Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.47 KB, 17 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHÈO ĐÓI VÀ GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
I-/

QUAN NIỆM VỀ NGHÈO ĐÓI.

1-/ Quan niệm và tiêu chuẩn phân định nghèo đói.
a. Những quan niệm về nghèo đói.
Trong mỗi chế độ xã hội cụ thể nước ngồi ln ln tìm mọi cách thúc đẩy
sản xuất nâng cao đời sống của dân nhưng mức sống của mỗi thành viên trong xã
hội vẫn khác nhau bởi mức sống của mỗi người lệ thuộc vào thu nhập của họ mà
mức thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội lại lệ thuộc vào khả năng, nghề
nghiệp, vốn, trình độ kỹ thuật, và địa vị của họ trong xã hội, những người làm việc
trong những ngành cơng nghiệp, dịch vụ thường có mức thu nhập cao hơn những
người làm việc trong ngành nông nghiệp. Do vậy ở bất cứ chế độ xã hội nào, nước
nào vẫn ln có một nhóm người giàu và tồn tại nhiều hoặc ít số người nghèo.
Trên cơ sở nhất trí với quan điểm xem xét nghèo đói của tổ chức Liên hiệp
quốc, ngân hàng Châu Á dã đánh giá về thực trạng nghèo đói và cho rằng những
người nghèo đói là những người có ít tài sản nhà cửa là túp lều lụp xụp ở tạm đồ
dùng trong gia đình khơng đầy đủ là những loại tài sản khơng có giá trị cao họ rất
ít ruộng đất hoặc là khơng, về địa vị xã hội họ là những người thấp kém về mọi
mặt.
Ngân hàng phát triển Châu Á đã đưa ra khái niệm nghèo đói.
- Nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối.
Tiến sỹ MG.Quiria Ngân hàng phát triển Châu Á cho rằng nghèo tương đối là
tình trạng thu nhập khơng có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì


cuộc sống cơ thể con người. Nghèo tuyệt đối là tình trạng thu nhập thấp khơng có
khả năng đạt tới mức sống tối thiểu tại một thời điểm nào đó.


Khái niệm nghèo tuyệt đối có xu hướng đề cập đến những người đang bị thiếu
ăn theo nghĩa đen khái niệm nghèo tương đối đề cập đến những người nghèo nhất
về phân phối thu nhập ở một nước nào đó.
- Để tránh sự bất đồng ý kiến về khái niệm nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối
giữa các nước nói chung, người nghèo và người không nghèo được xác định trang
phạm vi của mỗi nước qua việc đưa ra khái niệm mức sống tối thiểu.
- Để đưa ra một khái niệm nghèo đòi hỏi phải xác định các thành phần
khácnhau của mức sống và thừa nhận mức tối thiểu của các thành phần cấu thành
mức sống tối thiểu.
Ở Inđônêxia quan niệm cho rằng những người nghèo có thu nhập dưới 1/3

mức sống bình quân của xã hội thì được coi là nghèo và có qui định cụ thể những
ai có mức thu nhập qui ra gạo bình quân đầu người dưới 225 kg/năm được coi là
nghèo.
Ở Malayxia những người được coi là nghèo là những người có thu nhập thấp

hơn 300 USD/năm.
Ở Việt Nam có nhiều quan niệm đánh giá đói nghèo khác nhau để thực hiện

chương trình xố đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước Bộ Lao động thương binh
xã hội đã tổ chức hội thảo toàn quốc để thảo luận và thống nhất một số quan niệm
về nghèo đói ở nước ta, đồng thời đưa ra những chỉ tiêu chuẩn mực để đánh giá
nghèo đói.


