Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

LUẬN VĂN: Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 75 trang )





LUẬN VĂN:

Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An












MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì vốn là rất quan trọng,
nhiều khi mang tính quyết định. Thu hút đầu tư và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả là chìa
khóa thành công cho sự phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế còn đang
phát triển.
Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, những năm qua, tỉnh Nghệ An có nhiều cố
gắng trong hoạt động xúc tiến đầu tư, ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tạo lập
môi trường thuận lợi … để thu hút vốn đầu tư. Nhờ đó, số lượng vốn đầu tư cả trong và
ngoài nước, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư không ngừng tăng lên. Kết


quả hoạt động từ các dự án của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng vào việc tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế môt cách tích cực, đúng hướng. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài, từ các tỉnh, thành phố ngoài tỉnh thật sự đã trở thành một bộ phận cấu thành
của nền kinh tế địa phương. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “
Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, đồng thời coi trọng
huy động các nguồn ngoại lực; thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn
lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn ” [8, tr.71]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An
lần thứ XVI, Nhiệm kỳ 2005 – 2010 cũng đã tiếp tục nhấn mạnh: “… Có chính sách huy
động mọi nguồn vốn từ trong dân, từ ngoại tỉnh, từ nước ngoài, từ ngân sách… cho đầu tư
phát triển Vận dụng các quy định của pháp luật , ban hành các cơ chế, chính sách
ưu đãi, thông thoáng, thuận lợi cho nhà đầu tư” [30, tr.80]. Tuy vậy, so với nhiều địa
phương khác và đặc biệt là so với nhu cầu vốn đầu tư để góp phần đẩy nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế của tỉnh, thì hoạt động thu hút đầu tư ở Nghệ An còn
nhiều yếu kém, bất cập.
Việc phân tích khoa học, tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp cơ bản để thu hút được
nhiều vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước vào Nghệ An trong
thời gian tới là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách.

Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Thu hút đầu tư trực tiếp nhằm phát
triển kinh tế ở tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động đầu tư nói chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập ở nhiều khía
cạnh hay giác độ khác nhau. Những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu, một số
bài viết xung quanh vấn đề: Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển; thu hút và quản lý
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay nghiên cứu hoạt động thu hút đầu tư vào KCN,
KCX… Đáng chú ý một số công trình sau:
+ Tống Quốc Đạt (2004): “Những giải pháp chủ yếu nhằm điều chỉnh cơ cấu đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” Luận án Tiến
sỹ, chuyên ngành Quản lý và KHH nền KTQD

+ Nguyễn Đẩu (2005): “Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển thành phố Đà
Nẵng” Luận án Tiến sỹ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế
+ Nguyễn Văn Thành (2006): “Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở Nghệ An
hiện nay” Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Kinh tế chính trị
+ Nguyễn Văn Oánh: “Cải thiện môi trường đầu tư, bắt đầu từ đâu?” Bài đăng trên
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 1/2006
+ Vũ Thành Tự Anh: “Cạnh tranh xé rào hay cuộc chạy đua xuống đáy” Thời báo
Kinh tế Sài Gòn tháng 3/2006
+ Lê Khoa: “Vài suy nghĩ về chính sách thu hút đầu tư trong giai đoạn hiện nay”,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 5/2007.
+ Nguyễn Hoài Long: “Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của địa phương
trong việc thu hút đầu tư”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008.
+ Nguyễn Thế Vinh: “Phát huy lợi thế so sánh tạo bước đột phá phát triển Kinh tế -
Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Tháng 9/2008.
Hầu hết các công trình khoa học này tập trung nghiên cứu dưới giác độ thu hút, quản
lý, sử dụng vốn đầu tư trực tiếp trong nước hoặc nước ngoài vào một địa phương cụ thể,
vào các khu công nghiệp, tìm ra những khó khăn, thách thức hoặc các giải pháp để thu hút
và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu.

Tuy vậy, cho đến nay, vẫn chưa có khoa học nào nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư
trực tiếp vào Nghệ An cho tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách có hệ thống dưới
giác độ của một luận văn hay luận án chuyên ngành quản lý kinh tế. Do vậy, việc nghiên
cứu thực trạng và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp cho phát
triển kinh tế ở Nghệ An hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu:
Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp
vào các quốc gia, vùng lãnh thổ nói chung, địa bàn tỉnh Nghệ An nói riêng, đề xuất các
giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về quản lý kinh tế nhằm tăng cường thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư trong nước vào

địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm tới.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, vốn đầu tư, thu hút vốn đầu
tư, cơ chế quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào các quốc gia, vùng lãnh thổ.
- Làm rõ nội dung thu hút vốn đầu tư trực tiếp, tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư
trực tiếp cho phát triển kinh tế ở một số tỉnh, thành trong nước.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp ở Nghệ An thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút và
quản lý vốn đầu tư trực tiếp vào Nghệ An trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư FDI, đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư
trong nước vào Nghệ An; môi trường đầu tư, các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp
vào các địa phương và tỉnh Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2001 đến nay.(Bao gồm: Vốn FDI,
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh) và phương hướng, giải pháp cơ bản để đẩy

mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp giai đoạn 2008-2010, có tính đến năm 2015 và năm
2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn được dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, những lý luận kinh tế về thu hút đầu tư phát
triển KT-XH.
Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp chung: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, hệ thống hóa,
trừu tượng hóa, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Phân tích theo mô hình
thống kê, đánh giá, so sánh và tổng hợp từ các số liệu. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa và sử

dụng có chọn lọc những thông tin đã có trong các công trình nghiên cứu của một số nhà khoa
học, nhà quản lý.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và thu hút đầu tư vào quốc gia,
vùng lãnh thổ.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư
trực tiếp vào địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực thu hút đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế ở Nghệ An
và những người quan tâm đến lĩnh vực đầu tư.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư trực tiếp
Hiện nay đang tồn tại một số quan niệm khác nhau về đầu tư. Một số quan niệm tiêu
biểu:
- Đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực
vốn lớn hơn. Vốn đầu tư là phần tích luỹ xã hội của các ngành, các cơ sở sản xuất kinh
doanh, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác dược đưa vào tái sản xuất
xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, đầu tư là việc di chuyển vốn vào một hoạt động nào
đó nhằm mục đích thu được một khoản lớn hơn.
- Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên…trong cùng một thời gian tương
đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Đặc điểm của đầu tư là thời gian

tương đối dài, những hoạt động kinh tế có thời gian dưới một năm không được gọi là đầu
tư.
- Theo luật đầu tư 2005 (có hiệu lực thi hành 01/7/2006) thì: “Đầu tư là việc nhà đầu
tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư” [29, tr.6].
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư, bao gồm: Doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; Doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài; Hộ kinh doanh cá nhân ở trong và ngoài nước có hoạt động đầu tư [29,
tr.7].
Trong luận văn này, tác giả cho rằng: Đầu tư là quá trình bỏ vốn (tiền, nguyên
liệu, nhân lực, công nghệ, giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh…) vào các hoạt
động sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, người ta phân loại đầu tư theo các tiêu chí khác nhau.
- Theo lĩnh vực của nền kinh tế, có: Đầu tư sản xuất và đầu tư cho các hoạt động dịch
vụ.

