ thông tin thu thập được cao. Nhưng rủi ro cao và tốn thời gian để vận hành và
bảo dưỡng.

+ BackOfficer Friendly

+ Specter

+ Honeyd

+ Honeynet
Low Interaction

High Interaction
Hình 2.1: Loại hình Honeypots
II.1.1 BackOfficer Friendly (BOF)
Một loại hình Honeypots tương tác thấp rất dễ vận hành và cấu hình và có thể hoạt động
trên bất kỳ phiên bản nào của Windows và Unix nhưng chỉ tương tác được với một số

dịch vụ đơn giản như FTP, Telnet, SMTP…
II.1.2 Specter
Cũng là loại hình Honeypots tương tác thấp nhưng khả năng tương tác tốt hơn BOF,
giả lập trên 14 cổng, có thể cảnh báo và quản lý từ xa. Tuy nhiên giống BOF thì
specter bị giới hạn số dịch vụ và cũng không linh hoạt.
II.1.3 Honeyd
+ Honeyd lắng nghe trên tất cả các cổng TCP và UDP, những dịch vụ mô phỏng được
thiết kế với mục đích ngăn chặn và ghi lại những cuộc tấn công, tương tác với kẻ tấn
công với vai trò một hệ thống nạn nhân.
+ Honeyd có thể giả lập cùng một lúc nhiều hệ điều hành khác nhau.
___________________________________________________________________________
Honeypots 7
+ Hiện nay, Honeyd có nhiều phiên bản và có thể mô phỏng được khoảng 473 hệ điều
hành.
+ Honeyd là loại hình Honeypots tương tác thấp có nhiều ưu điểm tuy nhiên Honeyd
có nhược điểm là không thể cung cấp một hệ điều hành thật để tương tác với tin tặc và
không có cơ chế cảnh báo khi phát hiện hệ thống bị xâm nhập hay gặp nguy hiểm.
II.1.4 Honeynet
Hình 2.2: Mô hình honeynet (GenII)
___________________________________________________________________________
Honeypots 8
- Honeynet là hình thức Honeypots tương tác cao. Khác với các Honeypots, Honeynet
là một hệ thống thật, hoàn toàn giống một mạng làm việc bình thường. Honeynet cung
cấp các hệ thống, ứng dụng, các dịch vụ thật.
- Quan trọng nhất khi xây dựng một honeynet chính là honeywall. Honeywall là
gateway ở giữa Honeypots và mạng bên ngoài. Nó hoạt động ở tầng 2 như là Bridged.
Các luồng dữ liệu khi vào và ra từ Honeypots đều phải đi qua honeywall.
Các chức năng của Honeynet

Bất kỳ một hệ thống Honeynet nào cũng phải thực hiện được ba điều kiện: Kiểm soát

dữ liệu, bắt dữ liệu và phân tích chúng.
- Kiểm soát dữ liệu
Có thể hiểu là mở cánh cửa cho hacker đi vào, cho phép xâm nhập honeynet nhưng lại
đóng cửa ra, ngăn không cho hacker phát tán những đoạn mã độc hại ra mạng làm việc
bên ngoài và Internet.

Hình 2.3: Kiểm soát dữ liệu
Honeynet GenIII sử dụng ba cách kiểm soát dữ liệu.
+ Đếm số kết nối từ honeynet ra ngoài: nếu lớn hơn mức cho phép thì sẽ cấm kết nối.
+ Sử dụng Snort-inline: đây là một phần mềm mã nguồn mở phát triển lên từ Snort
làm việc như một hệ thống ngăn chặn xâm nhập (IPS) dựa trên cơ sở dữ liệu về các
hình thức tấn công thu thập được từ trước để ra quyết định.
+ Kiểm soát băng thông.
- Bắt dữ liệu
___________________________________________________________________________
Honeypots 9
Đây là mục đích chính của tất cả các loại hình Honeynet - thu thập nhiều nhất thông
tin về kẻ tấn công theo nhiều mức: các hoạt động của mạng, các hoạt động ứng dụng,
các hoạt động của hệ thống.
Honeynet GenIII sử dụng Sebek để bắt dữ liệu. Đây là một kernel ẩn đặt tại các máy
Honeypots và server là honeywall gateway.