Dựa trên khái niệm do các tổ chức quốc tế đưa ra căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể
của đất nước, trung tâm nghiên cứu dân số và lao động Bộ Lao động thương binh
và xã hội đã đưa ra định nghĩa để nhận dạng nghèo đói ở nước ta như sau:
- Nghèo có hai loại nghèo: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập thấp

khơng đủ khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cứ có mức thu nhập thấp
không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt xã hội ở một thời điểm nào đó.
b. Tiêu chuẩn xác định ranh giới nghèo đói.
Là mức chi phí cần thiết đảm bảo những nhu cầu cơ bản tối thiểu của các
thành phần cấu thành mức sống tối thiểu.
- Trong các nhu cầu cơ bản, sức ăn là quan trọng nhất khơng có ăn hoặc
khơng được ăn đầy đủ sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng, bệnh tật, nạn đói và chết sớm,
cách đây gần ba thập kỷ người ta đã đưa ra mức nhu cầu năng lượng cho người
trưởng thành (Kcalo/người/ngày) cho các vùng lớn:
- Các nước công nghiệp: Châu Âu 2.570 (Kcalo/người/ngày), Bắc Mỹ
(2.640/người/ngày).
- Các nước đang phát triển: Viễn Đông: 2.290 (Kcalo/người/ngày), Cận Đông
(2.400/người/ngày), Châu Phi 2.340, Châu Á: 2.112 (người/ngày).
Ở Việt Nam mức qui định của việc dinh dưỡng về nhu cầu năng lượng khẩu

phần bình quân cho người trưởng thành (BQNTT) như sau:


Mức dinh dưỡng

Mức năng lượng bình qn
người trưởng thành

Đói

<1.500 Kcalo/ngày

Thức ăn


1.500 - dưới 1.800 Kcalo/ngày

Đe doạ

1.800 - dưới 2.000 Kcalo/ngày

Tạm dư

2.100-dưới 2.400 Kcalo/ngày

Dư ăn

2.400 - dưới 2.700 Kcalo/ngày

Cao

> 2.700 Kcalo/ngày

Đối với những người nghèo cái quan trọng nhất của họ là bữa ăn, càng ở mức
thu nhập thấp thì tỷ lệ chi cho ăn trong cơ cấu chi cho tiêu dùng càng lớn tuy nhiên
để đảm bảo được nhu cầu tối thiểu cho sự phát triển của con người ta cần phải chi
cho nhu cầu ăn mặc, chữa bệnh, giao tiếp.
Ngồi mức chi tiêu, thu nhập bình qn đầu người, tình trạng nghèo khổ các
dân cư cịn được thể hiện qua tình trạng nhà ở, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện và
đối tượng sản xuất, trình độ văn hố giáo dục, tình trạng sức khoẻ và vị trí chính
trị, xã hội của con người.
Từ ngày 1/4/1993 Nhà nước đưa ra mức lương tối thiểu cho người lao động
đảm bảo nuôi sống mình cùng với một người ăn theo ở mức tối thiểu là 120.000
đồng/tháng tức là mức bình quân là 60.000đ/người/tháng tương đương với 30kg
gạo (giá năm 1993 là 2.000đ/kg).

Theo tính tốn của một số nhà khoa học với điều kiện của Việt Nam để bảo
đảm đủ dinh dưỡng thì tiêu chuẩn cho người Châu Á, mức chi cho ăn bình quân
đầu người phải là 20 kg gạo/tháng (13 kg cho lương thực, 7 kg cho thực phẩm) và
mức chi cho ăn thường xuyên chiếm 2/3 tổng số chi tiêu. Vậy chi cho nhu cầu cơ
bản của người Việt Nam phải là 30 kg gạo/người/tháng, các nhà khoa học đó cho
rằng đây là ranh giới cho sự nghèo khổ ở Việt Nam.