- Theo nguồn vốn đầu tư, có: Đầu tư từ vốn NSNN, từ vốn vay hay vốn tự có của
DN, của dân cư, tín dụng…
- Căn cứ vào phạm vi biên giới quốc gia, quốc tịch và nơi đăng ký hoạt động theo
pháp luật của nhà đầu tư, hoạt động đầu tư gồm: Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp
khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư
nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành
hoạt động đầu tư.
- Căn cứ vào các phương thức đầu tư, phương thức sử dụng vốn đầu tư, hoạt động
đầu tư bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính
trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Từ việc
không trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động sử dụng vốn, nhà đầu tư không chịu trách

nhiệm về kết quả đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được thực hiện dưới các hình thức:
Chứng khoán và viện trợ (ODA).
+ Đầu tư trực tiếp: Là phương thức sử dụng vốn đầu tư mà nhà đầu tư tham gia trực
tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư và quá trình sản xuất kinh doanh theo 2 hình thức:
Đầu tư chuyển dịch: Người bỏ vốn mua lại cổ phần của người khác nhằm tăng tỷ
trọng vốn góp để nắm quyền chi phối quá trình quản trị kinh doanh doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển: Là hình thức đầu tư nhằm tạo dựng nên năng lực mới (về lượng
hoặc về chất, chiều rộng hay chiều sâu) cho các hoạt động sản xuất, dịch vụ nhằm đạt mục
tiêu hiệu quả. Đầu tư phát triển thường ở dưới dạng: Xây dựng mới, mở rộng quy mô hiện
đại có đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực hoạt động của nền kinh tế hoặc doanh
nghiệp, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Về thu hút đầu tư, dưới góc độ kinh tế đầu tư, lý thuyết về lực hút và lực đẩy của
luồng đầu tư cho rằng: luồng đầu tư trực tiếp được quyết định bởi các yếu tố thúc đẩy
đầu tư (push factors) từ bên ngoài và các yếu tố thu hút đầu tư từ bên trong (pool
factors). Các yếu tố từ bên ngoài gồm các yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh từ nền
kinh tế có vốn đầu tư và môi trường kinh tế toàn cầu, các yếu tố từ bên trong gồm các

yếu tố sản xuất có lợi thế so sánh như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, môi trường
đầu tư, nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế, chính sách ưu đãi … của nền kinh tế tiếp
nhận đầu tư [18].
Trong luận văn chỉ tập trung phân tích các yếu tố bên trong của nền kinh tế tiếp nhận
đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng chế…) được bỏ vào đầu tư nhằm đạt được
mục tiêu đã định.
Theo các cách phân loại đầu tư và theo các tiêu chí khác nhau, vốn đầu tư cũng được
phân thành nhiều loại khác nhau.
- Theo nguồn vốn có: Vốn nước ngoài và vốn trong nước.
- Theo phương thức đầu tư có: Vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp.
Khác với đầu tư gián tiếp là nguồn vốn được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính

thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị
trường tài chính, đầu tư trực tiếp có nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất
(xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất) nên
khó chuyển đổi hoặc thanh khoản. Đặc trưng nổi bật này chính là “ưu điểm” và tạo sự
“yên tâm” cho chính quyền địa phương thu hút đầu tư, tránh được sự rút vốn của nhà đầu
tư (nếu có) theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn, ảnh hưởng
tới sự phát triển ổn định của địa phương.
Luận văn này tiếp cận hoạt động đầu tư và vốn đầu tư theo cả 2 cách phân loại như
trên.
1.1.2. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp đối với phát triển kinh tế
Có rất nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về vai trò của vốn đầu tư trực tiếp,
chúng tôi chỉ tập trung ở những vai trò chủ yếu sau:
a) Vốn đầu tư trực tiếp góp phần bổ sung quan trọng, giải quyết được khó khăn về
thiếu vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân
Để có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, tất cả các nước đang phát triển và kém phát
triển, do tích luỹ nội bộ thấp, muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế đều cần phải có
vốn. Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cũng không ngừng

tăng lên. Thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế cao thường gắn với tỷ trọng đầu tư lớn.
Nhờ có vốn đầu tư mà nhà nước cũng như doanh nghiệp có điều kiện đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế và đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết
các vấn đề văn hoá, xã hội.
Không chỉ đối với các nước nghèo và kém phát triển mà kể cả các nước phát triển,
vốn đầu tư là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Còn đối với các
nước chậm phát triển thì đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Các
quốc gia này luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, lạc hậu về công nghệ và trình độ
quản lý. Khi nghiên cứu nền kinh tế của các nước đang phát triển và kém phát triển, Paul
A.Samuelson đã ví hoạt động sản xuất và đầu tư của những nước này như là một vòng
nghèo đói, luẩn quẩn: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp; Tiết kiệm và đầu tư
thấp làm cho tỷ lệ tích luỹ vốn thấp, không đủ vốn cho đầu tư; Vốn đầu tư không đủ cho

nhu cầu sản xuất làm cho năng lực sản xuất giảm, năng suất nền kinh tế thấp, điều này dẫn
đến thu nhập bình quân thấp và lại quay trở về chu kỳ ban đầu.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, biện pháp hữu hiệu nhất có thể coi là bước đột phá là
tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, thu hút và huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài
nước để phát triển kinh tế, tạo ra tăng trưởng, làm cho thu nhập tăng lên.
b) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư trực tiếp được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, và thường đem lại hiệu quả kinh
tế cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nếu so sánh với các nguồn
vốn đầu tư gián tiếp hay các nguồn vốn viện trợ khác như: cổ phiếu, ODA hay NGO thì
dễ nhận thấy ưu điểm của vốn đầu tư trực tiếp. Đó là, ví dụ vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, nước chủ nhà không phải hoàn trả vốn, do vậy, các nước và vùng lãnh thổ nhận
đầu tư tránh được nợ, hạn chế được việc nhà đầu tư rút vốn ồ ạt qua cổ phiếu và không
phải chịu những ràng buộc về mặt chính trị, xã hội đối với chủ thể đầu tư. Đồng thời
vẫn tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Việc thu
hút đầu tư trực tiếp đã làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, mặt hàng mới, mở rộng thị
trường ngoài nước nhất là các sản phẩm của các ngành công nghiệp, nông lâm thủy hải
sản…từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một địa phương
nhận đầu tư theo hướng CNH- HĐH.

c) Góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, rút ngắn quá trình CNH
– HĐH
Khác với các hình thức đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp không chỉ đưa vốn vào địa
bàn nhận đầu tư mà cùng với vốn là kỹ thuật, công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh,
năng lực maketing…Nhà đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư và tiến hành sản xuất kinh doanh
ngoài việc sử dụng nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, họ còn chú trọng đầu tư vào
công nghệ cao để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nhằm tăng sức
cạnh tranh trên thị trường. Điều này góp phần nâng cao năng lực sản xuất và hiện đại hoá
nền sản xuất của địa phương thu hút đầu tư.
Nếu đứng trên góc độ của một doanh nghiệp thì vốn đầu tư là điều kiện cực kỳ quan
trọng để doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất. Nhờ có vốn

đầu tư mà doanh nghiệp có thể nghiên cứu sản xuất ra hoặc mua được những máy móc
thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại ở trong nước và trên thế giới. Từ
đó, nâng cao hơn năng lực cạnh tranh của mình. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ có
những doanh nghiệp nào biết ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ
mới một cách phù hợp thì mới thành công trong kinh doanh, giành được thắng lợi trong
cạnh tranh.
d) Mở rộng quan hệ quốc tế, góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho người lao động
Có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư trực tiếp; nguyên liệu, sản phẩm hay
một yếu tố nào đó trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp có thể được nhập khẩu
từ nước ngoài hay xuất bán ra nước ngoài, từ đó góp phần mở rộng quan hệ quốc tế. Có
thêm nhà đầu tư, có thêm tổ chức kinh tế hoạt động là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì
đầu tư trực tiếp, (đặc biệt là FDI) cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, nếu đầu tư vào nơi
có môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị, thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Còn đối
với nước sở tại, nếu không có quy hoạch cho đầu tư cụ thể và khoa học thì sẽ dẫn đến chỗ đầu
tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; Tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu với giá cao, dẫn đến chi phí sản

xuất lớn, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh thấp; Do sự chênh lệch về trình độ
quản lý và năng lực công nghệ nên các nước nhận vốn đầu tư nước ngoài có thể bị thua thiệt
trong các dự án liên doanh.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý thuận lợi hay không thuận lợi ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động
thương mại và đầu tư trực tiếp, đặc biệt là thu hút FDI. Vị trí địa lý càng thuận lợi thì mức
độ trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia và nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào càng lớn,
ngược lại sẽ gây trở ngại cho hoạt động kêu gọi, thu hút đầu tư do: tốn thời gian, tăng chi
phí vận tải, giảm hiệu quả kinh tế.

- Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất cho sự phát
triển của đầu tư trực tiếp. Khí hậu thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi cũng như đất đai đảm
bảo cho việc xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện thu hút
đầu tư ở lĩnh vực nông nghiệp; nhiều danh lam thắng cảnh sẽ thuận lợi cho phát triển kinh
tế du lịch; mạng lưới sống ngòi với độ cao thuận lợi cho phát triển công nghiệp thủy điện;
vùng giàu về tài nguyên thiên nhiên sẽ có thuận lợi thu hút đầu tư hơn vùng nghèo tài
nguyên. Có nguồn tài nguyên lớn và đa dạng là tiền đề để thu hút đầu tư ở lĩnh vực công
nghiệp khai thác, chế biến.
1.2.2. Trình độ phát triển kinh tế
Tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế liên quan trực tiếp tới nhu cầu, khả
năng hấp thụ vốn đầu tư cũng như sự phát triển của thị trường trong nước. Một nền kinh tế
năng động, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định sẽ có nhu cầu và khả năng hấp thụ một
lượng vốn đầu tư lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, tăng trưởng cao sẽ tạo được nguồn tích
lũy cho chi tiêu của Chính phủ, doanh nghiệp vào hoàn thiện và phát triển kết cấu hạ tầng;
mở rộng được thị trường trong nước do sức mua của doanh nghiệp và cả người dân tăng
lên, từ đó thu hút đầu tư sẽ mạnh mẽ hơn.
1.2.3. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư theo nghĩa chung nhất là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan
đến hoạt động đầu tư và ảnh hưởng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả đầu tư

của nhà đầu tư. Nội dung của môi trường đầu tư theo cách hiểu đầy đủ mà các nhà khoa
học đã nêu ra bao gồm: Môi trường pháp lý, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính và môi
trường chính trị xã hội.
- Môi trường pháp lý: Để thu hút được đầu tư, pháp luật phải đảm bảo thực sự rõ
ràng, nhất quán, minh bạch, ổn định. Hệ thống pháp luật phải tạo một mặt bằng chung về
pháp lý cho mọi nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự khác biệt giữa nhà đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc xây dựng luật đầu
tư phải đồng thời các luật liên quan khác như: Luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật
thuế… và ban hành các văn bản dưới luật đảm bảo kịp thời, nhất quán, mang tính khả thi
cao. Đồng thời, phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến chính sách đầu tư để

tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đối với các
địa phương, ngoài những chính sách chung của Quốc hội, Chính phủ, các địa phương cũng
cần có những chính sách, văn bản cụ thể hóa, chi tiết hoá đối với hoạt động đầu tư trên địa
bàn địa phương mình như chính sách ưu đãi đầu tư, lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục các
dự án kêu gọi đầu tư…
- Kết cấu hạ tầng: Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, nơi nào có kết cấu hạ tầng tốt thì
nơi đó có sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và ngược lại. Vì vậy, xây dựng kết cấu
hạ tầng là điều kiện tiên quyết, bắt buộc không chỉ với đòi hỏi trước mắt mà cả lâu dài;
không chỉ tạo điều kiện để thu hút đầu tư mà còn cho sự phát triển bền vững của nền kinh
tế. Hệ thống giao thông vận tải được đảm bảo an toàn, tiện lợi sẽ góp phần giảm thiểu mức
tối đa chi phí lưu thông cho doanh nghiệp. Kho tàng, bến bãi, điện nước, thông tin liên lạc,
xử lý chất thải, phòng chống cháy nổ… ở các khu công nghiệp được xây dựng tốt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tổ chức SXKD. Ngoài ra hạ tầng xã hội như: các hoạt
động thương mại, dịch vụ kinh tế, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí, nhà ở cho
người lao động … được chuẩn bị chu đáo cũng làm tăng sức thu hút đối với các nhà đầu
tư.
- Thủ tục hành chính: Trong hoạt động đầu tư, thủ tục hành chính ảnh hưởng đến thời
gian, chi phí và cơ hội đầu tư. Thủ tục hành chính rườm rà sẽ tốn nhiều thời gian, tăng chi
phí, mất cơ hội của nhà đầu tư khiến cho nhà đầu tư nản lòng. Cải cách hành chính, đặc
biệt là thủ tục hành chính đang là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mà các địa phương đang