Hình 2.4: Hoạt động của Sebek
Khi mà kẻ tấn công xâm nhập vào hệ thống và tương tác với một Honeypots. Tất cả các
hoạt động của hacker này đều được bí mật chuyển về sebek server thu thập và xử lý.
- Phân tích dữ liệu
Phân tích dựa trên giao diện walleye của Honeywall hoặc bằng Ethereal.
II.2 Kế hoạch triển khai Honeypots
Để triển khai một Honeypots cần có một quá trình xử lý kỹ thuật tốt cùng với
việc thực hiện đúng kế hoạch sẽ giúp triển khai thành công hệ thống.

Danh sách dưới đây đưa ra các bước để thực hiện:
+ Xác nhận Honeypots là được cho phép tạo dựng trong môi trường hệ thống đó.
+ Xác định mục tiêu Honeypots. Tại sao lại muốn chạy một Honeypots.
+ Dùng nó để nghiên cứu hay là bảo vệ hệ thống tổ chức máy tính.
+ Xác định vai trò con người trong việc tạo ra và duy trì một Honeypots. Có chuyên
môn kỹ thuật để triển khai một cách chính xác và duy trì một Honeypots không? Có
___________________________________________________________________________
Honeypots 10
phần mềm và phần cứng để triển khai chưa? thời gian hàng ngày sẽ mất để duy trì và
phân tích dữ liệu như thế nào? Tiếp tục thảo luận, nghiên cứu để theo kịp những
Honeypots mới và khai thác một cách hiệu quả.
+ Các loại Honeypots sẽ triển khai là nghiên cứu hoặc sản phẩm, thực hay ảo.
+ Xác định cài đặt cấu hình thiết bị mạng cần thiết để tạo ra Honeypots. Kế hoạch và
cấu hình một số thành phần hỗ trợ Honeypots và tool (cảnh báo, đăng nhập, giám sát,
quản lý…).
+ Thu thập các thiết lập của việc giám sát, đăng nhập và các tool phân tích hợp pháp.
+ Triển khai kế hoạch phục hồi lại. Làm thế nào để phục hồi hệ thống Honeypots
nguyên bản sau khi nó được khai thác sử dụng dẫn tới việc bị hư hại.
+ Triển khai Honeypots và các thành phần hỗ trợ nó, kiểm tra việc triển khai, đánh giá
các công cụ phát hiện xâm nhập, thử nghiệm xem hệ thống Honeypots hoạt động tốt
không.
+ Phân tích các kết quả và tìm ra những thiếu sót. Tinh chỉnh các hệ thống Honeypots
dựa trên các bài đã được học và nghiên cứu. Lặp lại các bước cần thiết.
II.2.1 Lôi kéo người tấn công
Nếu để lộ ra Honeypots theo cách mà những địa chỉ IP và các port được truy
xuất tới từ Internet, thì nó sẽ được truy cập một cách nhanh chóng. Trung bình hàng
ngày các địa chỉ IP công khai trên Internet được thăm dò hàng chục lần. Theo số liệu
thống kê từ nhiều dự án của Honeypots cho thấy rằng có nhiều hơn một trăm lần thăm
dò một ngày, và hầu hết các máy chủ lưu trữ đều xảy ra tấn công trong vòng một tuần.
Các worm từ Internet sẽ quét nhiều lần trong ngày. Nhiều quản trị của Honeypots đã