Trước mắt Bộ Lao động thương binh và xã hội cùng Tổng cục thống kê đã
đưa ra mức ranh giới nghèo đói phục vụ cho phong trào “xố đói giảm nghèo”
đang diễn ra ở các địa phương như sau:
- Nghèo tương đối có mức thu nhập dưới mức ranh giới nghèo khổ <25kg gạo
ở thành thị; 20 kg gạo ở nông thôn, đồng bằng và trung du, <15 kg gạo ở miền núi
và hải đảo.
- Nghèo tuyệt đối: có mức thu nhập chỉ bảo đảm dưới mức sống tối thiểu từ
(12-15kg gạo/người/tháng).
Với mức này chỉ bảo đảm no bụng, dinh dưỡng mới đạt 1.530
Kcalo/ngày/người.
- Diện thiếu đói: có mức thu nhập dưới mức 12kg gạo/người/tháng.
- Đói gay gắt: có thu nhập dưới mức 8kg/người/tháng.
- Nghèo khổ cần được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào những
giai đoạn cụ thể.
2-/ Tính chất tương đối của các quan niệm nghèo đói.
- Mức độ giàu nghèo tuỳ thuộc vào sự phát triển sản xuất ở từng nước và mỗi
chế độ xã hội, có những người được coi là nghèo khổ, ở chế độ chủ nghĩa tư bản
nhưng mức sống, sinh hoạt xã hội lại cao hơn chế độ nô lệ và chế độ phong kiến
bởi vì sức sản xuất ở chủ nghĩa tư bản phát triển cao hơn so với chế độ nô lệ và
phong kiến.
Những người được coi là nghèo khổ ở những nước kinh tế phát triển lại có
mức sống và sinh hoạt xã hội cao hơn những người được gọi là giầu có ở các nước

chậm phát triển, nếu đem so sánh mức thu nhập của họ với người dân của các nước
Châu Phi và vùng Đông Nam Á, người được coi là giầu cũng không thể có mức thu


nhập đó được, ngay trong một quốc gia, những người nghèo khổ ở thành thị cũng
có đời sống sinh hoạt xã hội bằng hoặc cao hơn những người trung bình hoặc giầu
có ở vùng nơng thơn, vùng dân tộc ít người.
Là một phạm trù kinh tế xã hội nên khái niệm về sự giầu nghèo cũng mang
đặc tính khơng gian và thời gian, khi xem xét sự giầu nghèo cũng phải đặt nó vào
một thời gian và một khơng gian nhất định.
Ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau thìmức phân chia ranh giới

nghèo khổ và tỉ lệ người nghèo trên tổng dân số cũng như số lượng người nghèo
hồn tồn khác nhau.
BẢNG 1: MỨC THU NHẬP BÌNH QN ĐẦU NGƯỜI GIỮA
CÁC NHĨM HỘ NƠNG DÂN Ở VIỆT NAM

Loại
nhóm hộ

Năm 1990

Năm 1991

Mức TNBQ kg Tỉ lệ
gạo/tháng/người %

Năm 1992

Mức TNBQ kg Tỉ lệ Mức TNBQ kg Tỉ lệ

gạo/tháng/người % gạo/tháng/người %

Giầu

75,44

8,06

84,5

9,7

89,7

15,0

Khá

-

10,34

-

12,7

-

14,6


Trung bình

-

26,54

-

28,2

-

21,0

Nghèo

13,00

45,62

15,00

34,6

15,0

29,8

Nghèo đói


10,33

9,44

11,47

14,8

13,2

19,6

Nguồn: Tổng hợp tài liệu điều tra về giàu nghèo của Bộ NN-CNTP-1993
II-/ TÌNH HÌNH NGHÈO ĐĨI TRÊN THẾ GIỚI, GIẢI PHÁP KINH NGHIỆM.

1-/ Thực trạng và nguyên nhân.
a. Thực trạng.


