Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

LUẬN VĂN: Nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.07 KB, 117 trang )










LUẬN VĂN:

Nghiên cứu, lý giải một cách đầy đủ
và có hệ thống vấn đề nghèo đói



























MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi lịch sử phát triển của xã hội loài người có sự phân chia gia cấp, vấn đề phân
biệt giàu nghèo đã xuất hiện và cho đến nay vẫn đang tồn tại như một thách thức lớn đối
với sự phát triển bền vững của từng Quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện
đại của nhân loại. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN) luôn được đặt ra trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Vì vậy,
những năm gần đây nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế rất quan tâm tìm các giải pháp hạn
chế nghèo đói và giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới.
Ở nước ta, xóa đói giảm nghèo được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định mục tiêu cơ bản trong hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ
mới để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân, mọi gia đình Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ, Đảng và Nhà nước phải tạo điều kiện "Làm cho người nghèo đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá. Người khá, giàu thì giàu thêm" [13, tr 303].
Vấn đề xóa đói giảm nghèo đã được đưa vào mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội 5 năm (1996-2000). Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng
định:"Thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ quân sự cách mạng,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số". Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định hướng đi đó
và nhấn mạnh: "Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo ngay trong
từng bước đi và trong suốt quá trình Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước. Phấn đấu
đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo" [14]. Công cuộc đổi mới của đất nước đã

đạt được những thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế-xã hội, đời sống của đa số dân cư
được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được thành tựu đáng kể. Song, mức sống của người
dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên. Một bộ phận khá lớn dân cư
còn sống nghèo đói, trong đó có nhiều gia đình có công với Cách mạng vẫn còn chịu nhiều
thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả do công
cuộc đổi mới mang lại. Cuối năm 2005, cả nước vẫn còn khoảng 22% số hộ nghèo đói.
Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN đã triển khai mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh, thành



trong cả nước, nhưng hiệu quả chưa cao. Nhiều hộ thoát nghèo vẫn chưa vững chắc, rất dễ
tái nghèo khi gặp thiên tai hay rủi ro bất thường trong đời sống và sản xuất kinh doanh,.
Quảng Trị là một trong những tỉnh nghèo nhất khu vực Miền Trung, trong những
năm qua, Quảng Trị đã tích cực thực hiện Chương trình XĐGN và thu được một số kết quả
đáng kể; từ 1996-2005 tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm trên 2 %. Tuy nhiên tỷ lệ
hộ nghèo của tỉnh còn rất cao 28,48% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của Bộ LĐ-
TB&XH). Đây đang là vấn đề bức xúc đặt ra cho tỉnh Quảng Trị, bởi thực hiện XĐGN
trên địa bàn tỉnh không chỉ có ý nghĩa thực hiện mục tiêu chung của Quốc gia mà còn có
vai trò thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển, vươn lên tránh tụt hậu; đồng thời hội
nhập với các vùng khác trong khu vực và cả nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, lý giải một
cách đầy đủ và có hệ thống vấn đề nghèo đói, xác định các giải pháp thực hiện vừa đảm
bảo đúng nguyên lý chung vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương Quảng Trị là yêu cầu
cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh vấn đề nghèo đói, phân hóa giàu nghèo, XĐGN là chủ đề được Đảng,
Nhà nước Việt nam, nhiều cơ quan trong nước, tổ chức quốc tế, cán bộ nghiên cứu quan
tâm và có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau. Nhưng đáng chú ý là
một số công trình sau:
- UNDP “Tiến kịp”, 1996.
- Nguyễn Thị Hằng, “Vấn đề XĐGN ở nông thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hòa, “Phân hóa giàu - nghèo ở một số Quốc gia khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.
- Ngô Quang Minh, “Tác động kinh tế của nhà nước góp phần XĐGN trong quá trình
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo "XĐGN vùng
dân tộc thiểu số: Phương pháp tiếp cận", năm 2001.
- Trần Thị Hằng, "Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay", Nxb Thống kê, năm 2001.



- Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang, “Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Hội thảo nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô. Chương trình
nghiên cứu Việt Nam, Hà Lan (VNRP), Đà Nẵng năm 2002.
- Ngân hàng Thế giới “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam” năm 2004
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề
XĐGN. Đây là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá trình
viết Luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu, khảo sát để đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân nghèo
đói, đề xuất những giải pháp chủ yếu XĐGN trên địa bàn Quảng Trị, làm cơ sở cho việc
xây dựng, chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh có hiệu quả.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghèo đói và XĐGN.
+ Phân tích thực trạng nghèo đói và hoạt động XĐGN ở tỉnh hiện nay, chỉ rõ
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói và những vấn đề đặt ra cho công tác XĐGN trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị.
+ Xác định mục tiêu và một số giải pháp chủ yếu thực hiện XĐGN ở Quảng Trị

trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các đối tượng là người nghèo, xã nghèo,
vùng nghèo trong tỉnh.
Phạm vi nghiên cứu: Quảng Trị có đặc điểm tương đối phức tạp về điều kiện sống,
khí hậu, và địa hình, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến nghèo đói cho từng vùng,
từng hộ. Ở Quảng Trị, dân số nông thôn chiếm tỷ lệ cao, vì thế luận văn đi sâu nghiên cứu
vấn đề nghèo đói và XĐGN ở vùng nông thôn. Mặt khác, để phục vụ cho yêu cầu chỉ đạo
chương trình XĐGN phù hợp với đặc điểm của địa phương, luận văn phân tích 3 vùng
kinh tế sinh thái của tỉnh là: Vùng ven biển, vùng đồng bằng trung du và vùng núi. Về thời
gian luận văn phân tích chủ yếu từ năm 1996 đến nay, khi các hoạt động XĐGN trên địa



bàn tỉnh được đưa vào Nghị quyết. Về mục tiêu chiến lược và giải pháp XĐGN, dự báo
đến năm 2015; một số mục tiêu được định lượng cụ thể đến năm 2010 để phù hợp với định
hướng phát triển KT-XH của tỉnh.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để xem xét vấn đề nghèo đói và XĐGN một cách khách quan, khoa học và sát thực
tiễn, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối và chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về nghèo đói và XĐGN, vấn đề dân tộc. Luận văn sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu cụ thể của kinh tế học và
xã hội học như: Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, phương pháp đồ thị,
mô hình, phân tổ, điều tra, tổng kết thực tiễn để đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề
nghiên cứu của đề tài.
6. Những điểm mới của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ tiếp tục kế thừa kết quả của nhiều công
trình khoa học liên quan đến vấn đề nghèo đói và XĐGN; luận văn có những điểm mới sau
đây:

- Chỉ ra diễn biến nghèo đói và hoạt động XĐGN ở tỉnh Quảng Trị và những vấn đề
đặt ra cần phải giải quyết.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm từng bước XĐGN ở Quảng Trị
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3
chương, 8 tiết.