ghi lại thành công những tổn hại xảy ra chưa đến 20 phút.
Chính vì những nguyên nhân đó một số quản trị viên của Honeypots đã nhanh
chóng và tích cực đăng vùng Honeypots của họ tới danh sách mail và website của
hacker. Những quản trị viên đăng các vị trí Honeypots của họ để khám phá một số tội
phạm nghiêm trọng. Thu thập các thông tin chứng cứ về những hành vi xâm nhập trái
phép. Việc tạo ra Honeypots không bao giờ nên quảng bá sự hiện diện hay mời gọi các
hacker vì nó sẽ đánh bại các mục đích chính của Honeypots.
II.2.2 Xác định mục tiêu
___________________________________________________________________________
Honeypots 11
Để thiết kế hệ thống Honeypots cần xác định các mục tiêu, muốn chọn nơi nào để đặt
Honeypots. Có rất nhiều câu hỏi cần được trả lời trước khi bắt đầu, bao gồm cả những
điều sau đây:

- Lý do chính muốn tạo ra hệ thống Honeypots?
- Môi trường OS là gì để giả lập Honeypots?
- Giả lập những lọai Server hoặc Service gì?
- Muốn theo dõi các mối đe dọa từ bên trong, bên ngoài hay cả 2?
Để có câu trả lời cho những câu hỏi này về cơ bản cần xác định là sẽ nghiên cứu hay
tạo ra các sản phẩm Honeypots, và làm như thế nào? cấu hình nó ra sao?.
Sản phẩm Honeypotss nên mô phỏng theo các ứng dụng, dịch vụ, và máy chủ đã tồn
tại. Nếu làm đúng với tương tác cao, nó sẽ gây khó khăn cho tin tặc trong việc nhận
biết và tương tác với Honeypots.
.

Hình 2.5: Ví dụ về một sản phẩm Honeynet
Ví dụ, giả sử hệ thống mạng bao gồm máy chủ chạy HĐH Windows Server 2003 chạy
IIS 6.0, Windows 2000 Server chạy Microsoft SQL Server 2000, Windows NT 4.0
Server, và một Windows 2000 Server chạy IIS 6.0. Sản phẩm honeypots sẽ cố gắng để
mô phỏng giống như những cái máy chủ và các dịch vụ ở trên

II.3 Vị trí đặt hệ thống Honeypots
Có 3 vùng chính để đặt hệ thống Honeypots:
___________________________________________________________________________
Honeypots 12
- External Placement (đặt ở vùng ngoài).
- Internal Placement (đặt ở vùng trong).
- DMZ Placement (đặt ở vùng DMZ)
Mỗi vùng để đặt Honeypots đều có những ưu điểm và nhược điểm tùy theo mục đích
của việc tạo ra Honeypots để làm gì.
II.3.1 Đặt ở vùng ngoài
Là vùng nằm ngoài Internet với vị trí này thì sẽ không có bức tường lửa nào
đứng trước Honeypots, các Honeypots và mạng lưới honepots sẽ chia sẻ cùng một địa
chỉ IP subnet công cộng.
II.3.2 Đặt ở vùng trong
Vị trí Honeypots nằm bên trong mạng và bức tường lửa ở giữa ngăn cách nó
với thế giới Internet. Vị trí này là cách tốt nhất để tạo ra một hệ thống cảnh báo sớm
cho biết bất kỳ sự khai thác từ bên ngoài vào và bảo vệ mạng nội bộ, bắt các đe dọa
xảy ra cùng một lúc. Một ví dụ cho thấy khi mà worm Blaster tấn công, nhiều công ty
đã triển khai firewall và cấu hình khóa port 135 ngăn chặn an toàn từ các worm nhưng
worm có thể lén đi qua firewall trên đường links và từ những máy tính laptop, thiết bị
di động. Sau khi đã qua bức tường lửa các worm có thể gây nhiễm các máy tính nội bộ
chưa được vá lỗi hệ điều hành và lỗi bảo mật.
II.3.3 Đặt ở vùng DMZ
DMZ là một vùng nằm riêng lẻ so với LAN nhằm mục đích đặt những server
public như web server, mail server, ftp server.
Việc đặt một Honeypots trên vùng DMZ thường là lựa chọn tốt nhất của các
công ty, nó có thể được đặt dọc theo các máy server trong vùng DMZ và cung cấp cảnh
báo sớm mối đẹ dọa cho vị trí đó. Một router đặt giữa firewall của DMZ được thêm vào
như là một lớp điều khiển dữ liệu. DMZ có thể có các địa chỉ IP công cộng và riêng tư.
Các vị trí của Honeypots trong DMZ là một vị trí lý tưởng cho việc thiết lập, nhưng