tập trung giải quyết hiện nay nhằm tăng sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Nếu đơn giản hoá
các hình thức và thủ tục cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, mở rộng việc
cho phép áp dụng hình thức đăng ký đầu tư đối với các danh mục dự án cần khuyến khích
đầu tư, loại bỏ những quy định không cần thiết cản trở đến hoạt động đầu tư sẽ thu hút
được đầu tư. Nếu không quy định rõ ràng, công khai thủ tục hành chính trên cơ sở đơn
giản hoá, không xử lý nghiêm khắc những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực của
những người có liên quan đến hoạt động cấp phép, quản lý đầu tư sẽ làm hạn chế rất lớn
đến kết quả thu hút đầu tư.
- Môi trường chính trị - xã hội: Giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã

hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư. Bởi lẽ khi tình hình chính trị bất ổn,
nhất là thể chế chính trị thay đổi cũng có nghĩa là mục tiêu, phương hướng phát triển và cả
phương thức đạt mục tiêu của cả một xã hội cũng thay đổi theo. Giữ vững ổn định chính trị
xã hội sẽ tạo được tâm lý yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào địa bàn.
Yếu tố quyết định vấn đề này là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước
pháp quyền trong việc xử lý kiên quyết, kịp thời và phù hợp với pháp luật những hành vi
vi phạm pháp luật, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các thế lực phản động đảm bảo
quốc phòng an ninh.
Môi trường đầu tư là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới kết quả thu hút đầu tư. Môi
trường đầu tư tốt sẽ khuyến khích, tạo động lực để nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư với chi phí
và rủi ro thấp, lợi nhuận cao và góp phần mang lại hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã
hội. Mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ nào chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư cũng đều
hướng tới việc tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn với các yếu tố: Hệ thống cơ sở hạ
tầng đồng bộ, phát triển; Các thủ tục hành chính về đầu tư phải nhất quán, minh bạch,
thuận lợi và nhanh gọn; Chất lượng các dịch vụ hỗ trợ đầu tư được nâng cao; Các chỉ số
đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được cải thiện tích cực gồm: Chi phí gia nhập
thị trường thấp, nâng cao khả năng tiếp cận đất đai, chi phí về thời gian và chi phí không
chính thức mà doanh nghiệp phải bỏ ra không đáng kể, ưu đãi đối với DNNN, chính sách
phát triển kinh tế tư nhân được thực hiện tốt, đào tạo lao động được quan tâm và thực hiện
có hiệu quả.
1.2.4. Chính sách ưu đãi đầu tư

Chính sách ưu đãi đầu tư là công cụ nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu tư theo
những mục tiêu phát triển nhất định. Chính sách đầu tư tác động trực tiếp đến việc khai
thác, phát huy các nguồn lực bên trong và thu hút các nguồn lực bên ngoài. Mặt khác,
chính sách đầu tư còn tác động đến sự phân bổ các nguồn lực một cách đúng hướng và đạt
hiệu quả cao.
Ưu đãi đầu tư được áp dụng tương đối phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các nước
đang phát triển. Thực tiễn một số nước trong khu vực đã cho thấy: Chính sách đầu tư đúng
quan trọng hơn nhiều so với nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, nghĩa là sự phát triển của

một quốc gia, một địa phương phụ thuộc vào chính sách đầu tư hơn là bản thân các nguồn
lực khác.
Có nhiều biện pháp ưu đãi đầu tư khác nhau như miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn giảm tiền thuê đất, trợ cấp tín dụng, trợ cấp đầu
tư…
Việc xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư chủ yếu là công việc của Chính phủ. Tuy
nhiên, vai trò của chính quyền địa phương là hết sức quan trọng trong việc thực thi và vận
dụng sáng tạo, bằng cơ chế chính sách riêng trong khuôn khổ cho phép. Vấn đề là ưu đãi
phải cụ thể, thiết thực, có tính khả thi, đặc biệt là phải nhất quán và có xu hướng mở rộng.
Chính sách ưu đãi đầu tư của chúng ta hiện nay dường như chưa hiệu quả trong thu hút và
khuyến khích các hoạt động đầu tư. Hiệu quả thấp phần lớn là do tình trạng ưu đãi thuế
thừa - có nghĩa là, có nhiều nhà đầu tư vẫn thực thi dự án dù không có ưu đãi thuế. Tỷ lệ
ưu đãi thừa cao làm giảm một khoản thuế lớn lẽ ra có thể thu được. Trong một nghiên cứu
gần đây của VCCI về tình hình sử dụng ưu đãi đầu tư của DN Việt Nam, có hơn 80%
DNTN đang hưởng ưu đãi về thuế thừa nhận rằng ưu đãi đó không hề tác động đến quyết
định đầu tư của họ. Điều này cũng có nghĩa là tỷ lệ bao cấp đầu tư đến 70%, nghĩa là, để
tạo thêm một khoản đầu tư 100.000 đồng bằng ưu đãi thuế, ta phải từ bỏ 70.000 đồng tiền
thuế. Nhìn từ góc độ tài chính công, một nghiên cứu bao quát hơn ước tính chi phí cho ưu
đãi đầu tư bằng thuế hằng năm vào khoảng 0,7% GDP [23].
1.2.5. Dân số và nguồn lao động
Dân số và nguồn lao động là nhân tố quan trọng hàng đầu cho sự phát triển kinh tế -
xã hội nói chung và hoạt động thu hút đầu tư nói riêng. Trong dân số vừa có nguồn nhân

lực cần thiết cho hoạt động sản xuất vật chất, vừa là thị trường tiêu thụ các sản phẩm các
dịch vụ và xã hội. Quy mô số dân càng đông, thu nhập cao sẽ góp phần tạo ra thị trường
tiêu thụ càng lớn.
Vai trò quan trọng của dân số còn thể hiện ở tập quán, bản sắc văn hoá - những yếu tố
căn bản để hình thành sức mạnh riêng biệt của một địa phương. Người dân có văn hoá, kỷ
luật, tay nghề và trình độ quản lý sẽ là lợi thế cạnh tranh dài hạn; thói quen tiêu dùng là
động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển; đức tính thân thiện là tiềm năng để thu hút