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI

1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CHUẨN NGHÈO
1.1.1. Quan niệm về nghèo đói
Vấn đề nghèo đói đã được đề cập trong chính sách của nhiều quốc gia và trong một
số thập kỷ qua ở nhiều nước đã có bước tăng trưởng đáng kể về kinh tế và đời sống. Do
vậy, chống nghèo đói là một trong những chính sách ưu tiên của Liên Hợp Quốc nhằm cải
thiện đời sống cho khoảng trên 1,2 tỷ người đang sống trong tình trạng nghèo đói tuyệt
đối.
Do vấn đề nghèo đói diễn ra trên quy mô lớn nên hậu quả của nó đã tác động xấu
đến vấn đề sinh thái, môi trường và sự bất ổn về chính trị ở nhiều vùng trên thế giới. Nó có
ảnh hưởng không chỉ đối với các quốc gia nghèo mà còn có nguy cơ lan rộng và tác động
toàn cầu như tàn phá môi trường sinh thái, vấn đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực XH lan rộng
vv Vì vậy, sự nghiệp chống nghèo đói không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với
các nước phát triển. Tại khóa họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển
XH, tháng 6 năm 2000 tại Genever - Thụy Sỹ, các thành viên đã thống nhất cam kết, phấn
đấu giảm một nữa số người nghèo trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy
mạnh chiến dịch "Tấn công vào nghèo đói" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược
toàn diện về XĐGN. Tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9 năm 2000 của Liên Hợp Quốc

tại Washington (Mỹ), một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những mục
tiêu ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ 21 [18, tr.3]. Tuy nhiên quá trình
thực hiện XĐGN ở mỗi quốc gia có cách làm và giải pháp khác nhau. Lý do cơ bản có
những khác nhau đó là ở mỗi quốc gia khác nhau, có trình độ phát triển KT-XH, điều kiện
địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị khác nhau nên khả năng đáp ứng các nhu
cầu hưởng thụ vật chất, tinh thần cho dân chúng có khác nhau. Ngay trong một quốc gia
thì ở mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau thì khả năng đáp ứng các nhu cầu trên cho
dân chúng cũng khác nhau. Điều đó dẫn đến quan niệm về đói nghèo của các quốc gia có
sự khác nhau và các giải pháp XĐGN cũng có sự khác nhau.



Để xây dựng các giải pháp XĐGN, cần thiết phải có quan niệm đúng về nghèo đói
và có sự thống nhất chung cho các quốc gia về các khái niệm nghèo đói. Nếu có sự khác
nhau giữa các quốc gia thì đó chỉ là sự khác nhau về cách tiếp cận, chứ không phải khác
nhau về bản chất của nghèo đói.
Trên thế giới vấn đề nghèo đói được xem xét ở nhiều gốc độ và khía cạnh khác nhau,
trong đó có khía cạnh kinh tế- xã hội theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau, cụ thể là:
Các nhà khoa học có nhiều định nghĩa về nghèo như: Nghèo về vật chất, nghèo về
tri thức, nghèo về văn hóa, nghèo về điều kiện sinh hoạt vv Còn đói là khái niệm dùng để
phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Do vậy, nghèo đói hay đói nghèo là
khái niệm kép. Trong tư duy của người Việt nam, đói có 2 dạng là đói kinh niên và đói gay
gắt; nghèo cũng có 2 dạng là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nhưng dù ở dạng nào thì
đói nghèo cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác nhau,
"nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo"[20, tr 18].
Nếu nghèo kéo dài và không ra khỏi vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì dễ lâm
vào tình trạng đói rách, cùng quẫn.
Abapiasen-chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng:
nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào sự phát triển cộng đồng [19, tr 20].
UNDP đã đưa ra những định nghĩa nghèo [3, tr 27], như sau:

- Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết
đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.
- Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối
thiểu.
- Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như
không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những
nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hay nước khác.
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 tại Bangkok (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã
thống nhất cho rằng:"nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được XH thừa nhận, tùy theo trình độ



phát triển KT-XH và phong tục tập quán của từng địa phương [2, tr 8]. Đây là khái niệm
tương đối đầy đủ và bao quát, nên có thể coi đây là định nghĩa chung nhất và có tính
hướng dẫn về phương pháp nhận diện nét chính yếu phổ biến về đói nghèo của các quốc gia.
Tuy nhiên, các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa chưa được xác định vì còn phải tính
đến sự khác biệt về mặt chênh lệch giữa các điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển
của mỗi vùng, miền khác nhau. Ưu điểm của khái niệm này là: Làm rõ được bộ phận dân cư
nghèo đói là: "Tùy theo trình độ phát triển KT-XH và phong tục tập quán từng địa phương"
Nghèo có 2 dạng: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo tuyệt đối là tình
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy
trì cuộc sống. Nhu cầu cơ bản, tối thiểu đó là mức bảo đảm tối thiểu về ăn, mặc, nhà ở,
nước sinh hoạt, y tế, giáo dục và vệ sinh môi trường. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ
phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định.
Như vậy, nghèo đói là khái niệm mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian.
Nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng một bộ phận dân cư có thu
nhập thấp, không cho phép thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu; trước hết là ăn-gắn liền với
dinh dưỡng. Nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt từng quốc gia và cũng được mở

rộng dần. Còn nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận
dân cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì vậy, nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng: Việc xóa dần nghèo tuyệt đối là việc có thể làm, còn nghèo
tương đối là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng
cách chênh lệch giàu-nghèo. Khái niệm nghèo tuyệt đối được sử dụng để so sánh mức độ
nghèo khổ giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm quốc gia nghèo là
đất nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ
tầng và môi trường yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc
tế. Còn trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng khái niệm nghèo tuyệt đối.
Quan niệm nghèo đói của Việt Nam: Dựa trên các khái niệm của các tổ chức thế
giới, Việt Nam đã đưa ra các khái niệm cụ thể hơn và được nghiên cứu ở các cấp độ: cá
nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn



1998-2000 của Việt Nam đã đưa ra các khái niệm: Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng
nghèo và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể.
Về khái niệm nghèo của Việt Nam thì cơ bản thống nhất với khái niệm nghèo đói
của ESCAP.
Đói là tình trạng của một bộ phận cư dân nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và
thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân
cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu
khả năng chi trả cho cộng đồng. Đói là nấc thang thấp nhất của nghèo, đây vốn thuần túy là
đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế vật chất và khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn
hóa, thuộc phạm trù văn hóa tinh thần.
Khái niệm đói cũng có hai dạng; đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt).
- Đói kinh niên:Là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời điểm đang xét.
- Đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do nhiều nguyên nhân
như gặp tai nạn, thiên tai, rủi ro khác tại thời điểm đang xét.
- Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành

đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà cửa rách nát
- Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm,
không có khả năng phát triển sản xuất.
- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ sở hạ tầng
thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch vv trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ
cao.
- Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở,
giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Tóm lại, nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất và đặc
trưng của nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và
trình độ phát triển kinh tế-xã hội của vùng, miền, quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải
pháp XĐGN ở nước ta, nhất là vùng dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay.
1.1.2. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo



Theo từ điển tiếng Việt thì tiêu chí và chuẩn có các nghĩa sau đây:
Tiêu chí có nghĩa là: tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự
vật, một khái niệm [21, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính định tính.
Chuẩn có nghĩa là: Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà
làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường; cái được công nhận là
đúng theo quy định hoặc đúng theo thói quen trong xã hội [21, tr.181]. Như vậy, chuẩn mang
tính định lượng. Từ đó ta có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc giới hạn do nhà nước hay tổ chức
quốc tế quy định về mức thu nhập mà nếu ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo,
còn ai vượt qua giới hạn đó thì họ không phải là người nghèo. Chuẩn là công cụ để phân
biệt giữa người nghèo và người không nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có quan
hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và ngược lại
a) Tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới:
Để đánh giá nghèo đói, UNDP dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu nhập

theo đầu người hay theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu nhập cho từng cá
nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định, nó không quan tâm đến nguồn
mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư.
Phương pháp tính là: Đem chia dân số của một nước, một châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5
nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: Rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo.
Theo cách tính này, vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập
toàn thế giới, trong khi 20% nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy nhóm giàu nhất gấp 59 lần
nhóm nghèo nhất [22, tr.11].
Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu, nghèo
của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người trong một
năm với 2 cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo
USD. Phương pháp PPP (purchasing power parity), là phương pháp tính theo sức mua
tương đương và cũng tính bằng USD.
Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của các nước trên
toàn thế giới làm 6 loại:
+ Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu.



+ Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu.
+ Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu.
+ Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình.
+ Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo.
+ Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo.
Theo phương pháp thứ hai, WB muốn tìm ra mức chuẩn nghèo đói chung cho toàn
thế giới. Trên cơ sở điều tra thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình và giá cả hàng hóa, thực
hiện phương pháp tính "rỗ hàng hóa" sức mua tương đương để tính được mức thu nhập
dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. WB đã tính mức năng lượng tối thiểu cần thiết
cho một người để sống là 2.150calo/ngày. Với mức giá chung của thế giới để đảm bảo
mức năng lượng đó cần khoảng 1USD/người/ngày. Từ đó, năm 1995 WB đã đưa ra chuẩn

mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới
370USD/người/năm. Với mức trên WB ước tính có trên 1,2 tỷ người trên thế giới đang
sống trong nghèo đói.
Tuy nhiên, theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu nhập dưới
1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền kinh tế-xã hội và sức mua của đồng
tiền khác nhau, chuẩn nghèo đói theo thu nhập (tính theo USD) cũng khác nhau ở từng
quốc gia. Ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo được xác định là
14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaixia là 28USD/người/tháng.
Srilanca là 17USD/người/tháng. Bangladet là 11USD/ người/ tháng Ở Việt Nam, GDP
bình quân đầu người hiện nay khoảng 600 USD/ người/ năm, nên trên bình diện chung của
thế giới nước ta là nước nghèo khó, do đó không thể lấy mức nghèo đói của WB để xác
định nghèo đói của Việt Nam.
Chỉ tiêu thu nhập quốc dân tính theo đầu người là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều
nước và nhiều tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Nhưng cũng cần thấy
rằng nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như văn hóa, chính trị, xã hội.
Trong thực tế nhiều nước phát triển có thu nhập bình quân theo đầu người cao nhưng vẫn
chưa đạt được sự phát triển toàn diện; Tình trạng thất nghiệp, nghèo đói, thiếu việc làm, ô
nhiễm môi trường và những bất công khác vẫn còn phổ biến, khoảng cách giàu nghèo ngày



càng tăng lên, xu hướng này không chỉ xảy ra ở những nước nghèo mà còn ở những nước
khá và giàu. Qua đó có thể thấy rằng: nghèo khổ trong xã hội không chỉ là hậu quả của
mức thu nhập thấp hay cao mà còn là kết quả của phân phối thu nhập và thực hiện công
bằng xã hội. Vì vậy, để đánh giá vấn đề nghèo đói, bên cạnh tiêu chí thu nhập quốc dân
bình quân, UNDP còn đưa ra chỉ số con người (HDI) bao gồm hệ thống ba chỉ tiêu: tuổi
thọ, tình trạng biết chữ của người lớn, thu nhập bình quân đầu người trong năm. Đây là chỉ
tiêu cho phép đánh giá đầy đủ và toàn diện về sự phát triển và trình độ văn minh của mỗi
quốc gia, nhìn nhận các nước giàu nghèo tương đối chính xác và khách quan.
b) Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam:

Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác định
chuẩn nghèo phục vụ mục đính khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo của Chính
phủ do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố; chuẩn nghèo của Tổng cục thống kê
và Ngân hàng thế giới đưa ra để đánh giá nghèo đói trên giác độ vĩ mô.
* Phương pháp xác định đường đói nghèo của Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế
giới:
Tổng cục thống kê với vai trò thu thập, công bố và đánh giá số liệu cấp quốc gia và
có thể so sánh quốc tế đã cùng Ngân hàng thế giới áp dụng phương pháp xác định chuẩn
nghèo theo phương pháp đo lường mức sống của Ngân hàng thế giới được thực hiện trong
các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (các năm 1992 - 1993 và 1997 - 1998) để
xây dựng đường đói nghèo.
Đường đói nghèo ở mức thấp là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, được
xác định bởi chi phí cần thiết để mua rỗ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng calo
tiêu dùng bình quân 1người/ngày (2.100 calo). Đường đói nghèo ở mức cao hơn gọi là
đường đói nghèo chung (bao gồm các mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực,
thực phẩm). Trên cơ sở xây dựng đường đói nghèo thì Tổng cục thống kê và WB đưa ra
chuẩn nghèo đói của Việt Nam như sau:
- Chuẩn nghèo đói về lương thực, thực phẩm năm 1993 là 750 nghìn
đồng/người/năm và năm 1998 là 1.287 nghìn/người/năm tương đương 92 USD.



- Chuẩn nghèo đói chung năm 1993 là 1.160 nghìn/người/năm và năm 1998 là
1.788 nghìn/người/năm tương đương 128 USD.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau:
Phương pháp này sử dụng rỗ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đã hơn 10 năm nên không
thể phản ánh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt Nam.
Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị, nông thôn và
chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập danh
sách hộ nghèo cụ thể cho từng địa phương.

* Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực của chương trình
XĐGN đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kỳ. Lúc đầu nghèo được xác định
dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang chỉ tiêu thu nhập, kết quả là đã 4 lần công bố
chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn khác nhau (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Quy định về chuẩn nghèo đói (Theo chuẩn quốc gia)
Chuẩn nghèo đói qua
các giai đoạn
Phân loại người nghèo đói

Mức thu nhập
BQ/người/tháng
1993-1995(Mức thu
nhập qui ra gạo)
Đói(KV nông thôn) Dưới 8Kg
Đói(KV thành thị) Dưới 13Kg
Nghèo(KV nông thôn) Dưới 15Kg
Nghèo(KV thành thị) Dưới 20Kg
1996-2000(Mức thu
nhập qui ra gạo tương
đương với số tiền)
Đói(Tính cho mọi khu vực)
Dưới 13Kg (45.000
đồng)
Nghèo(KV nông thôn miền
núi, hải đảo)
Dưới 15Kg (55.000
đồng)
Nghèo(KV nông thôn, đồng
bằng trung du)

Dưới 20Kg (70.000
đồng)
Nghèo(KV thành thị)
Dưới 25Kg (90.000
đồng)



2001-2005(Mức thu
nhập tính bằng tiền)
Nghèo (KV nông thôn miền
núi, hải đảo)
Dưới 80.000 đồng
Nghèo(KV nông thôn đồng
bằng trung du)
Dưới 100.000 đồng
Nghèo(KV thành thị) Dưới 150.000 đồng
2006-2010(Mức thu
nhập tính bằng tiền)
Nghèo (KV nông thôn) Dưới 200.000 đồng
Nghèo(KV thành thị) Dưới 260.000 đồng
Nguồn: Bộ LĐ-TB và XH, chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn
1998-2000 và Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg.
Đầu năm 1998, cả nước có 2,65 triệu hộ (khoảng 14 triệu dân) nghèo đói, chiếm
17,7% dân số (theo chuẩn chung của quốc tế là 37%). Trong đó có 300.000 hộ thường
xuyên nghèo đói; Có 1.498 xã có tỷ lệ hộ nghèo đói từ 40% trở lên và 1.168 xã thiếu hạ
tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường, trường, trạm xá, chợ, nước sạch), 2/3 số xã nghèo là các
xã miền núi, khoảng 1,2 triệu người ở 978 xã cần được định canh định cư và 15 vạn đồng
bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cần được hỗ trợ phát triển. Đến cuối năm năm 2000,
tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị còn 6% và nông thôn là 11,2 %. Đầu năm 2001 khi thay đổi

chuẩn nghèo đói, nước ta còn khoảng 2,8 triệu hộ nghèo (chiếm 17,11%), đến cuối năm
2005 còn khoảng 1,6 triệu hộ nghèo, chiếm 9,5%.
Ưu điểm của phương pháp này là: Đảm bảo từng bước thỏa mãn nhu cầu của con
người (ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa ). Chuẩn được điều chỉnh gắn với tăng trưởng
kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện sống của người dân, tình hình thay đổi cơ cấu chi tiêu,
thu nhập của người dân. Mặt khác theo phương pháp này, tạo điều kiện cho cơ sở có thể
triển khai được việc lập danh sách hộ nghèo và xác định các hỗ trợ cần thiết.
Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận này có hạn chế là chưa tính toán đầu đủ nhu cầu
tiêu dùng (chỉ chú ý một số nhu cầu lương thực, thực phẩm và một số nhu cầu phi lương
thực, thực phẩm). Độ tin cậy chưa cao do không có điều kiện điều tra diện rộng, thu thập
thông tin về thu nhập của người dân nông thôn và miền núi rất khó chính xác.
Mặc dù có một số hạn chế nhưng cách tính chuẩn nghèo của Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội là tương đối phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.