hầu hết các vị trí đặt mô hình đó là phức tạp. Ngoài ra, vì nó nằm trên DMZ, không
phải là tốt nhất cho việc cảnh báo sớm cho một cuộc tấn công làm hư hại mạng nội bộ.
So sánh giữa các vị trí đặt Honeypots.

___________________________________________________________________________
Honeypots 13
Vị trí Ưu điểm Nhược điểm
Vùng ngoài
Dễ xây dựng, triển khai
Số lượng thiết bị cần thiết ít.
Điều khiển dữ liệu kém
Rủi ro cao nhất cho các sản phẩm
mạng Honeypots.
Vùng trong
Tốt cho việc giám sát nhân
viên bên trong.
Hệ thống cảnh báo sớm để
bảo vệ backup.
Cài đặt phức tạp hơn nhiều.
Cần phải quyết định cho phép các port/
chuyển hướng trực tiếp.
DMZ Có thể điều khiển dữ liệu tốt
Cài đặt phức tạp.
Hệ thống cảnh báo không được mạnh.
Cần phải quyết định cho phép các port/
chuyển hướng trực tiếp.

___________________________________________________________________________
Honeypots 14
Chương 3: Giả lập mạng với Honeyd


Được phát triển và duy trì bởi Niels Provos, Honeyd là một chương trình nền
nhỏ nhưng có rất nhiều tính năng nổi trội. Honeyd giả lập các máy ảo trong một mạng
máy tính. Nó có thể giả lập một hệ điều hành bất kỳ, cho phép mô phỏng các dịch vụ
TCP/IP khác nhau như HTTP, SMTP, SSH Honeyd được sử dụng trong việc xây
dựng Honeynet, thiết lập các Honeypots để dụ hacker đột nhập vào hệ thống.
Một tính năng hữu ích của Honeyd là có khả năng giả lập một topology mạng
với đầy đủ các thông số như các bước mạng, tỉ lệ thất thoát, độ trễ khi truyền và băng
thông chỉ với duy nhất một máy chủ nằm trong mạng. Khả năng này cho phép giả lập
các mạng máy tính phức tạp để thí nghiệm, nó cũng đóng giả một mạng máy tính đối
với hacker bên ngoài mạng, bẫy hacker vào mạng Honeypots.
Một số tính năng Honeyd cung cấp để thiết lập mạng Honeypots:
+ Giả lập các topology mạng phức tạp.
+ Cấu hình các thông số của mạng như độ trễ, tỉ lệ thất thoát và băng thông.
+ Hỗ trợ nhiều router đầu vào để phục vụ nhiều mạng.
+ Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng.
+ Định tuyến bất đối xứng.
+ Đường hầm GRE để thiết lập các mạng phân tán.
Phần này sẽ hướng dẫn cách tạo các topology mạng, sử dụng Honeyd và các cấu hình
mẫu. Cung cấp cú pháp cấu hình lệnh và cách dùng các tập tin cấu hình. Tập trung vào
từng bước để xây dựng một mạng máy tính và xem xét kỹ các tập tin cấu hình.
Khung chương trình Honeyd thiết lập Honeypots:
CREATE <template name>
#ANNOTATE "<personality name>"
SET <template name> ETHERNET "<Ethernet name>"
SET <template name> PERSONALITY “<personality name>”
SET DEFAULT <template name> TCP ACTION <action>
SET DEFAULT <template name> UDP ACTION <action>
SET DEFAULT <template name> ICMP ACTION <action>
___________________________________________________________________________