Để có chiến lược chống nghèo đói trên tồn cầu năm 1990 tổ chức Liên hiệp
quốc đã tiến hành khảo sát tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển.
Qua điều tra thấy rằng số người nghèo trên thế giới còn rất nhiều (1.126 triệu
người chiếm gần 1/7 dân số) trong đó số người cực nghèo khơng phải là ít (633
triệu người, chiếm gần 1/2 số người nghèo đói). Số người nghèo khổ thường tập
trung ở các nước Đông Nam Á (800 triệu người, chiếm 71,63% tổng số người
nghèo), Ấn Độ là nước nhiều người nghèo đói nhất trên thế giới (420 triệu người
chiếm 37,63% tổng số người nghèo) chỉ số nghèo đó cũng cao nhất thế giới là
(55% trong khi đó bình qn của thế giới là 3%) tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới 5
tuổi cao nhất thế giới là (199/1000 em, bình quân thế giới là 121/1000), tuổi thọ
dân số Ấn Độ thấp chỉ cao hơn các nước vùng xa mạc Sahara tuổi thọ bình quân

của dân số Ấn Độ thấp, trẻ em được đi học thấp nhất (21% trong khi đó bình qn
thế giới 83%).
Nơi nghèo thứ 2 trên thế giới là các nước Châu Phi thuộc xa mạc Sahara là
(180 triệu người) song số người quá nghèo đói ở đây chiếm tỷ lệ cao nhất thế giới
(66% tổng số người nghèo), khoảng cách nghèo khổ rất lớn (11%) số trẻ em bị tử
vong dưới năm tuổi cao (196/1000), tuổi thọ bình quân thấp nhất thế giới, số trẻ
em được đến lớp còn thấp, chỉ cao hơn Ấn Độ.
- Nước thứ ba có số người nghèo cao là Trung Quốc (210 triệu người) chiếm
20% dân số tương tự các chỉ tiêu bao gồm, chỉ số nghèo đói, tử vong của trẻ em
dưới năm tuổi cũng vậy, có thể thấy ở biểu II thực trạng nghèo đói của thế giới.
+ Nhận xét: vùng Đơng Nam Á, Châu Phi, là nơi tập trung đồng người nghèo
nhất của thế giới.


BẢNG 2: TÌNH TRẠNG NGHÈO ĐĨI Ở CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN 1985-2000
Khu vực

Số người nghèo
triệu người

Tỷ lệ dân số dưới
ngưỡng nghèo (%)

1985

1990

Dự báo
2000


1985

1990

Dự báo
2000

1.051

1.933

1.707

30,5

29,7

24,1

Nam Á

532

562

511

50,8


49

36,9

Đông Á

182

169

73

43,2

11,3

4,2

Châu phi cận Sahara

184

216

304

47,6

47,8


49,7

Trung Đông và Bắc Phi

60

73

89

30,6

33,1

30,6

Đơng Âu

5,0

5,0

4

7,1

7,1

5,8


(Châu Mỹ La Tinh và Caribe)

87,0

87,0

126,0

22,7

25,5

24,9

Bình qn chung các nước đang
phát triển, trong đó.

Nguồn: Ravabon, Datt Q chen, 1992
b. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
Nguyên nhân nghèo đói của mỗi quốc gia đó là tiềm năng kinh tế thấp, trình
độ văn hố thấp, nợ nước ngồi nhiều, chi phí cho chiến tranh lớn, tỉ lệ tăng dân số
cao đã hạn chế những biện pháp kích cầu, cung của Chính phủ những nước có tỷ lệ
nghèo cao thường là:
* Sản xuất chưa phát triển hoặc kém phát triển.
Ở những nước có nền kinh tế chưa phát triển, chưa thực hiện việc cơ giới hố

trong q trình sản xuất, do đó năng suất lao động thấp, thu nhập của các thành viên
trong xã hội không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu dẫn đến nghèo nàn khó khăn
triền miên, hơn nữa ở những nước đang phát triển hoặc kém phát triển nhu cầu về
lao động trong các ngành kinh tế thấp. Trong khi đó tỷ lệ sinh đẻ cao do đó dẫn đến



thiếu việc làm trong xã hội, mặt khác lại bị các chính sách của các nước cơng nghiệp
phát triển kìm hãm, cấm vận làm cho nền kinh tế của các nước này đi vào con đường
khủng hoảng kinh tế chầm trọng.
Những chính sách kinh tế xã hội của Chính phủ khi xem xét nghèo khổ trên
thế giới Liên hiệp quốc đã đề cập đến chính sách đất đai của Chính phủ trong đó có
sở hữu ruộng đất của nơng dân, kết quả điều tra ở Băng la đét biểu 3 cho thấy.
Ở 8 nước sở hữu khác nhau từ thấp đến cao thu nhập bình qn của các gia