du lịch và hợp tác kinh doanh; cần cù, sáng tạo là sức mạnh để tạo nên sự phát triển bền
vững.
Trong điều kiện hiện nay, chất lượng nguồn lao động được đặc biệt quan tâm. Khi
nhân loại đã bước sang thiên niên kỷ thứ ba với nền kinh tế tri thức, rõ ràng không có
nguồn lực nào có thể thay thế được nguồn lao động, đặc biệt nguồn lao động chất lượng
cao. Đây được coi là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng các nguồn lực khác có
hiệu quả và cũng là nhân tố quyết định đến sự phát triển của một quốc gia hay vùng lãnh
thổ. Thực tiễn đã chứng minh, nhiều quốc gia tuy không giàu có về tài nguyên thiên nhiên,
nhưng nhờ có nguồn nhân lực dồi dào và trình độ kỹ thuật cao đã vươn lên thành cường
quốc kinh tế thế giới. Ví dụ điển hình là Nhật Bản - đất nước của những trận động đất, núi
lửa, đất đai kém màu mỡ, nghèo tài nguyên thiên nhiên… nhưng nhờ đức tính cần cù, ham
học hỏi, say mê nghiên cứu khoa học và sáng tạo của người dân…đã đưa Nhật Bản thành
cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ.
Nói tóm lại, dân số - nguồn lao động tạo cả “cung” và “cầu” cho nền kinh tế và
tham gia điều tiết mối quan hệ này. Vì vậy, mỗi quốc gia hay địa phương phải hoạch định
chiến lược phù hợp để định hướng, giáo dục, thúc đẩy vai trò của dân số và nguồn lao
động, đặc biệt là lao động có chất lượng cao nhằm thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế
xã hội.
1.2.6. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp thực chất là tổng hợp các biện pháp
lobby, tiếp thị quảng bá các hình ảnh về một quốc gia hay một địa phương và cung cấp các
dịch vụ đầu tư tốt nhất cho các nhà đầu tư để khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào quốc
gia hay địa phương đó.

Công tác vận động, xúc tiến đầu tư có vai trò quan trọng trong việc phát huy nội lực để
thu hút được một giá trị và cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp tối ưu. Nếu so sánh, có thể coi công tác
vận động, xúc tiến đầu tư như là công tác “quảng cáo”, “tiếp thị” hay maketting trong kinh
doanh của doanh nghiệp, coi nhà đầu tư là “khách hàng” và chủ thể tiến hành công tác vận
động, xúc tiến đầu tư là các cấp chính quyền hay các cơ quan được uỷ quyền của các cấp
chính quyền và “sản phẩm” đưa ra quảng bá chính là thông tin về sự thuận lợi của môi trường

đầu tư của một quốc gia hay một địa phương đến các nhà đầu tư tiềm năng.
Không phải ngẫu nhiên, trong những năm gần đây, các cuộc viếng thăm nước ngoài
của các nguyên thủ quốc gia bao giờ cũng có các doanh nghiệp đi cùng. Hoạt động chính
trị của các chính khách không thể thoát ly hoạt động kinh tế của đất nước mà họ đại diện,
trong đó, vận động, xúc tiến thương mại và đầu tư là nội dung hết sức quan trọng.
1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỘT SỐ TỈNH
TRONG NƯỚC
1.3.1. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai nằm ở trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp
với các trung tâm công nghiệp, dịch vụ và du lịch lớn nhất của cả nước như: TP HCM,
Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng. Đồng Nai là tỉnh có nhiều tiềm năng, thế
mạnh trong phát triển kinh tế và công nghiệp, đó là: Vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên
thiên nhiên đa dạng, nguồn nhân lực có chất lượng, có các cơ sở công nghiệp từ những
năm trước, môi trường đầu tư thông thoáng, nguồn vốn dồi dào, chính quyền năng
động, đã có mối quan hệ sẵn có với các nước. Nhờ có những ưu thế đó mà trong hơn 15
năm qua (từ năm 1992 đến nay) tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đồng Nai được duy trì ở
mức rất cao, bình quân hàng năm giai đoạn 1991 - 1995 là 13,9%/năm; giai đoạn 1996
– 2000 là 12%/năm; giai đoạn 2001 – 2005 là 12,4%/năm. mức tăng trưởng GDP của
Đồng Nai cao hơn nhiều so với cả nước. Với mức độ tăng trưởng GDP bình quân hàng
năm như vậy, GDP của tỉnh Đồng Nai sẽ tăng gấp đôi trong 6 năm, nhanh hơn so với cả
nước khoảng 4 năm.
Kết quả đạt được kể trên là do tỉnh Đồng Nai đã tăng cường thu hút vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước, tạo ra sự “bùng nổ” đầu tư từ những năm 1995. Mức đầu tư tăng

mạnh từ 16,3% GDP năm 1991 lên 28,9% GDP năm1995. Tổng vốn đầu tư trong 5 năm
1991 – 1995 đạt 5.479 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nước ngoài chiếm 46,2 %. Chỉ tính
riêng thu hút FDI, năm 2007, tỉnh đã cấp phép và thu hút được 2,67 tỷ USD, tăng 2,4 lần
so với năm 2006 và tăng 2,2 lần so với kế hoạch. Nhờ đó, đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
cao từ khoảng 6% trước năm 1990 lên 13% năm 1995 và 17% năm 1996 [6].
Từ thực tế phát triển kinh tế - xã hội cũng như hoạt động thu hút vốn đầu tư của tỉnh

Đồng Nai, có thể rút ra một số kinh nghiệm:
- Thứ nhất, phải kể đến tính năng động, sáng tạo của chính quyền tỉnh Đồng Nai.
Ngay từ những năm 1990, trong khi cơ chế chính sách của nhà nước chưa thật sự “mở
cửa” thì tỉnh Đồng Nai Đã chủ động cử đoàn cán bộ cấp cao do Bí thư Tỉnh uỷ dẫn đầu đi
nghiên cứu thu hút đầu tư ở Đài Loan, đây được coi là bước đi tiên phong, làm cơ sở cho
việc đẩy mạnh thu hút FDI từ những năm 1990 cho đến nay.
- Thứ hai, tỉnh đã biết khai thác tốt lợi thế về mặt địa lý của mình, đây là một yếu tố
rất quan trọng để thu hút đầu tư của tỉnh. Đồng Nai vừa nằm ở trung tâm của vùng kinh tế
động lực phía Nam, vừa gần các trung tâm kinh tế lớn như: TP HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu,
Lâm Đồng, đặc biệt là TP HCM. Đặc biệt lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi như: Địa
hình tương đối bằng phẳng, khí tượng điều hoà, thuỷ văn thuận lợI, đất đai thổ nhưỡng đa
dạng, tài nguyên tương đối phong phú…
- Thứ ba, Đồng Nai thường xuyên quan tâm xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật. Hệ thống giao thông thuỷ bộ khá phát triển là tiền đề quan trọng cho việc thu hút
đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác trong môi trường
kinh doanh như hệ thống cơ chế chính sách quản lý phù hợp, hấp đẫn các nhà đầu tư. Việc
chăm sóc tốt các nhà đầu tư trong hiện tại đã tạo được dư âm tốt để thu hút các nhà đầu tư
khác trong tương lai.
1.3.2. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Hà Tây
Hà Tây (đã nhập về Hà Nội từ 01/8/2008) là tỉnh có rất nhiều tiềm năng và thế mạnh
để tạo nên sức hút đầu tư tự nhiên. Thế nhưng, những năm trước đây, khi nói đến môi
trường đầu tư của tỉnh, các nhà đầu tư thường rất e ngại bởi những rào cản chủ yếu như:
công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư rườm rà, hành chính quan liêu,
sách nhiễu…Sau một thời gian dài nỗ lực với những biện pháp cải cách quyết liệt, Hà Tây