* Về tiêu chí xác định xã nghèo:
Năm 1998, ủy ban Dân tộc và Miền núi đã ban hành quy định xã đặc biệt khó khăn
(thuộc chương trình 135) là xã có đủ 5 tiêu chí sau:
- Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu công nghiệp,
trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10 Km.
- Không có đường ôtô vào xã; các công trình điện, thủy lợi, nước sạch, trường học,
bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Môi trường XH chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù chữ và thất học
trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu, không có thông tin.
- Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn; số hộ không có đất và thiếu đất sản
xuất trên 20%, số hộ có người làm thuê trên 20%.
- Số hộ nghèo đói trên 30%. Đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình trạng đói giáp
hạt.
Năm 2002, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội có Quyết định số: 587/2002/QĐ-

BLĐTBXH quy định xã nghèo (ngoài chương trình 135) là xã có đủ 2 tiêu chí sau:
- Có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
- Chưa có đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu, cụ thể như sau:
+ Dưới 30% số hộ được sử dụng nước sạch.
+ Dưới 50% số hộ được sử dụng điện sinh hoạt.
+ Chưa có đường ôtô tới trung tâm xã, ôtô không đi lại được cả năm.
+ Số phòng học mới đáp ứng dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng tạm bằng
tranh, tre, nứa, lá.
+ Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng nhà tạm.
+ Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
Theo tiêu chí nêu trên thì hiện nay nước ta có khoảng xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK),
và xã nghèo.
1.1.3. Nội dung của xoá đói giảm nghèo
a. Khái niềm về giảm nghèo hay XĐGN.



Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát
khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ % và số lượng người nghèo giảm. Nói một cách
khác, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. Ở
khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng
có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người [3, tr 39].
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa đói và cũng giống như khái niệm
nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể tái sinh mỗi khi quan
niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Hoặc có những biến động khác tác động đến như:
khủng hoảng, lạm phát, thiên tai vv Vì vậy, việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được
xem xét trong một không gian và thời gian nhất định.
Do cách nhìn nhận và đánh giá nguồn gốc của nghèo đói khác nhau, nên cũng có
nhiều quan niệm về giảm nghèo khác nhau. Nếu hiểu nghèo là dạng đình đốn của phương
thức sản xuất đã bị lạc hậu nhưng vẫn còn tồn tại thì giảm nghèo là quá trình chuyển đổi

sang phương thức sản xuất tiến bộ hơn.
Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong XH một cách bất công đối với
người lao động, do chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì giảm nghèo là quá trình xóa bỏ chế
độ sở hữu và chế độ phân phối này.
Nếu hiểu nghèo là do hậu quả của tình trạng Chủ nghĩa thực dân đế quốc kìm hãm
sự phát triển ở các nước thuộc địa, phụ thuộc thì giảm nghèo là quá trình các nước thuộc
địa, phụ thuộc giành lấy độc lập để trên cơ sở đó phát triển KT-XH.
Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát triển kinh tế
thì phải tìm mọi cách để giảm gia tăng dân số lại một cách hợp lý.
Còn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế thì giảm nghèo chính là tạo việc làm, tạo cho XH ổn định và phát
triển. Ở Việt Nam hiện nay không phải do bốc lột như trước đây mà do nền kinh tế ta đang
trong quá trình chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển sang nền kinh tế hiện đại.
Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản
xuất cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò



chủ đạo, thay thế trình độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự giàu-nghèo khác nhau trong
các tầng lớp dân cư.
Như vậy, XĐGN ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi các
trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có
khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có
nhiều khả năng lựa chọn hơn giúp họ từng bước thoát ra khỏi tình trạng nghèo.
b. Sự cần thiết XĐGN ở nước ta:
Giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tăng
trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật chất để giảm nghèo. Ngược lại, giảm nghèo là
nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tăng trưởng kinh tế chịu tác động của các quy luật kinh tế như: Quy luật giá trị, quy

luật cung cầu, cạnh tranh, lợi nhuận, năng suất lao động Còn giảm nghèo lại chịu tác
động của quy luật phân hóa giàu-nghèo, vấn đề phân phối và thu nhập, vấn đề lao động và
việc làm , các chính sách xã hội vv Trong quá trình vận động các yếu tố, các quy luật tác
động lên tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo theo nhiều hướng. Một khi các tác động trên là
trái ngược nhau thì sẽ làm triệt tiêu các khả năng làm tăng trưởng kinh tế cũng như điều
kiện để thực hiện XĐGN. Do vậy, để đảm bảo được tăng trưởng kinh tế và giảm được
nghèo đòi hỏi Nhà nước phải có sự can thiệp sao cho sự tác động của các yếu tố, các quy
luật có tính đồng thuận. Như vậy, XĐGN sẽ là một trong những yếu tố quan trọng để đảm
bảo tăng trưởng kinh tế bền vững; nghĩa là XĐGN là một yêu cầu cần thiết khách quan.
XĐGN còn là yêu cầu cần thiết ổn định chính trị, xã hội: Ở nước ta hiện nay có trên
90% số hộ nghèo tập trung ở vùng nông thôn, nhất là vùng trung du, miền núi; trong đó số
hộ nghèo là vùng dân tộc ít người (còn gọi là dân tộc thiểu số (DTTS)) và những hộ thuộc
diện chính sách phải ưu tiên chiếm tỷ lệ khá cao. Trong những năm gần đây một số vấn đề
về chính trị, xã hội ở một số vùng miền núi và những nơi khó khăn diễn biến phức tạp.
Tình trạng một số tổ chức phản động khôi phục, chống phá, truyền đạo bất hợp pháp và
nạn mê tín gia tăng, nếu gắn với nghèo đói thường xuyên sẽ có nguy cơ tạo nên sự mất ổn
định chính trị. Điều đó có nghĩa là XĐGN ở nước ta không đơn thuần là một chương trình



kinh tế mà còn là chương trình mang ý nghĩa ổn định chính trị, xã hội, củng cố niềm tin của
nhân dân vào chế độ.
Tóm lại: XĐGN là sự cần thiết và là sự kết hợp thống nhất giữa các chính sách về
kinh tế, chính sách về xã hội và giữ vững chính trị. Nghèo đói trước hết là vấn đề kinh tế,
đồng thời cũng là vấn đề xã hội nhức nhối, có tác động sâu sắc đến quan hệ xã hội, làm
phát sinh các tệ nạn, gây mất ổn định xã hội và có thể làm mất ổn định chính trị. Trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, XĐGN là yếu tố cơ bản để
đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững; ngược lại chỉ có tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo
vươn lên thoát khỏi đói nghèo.

c. Nội dung của XĐGN:
- Thứ nhất là tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh giá vấn đề
nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa chọn phương pháp và chỉ
tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Song cách xác định và mức độ cụ thể có những khía cạnh
khác nhau.
Để làm căn cứ tính toán mức nghèo đói người ta đều thống nhất dựa vào hai loại chỉ
tiêu sau:
+ Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân người/tháng hoặc năm và được đo bằng chỉ
tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi.
+ Chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc, y tế, giáo dục và các điều kiện đi
lại.
Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm nhất
đối với công tác XĐGN.
Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao
động, từ công việc trên mãnh đất của họ, từ tiền lương hay từ những hình thức lao động
khác. Tình trạng thiếu việc làm và năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao
động thấp là khá phổ biến đối với người nghèo. Vì vậy, để tăng thu nhập cho người nghèo
phải có giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất để hỗ trợ tăng năng suất lao
động và tạo việc làm cho người nghèo là cơ bản nhất.