đình có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ ruộng đất của họ, tỷ lệ người nghèo có
mối quan hệ tỉ lệ nghịch với mức ruộng đất của họ, nhóm gia đình khơng có ruộng
đất thì tỷ lệ người nghèo cao, cịn những người nghèo có ruộng đất ít bị nghèo đói
hơn.
Vì vậy một trong những ngun nhân dẫn đến nghèo đói của nơng dân là họ
khơng có đất đai để sản xuất, phải thuê mướn đất đai, đây chính là những bất lợi
nhất cho người nghèo trong khi đó sự quan tâm của Chính phủ chỉ ở mức độ hạn
chế do nhiều nguyên nhân khác nhau.
* Nguyên nhân cá nhân của người nghèo.
Theo tổng kết của các nhà kinh tế học của thế giới khi trả lời câu hỏi tại sao
trong xã hội lại có những người giầu có, và có những người nghèo khó thì họ cho
rằng:
- Sự khác nhau về của cải, tiền vốn, sự chênh lệch lớn nhất trong thu nhập là
do sự khác nhau về sở hữu tài sản sau khi bố, mẹ giao thừa kế song chúng ta cũng
nên hiểu rằng những người đạt được đỉnh cao của sự giầu sang là do họ khôn
ngoan và sáng tạo, trong sản xuất và kinh doanh.


- Sự khác nhau về năng lực cá nhân trong mọi gia đình đó là thể chất và tinh
thần trong đó thơng minh là biến số quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng lớn đến việc

tìm kiếm lợi ích của họ trên thị trường. Hơn nữa để được những tố chất đó thời kỳ
thơ ấu các gia đình cần phải quan tâm ni dưỡng chu đáo nhưng trong đó những
gia đình có điều kiện con em của họ tường khoẻ mạnh hơn nhiều so với các gia
đình nghèo, do đó Chính phủ các quốc gia cần phải quan tâm hơn nữa, đưa ra
những chính sách kinh tế và phi kinh tế thích đáng giúp người nghèo thốt khỏi cái
vịng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
- Sự khác nhau về giáo dục và đào tạo, việc trẻ em không được đi học là một
trong những cản trở lớn nhất đối với bình đẳng trong xã hội, vì vậy khi bước vào
tuổi lao động do họ khơng có trình độ văn hố, trình độ về kỹ thuật thường làm
những cơng việc nặng nhọc, lao động thủ công, bằng chân tay là chủ yếu do đó ảnh
hưởng đến năng suất lao động và thu nhập, đó là mức thu nhập ít ỏi, địa vị hèn kém
trong xã hội, do vậy cái nghèo cứ bám theo họ mãi từ đời này đến đời khác.
2-/ Kinh nghiệm giải quyết nghèo khổ của tổ chức Liên hiệp quốc và một số
nước vùng Đông Nam Á.
a. Kinh nghiệm của tổ chức Liên hiệp quốc.
Khi xác định được nguyên nhân nghèo đói của từng nước, từng vùng và của
mỗi thành viên trong xã hội, đó chính là những vấn đề tồn tại cần phải khắc phục.
Do đó để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu vấn đề đầu tiên cần phải
nghĩ đến là làm gì làm như thế nào để thúc đẩy sản xuất phát triển và tạo ra mọi sự
công bằng.
- Kinh nghiệm của các nước phát triển là họ thúc đẩy cạnh tranh trong sản
xuất, xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, phát triển nền kinh tế phải dựa vào bàn
tay “vô hình” và “hữu hình” của đất nước, tức là dựa vào thị trường và Nhà nước,
lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, cải tiến kỹ thuật, Nhà nước phải


tạo ra một mơi trường thơng thống trong khi các chủ thể kinh doanh đang tìm
kiếm lợi ích của mình, Nhà nước phải ngăn chặn những khuyết tật do cơ chế thị
trường gây ra, thiết lập khuôn khổ pháp luật, điều tiết nền kinh tế thông qua thuế và
chi tiêu của Chính phủ.