đã khẳng định vị thế của mình trong con mắt các nhà đầu tư. Từ vị trí xếp hạng gần cuối
bảng trong danh sách xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) khảo sát. Những năm gần đây, Hà Tây đã
có bước đột phá trong thu hút đầu tư. Từ cuối năm 2006, Hà Tây đã chính thức có tên
trong danh sách câu lạc bộ các địa phương thu hút FDI hơn 1 tỷ USD. Các dự án đầu tư

vào địa bàn tỉnh Hà Tây không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà còn có những chuyển biến
tích cực về chất lượng. Chỉ trong năm 2007, tỉnh đã cấp phép cho 30 dự án có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 836,2 triệu USD, tăng 58% về số dự
án và 5% về vốn đầu tư đăng ký so với năm 2006. Năm 2006, tổng số vốn FDI đăng ký là
794,9 triệu USD, gấp 10 lần so với năm 2005. Thu hút đầu tư trong nước cũng vậy, trong
năm 2007, toàn tỉnh thu hút được 58 dự án, tổng số vốn đăng ký đạt 7.668 tỷ đồng, tăng
38% về số dự án và gấp 5,75 lần tổng vốn đầu tư đăng ký so với cùng kỳ năm 2006 (năm
2006 tăng 1,4 lần về số dự án và 2,86 lần về số vốn đăng ký so với năm 2005) [2].
Đạt được kết quả như trên, trước hết không thể không nhắc tới công tác vận động xúc
tiến đầu tư mà Hà Tây đã tổ chức thực hiện trong thời gian qua. Từ hội nghị gặp mặt các
nhà đầu tư tháng 12/2005 mà đã được Bộ Kế hoạch - Đầu tư và các tổ chức kinh tế đánh
giá rất cao, tỉnh luôn quan tâm việc quảng bá địa phương. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã thành
lập nhiều đoàn khảo sát, học hỏi kinh nghiệm và vận động đầu tư trực tiếp tại một số nước
như Nhật Bản và Hàn Quốc, qua đó nhiều dự án FDI được cấp phép trong 2 năm qua thì
đại đa số của các nhà đầu tư ở 2 quốc gia này. Thứ hai, chính quyền tỉnh Hà Tây cũng đã
ban hành nhiều chính sách nhằm cải thiện và nâng cao năng lực môi trường đầu tư; cải
cách một cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, thực hiện phương châm “nhanh chóng,
thuận tiện, minh bạch”, thực hiện “một cửa” trong việc cấp phép đầu tư để rút nắn tối đa
thời gian cấp phép cho nhà đầu tư. Tỉnh đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về pháp luật, đặc
biệt là Luật Đầu tư cho các đơn vị cấp sở, ban, ngành và các huyện, thị trong tỉnh. Hà
Tây được coi là tỉnh đầu tiên trong cả nước áp dụng phân cấp về cấp phép đầu tư theo
Luật Đầu tư mới. Thứ ba, công tác quy hoạch và giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất được
giải quyết có hiệu quả, tỉnh đã thành lập các ban giải phóng mặt bằng tại các địa
phương, không để cho các nhà đầu tư phải trực tiếp làm việc với dân. Công khai minh
bạch quy hoạch trên các phương tiện thông tin đại chúng…

Tóm lại, để có được kết quả thu hút đầu tư như trên, tỉnh Hà Tây đã “làm hết sức
mình nhằm hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư” [2].
1.3.3. Kinh nghiệm thu hút đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc
Mười năm trước đây, Vĩnh Phúc là một tỉnh thuần nông, có điểm xuất phát thấp, tỷ

trọng nông nghiệp chiếm đến 52,54% giá trị GDP, công nghiệp chỉ chiếm 12,86%;
GDP bình quân đầu người chỉ đạt gần 140 USD, thu ngân sách khoảng 100 tỷ
đồng/năm. Đến nay, qua tổ chức thực hiện chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư phát
triển kinh tế, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu to lớn: Tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và duy trì ổn định trong nhiều năm; Năm 2007: Thu ngân sách đạt hơn
5.060 tỷ đồng; thu nhập bình quân đã đạt mức 900 USD/người/năm; Tỷ trọng công
nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm 60%, dịch vụ 25,24%, nông nghiệp chỉ còn 14,76%.
Tính đến cuối năm 2007, Vĩnh Phúc đã thu hút được gần 500 dự án đầu tư, trong đó có
134 dự án FDI và gần 380 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ
USD. Riêng năm 2007, Vĩnh Phúc đã thu hút được 30 dự án FDI với tổng số vốn đăng
ký là 802,834 triệu USD, chiếm 63,4% tổng số vốn đăng ký của cả giai đoạn 2002 -
2007. Trong đó, cơ cấu đầu tư phân theo lĩnh vực là: công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
nhất với 82,62% về số dự án và 73% tổng số vốn đăng ký đầu tư (chiếm 90,58% tổng
số đầu tư FDI); lĩnh vực du lịch - dịch vụ - đô thị chiếm 13,9% số dự án và 24% tổng
số vốn đăng ký (4,93% vốn FDI); còn lại là lĩnh vực nông nghiệp và đào tạo nghề [1].
Thực tế cho thấy, ngay từ khi tái lập tỉnh, nhằm khai thác tốt tiềm năng và lợi thế của
tỉnh trong việc thu hút các dự án đầu tư, Vĩnh Phúc đã xây dựng và thực hiện đồng bộ các
biện pháp như tập trung quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch mặt bằng các khu, cụm công
nghiệp, quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn mới, cụ thể hoá và thực hiện chính sách
khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, ưu
đãi đầu tư trên cơ sở những chính sách của nhà nước đã ban hành… Có thể thấy rõ ba yếu
tố cơ bản, mang tính đột phá, làm nên thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
của tỉnh Vĩnh Phúc, đó là: Xây dựng các KCN chuẩn bị sẵn sàng về mặt bằng, chuyên
nghiệp hoá công tác xúc tiến đầu tư và đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Về Khu Công nghiệp: tỉnh đã sớm có chủ trương quy hoạch các Cụm Công nghiệp,
trên cơ sở đó để xây dựng các Khu Công nghiệp, có định hướng, có quy mô và thế mạnh

phù hợp với từng khu vực, từng địa bàn dân cư, đặc biệt nhằm bảo vệ môi trường sinh thái.
Tính đến cuối năm 2007, Vĩnh Phúc đã có 06 KCN với tổng diện tích tự nhiên là 1.809,12
ha, nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy cao: KCN Quang Minh I đạt 97,12%, Quang Minh II đạt