Honeypots 15
ADD <template name> <protocol> PORT <number> <action>
ADD <template name> <protocol> PORT <number> "<script engine to call> <script file>"

SET <template name> UPTIME <seconds>
SET <template name> DROPRATE IN <%>
SET <template name> UID <number> GID <number>
BIND <IP address(es)> <template name>
Giải thích cho đoạn chương trình trên:
Create: Tạo ra template
#annotate: chú thích tên hệ điều hành
Chỉ ra Ethernet đặt cho template phục vụ việc kết nối ra bên ngoài.
Gán hệ điều hành cho template đã tạo ở trên.
Cài đặt các action cho protocol TCP, UDP, ICMP trong đó action có 3 loại:
Open – Mở toàn bộ số cổng có trên một protocol.
Block – Tất cả các packets của protocol được chỉ định là dropped, khi được
chỉ định honeypots sẽ không respond packet cho protocol, port.
Reset – Cho biết tất cả các port là đóng. Nếu 1 TCP port là đóng thì honeypot
ảo respond với 1 TCP RST tới 1 packet SYN cho port này. Nếu là
UDP port đóng thì honeypot ảo replies với 1 một thông báo ICMP
port-unreachable.

Thêm port kèm theo protocol cùng với action
Thêm script chạy các dịch vụ trên các port.
Thiết lập các biến system:
UPTIME thời gian hệ thống chạy bao lâu tính bằng giây.
DROPRATE IN tỷ lệ (%) rớt được chỉ định của packets gửi từ Honeyd để mô phỏng
một mạng bận rộn.
UID and GID định danh duy nhất và định danh trên toàn cầu của các máy tính ảo
(number).

Sau đây sẽ xây dựng một mạng vật lý bao gồm 4 máy tính để bàn cộng với một
hệ thống được dùng làm máy chủ Honeyd. Mạng ảo mà giả lập sẽ được đặt trên máy
chủ Honeyd. Honeyd làm việc trên nền Unix, rồi được chuyển sang Windows bởi
Michael Davis. Trong ví dụ này, sẽ dùng một máy Windows Server 2003 để làm máy
___________________________________________________________________________
Honeypots 16
chủ Honeyd. Mạng vật lý sử dụng dải địa chỉ 10.0.0.0/24, và máy chủ Honeyd được
gán cho địa chỉ IP 10.0.0.1 như hình 3.1.

Hình 3.1: Honeyd host
III.1 Các bước thiết lập 2 Honeypots
Đầu tiên xem qua cách thức thiết lập 2 mạng Honeypots trên máy chủ Honeyd.
Xây dựng 2 Honeypots sử dụng hệ điều hành Windows trên địa chỉ IP 10.0.0.51 và
10.0.0.52. Đường sọc màu xanh trong hình 2 chứa các Honeypots mà máy chủ Honeyd
tạo ra.
Trước khi cấu hình và chạy Honeyd, cần phải chắc rằng máy chủ Honeyd trả lời
các gói tin yêu cầu ARP (Address resolution packet - gói tin phân giải địa chỉ) cho các
IP của các Honeypots làm chủ.
Trước khi khởi động Honeyd, cần cung cấp cho Honeyd một tập tin cấu hình
(trong trường hợp này là tập tin lab1.config) chứa các thông tin giả lập 2 máy có hệ
điều hành Windows. Tập tin cấu hình sẽ có nội dung tương đối dễ hiểu như sau:
___________________________________________________________________________
Honeypots 17
#Windows computers
#annotate "Microsoft Windows 2003 Server SP1"

create window
set window ethernet "vmware"
set window personality "Microsoft Windows 2003 Server SP1"
set window default icmp action reset

set window default tcp action block
set window default udp action reset

add window tcp port 80 "perl scripts\iisemulator-0.95\iisemul8.pl"
add window tcp port 139 open
add window udp port 138 open
add window udp port 137 open
add window udp port 135 open