Chính phủ phải cung cấp hàng hố phục vụ cho lợi ích cơng cộng và đặt ra
các loại thuế và các mức thu từng loại thuế để điều tiết sản xuất. Nhà nước phải
bảo đảm công bằng xã hội, bằng các chính sách phân phối và các chính sách công
bằng xã hội, đồng thời Nhà nước phải ổn định nền kinh tế vĩ mơ để góp phần giảm
bớt sự nghèo đói ở các nước nghèo nàn lạc hậu trên thế giới, các tổ chức quốc tế đã
trích ra từ thu nhập quốc dân của các nước phát triển một số tiền thành lập Quĩ hỗ
trợ các nước chậm phát triển, quỹ này sẽ được đưa đến các nước nghèo nàn bằng
nhiều hình thức, như đào tạo cán bộ, nân cao trình độ tổ chức và quản lý, khoa học
kỹ thuật, trợ cấp thiên tai, bảo vệ môi trường, chống suy dinh dưỡng của trẻ em và
các hình thức vay ngắn hạn và dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất với mức lãi
suất thấp hoặc cho không.
b. Kinh nghiệm giải quyết nghèo đói ở một số nước vùng Đơng Nam Á.
* Trung quốc:
- Là một nước có 210 triệu người nghèo đói đứng thứ hai thế giới sau Ấn Độ,
tỷ lệ nghèo đói chiếm 20% dân số. Trong đó có 80 triệu người quá nghèo đói,
chiếm 8% dân số, song Trung Quốc là nước quan tâm đến vấn đề phát triển nông
nghiệp, để thực hiện phương châm này Trung Quốc đã quốc hữu hoá, tập thể hoá
đất đai, tư liệu sản xuất với phong trào thành lập cơng xã nhân dân nhằm tập trung
chun mơn hố nền sản xuất với quy mô lớn và họ đã không ít gặp những khó
khăn và thách thức trong sản xuất của nông dân, trong 10 năm lại đây Trung Quốc
đã chuyển nền kinh tế từ sản xuất tập thể với mơ hình cơng xã nhân dân sang mơ
hình kinh tế hộ khoảng 100 triệu hộ được giao hơn 10 triệu ha, ruộng đất để sử


dụng lâu dài và có quyền chuyển nhượng, qui mơ ruộng đất cho mỗi hộ khoảng
0,7ha phần đông các hộ mới chỉ đủ ăn do có chính sách chuyển nhượng đất của
Nhà nước, một số hộ đã bỏ vốn ra mua bán chuyển nhượng và tập trung được
nhiều ruộng đất hơn hình thành những trại gia đình, họ đã tạo ra khối lượng lớn
nơng sản phẩm hàng hố cung cấp cho thị trường. Cũng thời gian này Chính phủ
Trung Quốc đưa ra chương trình mới đối với phát triển nơng nghiệp nơng thơn đó

là đưa khoa học cơng nghệ vào sản xuất và phát huy mọi năng lực sẵn có ở nông
thôn để nâng cao năng suất, và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, với
những chủ trương này Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, sản xuất
ngày càng phát triển, chi trong thời gian từ 1978-1984 giá trị sản lượng nông
nghiệp mỗi năm tăng bình quân 10% và đã giải quyết việc làm cho 20% lao động ở
nơng thơn.
III-/ NGHÈO ĐĨI Ở NƠNG THƠN VIỆT NAM VÀ CHƯƠNG TRÌNH CHỐNG NGHÈO
ĐĨI Ở VIỆT NAM.