60,96%, Khai Quang đạt 59,6%. Do các KCN của tỉnh đã phát huy hiệu quả cao, nên
UBND tỉnh đang tiếp tục trình Chính phủ tiếp tục phê duyệt thêm 07 KCN với tổng diện
tích 2.205 ha. Diện tích quy hoạch cho các Cụm Công nghiệp, KCN nhiều, hạ tầng ở các
KCN được chuẩn bị sẵn sàng là yếu tố tiên quyết cho thu hút đầu tư ở Vĩnh Phúc [1].
- Về vận động, xúc tiến đầu tư: Từ việc khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động
xúc tiến đầu tư đối với kết quả thu hút đầu tư, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã chủ trương
chuyên nghiệp hoá hoạt động này, đó là mời các công ty luật, các công ty tư vấn và các cá
nhân tham gia vào quá trình vận động đầu tư. Các đại lý quảng cáo thực hiện tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện truyền thông khác; các đại lý
du lịch tổ chức các chuyến đi xúc tiến đầu tư ở nước ngoài; các viện nghiên cứu, các hãng
tư vấn và các hãng luật tập trung tìm hiểu, phân tích các công ty đa quốc gia để cung cấp
thông tin chính xác, kịp thời, phục vụ hiệu quả cho các cấp chính quyền khi làm việc với
các nhà đầu tư.
- Về cải cách hành chính: tỉnh có chủ trương đẩy mạnh các biện pháp cải cách thủ tục
hành chính thực hiện “một cửa liên thông”. Việc thực hiện cơ chế này là giao cho Ban
Quản lý cụm, khu công nghiệp của tỉnh làm đầu mối để đứng ra giải quyết toàn bộ các thủ
tục theo trình tự cần thiết cho nhà đầu tư, với phương châm: nhà đầu tư chỉ cần đến một
địa điểm là thực hiện được cả một quá trình từ tư vấn ban đầu đến hoàn thiện các thủ tục
cần thiết để cấp phép đầu tư trong thời gian ngắn nhất.
Cơ chế “một cửa liên thông” được triển khai đã khắc phục được tình trạng trước kia
về các thủ tục như giới thiệu địa điểm, thu hồi giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng, đánh giá tác động môi trường… thì các nhà đầu tư
vẫn phải tự làm việc trực tiếp với các ngành, các cơ quan liên quan. Chính điều này đã gây
không ít khó khăn, phiền hà cho nhà đầu tư như kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục, chi
phí tốn kém do phải đi lại nhiều lần đồng thời đây cũng là nguyên nhân phát sinh tiêu cực
làm nản lòng các nhà đầu tư.





Chương 2
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
Ở NGHỆ AN

2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI NGHỆ AN CÓ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, lãnh thổ của Nghệ An nằm trong
toạ độ từ 18 ۫◌˚35’ đến 20˚ 00’10’’ vĩ độ Bắc và từ 103˚ 50’25’’ đến 105 ˚40’30’’ kinh độ
Đông. Về phía Bắc, Nghệ An giáp với tỉnh Thanh Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía
Tây có đương biên giới dài hơn 419 km giáp với 3 tỉnh của nước Cộng hoà Dân chủ nhân
dân Lào là: Xiêng Khoảng, Hủa Phăn và Bôlikhămxay, phía Đông giáp với Biển Đông với
bờ biển dài 82 km.
Nghệ An nằm trên một số tuyến giao thông huyết mạch của đất nước, đường quốc lộ
1A, đường Hồ Chí Minh xuyên Việt, các tuyến quốc lộ ngang theo chiều Tây – Đông, Tây
- Bắc. Đầu mối giao thông lớn nhất của tỉnh là thành phố Vinh, đã được công nhận là đô
thị loại I. Mạng lưới đường bộ, đường sắt ở Nghệ An có thể dễ dàng thiết lập các mối quan
hệ kinh tế với các địa phương trong cả nước. Nghệ An có đường biên giới rất dài với nước
bạn Lào, thông qua các quốc lộ 7, 8 thuận lợi cho việc trao đổi với Lào và với vùng Đông
Bắc Thái Lan. Tiếp giáp với vùng biển rộng lớn ở phía Đông, có cảng Cửa Lò, một số
cảng nhỏ và cảng nước sâu Quỳnh Lập đang được quy hoạch xây dựng thuận lợi cho giao
lưu quốc tế và trong nước.
Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.488,45 km
2
, hiện nay là tỉnh rộng nhất cả nước
(chiếm đến 5% diện tích cả nước).
Về lâu dài, vị trí địa lý là một trong những lợi thế quan trọng của Nghệ An. Đặc biệt,
từ tháng 9/2008, thành phố Vinh đã được công nhận đạt tiêu chuẩn là đô thị loại I trực
thuộc tỉnh, sẽ trở thành trung tâm Kinh tế - Chính trị của khu vực Bắc Trung Bộ, góp phần

tạo điều kiện để tỉnh đóng vai trò là một trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, hội nhập với
nền kinh tế cả nước và giao lưu với các nước láng giềng (Lào, Đông Bắc Thái Lan, đảo

Hải Nam của Trung Quốc). Tuy nhiên, xét riêng về thu hút đầu tư ở giai đoạn hiện nay thì
vị trí địa lý của tỉnh đang gây ra những khó khăn vì ở xa các trung tâm kinh tế và các cực
tăng trưởng kinh tế của cả nước, ảnh hưởng đến suất đầu tư, giá thành đầu tư của các nhà
đầu tư.
2.1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
- Khí hậu: Nghệ An thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá theo chiều Bắc
Nam, chiều Đông Tây và theo cao độ của địa hình. Các sông lớn gồm có sông Cả, sông
Hiếu, sông Con, sông Giăng. Sông cả lớn nhất với dòng chảy chính dài 390 km.
Sông ngòi có giá trị lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, sông sẽ cung cấp và
thoát nước phục vụ sản xuất cho các doanh nghiệp, là điều kiện để phát triển công nghiệp
thuỷ điện. Tuy nhiên, cùng với yếu tố khí hậu, thuỷ chế cũng không đều theo mùa. Vì thế
thường xảy ra tình trạng lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp
và đời sống nhân dân.
- Tài nguyên sinh vật:
Nghệ An là tỉnh có tài nguyên rừng tương đối phong phú và đa dạng. Đến nay, tổng
diện tích rừng của Nghệ An là 745.537 ha với tổng trữ lượng gỗ là 50 triệu m3. Rừng
nguyên sinh vườn quốc gia Pù Mát điện tích 91.113 ha, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
điện tích 50.000 ha với nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có tiềm năng đầu tư phát
triển công nghiệp chế biến lâm sản và nguyên liệu giấy cũng như phát triển kinh tế du lịch.
Nghệ An có 82 km bờ biển với diện tích 4.230 hải lý vuông, 6 cửa lạch, có trên 3.00
ha diện tích nước mặn, lợ, 12.000 ha ao hồ mặt nước ngọt có khả năng phát triển nuôi
trồng thuỷ sản. Trữ lượng hải sản ước tính trên 80.000 tấn. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi
tắm đẹp, nổi tiếng là bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết, Diễn Thành, Quỳnh Phương.
- Tài nguyên khoáng sản:
Nghệ An có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn. Đá vôi trên 1 tỷ tấn, đá xây
dựng trên 1 tỷ m3. Riêng khu vực đá vôi Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m3 dễ khai
thác, gần quốc lộ 1, đường sắt và cảng Nghi Sơn (Thanh Hoá). Ở một số vùng, núi đá vôi