bind 10.0.0.51 window
bind 10.0.0.52 window
Các cấu hình trên tạo một mẫu tên là
window và gắn 2 địa chỉ IP cho Honeypots
với mẫu đó. Mẫu trên yêu cầu Honeyd đóng giả hệ điều hành “Microsoft Windows
2003 Server SP1” khi một máy khách cố gắng xác minh Honeypots với nmap hoặc
Xprobe. Mở 5 port trên Honeypots: 80/tcp, 139/tcp, 137/udp, 138/udp và 135/udp.
Khi một máy kết nối tới cổng 80 của Honeypots, Honeypots sẽ thực thi “perl
scripts\iisemulator-0.95\iisemul8.pl” để giả lập IIS. Đối với các cổng được đóng,
Honeypots sẽ trả lời yêu cầu bằng một thông điệp RST trong trường hợp giao thức
TCP hoặc một thông điệp ICMP Port Unreachable trong trường hợp giao thức UDP.
Với tập tin cấu hình này, có thể chạy Honeyd từ cấu hình lệnh:
C:\winhoneyd\WinHoneyd_1.5c.exe -d -i 2 -f C:\winhoneyd\lab1.config 10.0.0.51
10.0.0.52
Tùy chọn –d là biến lựa chọn tốt nhất cho việc thực thi Honeyd tùy chọn này
hoạt động kín đáo trong nền sau, -i <interface> là tùy chọn chỉ ra interface mà
___________________________________________________________________________
Honeypots 18
honeyd lắng nghe và kết nối với mạng, -f <filename> thực thi file cấu hình. Để biết
được tất cả network interfaces dùng tùy chọn –N.


Từ thời điểm này, Honeyd bắt đầu lắng nghe và trả lời các gói tin đối với 2 hệ
thống ảo mà nó tạo ra tại địa chỉ 10.0.0.51 và 10.0.0.52. Máy chủ Honeyd vẫn có thể
được truy cập từ bên ngoài, nên cần phải bảo vệ địa chỉ IP của máy chủ Honeyd bằng
tường lửa cụ thể là phần mềm "Kerio WinRoute Firewall”.
___________________________________________________________________________
Honeypots 19

Hình 3.2: Thiết lập 2 Honeypots
III.2 Thiết lập một router trong mạng

Hình 3.3: Router trong mạng Honeypots
___________________________________________________________________________
Honeypots 20
Giả lập một mạng đơn giản với Honeyd sử dụng không gian địa chỉ 10.0.1.0/24
chứa 2 Honeypots được tách khỏi mạng LAN bởi một router Cisco (R1)
như hình 3.3.
Để giả lập mạng này, đầu tiên là tạo một router Cisco ở địa chỉ 10.0.0.100:
#Cisco router
create router
set router ethernet "vmware"
set router personality "Cisco 7200 router running IOS 12.1(14)E6"
set router default icmp action reset
set router default tcp action reset
set router default udp action reset

add router tcp port 23 "perl scripts\router-telnet.pl"
Cú pháp "route entry" được dùng để chỉ định cổng vào mạng ảo từ mạng LAN, ở đây
là Router R1:
route entry 10.0.0.100 network 10.0.0.0/24
cấu hình trên thông báo cho Honeyd biết rằng 10.0.0.100 là cổng vào mạng ảo