1-/ Thực trạng và nguyên nhân.
a. Thực trạng.
Thực trạng nghèo đói ở nước ta nhất là ở nông thôn những năm gần đây khi
nền kinh tế thị trường bước đầu được hình thành, có những đặc điểm kinh tế xã hội
đáng chú ý.
- Đói nghèo do hậu quả trực tiếp thường xuyên của thiên tai, mất mùa và
những hậu quả chiến tranh ác liệt kéo dài.
- Đói nghèo ở nước ta thuộc những vùng sâu vùng xa khu căn cứ cách mạng
trước đây, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống diễn ra gay gắt và
thường xuyên.


- Tình trạng đói nghèo ở nước ta phần lớn tập trung ở nơng thơn, những gia
đình thuần nơng, độc canh trong nơng nghiệp, tự cung tự cấp, ít tư liệu sản xuất,
đông con, thiếu lao động, thiếu việc làm, thu nhập thấp, ngay cả tái sản xuất giản
đơn cũng khơng có điều kiện để tích luỹ.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa sự nghèo đói ở nơng thơn và
thành thị cịn đi liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội lại đẩy nghèo đói tới mức gay
gắt hơn.
Dễ nhìn thất tất cả các cùng nông thôn nước ta nơi quy tụ 80% dân cư cả nước
sống bằng nghề nông đều diễn ra hiện tượng đói nghèo, tuy mức sống và tỷ lệ

khơng giống nhau, điểm nóng gay gắt nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng
đồng bào các dân tộc ít người, vùng căn cứ kháng chiến cũ.
- Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam hiện nay ở cấp độ khác nhau tuỳ thuộc
vào từng vùng.
- Nghèo tuyệt đối (dưới mức 15/kg gạo/người) ở nông thôn chiếm từ 29,96%
đến 35,56%, đô thị 42,87%.
- Nghèo tương đối (dưới mức trung bình tại địa phương) nơng thơn 57,56%,
đơ thị chiếm 42,87%.
- Thiếu đói kinh niên (dưới 12kg/gạo/tháng) ở nông thôn từ 16,3-20,05%, đô
thị 4,42%.
+ Phân tích thực trạng nghèo đói qua các số liệu trên ta có thể rút ra một số
nhận xét:
Thứ nhất, đặc điểm cơ bản nhất của tình trạng nghèo đói ở nông thôn thường
rơi vào các hộ thuần nông, độc canh lúa.


Thứ hai, nghèo đói ở nơng thơn nước ta do ảnh hưởng của thiên tai (lũ lụt, hạn
hán) kéo dài.
BẢNG 3: THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI 1 THÁNG
CỦA HỘ QUA CÁC NĂM

(Tính theo giá hiện hành)
TNBQ
TNBQ
TNBQ
TNBQ
TNBQ
Năm 1995 Năm 1996
năm 1994 Năm 1995 Năm 1996
so với 1994 so với 1995

(1.000đ) (1.000đ) (1.000đ)
(%)
(%)
Cả nước

168,41

206,10

226,70

422,60

110,00

- Thành thị

225,07

3.136,6

349,38

122,95

111,41

- Nông thôn

141,14


172,5

187,89

122,22

208,92

- Vùng núi và trung du phía Bắc

132,36

160,65

173,76

121,37

108,16

- Vùng Đồng bằng sơng Hồng

163,34

201,18

223,30

123,17


111,00

- Vùng Bắc Trung Bộ

133,00

160,21

174,05

120,46

108,64

- Vùng Duyên Hải Miền Trung

144,72

176,03

144,66

121,63

110,56

- Tây Nguyên

197,15


241,14

265,60

122,31

110,14

- Nam Bộ

275,34

338,91

378,05

123,09

111,56

- Đồng bằng sông Cửu Long

181,65

221,96

242,31

122,19


109,17

I. Chia theo khu vực hành chính

II. Chia theo vùng sinh thái

Nguồn: Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và đầu tư - 1997
b. Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ.
Đói nghèo hay nghèo khổ là một hiện tượng kinh tế xã hội, vừa là vấn đề lịch
sử để lại, trong quá trình phát triển quốc gia nào cũng vấp phải. Sự nghèo khổ của