- Thứ hai là tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển đối với người nghèo,
vùng nghèo.
+ Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường là xa các trung tâm kinh tế và dịch vụ xã hội.
Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với những vùng khác. Phổ biến là tình trạng
thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ đầu mối, giao thông
đi lại khó khăn vv Do đó, năng suất lao động thấp, trong khi đó giá cả của sản phẩm do
người sản xuất bán lại rẻ do vận chuyển khó khăn. Cơ hội tự vươn lên của người nghèo ở

những vùng này lại càng khó khăn hơn. Điều đó cho thấy rằng: Nhà nước phải tích cực
đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo được
tiếp cận hệ thống cơ sở hạ tầng tốt hơn là một nội dung quan trọng trong công tác XĐGN,
nhất là ở nước ta hiện nay.
+ Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp; do nghèo mà không có điều kiện đầu tư
cho con cái học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp thì không có khả năng để
tiếp thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và không có khả năng tiếp
cận với những tiến bộ văn minh của nhân loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế và
tinh thần, chính trị). Vì vậy, để giảm nghèo phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự
hiểu biết cho người nghèo là giải pháp có tính chiến lược lâu dài.
+ Một nội dung quan trọng nữa của công tác XĐGN là phải tạo điều kiện để giúp
người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính, tín dụng và tiến
bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.vv
Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, hạn chế
được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là yếu tố quan trọng để
tăng trưởng và phát triển.
Người nghèo là những người có thu nhập thấp nên những lao động nghèo thường
thiếu vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu thông tin thị trường và thiếu
kiến thức về khoa học công nghệ. Do vậy, hoạt động XĐGN phải hỗ trợ cho người nghèo
có được sự tiếp cận tốt hơn những yếu tố trên.



- Thứ ba là XĐGN trước hết phải ưu tiên các đối tượng chính sách, vùng cách
mạng.
Ở nước ta, trong những năm đổi mới nền kinh tế đã có bước phát triển vượt bậc, đời
sống của đa số dân cư được cải thiện; công tác XĐGN đã thu được những thành tựu đáng
kể. Tuy vậy, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng
lên, một bộ phận khá lớn dân cư vẫn còn sống nghèo đói. Trong đó có một số vùng cách
mạng, vùng dân tộc ít người và nhiều hộ gia đình có nhiều đóng góp cho cách mạng vẫn

chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành quả
do công cuộc đổi mới mang lại. Những giải pháp XĐGN tập trung cho đối tượng này vừa
là yêu cầu cấp thiết đối với mục tiêu phát triển bền vững, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
- Thứ tư là XĐGN phải mang tính bền vững: Trong thực tiễn XĐGN có tình trạng khá
phổ biến là có rất nhiều hộ giá đình sau khi thoát nghèo một thời gian do nhiều nguyên nhân
khác nhau như: gặp rủi ro trong kinh doanh, ốm đau, do tác động của phân hóa giàu - nghèo
của quá trình phát triển v.v lại trở thành những hộ nghèo.
Vì vậy, nhiệm vụ của công tác XĐGN không chỉ hỗ trợ để người nghèo sinh tồn và
vượt qua ngưỡng cửa nghèo một cách thụ động mà phải có giải pháp tích cực để bản thân
người nghèo chủ động tự vươn lên thoát nghèo vững chắc tiến tới trở thành hộ khá, hộ
giàu.
d. Lực lượng tham gia xóa đói giảm nghèo.
Xóa đói giảm nghèo trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên
và thoát nghèo. Trách nhiệm của Chính phủ và cộng đồng là trợ giúp để người nghèo tự
vươn lên thoát nghèo; hiệu quả XĐNG sẽ đạt thấp, nếu bản thân người nghèo không tích
cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên để có mức sống cao hơn. Vì vậy, XĐGN phải được coi là
sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để
thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống
nghèo đói ở các nước.
Nhà nước thực hiện nhiệm vụ trợ giúp người nghèo biết cách thoát nghèo và tránh
tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh thực hiện một số chính sách hỗ trợ cụ thể về xây dựng
cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất, trợ cấp khi cần thiết thì tạo việc làm cho người



nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều
kiện cụ thể của chính họ là điều kiện để thực hiện XĐGN thành công nhanh và bền vững.
Các tổ chức hội, đoàn thể là những người tham gia tuyên truyền, vận động để
truyền bá những chủ trương, chính sách của Nhà nước, hướng dẫn những kinh nghiệm và
kiến thức về XĐGN; tham gia giám sát việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ

chương trình XĐGN của quốc gia, của địa phương. Cộng đồng dân cư và các đơn vị kinh
tế, các tổ chức tài trợ hưởng ứng và tham gia thực hiện các cuộc vận động về hỗ trợ người
nghèo.
Như vậy, lực lượng tham gia XĐGN bao gồm: Nhà nước (Trung ương và địa
phương), các tổ chức hôi, đoàn thể kinh tế-xã hội, cộng đồng dân cư, các nhà tài trợ trong
và ngoài nước và cá nhân người nghèo là nhân tố cơ bản.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
Có nhiều nhân tố tác động đến nghèo đói và hoạt động XĐGN khác nhau. Tác động
của những nhân tố này có thể làm cho môi trường phát triển thuận lợi hoặc khó khăn. Nếu
môi trường phát triển khó khăn thì ở đó tình trạng tỷ lệ nghèo đói sẽ cao và diễn biến phức
tạp, hoạt động XĐGN trở nên khó khăn hơn. Ngược lại nếu môi trường phát triển thuận lợi
thì ở đó tỷ lệ nghèo đói có thể sẽ thấp và hoạt động XĐGN cũng có phần thuận lợi hơn.
Khi nghiên cứu tác động của các nhân tố đến vấn đề nghèo đói người ta có thể chia thành
những nhóm nhân tố cụ thể khác nhau. Một trong những cách chia đó là phân chia thành:
Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên; nhóm nhân tố thuộc về kinh tế; nhóm nhân tố
xã hội; nhóm nhân tố thuộc về quan điểm chính sách xã hội. Do mục tiêu của đề tài là
nghiên cứu các giải pháp thực hiện XĐGN nên trong đề tài này chủ yếu nghiên cứu mặt
tác động không thuận lợi đến môi trường phát triển của các nhân tố trên để tìm giải pháp
khắc phục là vấn đề cơ bản nhất của đề tài.
1.2.1. Những nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho môi trường
phát triển bao gồm
- Vị trí địa lý không thuận lợi, những nơi xa xôi, hẻo lánh giao thông đi lại khó
khăn. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng,



địa phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế cô lập với
bên ngoài, khó tiếp cận được với các nguồn lực của phát triển như: tín dụng, KHKT, công
nghệ, thị trường vv nên việc phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là phát triển hệ thống giao
thông có ý nghĩa to lớn đối với việc XĐGN.

- Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, khó canh tác, năng suất cây trồng, vật nuôi đều thấp.
Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là đối
với những vùng thuần nông. Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng đến khả năng bảo đảm lương
thực của người nghèo và khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới những loại cây trồng
có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp, việc tích lũy và tái sản
xuất mở rộng bị hạn chế hoặc không có. Bởi thế người nghèo lại tiếp tục nghèo.
- Địa hình phức tạp, bị chia cắt nhiều bởi sông suối và núi đá, đất dốc Những
vùng có địa hình như vậy việc tổ chức sản xuất sẽ gặp nhiều khó khăn, đất bị xói mòn, dễ
bị khô hạn, chi phí sản xuất cao, hiệu quả sản xuất rất thấp. Hay ở những khu vực ven biển
bãi ngang của miền Trung thường chủ yếu cồn cát và bãi cát trắng, tổ chức sản xuất rất
khó khăn, đời sống của người dân đa phần là khổ cực, hoạt động XĐGN cũng gặp nhiều
trở ngại.
- Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hay gặp thiên tai như: hạn hán, lũ lụt, mưa bão,
nạn cát bay, cát lấp vv Những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường
xuyên xảy ra như khu vực miền Trung, một số tỉnh miền núi phía Bắc, làm cho việc
XĐGN thiếu cơ sở bền vững. Nhiều vùng đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai lũ
lụt, bão thì hàng triệu người rơi vào cảnh thiếu đói, nhiều công trình hạ tầng công cộng và
cơ sở sản xuất bị phá hỏng. Điển hình như cơn bão số 6 xảy ra đầu tháng 10 năm 2006 đổ
bộ vào Thành phố Đà Nẵng và 4 tỉnh miền Trung gây thiệt hại to lớn về người và tài sản;
ước thiệt hại về tài sản lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng và rất nhiều hộ gia đình lâm vào
cảnh màn trời chiếu đất. Thực tiễn đó đòi hỏi việc tìm kiếm những giải pháp giảm nhẹ thiệt
hại thiên tai là một phần quan trọng của quá trình XĐGN.
1.2.2. Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế không thuận lợi
Ảnh hưởng không thuận lợi của những nhân tố thuộc về kinh tế đối với XĐGN bao
gồm: Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu, tốc độ tăng trưởng chậm, thu



nhập của dân cư thấp, khả năng huy động nguồn lực vật chất cho XĐGN khó khăn, thị
trường bị bó hẹp ; ưu tiên đầu tư nhiều vào vùng động lực phát triển kinh tế sẽ làm giảm

nguồn lực cho đầu tư các vùng nghèo, hỗ trợ người nghèo.
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố cơ bản để nhà nước tăng
các nguồn thu và tích lũy tạo sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương
trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã
hội. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có sự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Vì vậy,
quy mô nền kinh tế lớn và tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện quan trọng để
thực hiện XĐGN trên quy mô diện rộng. Ngược lại nếu quy mô nền kinh tế nhỏ bé thì
lượng tuyệt đối về tích lũy sẽ nhỏ; tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm thì khả năng tăng quy
mô tích lũy sẽ gặp trở ngại, nguồn lực dành cho XĐGN sẽ khó khăn. Bên cạnh đó lực
lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơ cấu kinh tế chậm tiến bộ, sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu với trình độ canh tác lạc hậu; cơ cấu sản xuất trong nội bộ các ngành kinh tế chậm đổi
mới, hàm lượng khoa học - kỹ thuật trong sản phẩm thấp thì giá trị gia tăng trong giá trị
sản phẩm sẽ nhỏ, khó cạnh tranh thị trường dẫn đến năng suất lao động thấp, tốc độ tăng
trưởng kém, khả năng tích lũy cho tái sản xuất mở rộng và huy động nguồn lực cho XĐGN
sẽ hạn chế. Điều đó muốn nói lên rằng, quá trình XĐGN phải tìm kiếm giải pháp để nhanh
chóng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng tiến bộ, chuyển đổi cơ cấu sản xuất
trong nội bộ ngành để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng và giá trị cao, cạnh tranh thị
trường tốt vv đảm bảo tăng tốc độ tăng trưởng và mở rộng quy mô của nền kinh tế; từ đó
tăng nguồn lực để thực hiện các mục tiêu XĐGN. Chính kết quả XĐGN tốt sẽ tạo thêm
một lực lượng sản xuất mới dồi dào hơn, đảm bảo sự ổn định và phát triển cho giai đoạn
tiếp theo.
- Thu nhập dân cư thấp và sự phân hóa thu nhập lớn là một bất lợi đối với người
nghèo và công tác XĐGN. Rất nhiều cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy chênh lệch
giàu - nghèo, thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng gia tăng. Năm 1993 ở vùng
thành thị chiếm 24% dân số nhưng tạo ra trên 60% GDP với mức tăng trưởng trên 10%
/năm. Ở nông thôn chiếm 76% dân số chỉ tạo ra 40% GDP với mức tăng trưởng chậm (gần
5% /năm) [2, tr 37]. Trong thực tế những năm qua tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta




cơ bản đúng như nhận định trên. Theo tính toán thì năm 2000, dân số thành thị chiếm
khoản 25% và tạo ra 68% GDP. Còn 75% dân số nông thôn chỉ tạo ra khoản 32% GDP.
Chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất từ 4,3 lần năm
1993 tăng lên 8,14 lần năm 2002; khoảng chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10%
nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002 tăng lên 13,5 lần năm 2004. Thu nhập bình quân
của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 là 107.000đ/người/tháng. So sánh mức chi tiêu bình
quân đầu người của 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất thì năm 1992 - 1993
nhóm giàu nhất gấp 4,58 lần năm 1997 - 1998 gấp 5,49 lần và năm 2001 - 2002 gấp 6,15
lần [2, tr 11]. Hầu hết các hộ nghèo đều ở nông thôn, năm 2002 chiếm 90,5% tổng số hộ
nghèo của cả nước. Do nguồn thu nhập thấp và bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên các
hộ nghèo ít có khả năng tái đầu tư sản xuất mở rộng và chống chọi với những biến cố xảy
ra như: mất mùa, mất việc làm, mất sức khỏe vv mặt khác rủi ro trong sản xuất kinh
doanh đối với người nghèo cũng rất cao, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, do họ
thiếu kinh nghiệm làm ăn, trình độ tay nghề thấp, thiếu thông tin v.v Vì vậy, thu nhập của
người nghèo đã thấp rồi nhưng khả năng để tăng thu nhập của họ cũng rất khó khăn. Đây
là một trở ngại lớn đối với XĐGN. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 của nước ta
(khu vực thành thị 260.000đ/người/tháng, khu vực nông thôn 200.00đ/người/tháng) thì
cuối năm 2005 cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vùng có
tỷ lệ nghèo cao nhất là vùng Tây Bắc (42%); Tây nguyên (38%); Bắc Trung Bộ (35%).
Như vậy, những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế khó khăn tiếp tục có tỷ lệ hộ nghèo
cao.
Khả năng huy động nguồn lực vật chất, tài chính là yếu tố rất quan trọng quyết định
sự thành công hay thất bại khi thực hiện các mục tiêu XĐGN.
Để thực hiện các mục tiêu XĐGN trên quy mô diện rộng và đạt được kết quả nhanh
thì nhà nước và bản thân các hộ nghèo đều phải có nguồn lực. Nhà nước có nguồn lực đủ
mạnh để hình thành và thực hiện các chương trình hỗ trợ như: Xây dựng cơ sở hạ tầng
thiết yếu cho xã nghèo, vùng nghèo; hỗ trợ cho các doanh nghiệp để thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH từ đó tạo nhiều việc làm cho người lao
động; hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo về đời sống khi gặp rủi ro, thiên tai và hỗ trợ phát triển




sản xuất thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo Nguồn lực của nhà nước phụ
thuộc vào quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ tích lũy và chính sách chi
tiêu của chính phủ, khả năng vay nợ của nước ngoài
Về phía hộ gia đình nghèo, để phấn đấu thoát nghèo, họ cũng cần có nguồn lực để
tự mình phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Nguồn lực họ có thể có được là từ các nguồn hỗ
trợ của nhà nước, của cộng đồng dân cư, vốn vay tín dụng và khả năng tích lũy của bản
thân họ. Một bài học chung cho cả Nhà nước và cá nhân của các hộ nghèo, cộng đồng
nghèo là phải dựa vào nguồn tích lũy của chính mình, hạn chế đến mức tối thiểu vốn vay
thì mới có thể phát triển và XĐGN bền vững. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới
đã thành công trong việc chuyển từ nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển, giảm
được tỷ lệ hộ nghèo đói là đã duy trì tích lũy trên 30% GNP. Trong quá trình phát triển
Nhật, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore sử dụng nguồn tích lũy trong nước là chính, tránh
lệ thuộc vào vay nợ nước ngoài quá nhiều nên phần nào ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng
hoảng tài chính ở Châu Á trong những năm giữa thập niên 90. Trong khi đó, Inđônêxia,
Thái Lan, Hàn Quốc, Philipin lại bị sai lầm, khi lệ thuộc vào tư bản nước ngoài trong quá
trình phát triển, để lại những món nợ lớn. Tính đến cuối năm 1997 Inđônêxia nợ lên tới
67% GNP, Thái Lan 62% GNP, Philipin 63% GNP, Hàn Quốc 31% GNP [3, tr 63]. Đây là
những nước chịu hậu quả nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính nói trên ở các mức
độ khác nhau. Giai đoạn 1997- 1998 tỷ lệ nghèo ở Inđônêxia tăng lên 20% dân số, Thái
Lan tăng lên 6,7 triệu người, Hàn Quốc tăng từ 3% năm 1997 lên 7,8% năm 1998,
Malaixia tăng từ 6,8% năm 1997 lên 8% năm 1998 vv
Ở Việt Nam tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm vừa qua đạt khá cao, GDP
tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2005 là 7,5%/năm. GDP năm 2005 đạt khoảng
815 nghìn tỷ đồng(tương đương 51,5 tỷ USD); tỷ lệ tích lũy năm 2005 đạt khoảng 29,4%
GDP và tăng bình quân hàng năm trên 10%/năm; tổng quỹ tiêu dùng tăng bình quân hàng
năm khoảng 7,6%/năm; tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước bình quân hàng năm đạt
23,5% GDP; bội chi Nhà nước không quá 5% GDP [24, tr ]. Nhờ đảm bảo được tỷ lệ tích
lũy và tỷ lệ tích lũy vào đầu tư khá cao nên năng lực mới huy động vào nền kinh tế được

tăng nhanh và cũng nhờ đó mà thành tựu đạt được trong XĐGN khá tốt. Tổng nguồn vốn

×