10.0.0.0/24 và cũng là địa chỉ của router. Như vậy là có thể có nhiều router đầu vào,
mỗi router phục vụ cho một phạm vi mạng khác nhau.
Mạng 10.0.1.0/24 có thể được truy cập thông qua router R1. Để chỉ định mạng nào có
thể được kết nối trực tiếp và không cần các bước mạng từ xa, cách dùng lệnh "route
link" như sau:
route 10.0.0.100 link 10.0.1.0/24
Địa chỉ IP đầu tiên được chỉ định ra ở trên là IP của router. Địa chỉ mạng được
chỉ định sau từ khoá "
link" cho biết mạng nào có thể được truy cập trực tiếp. Nhiều
lệnh link có thể được dùng để gắn nhiều subnet trực tiếp đến một router. Router sẽ sử
dụng mẫu route mà đã thiết lập bằng lệnh.
bind 10.0.0.100 route
Hai Honeypots sử dụng mẫu winxp thiết lập ở trên sẽ được gắn với các địa chỉ IP
10.0.1.51 và 10.0.1.52:
___________________________________________________________________________
Honeypots 21
create winxp
set winxp ethernet "vmware"
set winxp personality "Microsoft Windows XP"
set winxp default icmp action reset
set winxp default tcp action block
set winxp default udp action open
add winxp tcp port 23 open
add winxp tcp port 80 open
bind 10.0.1.51 winxp
bind 10.0.1.52 winxp
Đến đây, việc cấu hình mạng đơn giản đã hoàn tất. Chạy lệnh trên máy Honeyd
và cung cấp cho nó tập tin cấu hình để mạng giả lập hoạt động.
III.3 Thiết lập một mạng với 2 router


Hình 3.4: Honeypots với 2 router
___________________________________________________________________________
Honeypots 22
Bây giờ hãy xem xét một trường hợp phức tạp hơn. Trong hình 3.4, thêm vào
một mạng khác ngăn cách với mạng ban đầu bởi router R2 với địa chỉ IP 10.0.1.100.
Mạng mới có địa chỉ trong dải 10.1.0.0/24 và chứa 2 Honeypots ở địa chỉ 10.1.0.51 và
10.1.0.52.
Đầu tiên thêm vào một cổng nối (R2) trong tập tin cấu hình. Bằng cấu hình
"route add net", có thể thêm vào mạng ảo một cổng nối. Áp dụng trong trường hợp này
có dạng sau:
route 10.0.0.100 add net 10.1.0.0/24 10.0.1.100
Cấu hình trên cho thấy Honeyd biết rằng 10.0.0.100 là IP của Router R1, được
chỉ định để kết nối tới mạng 10.1.0.0/24 thông qua cổng nối 10.0.1.100 (router R2).
Địa chỉ IP đầu tiên trên cấu hình lệnh là của R1, địa chỉ cuối là của cổng nối mới, và
dải địa chỉ được chỉ định là của mạng được truy cập thông qua cổng nối mới.
Sau khi thêm vào router R2, phải chỉ định địa chỉ IP nào có thể được kết nối
trực tiếp từ R2. Một lần nữa lại dùng lệnh "
route link" để làm việc này. Trong mạng
của mình, mạng con 10.1.0.0/24 được truy cập trực tiếp từ R2, nên câu lệnh có dạng
sau:
route 10.0.1.100 link 10.1.0.0/24
Tiếp theo thêm vào 2 Honeypots bằng cách gắn địa chỉ IP của chúng với mẫu
Honeypots.
bind 10.1.0.51 window
bind 10.1.0.52 window
Tổng kết lại, có thể chỉ định một đường vào mạng ảo với lệnh "route entry
network
". Để chỉ định các mạng có thể được truy cập trực tiếp từ một cổng nối, dùng
cấu hình lệnh "
route link". Thêm một cổng nối mới để truy cập vào mạng con bằng

cấu hình "
route add net". Đây là 3 cấu hình cơ bản để xây dựng topology mạng lớn với
Honeyd. Bằng cách sử dụng kết hợp các cấu hình này, có thể giả lập các mạng phức
tạp.
Bây giờ, sẽ mở rộng mạng thêm một mức nữa để nghiên cứu thêm các đặc tính
nổi trội khác của Honeyd.
III.4 Thiết lập độ trễ, thất thoát và băng thông
___________________________________________________________________________
Honeypots 23
Thêm vào một mạng thứ 3, bao gồm 2 Honeypots nằm cách R2 một hop như
hình 3.5.