nông dân không chỉ do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan.
Có thể nhận diện cụ thể thành sáu nhóm nguyên nhân sau:
* Nhóm 1: Ngun nhân chủ quan:
- Khơng có kinh nghiệm làm ăn.
- Thiếu vốn để sản xuất.
- Thiếu việc làm.
- Đất đai canh tác ít.
- Đơng con ít người làm.
- Rủi ro, đau ốm.
- Ăn tiêu lãng phí lại lười biếng.
* Nhóm 2: Điều kiện tự nhiên.
Đất đai cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó dẫn đến năng suất thấp.
* Nhóm 3: Sự quan tâm của xã hội và sự quản lý của chính quyền địa phương
về kinh tế xã hội.
* Nhóm 4: Kết hợp nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
- Gặp rủi ro.

- Mắc bệnh hiểm nghèo, chữa chạy tốn kém.
- Lười lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, nghiện hút, cờ bạc.
* Nhóm 5: Nguyên nhân đầu vào và đầu ra.


Thiếu thị trường cung cấp vật tư, nguyên vật liệu tiêu thụ sản phẩm, hoặc xa
xôi hẻo lánh, cơ sở hạ tầng kinh tế chưa phát triển, Nhà nước chưa có chính sách
thoả đáng.
* Nhóm 6: Thiên tai nặng nề: như lũ lụt, mưa đá,...
2-/ Chương trình chống đói nghèo ở Việt Nam.
So sánh với các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, nước ta chỉ có
chương trình gián tiếp chống nghèo đói thơng qua chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, cũng như các chính sách khuyến khích sản xuất khác, tức là nhằm vào mục
tiêu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, thông qua đó giảm bớt sự nghèo đói và
một số chương trình khác có tác động chống đói nghèo, như chương trình giải
quyết việc làm, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình xố đói
giảm nghèo ở một số địa phương. Nhìn khái quát vấn đề này chúng ta có thể rút ra
kết luận sau:
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, nhiều địa phương đã có
Nghị quyết cơ quan lãnh đạo của Đảng và chính quyền đã thành lập ban chỉ đạo xố đói
giảm nghèo từ tỉnh đến xã, phường, đã đạt được những kết quả đáng kể.
- Các cơ quan nghiên cứu khoa học cũng quan tâm nhiều về vấn đề này, và
đang tích cực điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá và kiến nghị các biện pháp
xố đói giảm nghèo.
+ Tuy nhiên hoạt động xố đói giảm nghèo cịn gặp một số vấn đề khó khăn.
- Cịn có nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp nhận thức chưa đúng, vấn đề xố
đói giảm nghèo coi đó là vấn đề cơ bản, khơng phải là công việc cần thiết.
- Ở địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức của Nhà nước về các chính
sách hỗ trợ như văn hố, giáo dục, y tế, giao thông.



- Thủ tục cho nông dân nghèo vay vốn quá phức tạp, thời hạn thu hồi vốn quá
ngắn cho nên nông dân không tin tưởng vào bản thân và khả năng trả vốn và lãi
cho Nhà nước tuy mức độ và lãi suất ưu đãi. Nhiều khi cán bộ ngân hàng còn
ngược đãi với dân khi làm thủ tục.
- Nhà nước cấn phải ban hành những chính sách mới đối với người nghèo,
như chúng ta biết người nghèo khơng có hoặc ít tư liệu sản xuất trong khi đó Nhà
nước đòi hỏi thế chấp trong vay vốn.



×