tập trung thành một quần thể thuận tiện cho việc hình thành các KCN và vật liệu xây dựng
tập trung như Hoàng Mai, Kim Nhan…Đất sét làm nguyên liệu xi măng có trữ lượng 300
triệu tấn; 982 triệu tấn đá trắng (Quỳ Hợp, Quỳ Châu); đá bazan có trữ lượng 260 triệu m3

(Nam Đàn, Quỳ Hợp); 160 tấn đá granite (Tân Kỳ); sét làm gốm sứ cao cấp trên 300 triệu
tấn (Nghi Lộc, Đô Lương, Yên Thành, Tân Kỳ); 5 triệu tấn than (Tương Dương, Con
Cuông); Than bùn trên 10 triệu tấn (Tân Kỳ, Yên Thành); vàng sa khoáng tập trung nhiều
dọc sông Cả, sông Hiếu…
Nguồn tài nguyên của Nghệ An tập trung thành những quần thể, nguyên liệu chính và
nguyên liệu phụ ở gần nhau, có chất lượng cao, gần đường giao thông. Vì vậy rất thuận lợi
cho sản xuât xi măng, bột đá siêu mịn, gạch lát, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phân vi
sinh, Đây là một trong những yếu tố thu hút các nhà đầu tư đến với Nghệ An.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Đặc điểm kinh tế
- Quy mô kinh tế còn nhỏ bé, tổng giá trị sản xuất địa phương mới chiếm khoảng 2%
GDP của cả nước (tính theo giá hiện hành) trong khi dân số của tỉnh chiếm 3,64% dân số
cả nước. Năm 2007, GDP bình quân đầu người của tỉnh đạt 7,468 triệu đồng, cao hơn bình
quân của vùng Bắc Trung Bộ nhưng mới bằng 2/3 mức bình quân cả nước. Như vậy, tỉnh
có điểm xuất phát thuận lợi hơn một số tỉnh trong vùng nhưng lại không thuận lợi bằng
nhiều địa phương khác trong cả nước.
- Nền kinh tế tăng trưởng cao hơn nhiều trong 5 năm gần đây, cao hơn bình quân của
vùng Bắc Trung Bộ và cả nước. Giai đoạn 2001- 2005 tăng 10,25%, năm 2006 đạt 10,2%;
năm 2007 đạt 10,5%, ước thực hiện 2008 là 11% [32].
- Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế đã được nâng lên theo thời gian nhưng
mức cải thiện chưa lớn. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao. Tăng trưởng kinh tế của
tỉnh chủ yếu vẫn được tạo ra từ các ngành, các lĩnh vực truyền thống, dựa vào việc khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên; các ngành công nghiệp hiện đại hầu như chưa có.
- Cơ cấu ngành kinh tế của Nghệ An đã có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp
với sự gia tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong tổng sản phẩm GDP của tỉnh
(từ 14,2% năm 1995 lên 18,6% năm 2000 và 30,4% năm 2005; 31% năm 2006, 32,24%

năm 2007, ước đạt 33,45% năm 2008) [32], hiện là ngành có mức đóng góp lớn nhất cho
GDP của tỉnh. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo đúng
quy luật của nền kinh tế thị trường với sự tăng trưởng nhanh và gia tăng dần tỷ trọng của

khu vực kinh tế ngoài nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, du lịch, khách sạn -
nhà hàng, xây dựng, giao thông vận tải.
Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Quy
mô hoạt động của các loại hình kinh tế tư nhân còn nhỏ bé, manh mún, đơn giản, vốn và
lao động ít, doanh thu thấp so với bình quân của cả nước, hiệu quả kinh doanh chưa cao.
Có đến hơn 35% số doanh nghiệp trong tổng số các DNNN làm ăn thua lỗ. Khu vực kinh
tế nhà nước chưa thực sự đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế của tỉnh. Đa số
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, quá trình sắp xếp, tổ chức lại còn chậm. Mức độ đóng
góp cho GDP của tỉnh và xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
có tỷ trọng nhỏ, chủ yếu mới ở lĩnh vực công nghiệp. Ở khu vực này, vẫn dựa vào khai
thác tài nguyên thiên nhiên, gia công là chủ yếu, nên giá trị gia tăng không cao.
Cơ cấu kinh tế theo nội tỉnh cũng đang có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần chênh
lệch giữa các vùng, mở rộng đô thị, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tiềm năng, lợi
thế của từng địa phương trong tỉnh được khai thác ngày càng hiệu quả hơn. Nhìn chung,
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả về cơ cấu ngành, thành phần kinh tế và lãnh thổ ở
Nghệ An diễn ra đúng hướng và phù hợp với mục tiêu phát triển cũng như tiềm năng, lợi
thế của tỉnh nhưng tốc độ chuyển dịch còn chậm, chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu
trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa mạnh.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng: Đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, hệ thống điện, hệ
thống cấp nước, hệ thống thông tin liên lạc, khu kinh tế và khu công nghiệp
+ Về đường bộ: Hiện có 528 km đường quốc lộ chạy qua địa phương (trong đó:
QL1A 91km, QL46 90km, QL48 122km, QL7 225 km); 132 km đường Hồ Chí Minh; 421
km đường tỉnh lộ và 3.670 km đường huyện lộ đã tạo thành mạng lưới giao thông liên
hoàn, nối liền các vùng kinh tế với nhau, toả ra các tỉnh trong cả nước cũng như các tỉnh
của nước CHDCND Lào và Đông Bắc Thái Lan.
+ Đường sắt: Trên dọc tuyến tỉnh, có 94 km đường sắt Bắc – Nam và 30 km nhánh

Cầu Giát – Nghĩa Đàn; 07 ga, trong đó có ga Vinh là một trong những ga trung chuyểm
hàng hoá lớn của cả nước.
+ Cảng biển: Cảng Cửa Lò đạt công suất 1,3 triệu tấn/năm là cửa ngõ thông ra biển
không chỉ phục vụ cho nhu cầu của nội tỉnh mà còn cho cả nước bạn Lào và vùng Đông

×