Hình 3.5: Thiết lập độ trễ, thất thoát và băng thông
Thêm mạng này vào trong tập tin cấu hình:
route 10.0.1.100 add net 10.1.1.0/24 10.1.0.100 latency 50ms loss 0.1 bandwidth 1Mbps
route 10.1.0.100 link 10.1.1.0/24
bind 10.1.1.51 window
bind 10.1.1.52 window
Các cấu hình trên sẽ chỉ định địa chỉ IP 10.1.0.100 làm cổng nối truy cập vào
mạng 10.1.1.0/24, và triển khai 2 Honeypots ở địa chỉ 10.1.1.51 và 10.1.1.52. Cấu hình
"
route add net" cũng thiết lập các tham số về độ trễ khi truyền, tổn thất và băng thông
của kết nối giữa router R2 và R3.
Trong thực tế, mỗi bước mạng gói tin đi qua sẽ thêm một khoảng thời gian trễ
truyền nhất định. Điều này có thể được giả lập thông qua từ khóa
latency - độ trễ trên
mỗi bước mạng có thể được chỉ định ra bằng số mili giây truyền đi. Mạng máy tính
___________________________________________________________________________
Honeypots 24
trong thực tế cũng không giống như trong trường hợp lý tưởng khi truyền gói tin - một

số gói tin có thể bị thất thoát. Từ khóa
loss được dùng để minh họa hành vi của các
liên kết trong mạng bằng cách chỉ ra tỉ lệ phần trăm (%) thất thoát. Honeyd cũng đưa
gói tin vào hàng đợi nếu một liên kết bị chiếm bởi một gói tin trước đó. Tùy thuộc vào
băng thông phục vụ cho liên kết, giá trị trễ có thể thay đổi. Băng thông của một liên
kết được chỉ định bằng Kpbs, Mbps hoặc Gbps với từ khoá
bandwidth.
III.5 Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng
Honeyd cũng hỗ trợ việc tích hợp các topology mạng ảo với các máy chủ vật lý
trên mạng. Giả sử muốn tích hợp vào mạng ảo một máy chủ nằm tại địa chỉ 10.1.1.53.
Máy chủ này được đặt trong mạng LAN chứa máy chủ Honeyd và các máy bàn khác,
nhưng muốn đặt một cách logic sau vài bước nhảy bên trong mạng ảo. Hình 3.6 mô tả
cấu trúc của mạng:
Dùng lệnh "bind" để gắn một máy chủ vật lý bên ngoài vào trong mạng. Cấu hình sẽ
như sau:
bind 10.1.1.53 to eth0
Cấu hình trên báo cho Honeyd biết rằng 10.1.1.53 có thể được kết nối thông qua giao
diện eth0; vì 10.1.1.53 nằm trong phần mạng sau router R3 (một cách logic), một gói
tin tới địa chỉ IP sẽ chạy qua R1, R2 và R3 trước khi đến 10.1.1.53. Để thấy điều này,
hãy lần theo đường định tuyến đến 10.1.1.53 từ máy bàn trên mạng LAN:
C:\>tracert 10.1.1.53
Tracing route to 10.1.1.53 over a maximum of 30 hops
1 * * * Request timed out.
2 <10 ms 10 ms 10 ms 10.0.1.100
3 10 ms 20 ms 20 ms 10.1.0.100
4 10 ms 20 ms 20 ms 10.1.1.53
Trace complete.
___________________________________________________________________________
Honeypots 25


Hình 3.6: Tích hợp các máy vật lý vào topology mạng
Máy 10.1.1.53 được kết nối thông qua 3 trạm trung gian ảo, mặc dù nó nằm trên cùng
mạng vật lý với các máy khác.
III.6 Thiết lập nhiều router đầu vào
route entry 10.0.0.200 network 10.2.0.0/24
route 10.0.0.200 link 10.2.0.0/24
route 10.0.0.200 add net 10.2.1.0/24 10.2.0.100
route 10.2.0.100 link 10.2.1.0/24
bind 10.0.0.200 router
bind 10.2.0.100 router
bind 10.2.0.51 window
bind 10.2.0.52 window
bind 10.2.1.51 window
bind 10.2.1.52 window
___________________________________________________________________________

×